Tải bản đầy đủ (.doc) (94 trang)

Phương pháp hướng dẫn học sinh các lớp 4,5 luyện tập văn miêu tả cây cối luận văn tốt nghiệp đại học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 94 trang )

LỜI CẢM ƠN
Đề tài “Phương pháp hướng dẫn học sinh các lớp 4,5 luyện tập văn
miêu tả cây cối” đã đề cập đến vấn đề dạy và học văn miêu tả cây cối ở Tiểu
học. Với mong muốn tháo gỡ phần nào những khó khăn của giáo viên và học
sinh về dạy học văn miêu tả cây cối, cũng như góp phần nâng cao hiệu quả
dạy học văn miêu tả trong phân môn Tập làm văn của môn Tiếng Việt ở Tiểu
học. Chúng tôi đã tiến hành tìm hiểu và phân tích thực trạng dạy học văn
miêu tả cây cối, tích cực thu thập, xử lý tài liệu và nguồn thông tin dạy học có
liên quan. Mặt khác, chúng tôi đã trực tiếp trao đổi, tham khảo và tiếp thu ý
kiến của một số thầy cô giáo có kinh nghiệm trong nghề. Từ đó đưa ra một số
biện pháp giúp giáo viên và học sinh tháo gỡ những khó khăn trong quá trình
dạy học văn miêu tả cây cối ở các lớp 4,5.
Để thực hiện được đề tài này, ngoài sự cố gắng của bản thân, tôi còn
nhận được sự giúp đỡ rất tận tình của các thầy cô giáo trong khoa Giáo dục
và sự động viên, ủng hộ của gia đình và bạn bè.
Nhân dịp này tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới cô giáo TS. Chu
Thị Hà Thanh người luôn tận tình chỉ dẫn, giúp đỡ và tạo cho tôi niềm hứng
thú trong công việc vốn đầy khó khăn và mới mẻ này. Tôi cũng xin bày tỏ lòng
biết ơn chân thành đến các thầy cô giáo trong khoa Giáo dục - Trường Đại
học Vinh, tập thể giáo viên trường Tiểu học Hà Huy Tập II và trường Tiểu
học Lê Lợi cũng như gia đình, bạn bè đã cho tôi những góp ý chân thành và
tạo những điều kiện thuận lợi trong quá trình thực hiện đề tài.
Là một sinh viên bước đầu làm quen với công việc nghiên cứu khoa
học, chắc chắn không tránh khỏi sự sai sót. Tôi rất mong nhận được những ý
kiến góp ý của tất cả các quý thầy giáo, cô giáo và các bạn sinh viên.
Vinh, tháng 5 năm 2011
Sinh viên thực hiện:
Nguyễn Thị Nghĩa


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT



GV

Giáo viên

HS

Học sinh

SGK

Sách giáo khoa

TV

Tiếng Việt

GVTH

Giáo viên Tiểu học

NXB

Nhà xuất bản

Tr

Trang

T


Tập


MỤC LỤC
Trang

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1 Môn Tiếng Việt ở Tiểu học được dạy vừa là một khoa học nghiên
cứu về tiếng Việt đồng thời là một môn trang bị cho học sinh công cụ để giao
tiếp và phát triển tư duy, tạo tiền đề và cơ sở cho việc học tập những môn
khác. Môn Tiếng Việt ở Tiểu học được dạy và học thông qua 7 phân môn
khác nhau (Học vần, Tập đọc, Tập viết, Chính tả, Luyện từ và câu, Kể chuyện
và Tập làm văn ).
Trong số 7 phân môn đó phân môn Tập làm văn là môn học mang tính
tổng hợp, do đó việc dạy Tập làm văn dựa trên cơ sở nghiên cứu của nhiều
khoa học. Nhiệm vụ của phân môn Tập làm văn ở Tiểu học là trang bị cho
học sinh những tri thức về hệ thống tiếng Việt, chuẩn tiếng Việt và rèn luyện
quá trình giao tiếp các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết.
1.2 Văn miêu tả là một trong kiểu văn bản rất quen thuộc và phổ biến
trong cuộc sống. Đây là loại văn có tác dụng rất lớn trong việc tái hiện đời
sống, hình ảnh và phát triển trí tưởng tượng, óc quan sát và khả năng nhận
xét, đánh giá của mình. Bởi vì trong thực tế không ai tả mà để tả, mà tả để gửi
gắm suy nghĩ, cảm xúc, sự đánh giá, những tình cảm yêu ghét cụ thể của
mình. Các bài văn miêu tả ở Tiểu học chỉ yêu cầu tả những đối tượng mà học
sinh yêu mến, thích thú. Vì vậy qua bài làm của mình, các em phải gửi gắm
tình yêu thương của mình với những gì mình miêu tả. Chính vì vậy nó làm



cho tâm hồn và trí tuệ người đọc thêm phong phú giúp con người cảm nhận
được cái hay, cái đẹp của cuộc sống một cách tinh tế và sâu sắc hơn.
1.3 Văn miêu tả trong chương trình Tiểu học gồm có những kiểu bài đó
là : Tả đồ vật, tả cây cối, tả con vật, tả người, tả cảnh. Trong những kiểu bài
đó thì văn miêu tả cây cối là kiểu bài gần gũi và quen thuộc với học sinh. Đối
tượng của văn miêu tả cây cối là những cây trồng xung quanh học sinh. Đó có
thể là cây cho bóng mát, cây lấy hoa, cây ăn quả, cây lấy lá…Chúng đều là
những cây có ích và gần gũi thân thiết với các em. Chính vì thế các em sẽ tả
một cách sinh động và thể hiện được tình cảm yêu mến gắn bó của mình với
từng cây.
1.4 Để viết được một bài văn miêu tả cây cối hay thì người viết phải có
tài quan sát thể hiện bằng những từ ngữ, hình ảnh so sánh, ví von độc đáo…
Đặc biệt là phải thể được tình cảm, sự gắn bó thân thiết đối với cây đó.
Thế nhưng trong thực tế dạy và học văn miêu tả cây cối ở Tiểu học còn
nhiều hạn chế. Hầu hết giáo viên chưa áp dụng phù hợp các phương pháp
giảng dạy. Nhiều bài làm của học sinh chưa đạt yêu cầu về nội dung và hình
thức. Nguyên nhân chủ yếu là giáo viên chưa nắm vững lý thuyết về văn miêu
tả cây cối một cách toàn diện. Học sinh chưa tiếp cận được phương pháp làm
bài khoa học và có hệ thống.
Từ những thực tiễn trên cũng như tầm quan trọng của việc dạy và học
văn miêu tả cây cối trong văn miêu tả lớp 4, 5 của phân môn Tập làm văn nên
tôi quyết định chọn đề tài “Phương pháp hướng dẫn học sinh các lớp 4,5
luyện tập văn miêu tả cây cối”.
2. Lịch sử vấn đề
Về phương pháp dạy Tập làm văn là vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu
quan tâm từ lâu, song chưa hề có một công trình nghiên cứu nào đi sâu vào
tìm hiểu về phương pháp hướng dẫn học sinh các lớp 4, 5 làm bài văn miêu tả

