Tải bản đầy đủ (.doc) (128 trang)

Phương pháp dạy học truyện cổ tích trong chương trình ngữ văn trung học luận văn thạc sỹ ngữ văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (493.9 KB, 128 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

HOÀNG THI THU HIỀN

PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TRUYỆN CỔ TÍCH
TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN TRUNG HỌC

LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC


2

VINH - 2011


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

HOÀNG THI THU HIỀN

PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TRUYỆN CỔ TÍCH
TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN TRUNG HỌC

LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC
Chuyên ngành:
Lý luận và phương pháp dạy học bộ môn Văn và Tiếng Việt
Mã số: 60.14.10

Người hướng dẫn khoa học:
PGS. TS. Phan Huy Dũng




4

VINH - 2011


5

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Là một thể loại của văn học dân gian có tính đặc thù, truyện cổ tích
đã có được vị trí đáng kể trong chương trình môn Ngữ văn ở trường phổ
thông. Trong sách giáo khoa Ngữ văn 6, trường trung học cơ sở và lớp 10
trường trung học phổ thông, một số truyện tiêu biểu của người Kinh thuộc thể
loại này như: Thạch Sanh, Sọ Dừa, Sự tích trầu cau, Từ Thức, Chử Đồng Tử,
Tấm Cám,… được tuyển chọn để dạy và học. Tìm hiểu giá trị của thể loại
truyện cổ tích nói chung và các tác phẩm được tuyển chọn nói riêng, giới
nghiên cứu văn học dân gian ở nước ta đã đưa ra những cách tiếp cận từ các
góc độ, trên nhiều bình diện (thực tế đó sẽ được làm rõ trong phần “Lịch sử
vấn đề” ở luận văn này). Ngay cả những người đang trực tiếp đứng trên bục
giảng, trong đó có chúng tôi, cách phân tích truyện cổ tích sao cho phù hợp
với mục đích, đối tượng và gắn với đặc trưng thể loại cũng là đòi hỏi cấp
thiết, cần có thêm lời giải đáp.
1.2. Trong số các truyện được tuyển chọn trong sách giáo khoa Ngữ
văn ở trường trung học cơ sở và trung học phổ thông đã kể tới ở trên, có
những truyện đã và đang gây ra sự tranh luận khá sôi nổi giữa các nhà
nghiên cứu về đặc trưng thể loại cũng như sự nhìn nhận, đánh giá về nhân
cách của một vài nhân vật. Đó là truyện Chử Đồng Tử, Sự tích trầu cau và
nhất là nhân vật cô Tấm trong truyện Tấm Cám. Những ý kiến tranh luận

xung quanh các truyện cụ thể ấy đã đặt các giáo viên vào tình huống có vấn
đề khi phân tích, lý giải một số truyện cổ tích ở cả hai cấp học. Phải chăng
những cách hiểu ngược chiều của các nhà nghiên cứu về một số truyện cổ
tích đã được tuyển chọn để dạy và học có nguyên nhân từ phương pháp dạy
học thể loại này?


6
1.3. Việc vận dụng các cách phân tích thể loại truyện cổ tích để góp phần
giải quyết những băn khoăn, vướng mắc của nhiều người, mà trước hết là của
các em học sinh lớp 6 và lớp 10 khi đến với các truyện đang gây tranh cãi và
cần có lời lý giải thỏa đáng, có sức thuyết phục là việc làm bổ ích và thiết thực.
Với những lý do như vậy, chúng tôi chọn vấn đề “Phương pháp dạy
học truyện cổ tích trong chương trình môn Ngữ văn ở trường trung học
phổ thông” để làm đề tài luận văn cao học.
2. Lịch sử vấn đề
Cùng với việc nghiên cứu truyện cổ tích như là một thể loại phổ biến
nhất, tiêu biểu nhất, có nhiều vấn đề đáng quan tâm nhất trong loại hình tự sự
dân gian, các nhà Folklore học trong và ngoài nước ta đã và đang đưa ra
những phương pháp phân tích thể loại này trong các cuốn giáo trình, các
chuyên luận, các sách chuyên khảo, các tài liệu hướng dẫn giảng dạy, bồi
dưỡng giáo viên thường xuyên và nhiều bài báo được lần lượt công bố từ
trước tới nay. Trong luận văn này, chúng tôi chỉ điểm qua một số công trình
được nhiều người chú ý đã tập trung trình bày trực tiếp hoặc gián tiếp phương
pháp phân tích truyện cổ tích nói chung và các truyện cổ tích được tuyển chọn
trong chương trình sách giáo khoa môn Ngữ văn ở trường trung học cơ sở và
trung học phổ thông nói riêng.
2.1. Một số công trình nghiên cứu đề cập phương pháp phân tích
truyện cổ tích nói chung
Hầu hết các nhà cổ tích học có tên tuổi ở nước ta như Nguyễn Đổng

Chi, Đinh Gia Khánh, Cao Huy Đỉnh, Chu Xuân Diên, Hoàng Tiến Tựu, Lê
Chí Quế, Nguyễn Xuân Đức,… đều thống nhất cho rằng muốn làm sáng tỏ
đặc trưng thể loại truyện cổ tích thì phải sử dụng triệt để phương pháp so sánh
(bao gồm so sánh loại hình và so sánh lịch sử). Phương pháp này được vận
dụng trong cuốn giáo trình Văn học dân gian Việt Nam, Đinh Gia Khánh (chủ


7
biên), Chu Xuân Diên, Vũ Quang Nhơn (biên soạn). Bằng phương pháp so
sánh, các tác giả của cuốn sách đó đã làm nổi bật những đặc điểm cơ bản của
truyện cổ tích trên phương diện cấu trúc và phân biệt nó với một số thể loại
khác như thần thoại, truyện cười và truyện ngụ ngôn (trong cuốn giáo trình
này, các soạn giả không thừa nhận truyền thuyết là một thể loại của loại hình
tự sự dân gian). So sánh truyện cổ tích với thể loại ra đời trước nó, các tác giả
cho rằng: “Thần thoại hấp dẫn chúng ta bằng những hình tượng mĩ lệ và táo
bạo vì nội dung chất phác nhưng kỳ vĩ của sự tích. Truyện cổ tích lôi cuốn
chúng ta vào những nỗi niềm vui khổ, vào không khí đấu tranh chống cường
quyền của nhữn con người bị áp bức. Hai thể loại, hai tính chất, hai cách tác
động đến ý thức thẩm mĩ…” [26, 296].
Trong cuốn Văn học dân gian Việt Nam, tập 2, khi viết về thể loại
truyện cổ tích, tác giả Hoàng Tiến Tựu cũng vận dụng chủ yếu phương pháp
so sánh để “phân biệt truyện cổ tích với các loại truyện dân gian khác” [51,
41] và làm sáng tỏ đặc điểm của ba tiểu loại trong thể loại này. Theo tác giả:
“Ở truyện cổ tích thần kỳ, cái thần kỳ phải giữ vai trò chủ yếu trong việc tham
gia giải quyết các xung đột, mâu thuẫn trong truyện, còn cổ tích sinh hoạt thì
ngược lại, các yếu tố thần kỳ chỉ giữ vai trò thứ yếu và nhiều khi chỉ là “cái
đường viền” của truyện” [51, 49].
Như vậy, trong cả hai cuốn Giáo trình văn học dân gian đã dẫn, các
soạn giả không trực tiếp trình bày phương pháp phân tích truyện cổ tích
nhưng người đọc vẫn nhận ra được phương pháp so sánh đã được vận dụng từ

