Tải bản đầy đủ (.doc) (88 trang)

Nâng cao chất lượng giảng dạy môn triết học mác lênin ở trường cao đẳng sư phạm khăng khảy, tỉnh xiêng khoảng, công hòa dân chủ nhân dân lào luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (411.71 KB, 88 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
----------------

VILAYSENG NOUXAYLOR

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY MÔN
TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN Ở TRƯỜNG CAO ĐẲNG
SƯ PHẠM KHĂNG KHẢY,TỈNH XIÊNG KHOẢNG,
CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Nghệ An, 2012
1


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới các thầy giáo, cô giáo Khoa Giáo dục
Chính trị, Khoa Sau Đại học - Trường Đại học Vinh đã dành nhiều tâm huyết
truyền đạt những tri thức quý báu, giúp đỡ tôi hoàn thành khoá học và luận
văn.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy giáo PGS.TS. giảng viên
Đoàn Minh Duệ, người đã tận tình giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập,
nghiên cứu, đóng góp những ý kiến quý báu để tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn đến Trường CĐSP Khẳng Khảy,
CHDCND Lào và gia đình đã động viên, tạo mọi điều kiện cho tôi trong quá
trình theo học chương trình Cao học tại Trường Đại học Vinh cũng như để
hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Tác giả luận văn


Vilayseng NouXayLor

MỤC LỤC
Trang
1

A. MỞ ĐẦU
B. NỘI DUNG

7
2


Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc nâng cao chất lượng
giảng dạy môn triết học Mác - Lênin ở các Trường Cao đẳng Sư phạm.
1.1. Cở sơ lý luận
1.2. Thực trạng giảng dạy triết học Mác - Lênin ở Trường Cao đẳng phạm
Khăng Khảy, tỉnh Xiêng Khoảng, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Chương 2: Định hướng và một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng
giảng dạy môn triết học Mác - Lênin ở Trường Cao đẳng Sư phạm
Khăng Khảy, Tỉnh Xiêng Khoảng, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào.
2.1 Định hướng để nâng cao chất lượng giảng dạy môn triết học Mác –

7
7
27
35
37


37

Lênin ở trường Cao đẳng Sư phạm Khăng Khảy, Tỉnh Xiêng Khoảng, Cộng
hòa Dân chủ Nhân dân LÀO
2.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy môn triết học

48

Mác - Lênin ở Trường Cao đẳng Sư phạm Khăng Khảy, Tỉnh Xiêng
Khoảng, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
C. KẾT LUẬN
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

E.

PHỤ LỤC
A MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục và Đào tạo đóng vai trò chủ yếu trong việc giữ gìn, phát triển

và truyền bá văn minh nhân loại. Ngày nay, Giáo dục- Đào tạo trở thành nhân
tố quyết định đối với sự phát triển nhanh và bền vững của mỗi quốc gia, mỗi
dân tộc. Chính vì vậy, chính phủ và nhân dân các nước đánh giá cao vai trò
của Giáo dục - Đào tạo.
Đảng và Nhà nước đã chọn Giáo dục và Đào tạo, Khoa học và Công
nghệ làm nhiệm vụ trọng tâm của thời kỳ mới. BCHTƯ Đảng NDCM Lào, tại
Đại hội Đại biểu lần thứ VII đã khẳng định: “Tiến hành công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước phải dựa vào giáo dục - đào tạo và khoa học công nghệ” [32;
32].


3

77
78
80
84


Để sự nghiệp Giáo dục- Đào tạo xứng đáng với vị thế trên, theo Quyết
định số 34/2007 CT-TT ngày 1/3/2007 của Thủ tướng Chính phủ về chiến
lược phát triển giáo dục của nước CHDCND Lào trong giai đoàn 2006- 2015
và 2015-2020: “Xây dựng chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo” đã định
hướng chiến lược phát triển giáo dục đào tạo trong thời kỳ mới: “Tăng cường
công tác dự báo và kế hoạch hóa giáo dục- đào tạo, đưa giáo dục- đào tạo vào
quy hoạch tổng thể phát triển kính tế - xã hội của cả nước và từng địa phương.
Có chính sách điều tiết quy mô và cơ cấu đào tạo phù hợp với nhu cầu phát
triển kinh tế - xã hội, khắc phục tình trạng mất cân đối hiện nay, gắn đào tạo
với sử dụng...” [36; 24].
Luật Giáo dục được quốc hội nước CHDCND Lào thông qua năm 2007
quy định nội dung quản lý nhà nước về giáo dục, trước hết là “xây dựng và
chỉ đạo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển giáo dục và
đào tạo nói chung, nâng cao chất giảng dạy - học tập cho giảng viên và sinh
viên nói riêng ” [37; 9].
Đứng trước yêu cầu của sự nghiệp phát triển đất nước, Nghị quyết lấn
thứ 7 kỳ 2 năm 1997 của BCHTƯ Đảng NDCM Lào đã đề ra: “Đổi mới mạnh
mẽ phương pháp giáo dục đào tạo, rèn luyên nếp tư duy sáng tạo của người
học, từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại
vào quá trình giảng dạy, đảm bảo điều kiện phương pháp giảng dạy chủ động
và thời gian tự học tập, tự nghiên cứu cho sinh viên, nhất là sinh viên cao đẳng,