4



cây cối ở Tiểu học với tư cách là một công trình chuyên biệt, độc lập. Cụ thể
có các tài liệu như sau :
1. Phương pháp dạy học tiếng Việt ở Tiểu học ( 2 tập ) – Lê phương
Nga, NXB Đại học sư phạm - 2008.
Nội dung của quyển sách này gồm có 2 phần :
Phần I : Bàn về những vấn đề chung của phương pháp dạy học Tiếng
Việt ở Tiểu học.
Phần II : Đi sâu vào phương pháp dạy học các phân môn cụ thể : Học
vần, Tập đọc, Tập viết, Chính tả, Luyện từ và câu, Kể chuyện và Tập làm văn.
Trong cuốn sách này tác giả chỉ giành một phần nhỏ bé để bàn về
phương pháp dạy học Tập làm văn ở Tiểu học. Đặc biệt phần phương pháp
dạy học văn miêu tả chỉ được đề cập một cách sơ lược. Cuốn sách không chủ
trương đi sâu vào phương pháp dạy văn miêu tả mà chỉ chú trọng vào việc đề
ra quy trình lên lớp của tiết dạy văn miêu tả.
2. Luyện viết văn miêu tả ở Tiểu học – Vũ Khắc Tuân – 2008.
3. Một số vấn đề dạy học Tiếng Việt theo quan điểm giao tiếp ở Tiểu học
- Nguyễn Trí – 2009.
4. Văn miêu tả và kể chuyện - Vũ Tú Nam, Phạm Hổ - NXB Gíáo dục –
Hà Nội 1998.
Cuốn sách này không phải là công trình nghiên cứu về phương pháp
dạy học Tập làm văn mà thiên về giới thiệu cái hay, cái đẹp của văn miêu tả
và bàn về mẹo viết văn miêu tả và văn kể chuyện của một số nhà văn nổi
tiếng. Cuốn sách này giành phần lớn cho việc trích dẫn những đoạn văn miêu
tả và văn kể chuyện điển hình của một số nhà văn.
5. Văn miêu tả trong nhà trường phổ thông - Đỗ Ngọc Thống, Phạm
Minh Diệu – NXB Giáo dục – Hà Nội 2003.
Sách gồm 3 chương và một phần phụ lục :

5



Chương I : Phân tích chỉ ra những đặc điểm và yêu cầu của văn miêu tả.
Qua đó sẽ giúp mọi người thấy rõ hơn vẻ đẹp của văn miêu tả đặc biệt là văn
miêu tả cây cối.
Chương II : Giới thiệu một số ý kiến và một số trang văn miêu tả của
các nhà văn, chủ yếu là các nhà văn viết cho thiếu nhi, có nhiều tác phẩm đưa
vào nhà trường.
Chương III : Tập trung giới thiệu văn miêu tả trong nhà trường phổ
thông theo yêu cầu của chương trình SGK mới. Cũng ở chương này, tác giả
còn giới thiệu hệ thống 95 bài tập và 20 đề văn miêu tả với yêu cầu kết hợp
với các phương thức biểu đạt khác.
Phần phụ lục : Tập hợp 50 đoạn văn, bài văn miêu tả được chuyển từ
các sách trong khoảng nửa thế kỷ qua, sau đó bình giảng một số đoạn văn
miêu tả của các nhà văn.
Đây là cuốn sách giới thiệu về văn miêu tả tương đối toàn diện, đầy đủ,
song nó chưa phải là cuốn sách về phương pháp dạy học văn miêu tả, đặc biệt
là dạy học văn miêu tả cho đối tượng là học sinh Tiểu học.
Như vậy việc nghiên cứu ứng dụng lý thuyết văn miêu tả cây cối vào hệ
thống kỹ năng làm văn trong dạy học văn miêu tả cây cối ở trường Tiểu học
còn ít người đề cập hoặc nghiên cứu chưa sâu. Do đó đề tài “ Hướng dẫn học
sinh các lớp 4, 5 luyện tập văn miêu tả cây cối ” là một đề tài mới mẻ và cần
thiết.
Với công trình nhỏ bé này, chúng tôi muốn đóng góp một phần công
sức của mình vào việc giúp cho học sinh viết được nhiều bài văn hay với lời
lẽ trong sáng, giàu cảm xúc, nội dung súc tích, bố cục chặt chẽ, kết cấu rõ
ràng hơn.
3. Mục đích nghiên cứu
- Nâng cao chất lượng viết văn miêu tả cho học sinh Tiểu học.
- Giúp giáo viên Tiểu học nắm vững lý thuyết văn miêu tả cây cối.


6


- Rèn luyện, bồi dưỡng và nâng cao các kỹ năng và năng lực cần có của
học sinh.
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
4.1 Khách thể nghiên cứu
- Quá trình dạy học Tập làm văn ở Tiểu học.
4.2 Đối tượng nghiên cứu
- Phương pháp hướng dẫn học sinh các lớp 4, 5 luyện tập văn miêu tả cây
cối.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu.
- Tìm hiểu cơ sở thực tiễn của vấn đề nghiên cứu.
- Đề xuất phương pháp hướng dẫn học sinh các lớp 4, 5 luyện tập về văn
miêu tả cây cối.
- Thực nghiệm sư phạm.
6. Giả thuyết khoa học
Trong quá trình dạy học Tập làm văn ở lớp 4, lớp 5 nếu giáo viên nắm
vững lý thuyết về văn miêu tả - đặc biệt là vai trò, yêu cầu, đặc điểm của quan
sát, liên tưởng và tưởng tượng, tình cảm và cảm xúc, ngôn từ trong văn miêu
tả cây cối. Từ đó ứng dụng linh hoạt vào dạy học văn miêu tả, kết hợp với tổ
chức hướng dẫn học sinh rèn luyện các kỹ năng đó trong tạo lập bài văn sẽ
nâng cao chất lượng dạy - học.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp điều tra.