đầu đến cuối ở phần giới thuyết chung về thể loại. Cũng có một vài cuốn giáo
trình, các tập bài giảng, các tác giả trực tiếp nêu ra phương pháp nghiên cứu,
học tập truyện cổ tích bằng những yêu cầu, những câu hỏi khá cụ thể. Chẳng
hạn trong cuốn Giáo trình văn học dân gian (dùng cho hệ đào tạo từ xa) do
Phạm Thu Yến (chủ biên), Lê Trường Phát, Nguyễn Bình Hà (đồng biên


8
soạn), ở bài “Truyện cổ tích”, các soạn giả đã dành hẳn một mục để trình bày
“phương pháp phân tích truyện cổ tích” [55, 88]. Trong mục này, có sáu vấn
đề cụ thể được nêu ra: 1. Dựa vào các đặc trưng của văn học dân gian và đặc
trưng thể loại truyện cổ tích để phân tích; 2. Đặt truyện và các chi tiết của
truyện vào kiểu truyện, môtíp chung của truyện cổ tích để cảm nhận và phân
tích; 3. Triệt để khai thác các yếu tố nghệ thuật (công thức nghệ thuật), yếu tố
kỳ ảo, cấu trúc tác phẩm…) để làm nổi bật nội dung và ý nghĩa truyện. Đặc
biệt làm rõ quan niệm nghệ thuật về con người trong đó; 4. Tìm hiểu các dấu
ấn văn hóa, các lớp lịch sử của tác phẩm để xem xét tác phẩm từ nhiều góc độ
khác nhau, trong quá trình phát triển của nó; 5. Không nên quan tâm nhiều
đến lời kể, chủ yếu là khai thác cốt truyện và môtíp cổ tích; 6. Có thể phân
tích một số truyện cổ tích tiêu biểu: Chử Đồng Tử, Sự tích trầu cau, Thạch
Sanh [55, 88]. Trong tập bài giảng Văn học dân gian Việt Nam (dùng cho hệ
đào tạo tín chỉ của Trường Đại học Vinh, lưu hành nội bộ), tác giả Hoàng
Minh Đạo và Nguyễn Thị Thanh Trâm cũng dành hẳn một mục để trình bày
“phương pháp phân tích truyện cổ tích” [9, 52].
Về chuyên luận, có một số cuốn đáng lưu ý bởi vì trong đó các tác giả
đã có sự quan tâm đáng kể đến phương pháp phân tích truyện cổ tích. Trước
hết, đó là cuốn Sơ bộ tìm hiểu những vấn đề của truyện cổ tích qua truyện
Tấm Cám của Đinh Gia Khánh. Cuốn sách này đã sưu tập được hàng chục dị
bản về kiểu truyện Tấm Cám ở Việt Nam, đã hệ thống hóa được các kiểu
truyện mang số 510 theo hệ thống A - T của thế giới và đã có phần tiểu luận

gần 100 trang theo phương pháp loại hình. Nhìn chung, tác giả đã đứng từ góc
độ của người nghiên cứu văn học để nghiên cứu văn học dân gian, nhưng lại
biết chú ý khai thác những tài liệu của các ngành khoa học xã hội khác như
dân tộc học, lịch sử tôn giáo… để tạo nên cách tiếp cận liên ngành đối với thể
loại truyện cổ tích. Đánh giá về phương pháp tiếp cận của Đinh Gia Khánh


9
trong chuyên luận nổi tiếng đó, Chu Xuân Diên đã viết: “…Về phương diện
trên đây, công trình nghiên cứu của Đinh Gia Khánh đã góp phần đưa việc
nghiên cứu Folklore ở Việt Nam vào quỹ đạo chung của truyền thống so sánh
trong Folklore học thế giới” [25, 105].
Trong chuyên luận Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam, tác
giả Cao Huy Đỉnh đã tái hiện quá trình phát triển của lịch sử dân tộc ta qua
việc đối chiếu so sánh một số truyện cổ tích như: Trầu cau, Nàng Tô Thị,
Tấm Cám, Cây khế, Sọ Dừa, Vọ chàng Trương. Sự đối chiếu đó được trình
bày trong chương ba của cuốn sách với tiêu đề: “Tinh thần phê phán xã hội và
lý tưởng dân chủ - nhân đạo trong truyện cổ và các thể tài khác nhau ở giai
đoạn đầu của chế độ phong kiến” [11, 183].
Đáng kể nhất là cuốn sách với tiêu đề Văn hóa dân gian mấy vấn đề
phương pháp luận và nghiên cứu thể loại của Chu Xuân Diên. Cuốn sách này
là sự tập hợp có hệ thống các bài nghiên cứu của tác giả đã công bố trong các
tạp chí chuyên ngành trong các kỷ yếu hội thảo khoa học… Trong đó có ba
bài liên quan trực tiếp tới phương pháp phân tích truyện cổ tích nói chung và
một số truyện trong chương trình môn văn ở trường phổ thông nói riêng. Đó
là các bài: Về phương pháp so sánh trong khoa học nghiên cứu văn học dân
gian, Truyện cổ tích dưới mắt các nhà khoa học và Về cái chết của mẹ con
người dì ghẻ trong truyện “Tấm Cám”.
Trong bài Truyện cổ tích dưới mắt các nhà khoa học, Chu Xuân Diên
đã xem xét, đánh giá một cách công phu cách tiếp cận truyện cổ tích của các

nhà cổ tích học nổi tiếng trên thế giới và Việt Nam như V. Taprốp (Nga),
S. Thompson (Ấn Độ), Hirokoo Ikeda (Nhật Bản) và Nguyễn Đổng Chi, Đinh
Gia Khánh, Cao Huy Đỉnh… (Việt Nam). Ở bài viết này, tác giả đánh giá một
cách thỏa đáng cách phân tích truyện cổ tích của Đinh Gia Khánh và Nguyễn
Đổng Chi với thái độ khen chê đúng mức: “Đứng về mặt phương pháp, công