đại học, phát triển mạnh mẽ phong trào giảng dạy chủ động và tự học, tự đào
tạo thường xuyên và rộng khắp trong toàn dân, nhất là thanh niên” [38; 2].
Cố chủ tịch nước CHDCND Lào Kay Son Phôm Vi Hản đã khẳng định
“Giáo dục phải đi trước một bước” [30; 97].
Tư tưởng định hướng trên của Đảng đặt cho các trường sư phạm một
mục tiêu mới: lấy nội lực, năng lực làm nhân tố quyết định sự phát triển của
bản thân người học. Vì vậy, việc nâng cao chất lượng giảng dạy triết học
Mác- Lênin là mũi nhọn, chiến lược của sự nghiệp giáo dục - đào tạo hiện
4


nay, làm cho giáo dục sớm trở thành khâu đột phá, phát huy năng lực nội sinh
của dân tộc, đưa đất nước tiến lên. Từ những lý do nêu trên, việc nghiên cứu
nâng cao chất lượng giảng dạy của giảng viên ở Trường CĐSP Khăng Khảy
nước CHDCND Lào là cần thiết và đáp ứng được yêu cầu nâng cao chất
lượng giáo dục hiện nay.
Để góp phần giải quyết từng bước sự bất cập và mất cân đối nói trên,
đồng thời nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục - đào tạo trong quả
trình dạy học thì việc quy hoạch phát triển giáo dục - đào tạo nói chung, quy
hoạch phát triển nâng cao chất lượng giảng dạy môn triết học nói riêng càng
trở nên quan trọng. Vì vậy, chúng tôi chọn nội dung: “Nâng cao chất lượng
giảng dạy môn triết học Mác - Lênin ở Trường Cao đẳng Sư phạm Khăng
Khảy, tỉnh Xiêng Khoảng, nước CHDCND Lào” làm đề tài luận văn Thạc sỹ.
2. Tình hình nghiên cứu
Giáo dục và Đào tạo là một trong những nhiệm vụ quan trọng đang
được các cấp, ban ngành quan tâm. Vì vậy, từ trước đến nay, việc tìm ra các
giải pháp để nâng cao chất lượng giảng dạy đã được các nhà giáo dục đề cập ở
các mức độ khác nhau. Vấn đề nâng cao chất lượng giảng dạy môn Triết học
Mác- Lênin là vấn đề được nhiều tác giả quan tâm, nghiên cứu và công bố
rộng rãi, nhiều công trình nghiên cứu đã có những đóng góp to lớn như: Tác

giả Phùng Văn Bộ (Chủ biên) với công trình “Một số vấn đề về phương pháp
giảng dạy và nghiên cứu triết học”, NXB Giáo dục 2005 hoặc T.S Trần Đăng
Sinh với bài viết: “Dạy và học Triết học Mác- Lênin ở Việt Nam trong bối
cảnh toàn cầu hóa”, Tạp chí Triết học số 2/2008.
Có thể nói từ các góc độ khác nhau, các tác giả đều tập trung nghiên
cứu, phân tích thực trạng giảng dạy môn triết học Mác - Lênin, sự cần thiết
phải đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ
động, sáng tạo của sinh viên, từ đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng giảng dạy môn triết học Mác- Lênin. PGS, TS Nguyên Ngọc Hà có bài
viết: “Một số suy nghĩ về mục đích, nội dung và phương thức của việc giảng
5


dạy triết học”, Tạp chí Triết học số 5/2007. Với công trình này, tác giả đã nêu
lên các nguyên tắc cần tuân thủ trong quá trình đổi mới nội dung và phương
pháp giảng dạy triết học, đưa ra giải pháp kết hợp phương pháp thuyết trìnhmột phương pháp giảng dạy truyền thống với các phương pháp tích cực khác,
như: nêu vấn đề, thảo luận nhóm, hỏi đáp… gắn với sử dụng các phương tiện
hiện đại nhằm phát huy tính tích cực, chủ động và độc lập suy nghĩ của người
học.
Liên quan đến nội dung đề tài, TS Nguyễn Lương Bằng đã có công
trình bàn về giảng dạy, học tập các môn khoa học Mác - Lênin ở bậc Đại học
như: “Đổi mới phương pháp giảng dạy lý luận Mác- Lênin ở các trường Đại
học hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 7(2002) hoặc bài viết của GS.
Trần Bá Hoành (2003), “Lý luận cơ bản về dạy và học tích cực (những vấn đề
chung)”, thuộc Dự án đào tạo giáo viên THCS, Hà Nội.. v.v...
Có thể nói, những công trình nghiên cứu, những đề tài khoa học phần
lớn tập trung vào vấn đề chung, những định hướng cơ bản về đổi mới PPDH
nói chung, PPDH các môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nói
riêng, còn những đề tài đi sâu nghiên cứu về đổi mới PPDH triết học MácLênin với những vấn đề cụ thể của nó thì vẫn rất khiêm tốn. Vì vậy, trong đề
tài của mình, tác giả đã chỉ ra thực trạng và một số giải pháp thực hiện, góp

một phần nhỏ bé của mình vào việc nâng cao chất lượng dạy học triết học
Mác - Lênin trong các trường Đại học, Cao đẳng nói chung, ở Trường CĐSP
Khăng Khảy, tỉnh Xiêng Khoảng, nước CHDCND Lào nói riêng trong giai
đoạn hiện nay.
Trong luận văn của mình, tác giả đã kế thừa những thành quả nghiên cứu
những thành công từ các công trình, đề tài nêu trên đây về lý luận và phương
pháp để vận dụng vào việc nghiên cứu, triển khai công trình của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu

6


Góp phần làm rõ những vấn đề chung về mặt lý luận và thực trạng của
giảng dạy môn triết học Mác- Lênin ở các Trường Cao đẳng Sư phạm từ đó
đề xuất những giải pháp nâng cao chất lượng giảng dạy môn triết học MácLênin ở Trường Cao đẳng Sư phạm Khăng Khảy, tỉnh Xiêng Khoảng, nước
CHDCNND Lào hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận về việc nâng cao chất lượng giảng dạy môn triết
học Mác - Lênin ở các Trường Cao đẳng Sư phạm .
- Phân tích đánh giá thực trạng giảng dạy môn triết học Mác - Lênin ở
Trường Cao đẳng Sư phạm Khăng Khảy, tỉnh Xiêng Khoảng, CHDCND Lào.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy môn
triết học Mác - Lênin ở Trường Cao đẳng Sư phạm Khăng Khảy, tỉnh Xiêng
Khoảng, CHDCND Lào.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Đề tài sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, lịch sử, lôgic...
nhằm xác lập những quan điểm lý luận cơ bản của vấn đề nghiên cứu.
- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn

Sử dụng phương pháp điều tra, phỏng vấn, quan sát, tổng kết kinh
nghiệm, phương pháp chuyên gia nhằm khảo sát, đánh giá thực trạng vận
dụng kỹ năng dạy học của giảng viên CĐSP.
- Các phương pháp thống kê toán học
Nhằm xử lý các kết quả điều tra, khảo sát trong quá trình nghiên cứu.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu vấn đề nâng cao chất lượng giảng dạy môn
triết học Mác - Lênin ở Trường Cao đẳng Sư phạm Khăng Khảy, tỉnh Xiêng
Khoảng, CHDCND Lào.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
7


Để giải quyết những vấn đề nêu trên, đề tài giới hạn phạm vi nghiên
cứu tại Trường Cao đẳng Sư phạm Khăng Khảy, tỉnh Xiêng Khoảng,
CHDCND Lào.
Đề tài chỉ tập trung giải quyết một số nội dung của vấn đề nâng cao
chất lượng giảng dạy môn triết học Mác - Lênin ở Trường Cao đẳng Sư phạm
Khăng Khảy, tỉnh Xiêng Khoảng, CHDCND Lào.
6. Giả thuyết khoa học
Đổi mới nâng cao PPDH triết học Mác- Lênin theo hướng phát huy tính
tích cực của người học sẽ nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy học triết học
Mác- Lênin ở Trường CĐSP Khăng Khảy, tỉnh Xiêng Khoảng, CHDCND
Lào trong điều kiện hiện nay.
7. Đóng góp của luận văn
- Đề tài góp phần làm sáng tỏ thêm một hướng nâng cao chất lượng giải
dạy môn triết học Mác - Lênin ở Trường Cao đẳng Sư phạm Khăng Khảy,
tỉnh Xiêng Khoảng CHDCND Lào.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo

cho giảng viên và sinh viên, vận dụng vào giảng dạy và học tập triết học Mác
- Lênin ở Trường Cao đẳng Sư phạm Khăng Khảy, Tỉnh Xiêng Khoảng ,
CHDCND Lào.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, đề tài gồm 2
chương.
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc nâng cao chất lượng giảng dạy
môn triết học Mác - Lênin ở các Trường CĐSP.
Chương 2. Định hướng và một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giảng
dạy môn triết học Mác- Lênin ở Trường CĐSP Khăng Khảy,
Tỉnh Xiêng Khoảng, CHDCND Lào.

8


B NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG GIẢNG DẠY MÔN TRIẾT HỌC MÁC- LÊNIN Ở CÁC
TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Một số Khái niệm phương pháp, phương pháp dạy học,
phương pháp dạy học đại học và phương pháp dạy học triết học
1.1.1.1. Khái niệm phương pháp
Vấn đề phương pháp được đề cập sớm và khá nhiều trong triết học.
Theo Heghen: “Phương pháp là ý thức về hình thức của sự tự vận động bên
trong của nội dung” [28; 105].

