Tải bản đầy đủ (.doc) (133 trang)

Nâng cao hiệu quả thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trong xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện cao lãnh tỉnh đồng tháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (542.03 KB, 133 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
-------------------

TRẦN VĂN TÁM

NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN
CHỦ Ở CƠ SỞ TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN CAO LÃNH TỈNH ĐỒNG THÁP
(QUA KHẢO SÁT Ở XÃ BÌNH THẠNH, HUYỆN CAO LÃNH,
TỈNH ĐỒNG THÁP)

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

VINH – 2012


2

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
-------------------

TRẦN VĂN TÁM

NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN
CHỦ Ở CƠ SỞ TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN CAO LÃNH TỈNH ĐỒNG THÁP
(QUA KHẢO SÁT Ở XÃ BÌNH THẠNH, HUYỆN CAO LÃNH,


TỈNH ĐỒNG THÁP)

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
CHUYÊN NGÀNH: LL& PPDH BỘ MÔN GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
Mã số: 60.14.10

Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. ĐINH TRUNG THÀNH

VINH - 2012


3

LỜI CẢM ƠN
Cuộc đời của con người là những chuỗi ngày học tập, rèn luyện để không
ngừng tiến bộ và hoàn thiện.
Được theo học lớp Cao học LL và PPDH bộ môn Giáo dục chính trị K18
của trường Đại học Vinh mở tại trường Đại học Đồng Tháp là điều kiện thuận lợi
giúp tôi nâng cao được nhận thức của bản thân để hoàn thiện mình. Xin gửi lời
cảm ơn chân thành tới Ban Giám hiệu, Các nhà giáo, nhà khoa học trong Hội đồng
Khoa học và Đào tạo khoa Giáo dục chính trị, Phòng Đào tạo Sau Đại học trường
ĐH Vinh, Ban Giám hiệu, Phòng Quản lý Khoa học và Sau Đại học trường ĐH
Đồng Tháp đã luôn quan tâm, giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong học
tập, nghiên cứu và thực hiện luận văn;
Xin trân trọng bày tỏ biết ơn sâu sắc Tiến sĩ Đinh Trung Thành, người thầy
đã trực tiếp hướng dẫn tôi hoàn thành bài luận văn này.
Xin cảm ơn Ban thường vụ huyện ủy huyện Cao Lãnh, Đảng ủy, Ủy Ban
Nhân Dân xã Bình Thạnh, Huyện Cao Lãnh đã tạo những điều kiện thuận lợi nhất
để tôi tham gia và hoàn thành khóa học.
Xin trân trọng cảm ơn!

Tác giả luận văn


4

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
Công nghiệp hóa

:

CNH

Hiện đại hóa

:

HĐH

Hội đồng nhân dân

:

HĐND

Mặt trận Tổ quốc

:

MTTQ


Nông thôn mới

:

NTM

Quy chế dân chủ cơ sở

:

QCDCCS

Trung học phổ thông

:

THPT

Ủy ban nhân dân

:

UBND

Xã hội chủ nghĩa

:

XHCN



5

MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU
B. NỘI DUNG
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC NÂNG CAO HIỆU

TRANG

1
12
12

QUẢ THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ TRONG
XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
1.1. Dân chủ, Quy chế dân chủ ở cơ sở, nông thôn mới và mô

12

hình nông thôn mới
1.2. Các tiêu chí đánh giá và các yếu tố ảnh hưởng đến chất

30

lượng thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở
1.3. Nâng cao hiệu quả thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở là


43

yêu cầu cấp thiết trong xây dựng nông thôn mới
Chương 2: THỰC TRẠNG QUÁ TRÌNH TRIỂN KHAI

58

THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở XÃ BÌNH THẠNH,
HUYỆN CAO LÃNH, TỈNH ĐỒNG THÁP TRONG XÂY DỰNG
NÔNG THÔN MỚI
2.1 Đặc điểm kinh tế, văn hóa, xã hội của xã Bình Thạnh

58

huyện Cao Lãnh tỉnh Đồng Tháp
2.2. Thực trạng xây dựng nông thôn mới ở xã Bình Thạnh,

61

huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp
2.3. Thực trạng quá trình triển khai thực hiện Quy chế dân

69

chủ ở xã Bình 2.Thạnh huyện Cao Lãnh tỉnh Đồng Tháp
2.4. Hiệu quả của thực hiện Quy chế dân chủ trong xây dựng
nông thôn mới ở xã Bình Thạnh huyện Cao Lãnh tỉnh Đồng Tháp
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO
HIỆU QUẢTHỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ CƠ SỞ TRONG
XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở XÃ BÌNH THẠNH, HUYỆN

CAO LÃNH, TỈNH ĐỒNG THÁP

77
94


6

3.1. Phương hướng nâng cao hiệu quả thực hiện Quy chế dân

94

chủ cơ sở trong xây dựng nông thôn mới ở xã Bình Thạnh, huyện
Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp
3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện Quy chế dân

101

chủ cơ sở trong xây dựng nông thôn mới ở xã Bình Thạnh, huyện
Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp
C. KẾT LUẬN
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

122
125


7

A. MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Đảng Cộng Sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt
Nam, là đại biểu cho trí tuệ của cả dân tộc, được Chủ tịch Hồ Chí Minh rèn luyện
và sáng lập năm 1930. Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Đảng là người
lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”, từ đó Đảng ta đã xác định
chế độ chính trị của nước ta là chế độ làm chủ của nhân dân lao động từ trung
ương đến địa phương; sức mạnh vô địch của Đảng là mối liên hệ chặt chẽ với quần
chúng nhân dân.
Trong giai đoạn đất nước đẩy mạnh công cuộc đổi mới, xây dựng nền kinh
tế thị trường định hướng XHCN, chủ động tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, để tạo
động lực vững chắc cho quá trình này, Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá X)
thông qua Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 5/8/2008 về nông nghiệp, nông dân và
nông thôn; quyết định số 491/QĐ-TTg ngày 16/4/2009 của Thủ tướng chính phủ
về Ban hành bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới (NTM) nhằm phát huy tối đa
năng lực tiềm tàng của đất nước trong nhân dân về nhân lực, vật lực và tài lực.
Nhưng để Nghị quyết này đi vào cuộc sống và thực hiện thắng lợi thì cần phải dựa
vào sức mạnh vật chất từ quần chúng nhân dân, phải phát huy năng lực làm chủ đất
nước của nhân dân hay nói khác hơn chính là thực hiện tốt Chỉ thị số 30-CT/TW
ngày 18-12-1998 của Bộ Chính trị (khoá VIII) về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ
cơ sở (QCDCCS). Chỉ thị này có thể thực hiện tốt khi mỗi đảng viên, từ đảng viên là cán
bộ lãnh đạo đến đảng viên ở cơ sở đều phải tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của dân,
chăm lo đời sống hằng ngày của dân, gần dân, lắng nghe ý kiến của dân, phục vụ giúp đỡ
dân khi gặp khó khăn,… có như vậy QCDCCS mới được thực hiện triệt để.
Trong những năm qua, nhất là trong hơn hai năm thực hiện xây dựng NTM,
ở huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp, quy chế dân chủ cơ sở (QCDCCS) đã được
phát huy ra tạo động lực, kích thích tinh thần tự do sáng tạo của người dân làm