- Phương pháp phỏng vấn.
- Phương pháp thử nghiệm.

7


7.3 Phương pháp thống kê toán học
- Phương pháp xử lý số liệu thu được.
8. Phạm vi nghiên cứu
- Chương trình Tập làm văn miêu tả cây cối lớp 4, 5

8


NỘI DUNG
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Khái niệm văn miêu tả
Theo Đào Duy Anh, trong “Hán Việt tự điển”, miêu tả là lấy “nét vẽ
hoặc câu văn để biểu hiện cái chân tướng của sự vật ra”. Trong văn miêu tả,
người ta không đưa ra những nhận xét chung chung, những lời đánh giá trừu
tượng về sự vật như : Cái cặp này cũ, cái bàn này hỏng…Văn miêu tả vẽ ra
các sự vật, sự việc hiện tượng, con người bằng ngôn ngữ một cách sinh động,
cụ thể .Văn miêu tả giúp người đọc nhìn rõ chúng, tưởng tượng chúng như
mình đang nhìn tận mắt, bắt tận tay. Tuy nhiên, hình ảnh một cánh đồng, một
dòng sông, một con người do văn miêu tả tạo nên không phải là bức tranh
chụp lại, sao chép lại một cách vụng về. Nó là sự kết tinh của những nhận xét
tinh tế, những rung động sâu sắc mà người viết đã thu lượm được qua khả
năng quan sát nhạy bén, óc tưởng tượng phong phú và tâm hồn nhạy cảm.
Thông qua văn miêu tả bằng ngôn ngữ thì người ta có thể hình dung ra

quá trình vận động, tưởng tượng ra những thứ vô hình như âm thanh, tiếng
động, hương vị, và những tư tưởng, tình cảm của con người.
Văn miêu tả cây cối là nêu ra những đặc điểm cụ thể, riêng biệt về hình
dáng hoa, quả, hương thơm,…của cây ở một thời kì phát triển nào đó, làm cho
người đọc tưởng tượng như mình đang nhìn, đang ngắm cây. Có thể tả cây
mới mọc, lúc mới vươn cành, trổ lá, đơm hoa quả, lúc cây đã già cỗi…Có thể
tả cây cối qua nhiều chặng biến đổi của thời gian hay sự thay đổi của thời tiết
(cây bàng, cây hồng,…qua các mùa trong năm), qua nhiều chặng phát triển (tả
bãi ngô từ nảy mầm đến khi thu hoạch )

9


Ví dụ : Đoạn văn miêu tả cây bàng của Đoàn Giỏi:
“Có những cây mùa nào cũng đẹp như cây bàng. Mùa xuân lá bàng
mới nảy trông như những ngọn lửa xanh. Sang hè lá lên thật dày, ánh sáng
xuyên qua chỉ còn là màu ngọc bích : Khi lá bàng ngả sang màu lục, ấy là
mùa thu.
Sang đến những ngày cuối đông, mùa của lá rụng, nó lại có vẻ đẹp
riêng. Những lá bàng mùa đông đỏ như đồng ấy, tôi có thể nhìn cả ngày
không chán. Năm nào tôi cũng chọn mấy lá thật đẹp để phủ một lớp dầu
mỏng, bày lên bàn viết. Bạn có biết gợi lên chất liệu gì không? Chất sơn
mài”.
1.1.2. Đặc điểm của văn miêu tả
1.1.2.1. Văn miêu tả là thể sáng tác
Văn miêu tả không phải là sự sao chép, chụp lại những sự vật, sự việc,
con người một cách máy móc mà là kết quả của sự nhận xét, tưởng tượng,
đánh giá hết sức phong phú.
Đó là sự miêu tả thể hiện được cái mới mẻ, riêng biệt của người viết.
Nếu như miêu tả một em bé, một con mèo hay một cái cặp…mà ai cũng tả

giống nhau thì sẽ không ai thích đọc cả. Khi ta bắt gặp một đoạn văn miêu tả,
ta đọc cảm thấy rất hay và khâm phục người viết. Nhưng lần sau ta bắt gặp
cũng đoạn văn đó thì ta sẽ thấy không hay nữa. Cũng như khi ta nhớ lại những
cách miêu tả về nắng mưa : nắng to, nắng già, nắng non…Thật là hay nhưng
ta chỉ dừng lại ở cách nhìn đó thì người đọc sẽ thấy bình thường, chẳng có gì
mới mẻ, hấp dẫn.
Vích-to Huy-go nhìn một bầu trời đầy sao thấy như một cánh đồng lúa
chín.
Mai-a-cốp-xki thì lại thấy ngôi sao như giọt nước mắt của người da đen
đang đang khóc Lênin khi biết Lênin vừa qua đời.

10


Còn I-ga-ga-rin thì lại thấy vì sao như những hạt giống mới mà loài
người bay vào vũ trụ…Cả 3 hình ảnh về những vì sao đều rất khác nhau
nhưng đều đúng đều hay và là cái mới của mỗi tác giả nên tạo ra cái riêng.
Nếu chỉ là sự sao chép chụp lại mà không có cái mới, cái riêng thì không có
văn học. Phải có cái mới cái riêng bắt đầu từ những quan sát, miêu tả sau đó
mới tiến đến cái mới, cái riêng trong tình cảm, trong tư tưởng.
1.1.2.2. Tính chân thật trong văn miêu tả
Văn miêu tả không hạn chế sự tưởng tượng, không ngăn cản cái mới
mẻ của người viết. Như vậy không có nghĩa là văn miêu tả cho phép người
viết bịa một cách tuỳ tiện, muốn nói sao thì nói, viết sao thì viết.
Khi miêu tả cái mới, cái riêng phải gắn bó chặt chẽ với cái chân thật.
Thấy đúng như thế nào thì tả như vậy. Không phải thấy con mèo rất nhỏ mà
lại tả to như cái phích được. Nhà thơ đã nói cái giả và cái thật như sau :
“Giả và thật cũng giống như 2 cái dây điện có mắc bóng điện đâu vào
đấy. Nhưng bấm một cái thì bóng điện này sáng còn bóng điện kia thì tối vì
một bên có điện (thật ) còn một bên thì không (giả) ”. Còn Phạm Hổ lại thấy

có hiện tượng đặc biệt khi ông đọc những tác phẩm văn, thơ của những tác giả
nổi tiếng “Khi người ta chân thật thì dù cái điều người ta viết ra là vô lý,
người đọc vẫn chấp nhận và vẫn thấy hay. Có gì vô lý hơn khi cha ông mình
trong lòng, trong tâm hồn cảm thấy điều ấy thật thì khi nói ra là được người
nghe tiếp nhận một cách thích thú”. Nhờ sự quan sát tinh tế của người viết mà
giúp người đọc hiểu biết rộng hơn, sâu hơn, và tinh tế hơn những cái được tả
rất thật, khi đọc nó sẽ gợi lên cho người đọc rất nhiều điều. Theo “Nghệ thuật
làm văn của Vũ Ký”, Hoàng Đạo đã có bài “Tả hai mẹ con Hươu sao” như
sau:
“Một đám mây vàng hiện ra ở Phương Đông , nằm ngang chân trời.
Lá cây nặng trĩu sương đêm nghiêng mình và bỏ những giọt nước trong vắt