10
trình nghiên cứu của Đinh Gia Khánh có khuynh hướng sử dụng nhiều những
nguyên tắc của khoa học nghiên cứu, khoa học thành văn. Còn trong công
trình của Nguyễn Đổng Chi, phương pháp sử học đã nhiều khi làm tác giả xa
rời bản chất của truyện cổ tích, nhất là về mối quan hệ của truyện cổ tích với
thực tại” [5, 374]. Riêng bài Về cái chết của mẹ con người dì ghẻ trong truyện
“Tấm Cám” là bài có liên quan trực tiếp tới một truyện cổ tích được tuyển
chọn trong sách giáo khoa Ngữ văn 6 trước đây và Ngữ văn 10 hiện hành,
chúng tôi sẽ đề cập các phần sau trong luận văn này. Các bài viết trong công
trình của Chu Xuân Diên không dừng lại ở phương pháp phân tích truyện cổ
tích mà còn nêu lên được những vấn đề có ý nghĩa phương pháp luận, đúng
như tiêu đề của cuốn sách đó. Đây là công trình quan trọng và bổ ích cho
những ai quan tâm tới việc nhiệm vụ, giảng dạy truyện cổ tích.
Trước chuyên luận của Chu Xuân Diên, nhà nghiên cứu Nguyễn Tấn
Đắc cho xuất bản cuốn Truyện kể dân gian đọc bằng TYPE và MOTIF. Nội
dung cuốn sách này tập trung trình bày hướng phân tích truyện kể dân gian
mà chủ yếu là truyện cổ tích bằng phương pháp đối sánh TYPE và MOTIF.
Trong đó đáng chú ý nhất là mục “Đọc lại truyện Tấm Cám ở Đông Nam Á”
[10; 163 - 198]. Trong mục này, tác giả đề cập năm vấn đề: “Từ truyện
Kajong và Halek của người Chăm đến TYPE truyện Tấm Cám ở Đông Nam
Á; Mối giao lưu và tương tác văn hóa giữa các dân tộc ở Đông Nam Á qua
TYPE truyện kể Tấm Cám, những biến đổi của truyện Tấm Cám Việt Nam;
truyện Tấm Cám và sự đánh tráo thân phận con người và kể lại truyện này của

thế kỷ XIX” [10]. Đó là những gợi ý cần thiết giúp chúng ta có sự nhìn nhận
và đánh giá đúng giá trị truyện Tấm Cám - một truyện cổ tích đang gây nhiều
tranh cãi trong giới nghiên cứu ở nước ta.
Cùng hướng phân tích truyện cổ tích bằng việc vận dụng kết quả
nghiên cứu của các nhà cổ tích học ở nước ngoài với Nguyễn Tấn Đắc, còn có


11
công trình Truyện cổ tích thần kỳ Việt đọc theo hình thái học của truyện cổ
tích của V. Tapropp của Đỗ Bình Trị. Công trình này dành phần đầu để nói
cách đọc - hiểu các tác phẩm văn chương đang được áp dụng hiện nay ở
trường phổ thông nước ta. Tiếp đó tác giả đi sâu trình bày cách đọc - hiểu
truyện cổ tích theo mô hình của V. Tapropp. Đặc biệt, tác giả đã trình bày tỉ
mỉ phương pháp này qua việc đọc - hiểu các truyện cụ thể như Tấm Cám,
Thạch Sanh, Kêu một việc được ba việc, Người lấy cóc. Đây là nguồn tư liệu
bổ ích và thiết thực góp phần giúp cho người dạy và người học truyện cổ tích
ở trường phổ thông hiểu rõ hơn về truyện cổ tích nói chung và những truyện
đã kể có liên quan tới chương trình, sách giáo khoa nói riêng.
Trong một số bài báo đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành, Nguyễn
Xuân Lạc đề xuất hướng “phân tích truyện cổ tích theo tinh thần Foklore
học”. Tăng Kim Ngân chú trọng cách tiếp cận theo đặc trưng thể loại với bài
Vấn đề nghiên cứu nghệ thuật của truyện cổ tích Việt Nam dưới góc độ thể
loại; Nguyễn Xuân Kính quan tâm tới phương pháp tiếp cận truyện cổ tích từ
góc độ thi pháp học với bài Thi pháp văn học và việc nghiên cứu thi pháp văn
học, nghệ thuật dân gian,…
Như vậy, trong việc tiếp cận truyện cổ tích nói chung ở nước ta từ trước
tới nay đã hình thành và phát triển khá nhiều xu hướng. Trong đó nổi bật vẫn
là cách tiếp cận bằng phương pháp so sánh loại hình; từ góc độ phương pháp
học, Folkore học và theo đặc trưng thể loại. Các cách tiếp cận đó đều có
những ưu điểm và nhược điểm, những ưu thế và hạn chế như Chu Xuân Diên

đã chỉ ra.
2.2. Một số công trình đề cập phương pháp phân tích truyện cổ tích trong
sách giáo khoa Ngữ văn ở trường trung học cơ sở và trung học phổ thông
Những công trình thuộc loại này bao gồm các cuốn sách, các tài liệu
bồi dưỡng giáo viên thường xuyên, hướng dẫn giảng dạy và các bài báo…