8


giàu cho bản thân gia đình và quê hương, đóng góp ý kiến xây dựng chính quyền.
Thực tiễn cho thấy, việc mở rộng dân chủ ở cơ sở trên địa bàn huyện Cao Lãnh,
Đồng Tháp đã đạt được những kết quả rất tích cực, thực sự góp phần tạo động lực
thúc đẩy và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thu hút nhân dân tham gia quản
lý nhà nước, tham gia giám sát các hoạt động của Nhà nước. Việc phát huy dân
chủ ở nông thôn góp phần khắc phục một phần tệ quan liêu, tham nhũng, mất dân
chủ, xa rời quần chúng nhân dân của một bộ phận cán bộ, công chức ở cơ sở; đóng
góp tích cực vào việc cải cách hành chính; tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa
Đảng với nhân dân; đóng góp tích cực vào thành tựu chung của cả nước. Người
dân ở cơ sở rất thực tế, họ biết, họ bàn, họ làm, họ kiểm tra, nhưng họ còn phải
biết thêm là họ có được hưởng lợi gì trong việc mà ta vừa bảo họ phải nghe, phải
làm-làm chủ ấy. Nói với bà con chung tay, chung sức cùng làm và thành quả đem
lại là cho chính bà con mình hưởng, khi thông điều này thì bà con làm tất cả những gì
mà họ thấy đem lại cái lợi cho họ, họ mới thấy sự làm chủ thực sự của họ-họ là chủ.
Khi thực hiện QCDC, phải công khai minh bạch, nhưng cái gì công khai, cái
gì không được công khai, cái gì cần minh bạch, cái gì thì không, người dân vẫn
chưa biết hết. Đã không biết hết thì làm sao bàn, đã không cùng tham gia bàn bạc
thì khó có thể đi đến nhất trí và như vậy thì chắc chắn không muốn làm. Nói điều
này để chúng ta tự ngẫm lại vì sao nhiều chủ trương, biện pháp đưa xuống cơ sở
người dân chưa thật sự coi đó là việc của chính mình, mình cần tự giác tham gia.
Đơn cử, một chủ trương rất lớn, tác động tới tất cả mọi mặt đời sống của bà con nông
dân đã được phát động thực hiện chủ trương xây dựng NTM.
Nhiều diễn đàn và trên nhiều văn bản của các cấp ủy, chính quyền chúng ta
đã quán triệt. Còn người dân ở cơ sở thì sao? Liệu họ đã thật sự coi chủ trương xây
dựng NTM là của chính người dân-người nông dân làm hay chưa? Và việc “xây”
ấy họ sẽ được lợi gì? Trong thực tế có điều lạ là, cấp trên nói sao thì cấp dưới
“trung thành” về nói với dân y như thế. Trình độ của một bộ phận bà con ở cơ sở


9


còn hạn chế, nhận thức không đồng đều, do vậy cán bộ cơ sở phải “lựa lời mà nói
cho…” bà con hiểu. Ngoài ra cũng còn có nhiều nơi rơi vào tệ “tam sao thất bản”;
khi lên huyện, lên tỉnh họp hành, tiếp thu, nghiên cứu không đến nơi đến chốn,
không hiểu hết vấn đề về địa phương cần chỉ đạo, lãnh đạo, tổ chức thực hiện là gì
nên khi nói với dân thì qua loa đại khái, thậm chí nhiều chủ trương đến với dân
theo kiểu “đầu voi đuôi chuột”, đôi khi tạo sự nhầm lẫn sinh ra thắc mắc, gây mất
lòng tin của người dân đối với những chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng
và Nhà nước.
Tiếp tục với việc triển khai thực hiện ngày càng sâu hơn, mạnh mẽ hơn
QCDCCS, một trong những ván đề hết sức quan trọng là phải nghiêm túc đánh giá
lại những kết quả đã làm được và những tồn tại, yếu kém, những nguyên nhân gốc
rễ, sâu xa của vấn đề (nhất là công tác quy hoạch, bồi dưỡng, đào tạo, sử dụng đội
ngũ cán bộ ở cơ sở) để khắc phục sửa chữa và làm tốt hơn trong tương lai, nhất là
trong việc triển khai xây dựng NTM-lấy đó một lần nữa làm thước đo cho sự đúng
đắn của những nội dung mà QCDC ở cơ sở quy định. Trong việc thực hiện QCDC
ở cơ sở, nhất thiết người dân phải là người chủ.
Từ thực tế thực hiện QCDCCS cho thấy, để việc thực hành dân chủ ngày
càng mở rộng hơn nữa trong đời sống xã hội, các cấp ủy đảng, chính quyền tiếp tục
chỉ đạo mở rộng dân chủ trực tiếp, tạo điều kiện thuận lợi để cho các tầng lớp nhân
dân tham gia rộng rãi vào việc quản lý kinh tế, quản lý xã hội, quản lý quy hoạch,
đồng thời xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên, công chức lợi dụng chức quyền
để tham nhũng, tiêu cực gây sách nhiễu, phiền hà nhân dân. Xây dựng chương
trình kiểm tra theo kế hoạch và đột xuất về thực hiện QCDCCS, chọn những vấn
đề bức xúc của nhân dân để kiểm tra, đặc biệt là cấp cơ sở xã. Thực hiện tốt tất cả
các khâu dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra và dân quyết định mà QCDC đã
đề ra. Nội dung thực hiện dân chủ ở cơ sở nông thôn cần đi thẳng vào những vấn
đề cụ thể như phương hướng phát triển kinh tế - xã hội địa phương, giải quyết việc