9



Ngày nay, trong nghiên cứu, có khá nhiều định nghĩa về phương pháp
được đưa ra, nhưng “về mặt triết học, có hai định nghĩa thông dụng: Thứ nhất,
phương pháp là cách thức, con đường, phương tiện đạt tới những mục đích
nhất định trong nhận thức và trong thực tiễn. Thứ hai, phương pháp là hình
thức của sự tự vận động bên trong của nội dung” [24; 16].
Phương pháp gắn liền với hoạt động của con người, giúp con người
hoàn thành được những nhiệm vụ phù hợp với mục đích đã đề ra. Bởi vậy,
phương pháp là một phạm trù hết sức quan trọng có tính chất quyết định đối
với mọi hoạt động của con người.
Khi nói tới phương pháp là nói tới hoạt động có đối tượng, hay hoạt
động trên đối tượng. Hoạt động bao giờ cũng là sự gặp gỡ giữa chủ thể và đối
tượng của hoạt động. Hay nói cách khác, mỗi lĩnh vực hoạt động của con
người có một hệ phương pháp riêng biệt, đặc thù. Theo đó, phương pháp được
sử dụng trong quá trình tiến hành hoạt động dạy học được gọi là PPDH.
1.1.1.2. Khái niệm phương pháp dạy học
Trong các tài liệu về Lý luận dạy học có rất nhiều các quan niệm khác
nhau về khái niệm PPDH.
Theo tác giả Đặng Vũ Hoạt “Phương pháp dạy học là cách thức hoạt
động phối hợp thống nhất của người dạy và người học nhằm thực hiện tối ưu
các nhiệm vụ dạy học” [12; 52].
Theo Trần Bá Hoành, PPDH là “cách thức hoạt động của giáo viên
trong việc chỉ đạo tổ chức các hoạt động học tập nhằm giúp học sinh chủ
động đạt được các mục tiêu dạy học” [15; 27].
Theo Phan Trọng Ngọ, PPDH chỉ là hình thức vận động của một hoạt
động đặc thù: hoạt động dạy học. Vì vậy, “Định nghĩa chung nhất về phương
pháp dạy học là những con đường, cách thức tiến hành hoạt động dạy học”
[21; 147]. Và theo ông, ở một cấp độ hẹp thì, “Phương pháp dạy học được
hiểu là tổng hợp các cách thức hoạt động của người dạy và người học trong
quá trình dạy học, nhằm thực hiện được nội dung dạy học” [21; 147].

10


Theo Nguyễn Ngọc Quang, “Phương pháp dạy học là cách thức làm việc
của thầy và của trò trong sự phối hợp thống nhất và dưới sự chỉ đạo của thầy,
nhằm làm cho trò tự giác, tích cực, tự lực đạt tới mục đích dạy học” [24; 23].
GS. TSKH Thái Duy Tuyên đã tóm tắt về khái niệm PPDH trong 3 dạng
cơ bản sau:
Theo quan điểm điều khiển học, phương pháp dạy học là cách thức tổ
chức hoạt động nhận thức của học sinh và điều khiển hoạt động này.
Theo quan điểm lôgíc, phương pháp dạy học là những thủ thuật logic
được sử dụng để giúp học sinh nắm kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo một cách tự giác.
Theo bản chất của nội dung, phương pháp dạy học là sự vận động của
nội dung dạy học” [27; 211].
Theo ông, mặc dù chưa có ý kiến thống nhất về định nghĩa khái niệm
PPDH, nhưng các tác giả đều thừa nhận rằng, PPDH có những dấu hiệu đặc
trưng sau đây:
Phản ánh sự vận động của quá trình nhận thức của học sinh nhằm đạt
được mục đích đặt ra.
Phản ánh sự vận động của nội dung đã được nhà trường quy định.
Phản ánh cách thức trao đổi thông tin giữa thầy và trò.
Phản ánh cách thức điều khiển hoạt động nhận thức: kích thích và xây
dựng động cơ, tổ chức hoạt động nhận thức và kiểm tra, đánh giá kết quả hoạt
động” [27; 211].
Có thể thấy, dù quan niệm như thế nào thì PPDH cũng đòi hỏi có sự
tương tác tất yếu của thầy và trò. Trong quá trình đó, thầy tổ chức sự tác động
của trò đến đối tượng nghiên cứu, mà kết quả là trò lĩnh hội được nội dung trí
dục.
Như vậy, PPDH bao gồm phương pháp dạy và phương pháp học.
Chúng là hai hoạt động khác nhau về đối tượng, nhưng thống nhất với nhau

về mục đích, tác động qua lại với nhau và là hai mặt của quá trình dạy học.
Trong sự thống nhất này, phương pháp dạy giữ vai trò chủ đạo; còn phương
11


pháp học có tính độc lập tương đối, nhưng chịu sự chi phối của phương pháp
dạy, và có ảnh hưởng ngược lại đối với phương pháp dạy.
Từ cách hiểu như vậy về PPDH làm cơ sở để chúng ta nghiên cứu về
PPDH Đại học và PPDH bộ môn triết học Mác- Lênin cũng như việc đổi mới
PPDH bộ môn này ở các trường Đại học và Cao đẳng hiện nay.
1.1.1.3. Phương pháp dạy học đại học
Theo các tác giả Đặng Vũ Hoạt và Hà Thị Đức thì “Phương pháp dạy
học ở Đại học tạo nên cách thức hoạt động của Giảng viên và Sinh viên trong
quá trình tổ chức, điều khiển hoạt động dạy và quá trình tổ chức, tự điều
khiển hoạt động học ở Đại học” [21; 105]. Song quá trình dạy học ở Đại học,
về bản chất, là quá trình nhận thức có tính chất nghiên cứu của sinh viên được
thực hiện dưới vai trò chủ đạo của giảng viên nên PPDH ở Đại học phải xích
gần với phương pháp nghiên cứu khoa học.
Vì vậy, có thể nêu lên khái niệm “Phương pháp dạy học ở Đại học là
tổng hợp các cách thức hoạt động của Giảng viên và Sinh viên nhằm thực
hiện tốt các nhiệm vụ dạy học ở Đại học góp phần đào tạo đội ngũ cán bộ
khoa học, kỹ thuật, cán bộ quản lý, nghiệp vụ có trình độ Đại học” [13; 105].
Căn cứ vào mục đích, nhiệm vụ, đặc điểm của trường Đại học; căn cứ
vào bản chất của quá trình dạy học Đại học và các chức năng của PPDH Đại
học, một số tác giả đã nêu lên các đặc điểm của PPDH ở Đại học như sau:
“ Phương pháp dạy học Đại học gắn liền với nghề nghiệp đào tạo ở
trường Đại học.
Phương pháp dạy học Đại học gắn liền với thực tiễn xã hội, thực tiễn
cuộc sống và phát triển của khoa học, công nghệ.
Phương pháp dạy học Đại học ngày càng tiếp cận với phương pháp