12
Các hướng phân tích truyện cổ tích trong sách giáo khoa môn Ngữ văn ở
trường phổ thông thường có sự thay đổi qua mỗi lần thay sách.
Trong cuốn Giảng văn văn học dân gian, Nguyễn Xuân Lạc đề xuất
cách phân tích bộ phận văn học này nói chung, truyện cổ tích nói riêng theo
quan điểm thi pháp học. Tác giả viết: “Theo quan điểm này, chúng ta sẽ
hướng dẫn học sinh tìm hiểu, phân tích tác phẩm văn học dân gian theo
phương pháp hệ thống, ở ba cấp độ sau đây:
- Cấp độ tác phẩm - hệ thống dị bản
- Cấp độ tác phẩm - hệ thống môtíp
- Cấp độ tác phẩm - hệ thống văn hóa dân gian [28, 129].
Cách phân tích này đã và đang được nhiều người đồng tình, vận dụng
bởi vì nó “đảm bảo tính khoa học” trong việc nhìn nhận, đánh giá các tác
phẩm văn học dân gian, trong đó có truyện cổ tích. Sau đó, việc vận dụng
thành tựu nhiệm vụ truyện cổ tích của V. Ja. Propp vào việc tiếp cận truyện cổ
tích thần kỳ Việt Nam của Đỗ Bình Trị đã được trình bày ở trên thực chất
cũng là sự tiếp nối hướng tiếp cận mà Nguyễn Xuân Lạc đã đề xuất.
Trong cuốn Những vấn đề thi pháp văn học dân gian, Nxb Khoa học
Xã hội, 2003, tác giả Nguyễn Xuân Đức đã dành hẳn một phần để viết về
Văn học dân gian trong nhà trường (phần thứ ba, từ 233 - 283). Theo tác
giả: “Cần có một cách tiếp cận thích hợp đối với văn học dân gian” [12, 283]
và “đến với những nguyên lý văn học từ văn học dân gian” [12, 291]. Trong
phần thứ nhất của cuốn sách này, có tới sáu bài trong đó tác giả chuyên bàn

về truyện cổ tích mà chủ yếu là các truyện được tuyển chọn trong sách giáo
khoa trường trung học cơ sở và trung học phổ thông. Chẳng hạn như các bài:
Vấn đề trường cổ tích (64 - 78), Cổ tích và nhại cổ tích (57 - 64), Tấm trong
truyện Tấm Cám (108 - 117) v.v… Tất cả các bài trong phần này đều đặt
truyện cổ tích dưới ánh sáng của thi pháp học để xem xét. Đây là tài liệu


13
tham khảo bổ ích cho các giáo viên đang trực tiếp giảng dạy truyện cổ tích
trong nhà trường. Gần đây nhất, Nguyễn Xuân Đức công bố tiếp cuốn sách
có tiêu đề Thi pháp truyện cổ tích thần kỳ người Việt. Cuốn sách này có thể
xem là sự bổ sung, hoàn chỉnh cách tiếp cận truyện cổ tích từ góc độ thi
pháp học đã được tác giả đề cập đến trong cuốn Những vấn đề thi pháp học
dân gian.
Đặc biệt trong cuốn Phương pháp dạy học văn, tập 1, Phan Trọng Luận
(chủ biên), Trương Dĩnh, các soạn giả đã dành một mục để trình bày “con
đường tiếp cận và cắt nghĩa tác phẩm văn chương trong nhà trường” [30, 169
- 192]. Ở mục này, đáng chú ý nhất phần nói tới “các phương pháp thường
dùng” (192) bao gồm: “đọc diễn cảm”, “so sánh trong phân tích văn học”,
“phân tích nêu vấn đề”, “gợi mở” và “giảng bình”. Theo các tác giả, cách
phân tích truyện cổ tích trong sách giáo khoa cũng nằm trong quỹ đạo chung
của những phương pháp thường dùng đó. Cuốn sách do Phan Trọng Luận
(chủ biên) tuy nói về phương pháp dạy học văn nói chung theo tinh thần đổi
mới nhưng đã có những phần dành riêng cho việc dạy học văn học dân gian
với mục: “Mô hình thiết kế thể nghiệm” [30, 307]. Ở mục “Phụ lục 1”, tác giả
đề xuất việc “giảng dạy văn học dân gian theo thể loại”, trong đó có thể loại
truyện cổ tích và đã lấy bài viết của Nguyễn Xuân Lạc (đã dẫn ở trên) để
chứng minh. Cuốn sách của Phan Trọng Luận và Trương Dĩnh là công trình
có liên quan trực tiếp tới phương pháp phân tích truyện cổ tích trong sách
giáo khoa môn văn ở trường phổ thông, là những gợi ý thiết thực giúp chúng

tôi triển khai luận văn này, nhất là phần “Phương pháp dạy học cụ thể một số
thể loại văn học dân gian ở trường trung học phổ thông”. Trong mục này, thể
loại truyện cổ tích được trình bày từ trang 347 - 362. Trong truyện cổ tích có
bốn truyện được đề cập là Thạch Sanh, Sọ Dừa, Tấm Cám và Cây tre trăm


14
đốt. Cả bốn truyện đó hiện đang được dạy ở trường trung học cơ sở và trung
học phổ thông.
Về phương pháp giảng bình, có hai cuốn sách cần lưu ý. Đó là cuốn
Bình giảng truyện dân gian của Hoàng Tiến Tựu và cuốn Phân tích, bình
giảng tác phẩm văn học 10, Nguyễn Khắc Phi (chủ biên), Lê Trường Phát, Lã
Nhâm Thìn… Trong cả hai cuốn sách, các tác giả đã phân tích một số truyện
cổ tích được tuyển chọn trong sách giáo khoa môn Văn ở trường phổ thông
bằng sự cảm nhận với phương pháp giảng bình (chỉ xoáy vào một số điểm đặc
sắc trong từng truyện chứ không phân tích toàn bộ truyện đó).
Trong tập Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên giáo viên THPT chu kỳ 3
(2004 - 2007) phần Ngữ văn (lưu hành nội bộ) do Viện Nghiên cứu Sư phạm
Hà Nội ấn hành năm 2006, ở “Chuyên đề 1” với tiêu đề Đổi mới nội dung và
phương pháp nghiên cứu và giảng dạy văn học dân gian trong nhà trường
(tr.1 - 42), bà Phạm Thu Yến cũng nhấn mạnh phương pháp tiếp cận văn học
dân gian từ góc độ thi pháp thể loại, phương pháp nghiên cứu theo típ và
môtíp (trong truyện cổ); phương pháp tiếp cận theo chức năng và theo bối
cảnh diễn xướng. Đến chương 2, tác giả chuyên đề có đề cập hướng tiếp cận
truyện cổ tích trong chương trình Ngữ văn với các định hướng đã được trình
bày trong chương 1 và lấy truyện Chử Đồng Tử và truyện Làm theo lời vợ
dặn để minh họa cho các hướng tiếp cận đó. Tập tài liệu bồi dưỡng thường
xuyên này một lần nữa khẳng định phương pháp tiếp cận các tác phẩm văn
học dân gian nói chung, truyện cổ tích nói riêng theo đặc trưng thể loại như
trong công trình Phương pháp dạy học văn của Phan Trọng Luận và Trương