10

làm, xoá đói, giảm nghèo, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, thực hiện phương
châm Nhà nước và nhân dân cùng làm, xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xử lý, đánh giá,
sử dụng, đề bạt, cất nhắc cán bộ cần công khai, minh bạch, công bằng và dân chủ,
đổi mới phương thức hoạt động của các đoàn thể nhân dân theo hướng thiết thực,
hiệu quả vì lợi ích thiết thân của đoàn viên, hội viên và của cộng đồng.
Trong giai đoạn tới, nâng cao hiệu quả thực hiện QCDC ở cơ sở trong xây
dựng NTM trên địa bàn huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp là một nhu cầu cấp thiết,
nhất là trong bối cảnh hội nhập quốc tế và toàn cầu hoá. Từ những vấn đề lý luận
và thực tiễn cấp bách đó, chúng tôi chọn vấn đề: “Nâng cao hiệu quả thực hiện
Quy chế dân chủ ở cơ sở trong xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện
Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp” (Qua khảo sát ở xã Bình Thạnh, huyện Cao Lãnh,
tỉnh Đồng Tháp) làm đề tài luận văn Thạc sĩ Khoa học Giáo dục, chuyên ngành Lý
luận và phương pháp giảng dạy bộ môn Giáo dục Chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề dân chủ, QCDC ở cơ sở và ý thức, trách nhiệm thực hiện QCDCCS
cũng như nguyên nhân, hậu quả của việc vi phạm QCDC ở cơ sở và các giải pháp
cần khắc phục là một trong những chủ đề thu hút sự chú ý và quan tâm của các nhà
lãnh đạo, quản lý, của giới lý luận, các tổ chức quốc tế trong và ngoài nước từ
nhiều năm nay. Đã có nhiều văn bản, Chỉ thị về vấn đề dân chủ, QCDC ở cơ sở và
ý thức, trách nhiệm thực hiện QCDCCS được triển khai.
Ngày 18/2/1998 Bộ Chính trị ra “Chỉ thị 30-CT/TW về xây dựng và thực
hiện QCDC ở cơ sở”, chỉ thị đã khẳng định: “Mở rộng dân chủ XHCN, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân là mục tiêu, đồng thời là động lực bảo đảm cho thắng
lợi của cách mạng, của công cuộc đổi mới”. Thực hiện Chỉ thị 30-CT/TW và các
quy định, hướng dẫn của Trung ương, trong những năm qua, các địa phương trong
cả nước đã tích cực đưa QCDC ở cơ sở vào cuộc sống, góp phần tạo nên những
bước chuyển biến mạnh mẽ trên tất cả các lĩnh vực.



11

Ngày 4-3-2010, thay mặt Ban Bí thư Trung ương Đảng, đồng chí Trương
Tấn Sang đã ký ban hành Kết luận số 65-KL/TW của Ban Bí thư về tiếp tục thực
hiện Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII) về xây dựng và thực hiện
QCDCCS.
Do tính cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn của thực hiện quy chế cơ sở, đã
có nhiều công trình nghiên cứu đăng tải trên các tạp chí của Trung ương và địa
phương, đề cập đến vấn đề này ở những góc độ khác nhau.
Để phục vụ cho việc nghiên cứu, quán triệt, học tập và thực hiện Nghị quyết
Đại hội XI của Đảng, tháng 5/2011, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật xuất
bản cuốn sách "Về quá trình dân chủ hóa XHCN ở Việt Nam hiện nay". Sách do
PGS, TS Lê Minh Quân, Viện Chính trị học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc
gia Hồ Chí Minh biên soạn. Ngoài lời mở đầu và kết luận, cuốn sách gồm 9
chương. Trên cơ sở tìm hiểu các quan niệm và khái niệm lý thuyết và mô hình dân
chủ hóa, những yếu tố tác động và quá trình dân chủ hóa trên thế giới, cuốn sách
phân tích nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn của quá trình dân chủ hóa XHCN ở
nước ta hiện nay. Tác giả đã phân tích làm rõ dân chủ luôn là ước vọng của con
người trong mọi thời đại. Nó cần như cơm ăn, áo mặc, nước uống hằng ngày. Dân
chủ là thước đo chất lượng cuộc sống văn minh xã hội và năng lực quản lý của một
nhà nước. Dân chủ không phải tự nhiên mà có. Nhận thức về vấn đề dân chủ đã
khó khăn và phức tạp, nhưng nhận thức về dân chủ hóa hay quá trình hiện thực hóa
những mơ ước, những giá trị dân chủ trong đời sống còn khó khăn và phức tạp
hơn. Những vấn đề về mục tiêu, động lực, nội dung, hình thức và phương pháp;
nguyên nhân, kinh nghiệm, nguyên tắc, phương châm và bước đi của dân chủ hóa
luôn là những vấn đề khó khăn và mới mẻ đòi hỏi phải giải quyết.
Tác giả Hồ Sĩ Vịnh với bài viết: “Dân chủ - một giá trị văn hoá”, Tạp chí
Tuyên giáo, Thứ Sáu 25/11/2011 khẳng định, ở nước ta không có chuyện nhân
quyền, dân chủ cao hơn chủ quyền quốc gia như một số kẻ xấu thường rao giảng.