11


lốp bốp xuống nội cỏ. Tiếng hai con chim thủ thỉ và thù thì nghe đã gần nhau
lắm. Trời đã rạng Đông.
Dưới gốc cây trám nắng, trong bụi rậm con hươu nhỏ và gầy, chập
chững trên bốn chân còn run run và yếu ớt quá. Một con chim chích choè ý
chừng vừa mới ngủ dậy ở trên cành cao bay là là xuống đậu gần hai mẹ con
hươu, vểnh đuôi lên mấy cái nhìn tả, nhìn hữu để làm duyên rồi nói:
- Mẹ tròn con vuông chứ ? Chích !Chích! Trông nó hay đấy nhỉ!
Nhưng nó to lớn làm sao ! Và lông nó thô quá , ít ỏi quá !
Hôm nọ, chị tôi cũng vừa ở cữ một lứa, những năm đứa trẻ nhỏ xíu trông xinh
lắm! Chích! Chích!
Hươu mẹ lơ đãng trả lời cô chích choè lắm điều:
- Chị nói gì kia ạ ! Xin lỗi chị, tôi không nghe chị nói gì cả!
Chích choè giương mắt nhìn Hươu, vểnh đuôi lên rồi vỗ cánh bay đi. Hươu
mẹ không để ý đến sự tức giận của chích choè cứ rúc đầu vào con mà hun hít
âu yếm.Hươu con ngơ ngác nhìn xung quanh những hình ảnh mới lạ, bên

ngoài hỗn độn in vào trong trí khôn còn non nớt. Ánh nắng lọt qua lá cây, dịu
dàng soi sáng một vùng rừng thẳm. Những cây cổ thụ dướn cao lên không,
dưới chân cây lá khô xào xạc trong gió nhẹ. Mấy cây lau chốc chốc lại khẽ
chạm đầu vào nhau như thầm thì nói chuyện riêng. Dưới nội cỏ ướt sương có
muôn vàn tiếng động rất khẽ của côn trùng. Ở trên bụi tre một con sáo sậu
cãi chí cha chí chát. Còn mấy con chim ri, mấy con chim sâu đậu chỗ này,
bay chỗ kia không lúc nào yên. Xa xa như cầm nhịp, vọng đưa lại tiếng chua
ngoa của con chim thân yêu của những nơi nước độc: “Bắt cô trói cột ! Bắt
cô trói cột!”
Mọi vật trong rừng đều rung động theo một điệu sống mạnh mẽ, những
con hươu sao mới ra đời chưa cảm thông được với khúc nhạc hoà hợp, nhịp
nhàng ấy, nó chỉ biết nó khoan khoái trong người, con hươu mẹ đứng một chỗ
cho con bú, thỉnh thoảng nó mới cúi xuống liếm lông con và nói se sẽ :

12


- Bú đi con !Bú đi Búp. Bú đi, Búp yêu dấu của mẹ ”
Đọc xong bài văn trên ta thấy những quan sát để miêu tả vẻ bề ngoài
của các sự vật đều hoà quyện với lòng yêu thiên nhiên nhờ đó mà tạo dược cái
bên trong, cái hồn của các sự vật. Tác giả tả hai mẹ con Hươu sao nhưng khi
đọc lên ta lại nghĩ tới những con người. Ở đây tác giả đã có sự sáng tạo, với
cách nhìn hóm hỉnh, với những quan sát tinh tế, tỉ mỉ tác giả đã miêu tả thật
sinh động và thật hấp dẫn.
1.1.2.3. Văn miêu tả mang tính sinh động và tạo hình
Đây là một đặc điểm nổi bật của văn miêu tả. Theo Gorki “Dùng từ để
“tô điểm” cho người và vật là một việc. Tả họ một cách sinh động, cụ thể đến
nỗi người ta muốn lấy tay sờ, như người ta thường muốn sờ mó các nhân vật
trong “Chiến tranh và hoà bình của Lep Tôn-xtôi, đó là một việc khác”.
Một bài văn miêu tả được coi là sinh động, tạo hình khi các sự vật, đồ

vật, phong cảnh, con người,…Miêu tả trong đó hiện lên qua từng câu, từng
dòng như trong cuộc sống thực tưởng có thể cầm nắm được, có thể nhìn,
ngắm hoặc “sờ mó” được như cách nói của Gorki. Đoạn văn tả “Trái vải tiến
vua” (SGK TV4 T1, Tr51) của nhà văn Vũ Bằng gồm chất tạo hình. Cùng
một lúc người đọc như nhìn thấy (trái vải nhỉnh hơn cái chén hạt mít, vỏ ong
óng màu nâu, cùi dày, trắng ngà), như sờ thấy (vỏ nhẵn lỳ không có gai gồ
ghề…), như nếm được (cắn một miếng nước chan hoà ngọt sắc…), như nghe
được (nhai khe khẽ, tai như nghe tiếng sậm sựt…)
Tóm lại trái vải tiến vua như hiện hình trước mắt người đọc để họ nhìn,
ngắm, sờ, nhai, cắn…
Trái vải tiến vua
Trái vải tiến vua chỉ nhỉnh hơn cái chén hạt mít dùng để pha trà tàu
một chút. Vỏ của nó không đỏ mà ong óng một màu nâu, nhẵn lỳ chứ khôn có
gai gồ ghề. Khi bóc vỏ ra rồi không có nước tèm lem, mà hột thì chỉ nhỏ bằng
đầu ngón tay út. Cùi vải dày như cùi dừa nhưng không trắng bạch mà trắng