nghiên cứu khoa học.
Phương pháp dạy học Đại học có tác dụng phát huy cao độ tính tích
cực, độc lập, sáng tạo của Sinh viên.
Phương pháp dạy học Đại học rất đa dạng, nó thay đổi tuỳ theo loại
12


trường Đại học, đặc điểm của bộ môn, điều kiện, phương tiện dạy học, đặc
điểm nhân cách của Giảng viên và Sinh viên…
Phương pháp dạy học Đại học ngày càng gắn liền với các thiết bị và
các phương tiện dạy học hiện đại” [13; 106 - 107].
Có thể nói, việc nắm vững lý luận dạy học Đại học nói chung, đặc điểm
PPDH Đại học nói riêng là cơ sở cho việc vận dụng các PPDH bộ môn ở các
trường Đại học, Cao đẳng, trong đó có PPDH triết học Mác - Lênin.
1.1.1.4. Phương pháp dạy học triết học
PPDH là phương pháp sư phạm nói chung, còn PPDH triết học là
phương pháp bộ môn, mang tính chất đặc thù của môn học.
Theo Phùng Văn Bộ, “Phương pháp dạy học bộ môn là sự thống nhất
của tri thức môn học với sự vận dụng các biện pháp sư phạm để chuyển tải tri
thức tới đối tượng” [6; 16]. Muốn có PPDH phù hợp với nội dung thì phải
xuất phát từ đặc điểm của môn học PPDH triết học cũng phải tuân theo cách
thức đó.
Bộ môn triết học có đặc điểm: “là môn khoa học giáp ranh giữa khoa
học tự nhiên, khoa học xã hội và khoa học nhân văn; là môn khoa học về thế
giới quan và phương pháp luận; là môn khoa học tiếp cận, xử lý thông tin đa
dạng, nhiều chiều, qua đó làm chức năng dự báo; là môn khoa học có “trình
độ trừu tượng bình phương”. Ngoài ra sức sống của các nguyên lý triết học là
gắn bó và được vận dung vào thực tiễn” [3; 64].
Từ những đặc điểm nêu trên, PPDH triết học có tính đặc thù là: “tính
chính xác của các khái niệm, thuật ngữ; tính chặt chẽ trong kết cấu, lập luận;

tính phong phú về thông tin; tính bác học trong ngôn ngữ” [3; 64]. Do đó,
người giảng khi giảng dạy triết học cần nắm vững những đặc điểm của môn
học, những tính đặc thù về phương pháp nêu trên để có thể lựa chọn, sử dụng
những PPDH phù hợp, hiệu quả nhất. Ngoài ra, dạy học triết học phải đảm
bào các nguyên tắc: tính đảng, tính khoa học, tính thực tiễn và tính vừa sức.
Hơn nữa, dạy học triết học thực chất là dạy học các khái niệm, phạm trù,
13


nguyên lý, quy luật triết học, do đó giảng phải nắm được PPDH khái niệm,
nguyên lý, quy luật triết học.
Hiện nay, trong bối cảnh mới về sự phát triển của khoa học, dạy học
triết học cần phải tiếp cận với các phương pháp, phương tiện hiện đại, ứng
dụng vào bài giảng nhằm đạt hiệu quả cao nhất.
1.1.2. Nội dung, vị trí của môn Triêt học Mác- Lênin trong các
Trường Cao đẳng Sư phạm, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào
1.1.2.1. Nội dung môn triết học Mác - Lênin ở các Trường Cao đẳng Sư
phạm, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào
Các môn khoa học Mác - Lênin trong các trường Cao đẳng có vị trí rất
quan trọng trong mục tiêu giáo dục toàn diện cho sinh viên. “mỗi một môn
khoa học có một hệ thống những vấn đề riêng, việc trả lời những vấn đề của
một khoa học tạo thành nội dung của môn khoa học ấy” [14; 49]. Các môn
này cung cấp những tri thức khoa học và thực tiễn giúp sinh viên xây dựng
thế giới quan duy vật và phương pháp luận khoa học; làm cơ sở cho sinh viên
tự giác định hướng nghiên cứu các môn khoa học khác và các hoạt động
chính trị - xã hội; bồi dưỡng nhân sinh quan và đạo đức cách mạng, rèn luyện
bản lĩnh chính trị, nhân cách, phẩm chất, năng lực, niềm tin cho những cán bộ
tương lai.
Năm 2003, Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc
gia các môn khoa học Mác - Lênin đã được thành lập có nhiệm vụ tổ chức

biên soạn các giáo trình chuẩn quốc gia các môn khoa học Mác - Lênin. Từ
năm 2008 đến nay, tất cả các giáo trình chuẩn quốc gia đều đã được biên soạn
và xuất bản. Trên cơ sở các giáo trình này, các trường cao đẳng đào tạo hệ sự
phạm xuất phát từ mục tiêu, yêu cầu đào tạo, trình độ của đối tượng đào tạo,
quỹ thời gian cho phép… soạn ra chương trình, giáo trình, nội dung bài giảng
thích hợp.
Các trường Cao đẳng đào tạo hệ sự phạm đã xây dựng và ban hành
chương trình, giáo trình cho các môn học trên, xuất bản để sử dụng từ năm
14