12

Truyền thống cộng đồng nhà, làng, nước là một cấu trúc bền vững có quan hệ hữu
cơ với nhau. Nước mất thì nhà tan, dân khổ; nước thịnh thì nhà yên, dân cường.
Truyền thống dựng nước và giữ nước của cha ông cho chúng ta bài học về quyền
dân chủ, quyền con người. Nước trở thành vong quốc nô thì dân bị trị, nghèo đói,
thất học, tên nước bị biến mất trên bản đồ thế giới, nói gì đến quyền sống của con
người!
GS, TS. Phạm Ngọc Quang có bài viết: “Dân chủ XHCN là mục tiêu và
động lực của công cuộc đổi mới đất nước”, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số 4
năm 2010. Bài viết nêu rõ, dân chủ xã hội chủ nghĩa (XHCN) là bản chất của chế
độ ta; vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước, thể hiện mối
quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân. Quan điểm đó là sự kế thừa, bổ
sung, phát triển sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về dân chủ XHCN và là kết quả phù hợp với lôgíc phát triển tư duy lý luận
của Đảng ta về dân chủ trong quá trình đổi mới đất nước.
Đồng chí Hồ Quang Lợi - UVTV, Trưởng ban Tuyên giáo Thành ủy Hà
Nội có bài viết: “Dân chủ và pháp quyền XHCN”, Tạp chí Xây dựng Đảng, số ra
ngày 19 tháng năm 2011. Tác giả đã lập luận một cách khoa học rằng, dân chủ là
bản chất của chế độ XHCN ở nước ta. Điều gì đã giúp cho Nhà nước ta vượt qua
tất cả những thử thách cam go, tình thế hiểm nghèo “ngàn cân treo sợi tóc” trong
các cuộc chiến tranh cứu nước trước đây cũng như ở thời điểm “chuyển dời dâu
bể” sau khi chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, Việt Nam phải tự đứng
vững và tìm lấy con đường đi tới chủ nghĩa xã hội (CNXH) của mình? Một trong
những nhân tố quan trọng nhất là sự gắn bó máu thịt của toàn dân ta với Nhà nước
của mình. Đó là Nhà nước do chính dân ta gây dựng nên và Nhà nước đó lại phục
vụ chính dân ta.
GS. TS Hoàng Chí Bảo có bài viết: “Dân chủ XHCN – Bản chất của chế độ,

mục tiêu và động lực phát triển đất nước” đăng trên báo Nhân Dân số ra ngày 29


13

tháng 2 năm 2010. Bài viết khẳng định, qua thực tiễn đổi mới, tư duy lý luận của
Đảng cũng đã vươn tới những quan điểm mới, mở ra một khả năng và triển vọng
tốt đẹp để xây dựng xã hội ta thành một xã hội dân chủ, trong đó nhân dân là người
chủ chân chính của Nhà nước và xã hội, là chủ thể quyền lực. Vấn đề đặt ra là cần
phải thực hành dân chủ rộng rãi và nghiêm túc, trước hết là dân chủ trong Đảng.
Sự phát triển lành mạnh dân chủ trong Đảng chẳng những làm tăng sức mạnh của
Đảng, mà còn nêu gương, thúc đẩy dân chủ trong xã hội.
Tác giả Nguyễn Thanh Minh với bài viết: “Tìm hiểu việc thực hiện
QCDCCS tại TP. Hồ Chí Minh”, Tạp chí Khoa học Pháp luật số 6/2002, trường
Đại học Luật TP Hồ Chí Minh đánh giá, không ít người dân tại TP.HCM mới chỉ
biết khẩu hiệu mang nội dung dân chủ “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”;
còn nội hàm của từng khái niệm thì họ chưa hiểu tường tận. Vì vậy, phải tiếp tục
tuyên truyền, phổ biến nội dung QCDCCS, làm cho nhân dân ý thức được việc
thực hiện Quy chế là vì mình, vì một xã hội tốt đẹp; hạn chế tới mức tối đa việc
hiểu và vận dụng sai tinh thần Quy chế, huy động quá khả năng đóng góp về vật
chất và tinh thần của nhân dân.
Tác giả Nguyễn Văn Quang, Khoa Giáo dục Chính trị - Trường Đại học
Sư phạm Huế có bài viết: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong chính trị”,
Tạp chí Xây dựng Đảng số ra ngày 01 tháng 3 năm 2011, tác giả bài viết nhấn
mạnh, trong suốt quá trình hoạt động lý luận và thực tiễn chỉ đạo cách mạng Việt
Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác lập và hiện thực hóa hệ thống quan điểm về
dân chủ trong tổ chức xây dựng xã hội mới trên tất cả các lĩnh vực. Tư tưởng của
Người về dân chủ trong chính trị đã trở thành một bộ phận văn hóa của dân tộc
Việt Nam.
Đồng chí Huỳnh Đảm, Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận tổ quốc Việt

Nam trên Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 9/7/2008 với bài viết: “Nhìn lại 10 năm
thực hiện QCDC ở xã, phường, thị trấn” đã làm rõ thực trạng 10 năm thực hiện


14

QCDC ở xã, phường, thị trấn, quyền làm chủ của nhân dân ở các địa phương trong
cả nước được phát huy mạnh mẽ.
Đồng chí Lê Vĩnh Tân, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Đồng
Tháp có bài viết trên Tạp chí Cộng sản điện tử với tiêu đề: “Những giải pháp chủ
yếu thúc đẩy phát triển mô hình NTM trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp”, đã khẳng
định rằng: Xây dựng NTM là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước với mục tiêu
cốt lõi làm đổi mới diện mạo nông thôn, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của
người dân ở nông thôn. Tác giả Nguyễn Bích Thủy (TTXVN/Vietnam+) với bài
viết Bước tiến trong thực hiện QCDC ở cơ sở, bài viết đã đề cập tới giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả, chất lượng thực hiện QCDC ở cơ sở trong năm 2011;
trong đó, nhấn mạnh cần có những đánh giá về tình hình dân chủ ở cơ sở; có chế
tài xử lý người đứng đầu cơ quan, đơn vị xem nhẹ việc thực hiện QCDC ở cơ sở.
Tác giả Nguyễn Doãn Khánh trên Tạp chi Xây dựng Đảng, số ra ngày 11
tháng 4 năm 2011 với bài viết: “Phát huy dân chủ để xây dựng đội ngũ cán bộ của
dân, do dân, vì dân trên cơ sở thực tiễn ở Phú Thọ” đã nêu rõ: Nhận thức sâu sắc
vấn đề phát huy dân chủ, trong những năm qua, Đảng bộ tỉnh Phú Thọ quan tâm
đẩy mạnh việc thực hiện QCDC ở cơ sở gắn với việc xây dựng đội ngũ cán bộ, coi
đây là nhiệm vụ trọng tâm, then chốt của công tác xây dựng đảng, là giải pháp
hàng đầu trong thực hiện chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH đất
nước, là việc làm thiết thực, cụ thể hoá phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm,
dân giám sát”.
Ngày 16/9/2010 Bộ NN&PTNT phối hợp với Quỹ Quốc tế phát triển nông
nghiệp tổ chức hội thảo về “Xây dựng NTM giai đoạn 2010 – 2020 và tầm nhìn
đến năm 2030”. Tại hội thảo, các chuyên gia trong và ngoài nước về lĩnh vực nông

nghiệp, nông thôn đều có cùng quan điểm, nông thôn Việt Nam do có những đặc
thù riêng vì vậy xây dựng NTM phát triển bền vững và mang đậm bản sắc văn hóa
là cần thiết và phải tập trung chủ yếu vào 5 nội dung cơ bản: Đào tạo, nâng cao