13


ngà. Đặt lên lưỡi, cắn một miếng thì nước chan hoà, ngọt sắc, nhai thì mềm
mà lại giòn, nhai khe khẽ thì chính tai mình thấy như sậm sựt.
“Theo Vũ Bằng”
Nét sinh động và tạo hình của văn miêu tả là những chi tiết sống, gây
ấn tượng nhưng khi tước bỏ chúng đi thì bài văn trở nên mờ nhạt, vô vị. Đọc
lại bài văn “Tưởng như bắt gặp nụ cười nhợt nhạt của một người không còn
sinh khí”
Trong miêu tả người ta thường hay so sánh. So sánh thì vô cùng có khi
người ta so sánh người với người “Cô giáo có dáng người mềm mại, thanh
thoát như một diễn viên múa” hay “Bạn ấy hát chẳng khác nào một ca sĩ
chuyên nghiệp”

Trong miêu tả người ta thường hay nhân hoá. Nhân hoá để tả bên
ngoài, có khi nhân hoá để tả tâm trạng.
Ví dụ : Giản dị nhất là cây na với chiếc áo xanh bang bạc. Hoa na
trắng xanh khéo léo núp sau đám lá như e thẹn, như ngượng ngùng, khi người
ta ngửi thấy hương thơm ngọt ngào của mình”; “Chị gió đánh nhịp cho cây
hát rì rào, vào bản nhạc đầu tiên của một ngày mới ”; “Dòng sông chảy lặng
lờ như một con đò nhớ về năm xưa”; hay “Chiếc lá úa dính đầy bụi than lá
như đang thoi thóp, gân lá nổi cao như lưu luyến khung trời mà ngày nào lá
cũng reo vui với chim chóc…”
Có thể nói miêu tả giỏi là khi đọc những gì chúng ta viết, người đọc
như thấy cái đó hiện ra trước mắt mình : một con người, một con vật, một
dòng sông…Người đọc còn có thể nghe thấy được cả tiếng nói, tiếng kêu,
tiếng nước chảy. Thậm chí còn ngửi thấy được mùi sữa, mùi hương hoa hay
mùi rêu, mùi ẩm mốc…Nhưng đó mới chỉ là sự miêu tả bên ngoài. Còn sự
miêu tả bên trong nữa, nghĩa là miêu tả về tâm trạng vui, buồn, yêu ghét của
con người, con vật, cỏ cây.

14


Do đó khi viết một bài văn miêu tả, người viết phải huy động chọn lọc
kiến thức về ngôn ngữ của mình để “tô điểm” cho người và sự vật làm cho
chúng hiện lên qua từng trang miêu tả sống động như trong đời sống thực. Nét
sinh động và tạo hình trong bài văn miêu tả cây cối là những chi tiết sống gây
ấn tượng nhưng khi tước bỏ chúng đi thì bài văn trở nên mờ nhạt, vô vị.
Trong bài văn miêu tả cây cối người ta thường hay nhân hoá :
Ví dụ : “ Khu vườn nhà Loan không rộng lắm. Nó chỉ bằng một cái sân
nhỏ nhưng có bao nhiêu là cây. Mỗi cây có một đời sống riêng, một tiếng nói
riêng. Cây lan, cây huệ, cây hồng nói chuyện bằng hương, bằng hoa. Cây mơ,
cây cải nói chuyện bằng lá. Cây bầu, cây bí nói chuyện bằng quả. Cây khoai,

cây dong nói chuyện bằng củ, bằng rễ.
Phải yêu vườn như Loan mới hiểu được lời nói của các loài cây. Cũng
trên một mảnh vườn, sao lời cây ớt cay, lời cây sung chát, lời cây cam ngọt,
lời cây móng rồng thơm như mít chín, lời cây chanh chua …”
Theo “Trần Mạnh Hảo”
Trong miêu tả cây cối người ta thường hay so sánh. Có thể so sánh các
bộ phận của cây với các đồ vật, sự vật…
Ví dụ : “ Trước ngõ nhà Long có hàng cây bàng. Cây bàng cao , ngọn
chấm mái nhà, tán xoè như chiếc ô ”
Có khi vừa so sánh vừa nhân hoá : “Như để khoe hết vẻ đẹp của mình,
những bông hoa từ từ hé nở để lộ nhuỵ hoa vàng, toả hương thơm ngát khiến
ong bướm về đây tụ hội…”
Có thể nói rằng miêu tả cây cối là khi đọc những gì ta viết, người đọc
như thấy cái đó hiện lên trước mắt mình : một loài cây, một rừng cây, một
vườn cây… Người ta còn có thể ngửi thấy mùi hương thơm của các loài hoa,
quả,… Nhưng đó chỉ mới là miêu tả đặc điểm bên ngoài. Còn có sự miêu tả
bên trong nữa, nghĩa là miêu tả về tâm trạng vui buồn của cỏ cây, hoa lá.

15


1.1.2.4. Văn miêu tả mang tính thông báo, thẩm mỹ và chứa đựng tình cảm
của người viết
Bất kỳ một sự vật hiện tượng nào trong thực tế khách quan cũng có thể
trở thành đối tượng của văn miêu tả. Nhưng không phải bất kỳ một hiện tượng
miêu tả nào cũng trở thành văn miêu tả. Văn miêu tả phải là những loại văn
giàu cảm xúc, những rung động, những nhận xét tinh tế, dồi dào sáng tạo
nhằm mục đích thông báo thẩm mỹ. Người đọc qua văn bản miêu tả nhận
thức thực tế khách quan không phải bằng con đường lý trí mà chủ yếu bằng
những cảm xúc, những rung động mạnh mẽ của tâm hồn.

Dù tả một con mèo, một con gà, một cây bàng thay lá mùa thu đến một
cánh đồng lúa chín, một cảnh nhà ga hay bến tàu…Bao giờ người viết cũng
đánh giá chúng theo một quan điểm thẩm mỹ, cũng gửi vào bài viết ít nhiều
tình cảm hay ý kiến đánh giá, bình luận của mình. Do vậy từng chi tiết của bài
văn miêu tả đều mang ấn tượng cảm xúc chủ quan. Cành thông, lá liễu trong
hai câu thơ của Hồ Xuân Hương nêu trên mang rõ dấu ấn cá tính, tạo hình vừa
giàu sức sống tiềm tàng.
“Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc
Đầm đìa lá liễu giọt sương gieo”
“Hồ Xuân Hương”
Đối tượng của văn miêu tả cây cối là những cây trồng xung quanh học
sinh. Đó có thể là cây cho bóng mát, cây lấy hoa, cây ăn quả…Chúng đều là
những cây có ích và gần gũi thân thiết với các em. Mỗi loài cây có một hình
dáng, đặc điểm, lợi ích nhất định. Vì vậy, khi miêu tả chúng học sinh phải làm
nổi bật những đặc điểm này. Tả cây ăn quả cần tập trung miêu tả hình dáng
của cây, mùi vị của quả; tả cây lấy hoa cần tả hương sắc của hoa; tả cây cho
bóng mát phải làm rõ dáng cây, tán lá,…
Cây cối luôn nằm trong một cái nền khung cảnh thiên nhiên. Vì vậy, khi
miêu tả cần gắn chúng với miêu tả khung cảnh xung quanh như mây trời,