Dĩnh đã từng đề cập.
Còn trong hai cuốn Ngữ văn 6 và Ngữ văn 10, sách giáo viên hiện
hành, phương pháp phân tích truyện cổ tích nói riêng và văn học nói chung là
bằng con đường đọc - hiểu, thay cho hình thức giảng văn trước đây. Con


15
đường này tập trung sự chú ý vào vai trò tiếp nhận tác phẩm văn học của học
sinh, coi trọng việc đọc trong việc phân tích chúng. Đặc biệt trong những năm
gần đây, các nhà biên soạn chương trình và sách giáo khoa môn Ngữ văn lại
đưa cách phân tích văn chương, trong đó có truyện cổ tích bằng phương pháp
tích hợp (có người gọi là quan điểm tích hợp). Ở cuốn Ngữ văn 6, sách giáo
viên, Nguyễn Khắc Phi (chủ biên), các soạn giả đã dành hẳn phần đầu để nói
về phương pháp tích hợp như là “khâu đột phá” đối với việc phân tích tác
phẩm văn chương trong nhà trường. Đó là các mục: “Tên gọi môn học và
quan điểm tích hợp” (tr.5), “Vấn đề phương pháp” (tr.11). Đồng tình với
hướng tiếp cận mới này, trong bài viết có tiêu đề: Dạy truyện dân gian trong
chương trình Ngữ văn ở trường phổ thông theo phương pháp tích hợp in
trong cuốn Một số vấn đề dạy - học văn học dân gian trong nhà trường, Nxb
Nghệ An, 2010, tác giả Hoàng Minh Đạo đã vận dụng phương pháp đó để tiếp
cận một số truyện như Chử Đồng Tử, Tấm Cám, Thạch Sanh… Phương pháp
tích hợp chú ý tới bề dày văn hóa trong những tác phẩm văn học có giá trị
(tích hợp theo trục dọc).
Ở trường trung học phổ thông, truyện cổ tích được học không nhiều
như trung học cơ sở nhưng các nhà biên soạn chương trình và sách giáo khoa
ở cả hai hệ cơ bản và nâng cao đều chú ý phương pháp phân tích thể loại này.
Trong hai cuốn Ngữ văn 10, tập 1, sách giáo viên (cơ bản) do Phan Trọng
Luận (tổng chủ biên) và Ngữ văn 10, tập 1, sách giáo viên (nâng cao) do Trần
Đình Sử (tổng chủ biên), các soạn giả đều lưu ý phương pháp phân tích các
truyện cổ tích được tuyển chọn là theo đặc trưng thể loại và theo quan điểm

thi pháp học. Đối với truyện Tấm Cám, sách nâng cao lưu ý: a) Truyện cổ tích
thường lấy mâu thuẫn gia đình để thể hiện mâu thuẫn xã hội. Mâu thuẫn giữa
Tấm và mẹ con Cám thực chất là mâu thuẫn giữa lao động và bóc lột, thật thà
và gian trá, thiện và ác trong xã hội. Khi giảng, giáo viên cần lưu ý cho học


16
sinh điều đó; b) Nhân vật của truyện cổ tích thường mang tính đại diện, tiêu
biểu cho một loại người, một tầng lớp trong xã hội… Vì vậy, khi phân tích
cần tránh suy diễn về thái độ, tình cảm, cảm xúc của nhân vật [44, 97]. Còn
trong sách cơ bản, các soạn giả cũng lưu ý: “Trong quá trình phân tích tác
phẩm, giáo viên cần dẫn dắt học sinh theo sự phát triển của mâu thuẫn giữa
Tấm và mẹ con Cám, nghĩa là phải theo sát tiến trình phát triển của cốt
truyện…, không sa vào yếu tố từ ngữ khác vì sẽ vi phạm nguyên tắc chung
đối với việc phân tích các tác phẩm tự sự dân gian. Cần lưu ý: Với học sinh
trung học phổ thông, không nên dùng khái niệm môtíp mà chỉ nên dùng từ chi
tiết hoặc sự kiện [32, 89 - 90]. Đó vừa là những định hướng vừa là những lời
khuyên khá cụ thể đối với người thầy giáo khi dạy truyện Tấm Cám nói riêng
và truyện cổ tích nói chung. Tuy nhiên, lời khuyên trong “sách cơ bản” về
việc không nên dùng khái niệm môtíp có lẽ cần xem lại, lý do vì sao chúng tôi
sẽ nói rõ ở chương hai của luận văn này.
Tóm lại, điểm qua một số công trình nghiên cứu và hướng dẫn giảng
dạy truyện cổ tích ở nước ta từ trước đến nay, chúng ta đã có thể thấy rõ:
phương pháp phân tích thể loại này đã và đang được giới nghiên cứu quan
tâm và đã thu được những kết quả đáng kể. Trong đó nổi lên là cách phân tích
bằng phương pháp so sánh (chủ yếu là so sánh loại hình, phương pháp xen
kẽ), tác phẩm truyện cổ tích từ góc độ thi pháp học, văn hóa học, theo đặc
trưng thể loại và phân tích liên ngành (phương pháp tổng hợp). Đối với
phương pháp dạy và học truyện cổ tích trên tiến trình đổi mới, truyện cổ tích
trong nhà trường trung học cơ sở và trung học phổ thông được phân tích từ

những phương pháp truyền thống ở thời kỳ đầu (bằng kinh nghiệm phân tích
như các tác phẩm văn học viết) đến phương pháp hiện đại: thi pháp học, tích
hợp, theo đặc trưng thể loại và kể cả việc vận dụng các phương pháp tiếp cận
tiên tiến của nước ngoài vào việc phân tích các truyện của Việt Nam (như