15

chất lượng nguồn nhân lực nông thôn; Phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội nông
thôn; Hỗ trợ phát triển sản xuất và xây dựng các hình thức sản xuất có hiệu quả
trong nông thôn; Xây dựng đời sống văn hóa phong phú, lành mạnh ở nông thôn và
Bảo vệ, phát triển nâng cao chất lượng môi trường nông thôn. Chương trình mục
tiêu quốc gia xây dựng NTM đoạn 2010 – 2020 và tầm nhìn đến năm 2030” nêu rõ
vai trò của đội ngũ cán bộ cơ sở trong phổ biến chủ trương chính sách của Đảng và
Nhà nước, ý thức trách nhiệm thực hiện QCDC ở cơ sở là là nhân tố quan trọng để
thực hiện thắng lợi chương trình này.
Dưới góc độ một luân văn Thạc sỹ, đề tài “Nâng cao ý thức, trách nhiệm
thực hiện công tác xoá đói, giảm nghèo cho cán bộ cơ sở huyện Cao Lãnh, tỉnh
Đồng Tháp trong giai đoạn hiện nay”, trường Đại học Vinh, 2010, tác giả Phan
Thanh Hải cũng đề cập vấn đề thực hiện QCDC ở cơ sở trong quá trình triển khai
chương trình mục tiêu xóa đói giảm nghèo.
Như vậy trên phương diện lý luận và thực tiễn, công trình khoa học của các
tác giả nêu trên đã phân tích khá thấu đáo vấn đề dân chủ, vai trò của thực hiện dân
chủ trong đời sống xã hội. Những công trình khoa học đó đã cung cấp cơ sở
phương pháp luận hết sức quan trọng trong việc tiếp cận vấn đề dân chủ, dân chủ
và QCDCCS. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có công trình nào đề cập một cách toàn
diện vấn đề “Nâng cao hiệu quả thực hiện QCDC ở cơ sở trong xây dựng NTM
trên địa bàn huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp” (Qua khảo sát ở xã Bình Thạnh,
huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp). Công trình nghiên cứu của tác giả không trùng
lắp với các công trình khoa học đã được công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ

3.1. Mục đích
Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng, luận văn đề xuất một số giải pháp nâng
cao hiệu quả thực hiện QCDC ở cơ sở trong quá trình xây dựng NTM ở huyện Cao
Lãnh, tỉnh Đồng Tháp trong giai đoạn hiện nay.


16

3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ những vấn đề lý luận về dân chủ, QCDCCS và các quan điểm, chủ
trương của Đảng, Nhà nước ta về thực hiện QCDC ở cơ sở trong quá trình xây dựng
NTM hiện nay.
- Làm rõ tình hình thực hiện QCDCCS trong xây dựng NTM trên địa bàn xã
Bình Thạnh, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp trong những năm qua.
- Đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện tốt QCDCCS ở xã Bình
Thạnh, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp trong xây dựng NTM thời gian tới.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở vận dụng lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước ta về vấn đề
dân chủ và thực hiên QCDC ở cơ sở trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông
thôn.
Để thực hiện mục đích, nhiệm vụ của đề tài Luận văn, trong quá trình thực
hiên luận văn tác giả sử dụng phối hợp các nhóm phương pháp nghiên cứu sau:
Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận như: phân tích tổng hợp, hệ thống hoá;
Nhóm phương pháp nghiên cứu thực nghiệm như: phương pháp quan sát, phân tích
kinh nghiệm, điều tra phỏng vấn.
5. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu việc thực hiện QCDCCS trong những năm gần
đây để làm cơ sở trong xây dựng NTM ở xã Bình Thạnh, huyện Cao Lãnh, tỉnh
Đồng Tháp trong giai đoạn 2010-2015.

6. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của đề tài với những giải pháp đề xuất sẽ là cơ sở lý luận
và thực tiễn trong việc thực hiện QCDCCS thời kỳ triển khai chủ trương xây dựng


17

NTM của huyện Cao Lãnh, Đồng Tháp nói riêng, đồng bằng sông Cửu Long và cả
nước nói chung.
7. Giả thuyết khoa học
Thực hiện được các giải pháp như đề xuất của Luận văn sẽ nâng cao hiệu
quả thực hiện QCDCCS trên địa bàn huyện Cao Lãnh trong xây dựng NTM.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, các phụ lục, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của việc nâng cao hiệu quả thực hiện QCDC ở cơ
sở trong xây dựng NTM
Chương 2: Thực trạng quá trình triển khai thực hiện QCDC ở cơ sở trên địa
bàn xã Bình Thạnh, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp trong xây dựng NTM
Chương 3: Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện Quy
QCDC ở cơ sở trên địa bàn xã Bình Thạnh, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp
trong xây dựng NTM


18

B. NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC NÂNG CAO
HIỆU QUẢ THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ

TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI

1.1. Dân chủ, Quy chế dân chủ ở cơ sở, nông thôn mới và mô hình nông
thôn mới
1.1.1. Khái niệm dân chủ và dân chủ ở cơ sở
1.1.1.1. Khái niệm dân chủ
Dân chủ là một vấn đề vô cùng quan trọng và bức thiết từ xưa đến nay, đó là
nội dung vừa mang tính chính trị, vừa mang tính nhân văn của con người. Thuật
ngữ này xuất hiện đầu tiên tại Hy Lạp với cụm từ dimokratia là “quyền lực của
nhân dân” được ghép từ chữ demos là “nhân dân” và kratos là “quyền lực”. Vào
thế kỉ thứ IV trước công nguyên, tại Thành bang Aten (Hy Lạp) đã xuất hiện thể
chế chính trị tiến bộ, mang dáng dấp nền dân chủ sơ khai: Mọi công dân (nam) từ
18 tuổi đều được tham gia vào cơ quan quản lý nhà nước theo hình thức rút thăm.
Từ đó đến nay, khái niệm “dân chủ” ngày càng trở thành một ý tưởng chủ đạo cho
niềm mơ ước của con người, vì đó là cơ sở để con người được thể hiện "nhân
quyền" và "dân quyền", hướng tới một xã hội "như trong mơ"- xã hội không có
người bóc lột người. Trải qua các thời kì lịch sử, do bối cảnh cụ thể mà khái niệm
“dân chủ” có những hình thức và tên gọi khác nhau như: Dân chủ chủ nô; Dân chủ
quân sự; Dân chủ lập hiến; Dân chủ tư sản; Dân chủ nhân dân; Dân chủ XHCN.
Dù có các trạng thái khác nhau, song khái niệm "dân chủ" được dùng để chỉ tính
chất chế độ xã hội mà trong đó người dân được thể hiện quyền làm chủ của mình.


19

Trong học các thuyết chính trị, dân chủ dùng để mô tả cho một số ít hình
thức nhà nước và cũng là một loại triết học chính trị. Mặc dù chưa có một định
nghĩa thống nhất về dân chủ, nhưng có hai nguyên tắc mà bất kỳ một định nghĩa
dân chủ nào cũng đưa vào:
Thứ nhất là tất cả mọi thành viên của xã hội (công dân) đều có quyền tiếp

cận đến quyền lực một cách bình đẳng;
Thứ hai là tất cả mọi thành viên (công dân) đều được hưởng các quyền tự do
được công nhận rộng rãi.
Với C.Mác và Ph.Ăngghen thì cách mạng XHCN lấy việc giải phóng con
người khỏi mọi sự tha hoá, bất công, giành trở lại cho con người cái bản chất vốn
có của nó - lao động và hoà bình - làm mục tiêu cơ bản của mình. Muốn vậy, trong
giai đoạn thứ nhất của cuộc cách mạng đó, giai cấp vô sản phải trở thành giai cấp
thống trị, phải "giành lấy dân chủ". Chỉ bằng việc thiết lập Nhà nước XHCN, sử
dụng Nhà nước ấy như là một công cụ đắc lực để phát triển toàn diện xã hội mới,
trong đó, phát triển triệt để nền dân chủ XHCN là trọng tâm, giai cấp vô sản mới
hoàn thành thắng lợi sứ mệnh lịch sử của mình: nhân dân trở thành người chủ đích
thực của xã hội, là chủ thể tối cao và duy nhất của mọi quyền lực. Tư tưởng này
nói lên bản chất dân chủ của xã hội mới mà giai cấp công nhân và nhân dân lao
động đang hướng tới.
Phát triển những tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen về dân chủ, V.I.Lênin
đã khẳng định sự cần thiết phải kết hợp giữa cuộc đấu tranh cho dân chủ với thắng
lợi của CNXH. Đấu tranh cho dân chủ, theo ông, cũng không thể dừng lại ở dân
chủ tư sản. Sau khi thiết lập chính quyền, việc phát triển triệt để nền dân chủ
XHCN là tiền đề để thực hiện thắng lợi hoàn toàn và triệt để mục tiêu của CNXH.
Bởi vậy, khi làm rõ nội dung quan điểm về sự thống nhất hữu cơ giữa dân chủ và
CNXH, V.I.Lênin chỉ ra rằng, mối quan hệ đó phải được hiểu trên hai phương


20

diện:
Một là, giai cấp vô sản không thể hoàn thành cuộc cách mạng XHCN, nếu
họ không được chuẩn bị để tiến tới cuộc cách mạng đó thông qua cuộc đấu tranh
cho chế độ dân chủ.
Hai là, CNXH sẽ không duy trì được thắng lợi, nếu không thực hiện đầy đủ

chế độ dân chủ.
Như vậy, dân chủ không chỉ là mục tiêu, mà còn là động lực của quá trình
xây dựng CNXH, Bởi lẽ, nhờ có dân chủ, mọi tiềm năng sáng tạo của con người sẽ
được phát huy, sức mạnh vật chất và tinh thần được giải phóng nhằm phục vụ cho
nhu cầu phát triển cá nhân lành mạnh cũng như thúc đẩy xã hội phát triển.
Trong khi mở rộng dân chủ tới mức tối đa đối với mọi tầng lớp nhân dân,
dân chủ XHCN kiên quyết đấu tranh chống lại mọi hành vi đi ngược lại những
chuẩn mực dân chủ, vi phạm những giá trị dân chủ chân chính của nhân dân. Do
vậy, trong nền dân chủ XHCN, dân chủ và chuyên chính không thể tách rời nhau.
Theo V.I.Lênin, chuyên chính nhất thiết có nghĩa là thủ tiêu dân chủ đối với giai
cấp bị chuyên chính.
Kế thừa và phát triển những tư tưởng nêu trên của chủ nghĩa Mác-Lênin,
trong quan niệm của Hồ Chí Minh, dân chủ không tách rời quan niệm “Dân là
gốc”, “Dân là chủ”, “Dân làm chủ”, "Nước ta là nước dân chủ". Ngay từ khi tiếp
thu chủ nghĩa Mác-Lênin, rồi truyền bá vào Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã khẳng
định: các cuộc cách mạng xã hội theo khuynh hướng tư sản như của Anh, Mỹ,
Pháp đều chưa triệt để, vì nhân dân lao động chưa thực sự được giải phóng; áp bức
bất công vẫn tồn tại, quyền lợi vẫn tập trung vào tay giai cấp tư sản. Chính vì thế,
Người đã lái con thuyền cách mạng Việt Nam đi theo con đường cách mạng mà
giai cấp vô sản Nga đã tiến hành. Hiện nay, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta


21

đang lãnh đạo nhân dân hướng tới xây dựng chế độ xã hội XHCN, với mục tiêu
"Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". Nền dân chủ XHCN mà
chúng ta đang hướng tới là nền dân chủ toàn diện, triệt để theo đúng nghĩa mà
Lênin nhận định: đó là nền dân chủ gấp triệu lần so với dân chủ tư sản. Dưới ánh
sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cùng với những trải
nghiệm lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, nhân dân ta ngày càng

nhận thức sâu sắc hơn về “dân chủ”. Theo cách hiểu hiện nay về dân chủ XHCN
thì quyền làm chủ của nhân dân phải tuân theo một số nguyên tắc như:
- Người dân được xác định quyền con người, quyền công dân (tự do, bình
đẳng), có bổn phận và quyền lợi được luật pháp qui định, bảo vệ.
- Hệ thống chính trị của đất nước được thiết lập, duy trì vì lợi ích tối
thượng: chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân; đảm bảo hòa bình, hạnh
phúc cho nhân dân
.- Tài nguyên thiên nhiên và các giá trị văn hóa truyền thống dân tộc thuộc
quyền sở hữu của nhân dân; được bảo vệ và khai thác để phát triển đất nước, phục
vụ đời sống của nhân dân.
- Nhân dân làm chủ thông qua những hoạt động chính trị - kinh tế - văn hóa xã hội được pháp luật cho phép, phù hợp với tính chất chế độ chính trị - xã hội mà
quốc gia hướng tới, phù hợp với thuần phong mĩ tục của dân tộc, địa phương.
Các nguyên tắc nêu trên được vận dụng để xây dựng luật pháp, tổ chức bộ
máy nhà nước, thúc đẩy quá trình cách mạng về tư tưởng, cải cách về thể chế chính
trị và nền hành chính, làm cho các hoạt động xã hội ngày càng mang tính dân chủ gọi là “dân chủ hóa”. Để thực hiện quyền làm chủ, nhân dân không những phải có
quyền, mà điều quan trọng là nhân dân cần phải có năng lực làm chủ. Theo Người,
để làm chủ phải có 3 điều kiện: Trình độ hiểu biết về dân chủ; phương pháp thực
hành dân chủ và bản lĩnh thực hành dân chủ.


22

Những yêu cầu dân chủ của nhân dân được thể chế hoá thành các chuẩn mực
mang tính nhà nước và pháp quyền, thành nguyên tắc tổ chức và vận hành của Nhà
nước cũng như các thiết chế chính trị khác, tạo thành chế độ dân chủ.
Vấn đề dân chủ và phát huy dân chủ được Đảng ta nhận thức và thực hiện
ngày càng đầy đủ và sâu sắc hơn
Trước đổi mới, Đảng ta đã dày công nghiên cứu lý luận và đến Đại hội IV
xác lập quan điểm về chế độ làm chủ tập thể XHCN. Song sự biến đổi của thực
tiễn đã và đặt ra nhiều vấn đề mới cần bổ sung, phát triển. Văn kiện Đại hội đại

biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng ta xác định: “Dân chủ XHCN là bản chất của chế
độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước”.
Đảng ta đã tiếp thu, phát triển những giá trị tư tưởng về dân chủ của nhân
loại, đặc biệt là quán triệt sâu sắc quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh về dân chủ và dân chủ XHCN. Dân chủ XHCN là một hình thức
chính trị - nhà nước thừa nhận quyền tự do, bình đẳng của công dân, xác định nhân
dân là chủ thể của quyền lực. Quyền làm chủ của nhân dân được thể chế hóa thành
quy định, nguyên tắc tổ chức, vận hành của nhà nước và thể chế chính trị tạo nên
chế độ dân chủ.
Qua hơn 25 năm đổi mới, Đảng ta đã có những phát triển mới, quan trọng
trong nhận thức về dân chủ . Quan niệm về dân chủ được mở rộng . Dân chủ được
xem xét nhiều khía cạnh: Dân chủ là chế độ chính trị; dân chủ là giá trị; dân chủ là
phương thức và nguyên tắc tổ chức xã hội; dân chủ chung đối với xã hội và dân
chủ với mỗi cá nhân; dân chủ trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội. Dân chủ phản ánh một bước chuyển từ thể chế chính trị dựa trên áp lực, tuân
thủ mệnh lệnh sang thể chế hợp tác, đồng thuận đầy trách nhiệm. Với việc đưa
“dân chủ” - một mục tiêu của XHCN, Đảng ta đã quán triệt sâu sắc và hoàn thiện
hơn hệ mục tiêu XHCN: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”
theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Đặc biệt dân chủ không chỉ là mục tiêu, mà còn là động


23

lực phát triển nhanh và bền vững của đất nước, vì nó phát huy tính tích cực, chủ động,
tự giác, giải phóng năng lực sáng tạo của con người.
Dân chủ XHCN phải tiếp thu và phát triển các giá trị nhân loại về dân chủ,
trong đó có dân chủ tư sản. Đây là một vấn đề rất quan trọng, vì con đường phát
triển của nước ta là quá độ lên XHCN, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, cũng tức bỏ
qua chế độ dân chủ tư sản. Song, cần phải khẳng định sự khác nhau về bản chất
giữa dân chủ XHCN và dân chủ tư sản, đó là sự khác nhau căn bản giữa dân chủ

cho đa số nhân dân lao động và dân chủ cho thiểu số bóc lột.
Dân chủ là một quá trình phát triển lâu dài , là kết quả của giáo dục ý thức
dân chủ và nâng cao năng lực thực hành dân chủ, phụ thuộc quá trình phát triển
của cả kinh tế, xã hội, con người và cả sự phát triển văn hóa dân chủ. Đây là một
quá trình không nóng vội, không được thoát ly thực tiễn chính trị nước ta. Phải dân
chủ trong tất cả các cấp độ: Từ cơ quan lãnh đạo cao nhất đến cấp cơ sở. Đặc biệt
quan trọng là dân chủ ở cơ sở, bởi vì nơi có hệ thống chính trị cơ sở được coi là
Đảng và Nhà nước “ở trong lòng dân”. Phải tìm tòi tổng kết thực tiễn để tìm ra và
ngày càng hoàn thiện các hình thức thực hiện dân chủ, cả dân chủ đại diện và dân
chủ trực tiếp. Kiên quyết chống các biểu hiện lệch lạc như dân chủ hình thức, dân
chủ cực đoan, lợi dụng dân chủ để gây rối, làm tổn hại lợi ích công dân và Nhà
nước. Kiên quyết bác bỏ các luận điệu giả trá về dân chủ, nhân quyền.
Từ những quan điểm và tư tưởng của các nhà kinh điển, có thể khẳng định
rằng: Dân chủ là một hình thức tổ chức thiết chế chính trị của xã hội mang bản
chất của giai cấp thống trị, trong đó thừa nhận nhân dân là nguồn gốc của quyền
lực. Để có dân chủ nhân dân phải là chủ thể của quyền lực, nếu ngược lại sẽ là
chuyên chế (tác giả nhấn mạnh).
1.1.1.2. Khái niệm về dân chủ ở cơ sở