16


chim chóc, đình chùa, ao hồ và cả con người. Cần nói về lợi ích của chúng
cũng như tình cảm yêu mến gắn bó của mình đối với từng cây.
Trong đời sống chúng ta gặp nhiều sự vật, sự việc, con người…khác
nhau đều có thể trở thành của đối tượng của việc miêu tả. Chính vì sự khác
nhau đó người ta chia văn miêu tả thành : tả đồ vật, tả cây cối, tả cảnh, tả
người, tả con vật. Mỗi loại khi miêu tả đều có đối tượng miêu tả là những vật
gần gũi, thân thiết với đời sống con người…Trong “Tiếng mưa” Nguyễn Thị

Như Trang có đoạn “Mưa mùa xuân” tả về mưa mùa xuân :
“ Mưa mùa xuân xôn xao, phơi phới. Những hạt mưa bé nhỏ mềm mại,
rơi mà như nhảy nhót. Hạt nọ nối tiếp hạt kia đan xuống lá cây ổi cong mọc
lả xuống mặt ao. Mùa đông xám xịt và khô héo đã qua. Mặt đất đã kiệt sức
bỗng thức dậy, âu yếm đón lấy những giọt mưa ấm áp trong ngày. Đất trời lại
dịu mềm, lại cần mẫn tiếp nhựa cho cây. Mưa mùa xuân đã đem lại cho
chúng cái sức sống ứ đầy, tràn lên các nhánh lá mầm non.Và cây trả nghĩa
cho mưa bằng cả mùi hoa thơm, trái ngọt”
Còn Vic-to Huy-gô có đối tượng miêu tả là những cây cỏ, hoa lá, chim
muông sau trận mưa rào :
“ …Không gì đẹp bằng cây lá vừa tắm xong đang được mặt trời lau ráo,
lúc đó trông nó vừa tươi ráo, vừa ấm áp,…Khóm cây, luống cành trong đổi
hương thơm và tia sáng. Trong tán lá mấy cây sung, chích choè huyên náo,
chim sẻ tung hoành, gõ kiến leo dịch thân cây giẻ, bửa mỏ lách cách trên vỏ.
Hoa cẩm chướng có mùi thơm nồng nồng. Ánh sáng mạ vàng những đoá hoa
kim hương làm cho nó sáng rực như những ngọn đèn. Quanh các luống hoa
kim hương vô số bướm chập chờn như những tia sang lập loè của các đoá
đèn hoa ấy…”( Trích - Những người khốn khổ - Vich-to Huy-gô)
1.1.2.5. Ngôn ngữ của văn miêu tả giàu cảm xúc và hình ảnh
Ngôn ngữ trong văn miêu tả là sự phong phú đa dạng của các tính từ.
Có thể thấy đủ loại tính từ : màu sắc, tính chất, đánh giá,…Đan xen nhau tạo

17


thành “Những chùm sáng ngôn ngữ lung linh” trong văn miêu tả. Ngôn ngữ
miêu tả là giai điệu chủ đạo trong văn bản miêu tả. Người viết còn đan xen
giai điệu phụ trợ như : tường thuật, kể chuyện,…Làm cho việc trình bày nội
dung sinh động hơn, giúp người đọc hứng thú trong việc tiếp nhận văn bản.
Do sự phối hợp của các tính từ, động từ với các biện pháp tu từ, ngôn

ngữ miêu tả luôn toả sáng trong lòng người đọc, gợi lên trong lòng họ những
cảm xúc, tình cảm ấn tượng hình ảnh về sự vật được miêu tả.
Bài văn miêu tả cây cối thường dùng ngôn ngữ xác thực nhưng giàu
hình ảnh và cảm xúc. Chính các danh từ cụ thể và các tính từ chỉ màu sắc,
phẩm chất, khối lượng… được lựa chọn cho phù hợp với đặc điểm cần tả tạo
nên chất lượng tốt cho bài.
“Thế mà chỉ ít lâu sau, ngô đã thành cây rung rung trước gió và ánh
nắng. Những lá ngô rộng, dài, trổ ra mạnh mẽ, nõn nà
Trên ngọn, một thứ búp như kết bằng nhung và phấn vươn lên. Những
đàn bướm trắng, bướm vàng bay đến, thoáng đỗ rồi thoáng bay đi. Núp trong
cuống lá, những búp ngô non nhú lên và lớn dần. Mình có nhiều khía vàng và
những sợi tơ hung hung bọc trong làn áo mỏng óng ánh”
Nguyên Hồng ( SGK TV4, T2, Tr 30 )
Trong đoạn văn miêu tả trên, các chi tiết tả cây ngô được diễn tả bằng
ngôn ngữ chính xác biểu cảm. Tả lá ngô, dùng các từ ngữ “rộng, dài, trở ra
mạnh mẽ, nõn nà”, tả hoa ngô mới nhú lại dùng các từ ngữ “ nhiều khía vàng
vàng và những sợi tơ hung hung bọc trong làn áo mỏng óng ánh”, Nguyên
Hồng đã chứng tỏ sự quan sát công phu và sự lựa chọn từ ngữ kỹ lưỡng. Các
từ trên vừa tả được vẻ ngoài, vừa gợi ra được sức sống tiềm tàng từ bên trong
của cây ngô
Miêu tả cây cối, người ta dùng các biện pháp như: so sánh, ẩn dụ, nhân
hóa…Trần Đăng Khoa từng so sánh : quả dừa – đàn lợn con nằm trên cao, tàu
dừa - chiếc lược chải vào mây xanh, từng nhân hoá :

18


“ Cây dừa xanh toả nhiều toả nhiều tàu
Dang tay đón gió, gật đầu gọi trăng ”
Trần Đăng Khoa ( SGK TV2, T2, Tr 88 )