17
cách làm của Đỗ Bình Trị). Tất cả các cách tiếp cận đó không loại trừ lẫn
nhau mà luôn bổ sung cho nhau để cho việc chiếm lĩnh đối tượng là truyện cổ
tích ngày càng trở thành một lĩnh vực khoa học.
Tiếp thu thành tựu của những người đi trước, trong luận văn này, chúng
tôi tiếp tục đi sâu tìm hiểu một số cách phân tích truyện cổ tích gắn với việc
dạy và học thể loại đó qua các truyện được tuyển chọn trong sách giáo khoa
Ngữ văn ở trường trung học cơ sở và trung học phổ thông.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Hệ thống hóa một số cách phân tích truyện cổ tích đã và đang được
áp dụng ở nước ta từ trước tới nay
3.2. Đi sâu xem xét hướng phân tích truyện cổ tích trong nhà trường
(THCS và THPT) nhằm làm sáng tỏ đặc trưng thể loại và góp phần giải quyết
những băn khoăn, vướng mắc đối với một số vấn đề đang gây tranh cãi.
3.3. Soạn một số giáo án thể nghiệm dựa trên cơ sở lý thuyết đã được
trình bày trước đó.
4. Phạm vi nghiên cứu
- Gồm các truyện cổ tích của người Kinh đã và đang được đưa vào
giảng dạy trong chương trình môn văn học ở THCS và THPT (kể cả chương
trình phân ban và chưa phân ban), trọng tâm là những truyện đang có sự gay
cấn trong cách phân tích như: Tấm Cám, Chử Đồng Tử, Sự tích trầu cau…
- Tập trung xem xét cách phân tích truyện cổ tích nói chung, các truyện
được tuyển chọn thuộc thể loại này nói riêng trong sách giáo khoa và sách
giáo viên Ngữ văn 6 và Ngữ văn 10 qua các lần thay sách.

5. Phương pháp nghiên cứu
- Thống kê phân loại: dùng để hệ thống hóa cách phân tích truyện cổ
tích đã và đang được sử dụng phổ biến ở Việt Nam, nhất là trong việc dạy học
thể loại này ở trường phổ thông.


18
- So sánh: chủ yếu là so sánh loại hình để làm sáng tỏ đặc trưng thể loại
và những chỗ khác biệt trong cách phân tích truyện cổ tích.
- Phân tích, tổng hợp: áp dụng khi đi vào các tác phẩm cụ thể.
6. Bố cục luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung chính
của luận văn gồm ba chương:
Chương 1. Những vấn đề chung
Chương 2. Cách phân tích truyện cổ tích từ các góc độ
Chương 3. Giáo án thể nghiệm


19
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Giới thuyết một số khái niệm
1.1.1. Truyện cổ tích
Theo cuốn Từ điển thuật ngữ văn học, truyện cổ tích là “một thể loại
truyện dân gian nảy sinh từ xã hội nguyên thủy nhưng chủ yếu phát triển
trong xã hội có giai cấp với chức năng chủ yếu là phản ánh và lý giải những
vấn đề xã hội, những số phận khác nhau của con người trong cuộc sống muôn
màu muôn vẻ khi đã có chế độ tư hữu tài sản, có gia đình riêng (chủ yếu là gia
đình phụ quyền), có mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh xã hội quyết liệt”.
Khái niệm truyện cổ tích có nội dung rất rộng, bao gồm nhiều loại

truyện khác nhau về đề tài, về đặc điểm nghệ thuật,… Có thể phân truyện cổ
tích thành ba loại chính: truyện cổ tích thần kỳ, truyện cổ tích sinh hoạt và
truyện cổ tích loài vật [18, 311].
Do cả ba tiểu loại được nói tới trong định nghĩa trên đều có các truyện
được tuyển chọn trong sách giáo khoa Ngữ văn 6 và Ngữ văn 10 hiện hành,
cho nên theo chúng tôi cần có sự nắm bắt ban đầu về đặc điểm của ba tiểu loại
này trong thể loại truyện cổ tích.
1.1.2. Truyện cổ tích thần kỳ
Truyện cổ tích thần kỳ là bộ phận quan trọng và tiêu biểu nhất của thể
loại cổ tích. Ở loại truyện này, nhân vật chính vẫn là con người trong thực tại,
nhưng các lực lượng thần kỳ, siêu nhiên có một vai trò rất quan trọng. Hầu
như mọi xung đột trong thực tại giữa người với người đều bế tắc, không thể
giải quyết nổi nếu thiếu yếu tố thần kỳ (như truyện: Tấm Cám, Thạch Sanh,
Sọ Dừa, Chử Đồng Tử…).
Trong truyện cổ tích thần kỳ, các nhân vật thường bao gồm ba loại
chính: nhân vật chính diện hay phe thiện (như Thạch Sanh, Công chúa, hoàng


20
tử, Chử Đồng Tử, Sọ Dừa, vợ Sọ Dừa…), nhân vật phản diện hay phe ác (như
Lý Thông, Cám, mẹ Cám…) và các nhân vật thần kỳ hoặc vật báu có tác dụng
kỳ diệu (như Tiên, Bụt, rắn thần, chim thần, đàn thần, niêu cơm thần, chiếc
gậy thần…).
1.1.3. Truyện cổ tích sinh hoạt (hay truyện cổ tích thế sự)
Truyện cổ tích sinh hoạt là những truyện cổ tích không có hoặc rất ít
yếu tố thần kỳ, ở đây các mâu thuẫn, xung đột xã hội giữa người với người
được giải quyết một cách hiện thực, không cần đến những yếu tố siêu nhiên.
Những yếu tố thần kỳ nếu có cũng không giữ vai trò quan trọng và nhiều khi
chỉ là đường viền cho câu chuyện thêm vẻ ly kỳ, hấp dẫn mà thôi (như
truyện: Vợ chàng Trương, Sự tích chim hít cô, Sự tích con muỗi, Cây tre

trăm đốt…).
1.1.4. Truyện cổ tích loài vật
Truyện cổ tích loài vật là truyện cổ tích lấy các loài vật (phần lớn là
động vật làm đối tượng phản ánh, tường thuật và lý giải chủ yếu). Loại truyện
này ở thời kỳ cổ xưa hầu hết các dân tộc đều có. Ở đây các loài vật được nhân
cách hóa một cách hồn nhiên trong trí tưởng tượng của nhân dân thời cổ. Ở
Việt Nam, do những truyện cổ tích loài vật không được sưu tầm và ghi chép
sớm nên tính chất cổ xưa, hồn nhiên, chất phác của chúng không còn nguyên
vẹn, nhiều truyện cổ tích loài vật đã biến tướng trở thành truyện ngụ ngôn (Ví
dụ: Sự tích con công và con quạ, Vì sao trâu không có hàm răng trên…).
1.2. Về các truyện cổ tích được tuyển chọn trong sách giáo khoa
Ngữ văn lớp 6 và lớp 10
1.2.1. Các truyện đã và đang được tuyển chọn để dạy và học
Trong sách giáo khoa môn Văn (hiện nay là Ngữ văn) ở trường trung
học cơ sở, các truyện cổ tích được đưa vào có sự thay đổi qua mỗi lần thay
sách. Các truyện đã được tuyển chọn để dạy và học bao gồm: Sự tích trầu