học 2008- 2009. Thực tế, trong quá trình giảng dạy, các giáo trình trên còn
một số vấn đề chưa thật hoàn chỉnh, nên các trường CĐSP đã tổ chức chỉnh
sửa và ban hành sử dụng từ năm 2009 bộ giáo trình mới. Cùng với bộ giáo
trình đã được chỉnh sửa, Bộ Giáo dục đã ban hành các văn bản: Hướng dẫn
thực hiện chương trình, Hướng dẫn giảng dạy, học tập các môn khoa học
Mác- Lênin trình độ Cao đẳng. Nội dung và phân phối chương trình môn
Triết học Mác - Lênin trình độ Cao đẳng như sau:
MÔN TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN TRÌNH ĐỘ CAO ĐẲNG
Tổng số tiết:

4 ĐVHT (64 tiết)

Tổng số tiết giảng:

3 ĐVHT (48 tiết)

Tổng số tiết tự học, thảo luận:

1 ĐVHT (16 tiết)


Bảng 1.1. Chương trình môn triêt học Mác – Lênin trình độ Cao đẳng
Tổng số
Bài

Tên bài

tiết mỗi

1
2
3

Khái lược về triết học
Vật chất và ý thức
Hai nguyên lý của phép biện

4

chứng duy vật
Những quy luật cơ bản của

5

phép biện chứng duy vật
Những cặp phạm trù cơ bản

6
7
8


của phép biện chứng duy vật
Lý luận nhận thức
Hình thái kinh tế - xã hội
Giai cấp và đấu tranh giai cấp
Tổng số

bài
8
8

Số tiết
giảng

Số tiết tự
học & thảo

7
6

luận
1
2

6

6

0


10

6

4

10

6

4

8
6
8
64

6
5
6
48

2
1
2
16

( Nguồn: Sách giáo khoa môn triết học Mác- Lênin, trình độ CĐ, năm 2009 )

Nội dung, phân phối chương trình các môn khoa học Mác - Lênin nói

chung, môn triết học Mác- Lênin nói riêng được thực hiện từ học kỳ II năm
học 2006- 2007 có những điểm mới so với chương trình trước đây. Nhìn tổng
thể, chương trình lần này đã giảm giờ giảng lý thuyết, tăng giờ thực hành - tự
15


học và thảo luận. Đặc biệt, số giờ tự học và thảo luận chiếm tới 25% tổng số
tiết của môn học. Đây là một sự thay đổi lớn phù hợp với yêu cầu đào tạo ở
bậc Cao đẳng; phù hợp với mục tiêu đào tạo mà xã hội đặt ra cho giáo dục
hiện nay; thực hiện biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo, phát huy
tính tích cực, độc lập, sáng tạo của sinh viên, nhằm đào tạo những người cán
bộ năng động, thích ứng với cơ chế thị trường.
Việc đổi mới mục tiêu, nội dung chương trình triết học Mác - Lênin
quy định việc lựa chọn và sử dụng các PPDH triết học Mác- Lênin phải theo
hướng tăng cường tổ chức các hoạt động học và tự học cho sinh viên, phát
huy tính tích cực học tập của họ trong học tập triết học Mác- Lênin.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài chúng tôi tập trung phân tích nội
dung chương trình, giới thiệu sơ bộ các bài ở sách giáo khoa triết học MácLênin dung cho các trường CĐSP, CHDCND Lào. Không nguyên cứu về lịch
sử triết học vì trình độ CĐSP, CHDCND Lào chưa có phần nay.
Mục tiêu của môn triết học Mác- Lênin ở các trường CĐSP, CHDCND
Lào:
- Về kiến thức:
Sinh viên nhận biết được khái niệm về triết học, nội dung cơ bản của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Hiểu được bản chất của thế giới là vật chất. Vận động và phát triển theo
những quy luật khách quan là thuộc tính vốn có của thế giới vật chất. Con
người có thể nhận thức và vận dụng được những quy luật ấy.
Thấy được mối quan hệ biện chứng giữa hoạt động của chủ thể với khách
thể qua các mối quan hệ: Thực tiễn với nhận thức, tồn tại xã hội với ý thức
xã hội, con người là chủ thể của lịch sử và là mục tiêu phát triển của xã hội.