Còn Nguyễn Duy lại tả cây tre Việt Nam :
“Thân gầy guộc, lá mong manh,
Lưng trần phơi nắng phơi sương,
Có manh áo cộc, tre nhường cho con”
“ Nguyễn Duy ” ( SGK TV4, T1, Tr 41 )
Ở bài “Sầu riêng” (TV4,T2) tác giả Mai Văn Tạo đã sử dụng ngôn ngữ
khá đặc sắc :
“Sầu riêng là loại trái quý, trái hiếm của Miền Nam. Hương vị nó hết
sức đặc biệt, mùi thơm đậm bay rất xa, lâu tan trong không khí. Còn hàng
chục mét mới tới nơi để sầu riêng, hương đã ngào ngạt xông vào cánh mũi.
Sầu riêng thơm mùi thơm của mít chín quyện với hương bưởi, béo cái béo của
trứng gà, ngọt cái vị của mật ong già hạn. Hương vị quyến rũ kỳ lạ
Hoa sầu riêng trổ vào cuối năm. Gió đưa hương thơm ngát như hương
cau, hương bưởi toả khắp khu vườn. Hoa đậu từng chùm, màu tím ngát. Cánh
hoa như vảy cá hao hao cánh sen con, lác đác vài nhuỵ li ti giữa những cánh
hoa. Mỗi cuống hoa ra một trái. Nhìn trái sầu riêng lủng lẳng dưới cành
trong giống như những tổ kiến. Mùa trái rộ vào tháng tư, tháng năm ta.
Đứng ngắm sầu riêng tôi cứ nghĩ mãi về giống cây kì lạ này. Thân nó
khẳng khiu cao vút, cành ngang thẳng duột, thiếu cái dáng cong, dáng
nghiêng, chiều quằn, chiều lượn, hương toả ngào ngạt, vị ngọt đến đam mê”
Ngôn ngữ miêu tả cây cối ở bài này được tác giả sử dụng nhiều mức độ
khác nhau và nhiều hình thức khác nhau. Để chỉ mức độ cao của phẩm chất,
tác giả dùng nhiều hình thức diễn đạt : hết sức đặc biệt, bay rất xa, thơm ngát,
thơm đậm, cao vút thẳng duột, hương đã ngào ngạt…Để so sánh, tác giả dùng
nhiều từ khác nhau : thơm ngát như hương cau, cánh hoa…hao hao giống

19


cánh sen, nhìn trái sầu riêng… trông giống như những tổ kiến, lá nhỏ xanh

vàng… tưởng như lá héo, thơm mùi thơm của mít , béo cái béo của trứng gà,
ngọt cái vị của mật ong già.
1.1.3. Đặc điểm tâm lý của học sinh TH với quá trình dạy học văn miêu tả
Hiện nay văn miêu tả được đưa vào chương trình phổ thông ngay từ các
lớp đầu Tiểu học. Từ lớp 2 khi tập quan sát tranh để trả lời câu hỏi các em đã
bắt đầu làm quen với văn miêu tả. Đặc biệt là lên các lớp 4,5 các em làm quen
với các tiểu loại bài văn miêu tả đó là :
Tả đồ vật
Tả cây cối
Tả con vật
Tả cảnh
Tả người
Văn miêu tả phù hợp với đặc điểm tâm lý của học sinh Tiểu học đó là :
ưa quan sát, thích nhận xét, nhận xét về cảm tính, góp phần nuôi dưỡng mối
quan hệ và tạo nên sự quan tâm của các em với thế giới xung quanh Trong đó
quan trọng nhất là với thiên nhiên, góp phần giáo dục tình cảm thẩm mỹ, lòng
yêu cái đẹp, góp phần phát triển ngôn ngữ ở trẻ.
Học văn miêu tả, học sinh có thêm điều kiện để tạo nên sự thống nhất
giữa tư duy và tình cảm, ngôn ngữ và cuộc sống, con người với thiên nhiên
với xã hội, để khêu gợi ra những tình cảm, cảm xúc, ý nghĩa cao thượng, đẹp
đẽ.
Đặc điểm tư duy của học sinh Tiểu học là từ trực quan sinh động đến tư
duy trừu tượng và trở về thực tiễn. Chính vì thế các em sẽ gặp khó khăn cả về
tri thức và phương pháp, hiểu biết và cảm xúc về đối tượng miêu tả. Do đó
trong miêu tả đối tượng luôn phải gần gũi, quen thuộc với các em, các em có
thể được quan sát qua vật thật, tranh ảnh. Có như vậy thì đối tượng miêu tả sẽ
được làm nổi bật thông qua ngôn ngữ miêu tả của học sinh.

20



Ở bậc Tiểu học này các em có quan hệ giao lưu rộng hơn, hiểu biết
phong phú, đa dạng hơn. Vì vậy đời sống tình cảm của các em rất phát triển.
Các em thường biểu hiện cảm xúc trong khi tri giác trực tiếp các sự vật, hiện
tượng. Những hiểu biết mới trong học tập mà các em lĩnh hội được thường
làm cho các em hưng phấn. Những triết lý khô khan, thiếu hình ảnh sinh động
rất khó gây cho các em những xúc cảm tích cực. Các em yêu cái đẹp trong
thiên nhiên, yêu cỏ cây, hoa lá, yêu động vật nuôi trong nhà, thậm chí nhiều
em thích hội hoạ, âm nhạc…
Bên cạnh đó các em còn biểu hiện những cảm xúc, tình cảm tích cực với
điều thiện, hợp đạo lý, tình cảm đối với ông bà, cha mẹ…
Như vậy qua đây cho chúng ta thấy đặc điểm tâm lý của học sinh Tiểu
học phù hợp với văn miêu tả. Vì làm văn miêu tả phải quan sát một cách chi
tiết, tỉ mỉ.
1.2.Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Thực trạng nhận thức của giáo viên và học sinh về văn miêu tả cây cối
1.2.1.1. Thực trạng nhận thức của giáo viên về văn miêu tả cây cối
Qua dự giờ thăm lớp và tiếp xúc với giáo viên và học sinh từ lúc thực tế
các kỳ, trong thời gian thực tập, thì chúng tôi đã nhận thấy những mặt tích cực
và hạn chế của giáo viên trong quá trình dạy học văn miêu tả nói chung và
văn miêu tả cây cối nói riêng. Từ đó chúng tôi đưa ra kết luận về những tồn
tại trong thực tiễn dạy học văn miêu tả cây cối ở Tiểu học một phần xuất phát
từ nhận thức chung của giáo viên về lý thuyết văn miêu tả cây cối.
Chúng tôi đã điều tra, khảo sát 40 giáo viên đang trực tiếp dạy học ở khối
lớp 4, 5 tại trường Tiểu học Hà Huy Tập II và trường Tiểu học Lê Lợi thành
phố Vinh tỉnh Nghệ An thông qua 40 phiếu trắc nghiệm (phần phụ lục). Kết
quả điều tra được đánh giá theo điểm số từ 1 đến 5, nghĩa là thang điểm tối đa
là 5 điểm. Nếu trả lờ đúng 5 câu – 5 điểm, 4 câu – 4 điểm, 3 câu – 3 điểm, 2
câu – 2 điểm, 1 câu - 1 điểm, 0 điểm là không có câu nào trả lời đúng.