24

Dân chủ cơ sở cũng chính là dân chủ, là quyền lực, quyền làm chủ thuộc về
nhân dân trên tất cả các mặt của đời sống xã hội. Tuy nhiên, khái niệm dân chủ cơ
sở có phạm vi hẹp hơn nhưng lại cụ thể hơn khái niệm dân chủ, đó là quyền làm
chủ trực tiếp của nhân dân ở cơ sở nơi cư trú: xã, phường, thị trấn,… và cơ quan,
đơn vị công tác của từng người dân, đó chính là việc người dân được quyền tham gia
đóng góp ý kiến của mình vào các vấn đề chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội ở địa phương
mình như: vấn đề gieo sạ lúa các mùa vụ, việc chuyển đổi giống cây trồng hay công tác
quy hoạch, giải phóng mặt bằng,… trong triển khai xây dựng NTM.

1.1.1.3 Khái niệm nông thôn mới
Nông thôn là khu vực mà người nông dân sinh sống, đó là nơi mà dân cư tập
trung thành từng khối thường được gọi là xã, làng, xóm,... Mọi người đều cùng làm
những việc thuộc lĩnh vực nông nghiệp: trồng lúa, trồng rau, chăn nuôi gia súc gia
cầm,... Cuộc sống của họ thanh bình không ồn ã, tấp nập, không có nhiều nhà máy,
công trường xí nghiệp, nhà cao tầng,… Nông thôn nước ta là khu vực rộng lớn có
sự đa dạng về thành phần tộc người, về văn hóa và là nơi bảo tồn, lưu giữ các
phong tục, tập quán của cộng đồng. Ở nông thôn có sự tập trung dân số đông nhất
ở nước ta hiện nay mà chủ yếu là nông dân, trong thời chiến tranh họ chính là giai
cấp cách mạng, đồng hành cùng với giai cấp công nhân trong suốt chiều dài lịch sử
cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhưng hiện nay lại đang gặp nhiều khó
khăn trong đời sống và ít được hưởng lợi do thành quả của cách mạng mang lại.
Mặt khác, trình độ học vấn của nông dân nước ta hiện nay còn thấp, nặng về kinh
nghiệm, nên cần kiên trì, lâu dài hỗ trợ nông dân về khoa học - kỹ thuật, đưa tiến
bộ khoa học vào nông nghiệp, nông thôn.
Nắm bắt được yêu cầu của thực tiễn, trải qua quá trình nghiên cứu, tổng kết
kinh nghiệm, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã ban hành Nghị quyết số
26-NQ/TW, ngày 5-8-2008 “Về nông nghiệp, nông dân, nông thôn”; Thực hiện
Nghị quyết số 26-NQ/TW Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 24/2008/NQ-CP,


25

ngày 28-10-2008, xác định “Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng NTM”,
đồng thời Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định số 800/QĐ-TTg, ngày 4-6-2010
phê duyệt Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng NTM giai đoạn 2010 – 2020 nhằm
khai thác tiềm lực trong nông thôn, đưa nông thôn nước ta hiện nay trở thành NTM.
NTM là bộ mặt nông thôn có sự thay đổi toàn diện trên tất cả các mặt của
đời sống xã hội từ kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội, y tế, giáo dục; đời sống vật
chất, tinh thần của dân cư nông thôn không ngừng nâng cao,… nhưng vẫn giữ

được nét đẹp của truyền thống Việt Nam. Chủ trương xây dựng NTM là để đảm
bảo sự phát triển hài hòa giữa các vùng đồng thời tạo sự chuyển biến nhanh hơn ở
các vùng còn nhiều khó khăn; một trong những vấn đề cần đặc biệt quan tâm trong
quá trình thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng NTM là thực sự
tôn trọng, phát huy tối đa vai trò, vị thế chủ thể của người nông dân về chính trị,
kinh tế và văn hóa,... do đó người nông dân cần được đào tạo có trình độ sản xuất
cao, đáp ứng yêu cầu sự phát triển của xã hội và ngang bằng với các nước tiên tiến
trong khu vực, có như vậy họ mới đủ bản lĩnh chính trị đóng vai trò làm chủ NTM.
Theo thông tư số 54/TT-NNPTNT ngày 21-8-2009 của Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn quy định: “vùng/khu vực NTM Việt Nam XHCN là phần
lãnh thổ không thuộc nội thành, nội thị các thành phố, thị xã, thị trấn; được quản lý
bởi cấp hành chính cơ sở là UBND xã". Như vậy, NTM trước hết phải là nông
thôn, chứ không phải là thị tứ, thị trấn... NTM vừa bao hàm chức năng lịch sử vốn
có của nông thôn là vùng nông dân quần tụ trong đơn vị làng xã và chủ yếu làm
nông nghiệp, vừa có những thuộc tính khác với nông thôn truyền thống, đó là: làng
xã văn minh, sạch đẹp, hạ tầng hiện đại; sản xuất phát triển bền vững theo hướng
kinh tế hàng hoá; đời sống vật chất và tinh thần của người dân nông thôn ngày
càng được nâng cao; giá trị văn hoá truyền thống được bảo tồn, phát triển; xã hội
nông thôn có an ninh tốt, quản lý dân chủ,… thể hiện rõ bản chất ưu việt, tốt đẹp
của chế độ xã hội chủ nghĩa mà Bác Hồ, Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn.


×