21
cau, Cây tre trăm đốt, Cây khế, Tấm Cám, Thạch Sanh, Sọ Dừa, Chàng ngốc,
Trí khôn của tao đây…Còn trong sách Ngữ văn 6 hiện hành chỉ còn các
truyện: Sọ Dừa, Thạch Sanh, Em bé thông minh (người Kinh) và hai truyện cổ
tích của nước ngoài: Cây bút thần (Trung Quốc) và Ông lão đánh cá và con
cá vàng (Nga).
Trong sách giáo khoa môn Văn (nay là Ngữ văn) ở trường trung học
phổ thông (lớp 10), trước đây, thể loại truyện cổ tích được chọn giảng khá
nhiều nhưng nay chỉ còn lại rất ít. Ở sách Văn cũ (chương trình chỉnh lý
hợp nhất) có các truyện: Sự tích trầu cau, sau đó được thay bằng truyện:
Sự tích cây nêu ngày tết, Từ Thức lấy vợ tiên, Sự tích núi Vọng Phu, Làm
theo lời vợ dặn… Trong sách Văn 10 hiện hành (chương trình phân ban)

chỉ còn lại hai truyện Tấm Cám và Chử Đồng Tử. Trong chương trình nâng
cao, truyện Tấm Cám được dùng để đọc - hiểu, còn truyện Chử Đồng Tử
thuộc phần đọc thêm.
Ngoài những truyện cụ thể đã và đang được đưa vào sách giáo khoa để
dạy và học, còn có phần giới thiệu khái quát về văn học dân gian, trong đó
nêu định nghĩa truyện cổ tích và các tiểu loại của nó. Đây là cơ sở ban đầu để
giúp người dạy và học hiểu đúng đặc trưng thể loại. Sách giáo viên Ngữ văn
10, tập 1, yêu cầu: “Biết cách đọc và hiểu một truyện cổ tích thần kỳ, nhận
biết được một số truyện cổ tích thần kỳ qua đặc trưng thể loại” [31, 89].
1.2.2. Những đặc điểm chung của các truyện cổ tích được tuyển chọn
để dạy và học trong chương trình phổ thông
Nhìn chung, tất cả các truyện cổ tích đã và đang được tuyển chọn trong
sách giáo khoa môn Văn ở trường phổ thông hai cấp (cơ sở và trung học) đều
là những truyện tiêu biểu cho thể loại này và được lưu hành phổ biến rộng rãi
trong nhân dân. Các truyện đó thuộc một trong ba tiểu loại của truyện cổ tích
và chiếm tỷ lệ nhiều nhất là truyện cổ tích thần kỳ. Cụ thể như sau:


22
- Tiểu loại truyện cổ tích thần kỳ gồm các truyện: Sọ Dừa, Thạch
Sanh, Chử Đồng Tử, Từ Thức lấy vợ tiên, Sự tích cây nêu ngày tết, Tấm
Cám, Cây khế…
- Tiểu loại truyện cổ tích sinh hoạt có các truyện: Sự tích trầu cau, Em
bé thông minh, Anh chàng Ngốc, Làm theo lời vợ dặn, Sự tích núi Vọng Phu.
- Tiểu loại truyện cổ tích loài vật: Trí khôn của tao đây.
Tỷ lệ truyện được tuyển chọn như vậy, theo chúng tôi là khá hợp lý,
bởi vì: như đã trình bày ở phần giới thuyết khái niệm và phân loại truyện cổ
tích, tiểu loại truyện cổ tích thần kỳ vẫn là tiểu loại chiếm số lượng nhiều
nhất, có nhiều truyện hay nhất và mang đầy đủ nhất các đặc trưng của thể
loại. Nói tới truyện cổ tích là người ta nghĩ ngay tới truyện cổ tích thần kỳ.

Còn truyện cổ tích sinh hoạt cũng có nhiều truyện hay, lý thú nhưng trong
quan niệm phân loại vẫn còn có những ý kiến chưa thống nhất (trường hợp
Sự tích trầu cau là một ví dụ). Còn ở nước ta, tiểu loại truyện cổ tích loài vật
có số lượng không nhiều so với nhiều nước trên thế giới, hơn nữa một số
truyện thuộc tiểu loại này có xu hướng chuyển thành ngụ ngôn, nhiều khi
khó phân định. Vì thế số lượng tuyển chọn ít ỏi như vậy cũng là dễ hiểu.
Tuy nhiên, truyện được chọn là Trí khôn của tao đây đã thực sự tiêu biểu
cho thể loại truyện cổ tích loài vật hay chưa là điều mà chúng tôi sẽ đề cập
trong phần tiếp theo ở mục này.
Trong một số truyện được nói tới ở trên có hiện tượng giao thoa thể
loại. Nghĩa là những truyện đó vừa có đặc điểm của thể loại này vừa có đặc
điểm của thể loại khác. Đó là các truyện: Sự tích trầu cau, Chử Đồng Tử, Trí
khôn của tao đây. Về những truyện này, việc phân loại của giới nghiên cứu ở
nước ta chưa có ý kiến thống nhất. Chẳng hạn truyện Sự tích trầu cau, có
người xếp nó vào thể loại truyền thuyết (truyền thuyết thời Hùng Vương), có
người lại xếp nó vào thể loại truyện cổ tích. Tình hình đó diễn ra trong sách


23
giáo khoa môn Văn lớp 6 và lớp 10 trước đây. Ở lớp 6, truyện này được dạy
như là một truyền thuyết lịch sử, còn ở lớp 10 lại được giảng như là một
truyện cổ tích.
Việc phân loại truyện Chử Đồng Tử cũng diễn ra tương tự. Người ta
nhận thấy: trong truyện này mang nhiều đặc điểm của truyện cổ tích thần kỳ
nhưng trong đó vẫn có nhiều yếu tố của truyền thuyết, nhất là chi tiết Chử
Đồng Tử hiển linh giúp Triệu Việt Vương đánh giặc Lương ở phần kết thúc
truyện. Nhân vật này trở thành một trong tứ bất tử trong điện thờ đất Việt.
Với những chi tiết như vậy, các nhà nghiên cứu cho rằng Chử Đồng Tử là
truyện cổ tích đã được truyền thuyết hóa.
Đặc biệt truyện Trí khôn của tao đây, trước đây có tên gọi “trí khôn” có