21


Bảng điều tra thực tế dạy học văn miêu tả cây cối lớp 4,5
TT Nội dung điều tra

Số điểm đạt được
2
3
4

1

5

- Nêu được khái
1

niệm văn miêu tả

10

cây cối.
- Nắm được những

(25%)

khó khăn và sai
2


lầm khi học sinh

10

làm văn miêu tả

(25%

cây cối.
- Xác định được
3

)

các kiểu bài của

12

văn miêu tả cây

(30%)

cối.
- Xác định được
những khó khăn
của
4

giáo


viên

quá

trình

trong

8

dạy văn miêu tả

(20

cây cối.

%)

- Đưa ra những ý
5

kiến để hoàn thiện

0

kỹ năng làm văn
miêu tả cây cối.

22



Từ kết quả chúng tôi lập bảng phân phối theo chiều như sau :
Điểm Đi
Tần số Ti

1
10

2
10

3
12

4
8

5
0

Trong đó : Điểm Đi : Số điểm giáo viên đạt được.
Tần số Ti : Tần số xuất hiện điểm Đi.
Qua bảng trên ta thấy số giáo viên đạt điểm tối đa : không có
Trong lúc đó tần số xuất hiện điểm thấp nhiều.
Từ đó tính tỷ số giáo viên đạt điểm tương đối từ 0 đến 5 ra % theo công thức :
Ti
T
Và điểm trung bình cộng : =
Điểm 1:


= = 0,25  25%

Điểm 2:

= = 0,25  25%

Điểm 3:

= = 0,3  30%

Điểm 4:

=

Đ=

= 0,2  20%

= 2,45

Như vậy, số giáo viên đạt điểm 3 là nhiều nhất chiếm 30%
Giáo viên đạt điểm 4 ít nhất, chiếm 20%. Hầu hết giáo viên chỉ đạt mức
trung bình. Điểm trung bình còn thấp : 2,45
* Trong quá trình dạy học, giáo viên còn bộc lộ một số hạn chế trong
nhận thức như:
- Một số giáo viên chưa nắm vững lý thuyết văn miêu tả cây cối nên
trong quá trình dạy văn miêu tả giáo viên còn nhiều thiếu sót.
- Một số giáo viên còn lúng túng trong việc hướng dẫn học sinh quan sát,
tìm ý, chọn lọc từ ngữ, hình ảnh hay viết câu văn miêu tả cây cối trong văn


23


miêu tả của phân môn Tập làm văn. Nên giáo viên rất ngại dạy phân môn Tập
làm văn.
- Do nhận thức của giáo viên về mục tiêu rèn luyện làm văn miêu tả nói
chung và văn miêu tả cây cối nói riêng chưa đầy đủ.
- Một số giáo viên đang xem nhẹ tiết trả bài của học sinh, giáo viên chỉ
xem tiết này chủ yếu là báo cáo kết quả cho học sinh mà chưa đi sâu vào việc
sửa lỗi, tìm ra những ưu, nhược điểm của bài viết học sinh.
- Một số giáo viên quan niệm rằng kết quả viết văn miêu tả cây cối chủ
yếu là do năng lực, sở trường vốn có của mỗi em. Nên giáo viên đã coi nhẹ
vai trò, trách nhiệm của mình trong việc hướng dẫn, định hướng cho học sinh
viết văn.
- Có những giáo viên không được đào tạo đúng chuyên ngành, nên cũng
gặp nhều khó khăn trong việc dạy học văn miêu tả cây cối nói riêng và văn
miêu tả nói chung.
1.2.1.2. Thực trạng nhận thức của học sinh về văn miêu tả cây cối
Trong quá trình dự giờ, làm công tác chủ nhiệm qua các đợt thực tế, đặc
biệt là trong đợt thực tập vừa rồi thì chúng tôi nhận thấy những mặt tích cực
và hạn chế của học sinh trong quá trình học văn miêu tả nói chung và văn
miêu tả cây cối nói riêng. Từ đó, chúng tôi đưa ra kết luận những tồn tại trong
thực tế dạy học văn miêu tả cây cối ở Tiểu học một phần xuất phát từ nhận
thức chung của học sinh về lý thuyết về văn miêu tả.
Chúng tôi đã điều tra, khảo sát 30 học sinh đang trực tiếp học ở khối
lớp 4, 5 tại trường Tiểu học Hà Huy Tập II và trường Tiểu học Lê Lợi thành
phố Vinh tỉnh Nghệ An thông qua 30 phiếu trắc nghiệm (phần phụ lục). Kết
quả điều tra được đánh giá theo điểm số từ 1 đến 5, nghĩa là thang điểm tối đa
là 5 điểm. Nếu trả lời đúng 5 câu – 5 điểm, 4 câu – 4 điểm, 3 câu – 3 điểm, 2
câu – 2 điểm, 1 câu - 1 điểm, 0 điểm là không có câu nào trả lời đúng.

Bảng điều tra thực tế việc học văn miêu tả cây cối lớp 4,5

24


TT Nội dung điều tra
1

2

3

4

5

- Nắm được dàn ý
của một bài văn
miêu tả cây cối
- Nắm được những
yêu cầu khi làm
văn miêu tả cây
cối
- Nêu được các
cách mở bài của
văn miêu tả cây
cối
- Nêu được các
cách kết bài của
văn miêu tả cây

cối

Số điểm đạt được
2
3
4

1

5

3
(10%)

6
(20%)
12
(40%)

9
(30%)

- Lập được dàn ý
cho một bài văn
miêu tả cây cối

0

Từ kết quả chúng tôi lập bảng phân phối theo chiều như sau :
Điểm Đi

Tần số Ti

1
3

2
6

3
12

4
9

Trong đó : Điểm Đi : Số điểm giáo viên đạt được.
Tần số Ti : Tần số xuất hiện điểm Đi.
Qua bảng trên ta thấy số giáo viên đạt điểm tối đa : không có
Trong lúc đó tần số xuất hiện điểm thấp nhiều.

25

5
0


×