một thời được xếp là truyện ngụ ngôn. Nhưng nay lại được xếp và truyện cổ
tích loài vật.
Không chỉ việc phân chia thể loại mới có những ý kiến không thống
nhất như vậy mà ngay cả việc phân chia tiểu loại cũng đang có những tranh
cãi: truyện Sự tích trầu cau trước đây xen là truyện cổ tích thần kỳ (tượng tự
truyện Sự tích núi Vọng Phu) nhưng hiện tại nó được xem là truyện cổ tích
sinh hoạt.
Một sự phân loại chưa thật rành rọt như vậy đặt người giáo viên vào tình
huống: nên tiếp cận chúng theo đặc trưng của thể loại hoặc tiểu loại nào? Nên
chăng cần có một phương pháp phân tích riêng đối với những truyện có hiện
tượng giao thoa thể loại như đề xuất của ông Đỗ Bình Trị trong cuốn Truyện
cổ tích thần kỳ Việt đọc theo hình thái học của truyện cổ tích của V. Ia. Propp.
Trong cuốn sách này, tác giả đã dành hẳn một mục với tiêu đề “Đọc truyện cổ
tích thần kỳ trong truyền thuyết” và đã lấy các truyện Sự tích dưa hấu, Gốc tích
bánh chưng và bánh dày, Sự tích đầm Nhất Dạ và bãi Tự Nhiên để làm minh
chứng cho cách phân tích những truyện có sự giao thoa thể loại. Đây là một


24
trong những vấn đề đang được người giáo viên quan tâm. Trong những chương
sau của luận văn này, chúng tôi cũng sẽ dành một phần để trao đổi thêm về
cách phân tích những truyện có sự giao thoa thể loại đã có trong sách giáo khoa
nhất là truyện Chử Đồng Tử. Nguyễn Xuân Đức cũng lưu ý hiện tượng này
nhưng chỉ bàn nhiều về truyện Sơn Tinh Thủy Tinh không thuộc thể loại truyện
cổ tích (xem Những vấn đề thi pháp văn học dân gian, sđd).
Nếu xét về nội dung phản ánh, các truyện cổ tích đã và đang được chọn
giảng trong sách giáo khoa môn Văn ở trường phổ thông đều có giá trị trong
việc bồi dưỡng nhân cách cho người tiếp nhận (học sinh ở hai cấp học) và
giúp cho học sinh bồi dưỡng những hiểu biết cần thiết về bản sắc của văn hóa
nước nhà. Các nhân vật trong từng truyện tuy mỗi người một vẻ, không ai

giống ai và xuất thân ở các tầng lớp, các giai cấp, các lứa tuổi, các giới tính
khác nhau nhưng đều đại diện cho cái thiện và cái ác trong xã hội cũ. Truyện
cổ tích phản ánh, nhìn nhận con người về mặt nhân cách trên bình diện đạo
đức qua hai phạm trù thiện - ác. Các truyện trong thể loại này có sự thống
nhất cao độ giữa phạm trù đạo đức và phạm trù thẩm mĩ. Con người biết sống
thiện như Sọ Dừa, Thạch Sanh, Chử Đồng Tử, Tấm cũng là những con người
đẹp. Ngược lại những kẻ sống ác như mẹ con Lý Thông, mẹ con con Cám, hai
người chị của vợ Sọ Dừa… cũng là những kẻ xấu. Mục tiêu đào tạo của nhà
trường ở nước ta hiện nay là giáo dục thế hệ trẻ biết sống đẹp, phải biết hướng
thiện, tránh làm điều ác. Đến với truyện cổ tích, học sinh không chỉ học được
nhiều điều hay lẽ phải, hình thành quan niệm sống đúng đắn mà còn có những
hiểu biết ban đầu về những nét độc đáo của văn hóa Việt Nam được đề cập
trong từng truyện cụ thể (về khía cạnh này chúng tôi sẽ trình bày ở một phần
trong chương hai của luận văn).
Phần lớn các truyện cổ tích đã và đang được tuyển chọn trong sách giáo
khoa môn Văn ở trường phổ thông đều có các dị bản, mang đặc điểm chung


25
của văn học dân gian. Đây là hệ quả tất yếu của phương thức sáng tác, lưu
truyền bằng miệng và do tập thể gia công sửa đổi của bộ phận văn học (trong
đó có thể loại truyện cổ tích). Về tính dị bản của văn học dân gian, theo ông
Nguyễn Xuân Kính có những dị bản thực và có những dị bản giả (ông gọi là
“ngụy dị bản”). Điều này có liên quan tới việc cắt xén phần kết thúc của
truyện Tấm Cám trong sách giáo khoa Ngữ văn 10 hiện hành mà chúng tôi sẽ
đề cập ở những chương tiếp theo của luận văn này. Một trong những phương
pháp phân tích truyện cổ tích nói chung đã được trình bày ở phần “Lịch sử
vấn đề” là phương pháp so sánh thông qua việc đối chiếu các dị bản (phương
pháp này được tiến hành trong các công trình của Đinh Gia Khánh, Nguyễn
Đổng Chi, Chu Xuân Diên,…). Tuy nhiên, trong các tài liệu hướng dẫn giảng

dạy thể loại truyện cổ tích cùng với các truyện cụ thể, các nhà biên soạn
dường như chưa quan tâm nhiều tới các dị bản của từng truyện. Điều đó làm
cho việc phân tích các truyện cổ tích không khác mấy so với việc phân tích
các truyện ngắn trong văn học Việt. Thiếu sót này theo chúng tôi cần được bổ
sung kịp thời khi nói tới việc phân tích truyện cổ tích trong chương trình môn
Văn ở trường phổ thông.
Đặc biệt, trong số các truyện cổ tích đã và đang được dạy và học ở
trường phổ thông hai cấp (cơ sở và trung học), có những truyện đang gây
tranh cãi xung quanh một số vấn đề như về thể loại, tiểu loại, về việc nhìn
nhận, đánh giá hành động của các nhân vật,… Về vấn đề phân loại một số
truyện như: Chử Đồng Tử, Sự tích trầu cau, Trí khôn của tao đây, chúng tôi
đã nói tới ở phần trên. Còn trong phần tiếp theo, chúng tôi tập trung trình bày
các ý kiến tranh luận xung quanh hành động giết mẹ con người dì ghẻ của cô
Tấm trong truyện Tấm Cám. Truyện cổ tích này trước đây được dạy ở trường
trung học cơ sở (lớp 7), hiện nay được dạy ở trường trung học phổ thông (lớp
10) trong cả hai bản: cơ bản và nâng cao. Nếu đối chiếu về phần kết thúc


×