- Về kĩ năng:
Biết vận dụng những tri thức triết học với tư cách là chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử để phân tích các hiện tượng tự nhiên,
xã hội thông thường.
16


Biết phân tích, vận dụng chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm là hai
cơ sở lý luận thế giới quan cơ bản đối lập với nhau và cuộc đấu tranh giữa chủ
nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết học biểu hiện bằng cách này
hay cách khác cuộc đấu tranh giữa những giai cấp, những lực lượng với nhau.
- Về thái độ:
Tôn trọng những quy luật khách quan của tự nhiên và đời sống xã hội,
khắc phục những biểu hiện duy tâm trong cuộc sống hằng ngày, phê phán các
hiện tượng mê tín dị đoan và những tư tưởng không lành mạnh trong xã hội.
Có quan điểm phát triển, ủng hộ và làm theo cái mới, cái tiến bộ, tham
gia tích cực và có trách nhiệm đối với các hoạt động của cộng đồng.
1.1.2.2. Vị trí của môn Triết học Mác - Lênin trong chương trình đào
tạo ở các trường Cao đẳng Sư phạm, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào
Chủ nghĩa Mác- Lênin là một học thuyết cách mạng và hoàn chỉnh, bao
gồm 3 bộ phận hợp thành là: triết học mác- xít, kinh tế - chính trị học mác- xít
và CNXHKH. Cả 3 bộ phận này là một thể thống nhất, có mối quan hệ chặt
chẽ với nhau và có chung cùng mục đích nhằm phục vụ cho giai cấp vô sản và
nhân dân lao động trong cuộc đấu tranh xoá bỏ CNTB, cải tạo xã hội cũ, xây
dựng thành công xã hội mới XHXHCN và tiến tới XHCSCN. Vì vậy, việc
hiểu biết chủ nghĩa Mác trên toàn bộ cũng như trên từng bộ phận hợp thành là
cần thiết để có cơ sở khoa học để nhận thức được sự phát triển của xã hội loài
người và để có cơ sở lý luận nhằm giải quyết một cách có hiệu quả những vấn
đề thực tiễn đòi hỏi. Cho nên, nếu ai chỉ có hiểu 1 trong những bộ phận hợp
thành của chủ nghĩa Mác không thôi, thì người đó sẽ không có tri thức đầy đủ

về chủ nghĩa Mác và chắc chắn là giải quyết không tốt những vấn đề thực tiễn
đòi hỏi. chính vì vậy triết học Mác- Lênin là một môn học thuyết lý luận
chung nhất của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Triết học Mác - Lênin là một môn học thuyết lý luận nằm trong chương
trình đào tạo sinh viên của Bộ giáo dục- Thể thao và Đơn vị đào tạo sự phạm,
trong trình độ CĐSP, CHDCND Lào. Môn triết học Mác - Lênin là một môn
17


học trang bị cho sinh viên “những tri thức ban đầu về thế giới quan duy vật,
phương pháp luận biện chứng để từ đó chống lại những quan điểm duy tâm,
siêu hình về thế giới, từng bước hình thành tư duy biện chứng duy vật - công
cụ quan trọng để nhận thức và cải tạo thế giới” [36; 24;], làm cơ sở cho quá
trình nhận thức các nội dung như: phạm trù vật chất và ý thức, các nguyên lỳ,
các quy luật, các cặp phạm trù của phép biện chứng duy vật, lý luận nhận
thức, phạm trù ý thức xã hội- tồn tại xã hội và giai cấp - đấu tranh giai cấp
“Triết học phải trở thành công cụ sắc bén trong việc đổi mới nhận thức, đổi
mới phương pháp tư duy, xây dựng ý thức xã hội và nhận cách con người ”
[17; 19]. Tuy nhiên, so với trình độ sinh viên Cao đẳng với độ tuổi phổ biến
từ 18 trở lên thì việc nhận thức các nội dung của chương trình không thuận
lợi, dễ dàng, nhất là đối với sinh viên vùng miền núi, sinh viên là con em các
dân tộc thiểu số. So với chương trình trước đây thì những nội dung triết học ở
chương trình Cao đẳng được học trong suốt kỳ học, bao gồm 8 bài (đã giảm
tải) với những nội dung “triết học Cao đẳng”. Chương trình mới hiện nay
được tinh giản rất nhiều, chỉ khai thác những khái niệm, phạm trù, nguyên lý
phục vụ cho việc hình thành cơ sở ban đầu về thế giới quan, phương pháp
luận khoa học cho sinh viên, giúp các em hiểu rõ các quy luật tự nhiên, xã hội
ảnh hưởng đến con người, hiểu rõ hơn về tồn tại và phát triển của giới tự
nhiên, “giúp cho sinh viên bối dưỡng và nâng cao bản lĩnh chính trị đấu tranh
chống lại âm mưu diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch trong và ngoài

nước, góp phần giữ vững ổn định chính trị, củng cố quốc phòng, phòng chống
các tệ nạn xã hội một cách có hiểu quả” [26; 75]. Từ đó các sinh viên có nhận
thức và hành động phù hợp với bản thân, phù hợp với quy luật phát triển của
tự nhiên, xã hội mặc dù đối với các sinh viên đa số là con em ở miền núi.
1.1.3. Sự cần thiết khách quan phải nâng cao chất lượng giảng dạy
môn Triết học Mác - Lênin ở Trường Cao đẳng Sư phạm Khăng Khảy, Tỉnh
Xiêng Khoảng, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào

18


1.1.3.1. Thực tiễn xã hội với yêu cầu cải cách, đổi mới giáo dục - đào
tạo ở Trường Cao đẳng Sư phạm Khăng Khảy, Tỉnh Xiêng Khoảng, nước Cộng
hòa Dân chủ Nhân dân Lào
Thế giới đã bước sang thế kỷ XXI - thế kỷ của nền kinh tế tri thức, của
sự bùng nổ thông tin và của toàn cầu hoá. Toàn cầu hoá là dòng chảy xuyên
biên giới của vốn, công nghệ, hàng hoá, dịch vụ, con người, thông tin, tri
thức, ý tưởng… Toàn cầu hoá là một quá trình không thể đảo ngược và hội
nhập là điều kiện cần thiết để các nước đang phát triển không bị bỏ rơi trong
“cuộc chơi toàn cầu”. Hội nhập kinh tế quốc tế là biểu hiện đầu tiên và trước
hết của toàn cầu hoá. Tuy nhiên, toàn cầu hoá không chỉ giới hạn ở thị trường
toàn cầu. Nó còn là công nghệ toàn cầu, ý tưởng toàn cầu, tri thức toàn cầu.
Và nhờ vậy, cùng với bước phát triển vượt bậc thành lực lượng sản xuất trực
tiếp của khoa học và công nghệ, từ những thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX,
nhân loại đang quá độ bước sang một nền văn minh mới là văn minh trí tuệ,
kinh tế tri thức. Đặc trưng cơ bản của nền văn minh này là sự hình thành của
nền kinh tế tri thức, tức là nền kinh tế trong đó tri thức đóng vai trò cỗ máy
chính của tăng trưởng kinh tế. Khoa học - công nghệ trở thành động lực cơ
bản của sự phát triển kinh tế - xã hội. Giáo dục là nền tảng của sự phát triển
khoa học - công nghệ, phát triển nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu của xã hội

hiện đại và đóng vai trò chủ yếu trong việc nâng cao ý thức dân tộc, tinh thần
trách nhiệm và năng lực của các thế hệ hiện nay và mai sau.
Thế kỷ XXI đã trở thành trường đua của các quốc gia vào nền kinh tế
tri thức. Để có thể giành thắng lợi trong cuộc đua, các nước đều có chiến lược
phát triển giáo dục. Tình hình trên mở đường cho một tiến trình mới trong
toàn cầu hoá. Đó là hội nhập giáo dục bên cạnh hai tiến trình hội nhập đã
thành hiện thực là hội nhập kinh tế và hội nhập văn hoá.
Có thể nói, đó là cơ hội, nhưng đồng thời cũng là thách thức của các quốc
gia muốn rút ngắn tiến trình phát triển. Nước CHDCND Lào muốn tận dụng cơ
hội, vượt qua những thách thức, để không bị tụt hậu và có thể phát triển nhanh
19


và bền vững, không thể không tham gia vào tiến trình hội nhập quốc tế, trong đó
có hội nhập giáo dục.
Nước CHDCND Lào đang từng bước hội nhập với thế giới. Để hội
nhập và phát triển, Đảng NDCM Lào đã chủ trương đẩy mạnh CNH, HĐH
đất nước. Như vậy, cùng với tiến trình hội nhập quốc tế đã được mở ra từ khi
nước CHDCND Lào chính thức gia nhâp Tổ chức thương mại thế giới , quá
trình CNH, HĐH đất nước tiếp tục được đẩy mạnh nhằm đạt mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Muốn vậy, cần phải
có những chiến lược cho sự phát triển. Một trong những chiến lược có tầm
quan trọng hàng đầu là chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo.
Nước CHDCND Lào hiện nay đã có chiến lược phát triển giáo dục đào tạo 2006- 2020 trên cơ sở cụ thể hoá Nghị quyết Trung ương 2 khoá VIII
về định hướng chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo trong thời kỳ CNH,
HĐH và nhiệm vụ đến năm 2020. Theo đó, đến năm 2020, phải “tạo bước
chuyển biến cơ bản về chất lượng giáo dục theo hướng tiếp cận với trình độ
tiên tiến của thế giới, phù hợp với thực tiễn Lào, phục vụ thiết thực cho sự
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, của từng vùng, từng địa phương,
hướng tới một xã hội học tập. Phấn đấu đưa nền giáo dục nước ta thoát khỏi

tình trạng tụt hậu trên một số lĩnh vực so với các nước phát triển trong khu
vực” [31; 21].
Văn kiện Đại hội Đảng NDCM Lào lần thứ VII cũng đã chỉ ra một
trong các nhiệm vụ của giáo dục Lào là “tăng cường hợp tác quốc tế về giáo
dục và đào tạo; từng bước xây dựng nền giáo dục hiện đại, đáp ứng yêu cầu
CNH, HĐH đất nước” [40; 109].
Như vậy, Nhà nước và nhân dân đặt ra yêu cầu cao đối với sự phát triển
của giáo dục nước ta trong những thập niên đầu của thế kỷ XXI. Giáo dục
được điều chỉnh lại nhằm chuẩn bị nguồn nhân lực có chất lượng cao cho đất
nước. Hệ thống giáo dục, chương trình và phương pháp giáo dục phải tiếp tục
được thay đổi nhằm xoá bỏ mọi ngăn cách trong các nhà trường, cung cấp tri
20


thức hiện đại, đào tạo các công dân của thế kỷ XXI, đáp ứng yêu cầu mới phát
sinh của nền kinh tế.
Từ Đại hội IV, Đảng nhân dân cách mạng Lào khởi xướng công cuộc
đổi mới toàn diện đất nước, giáo dục - đào tạo cũng bắt đầu có những đổi mới
nhất định. Tiến trình đổi mới giáo dục nước CHDCND Lào trong hơn 25 năm
qua mang hai đặc trưng chủ yếu sau đây: 1/ chuyển từ giáo dục phục vụ kinh
tế kế hoạch hoá tập trung sang giáo dục trong điều kiện kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa; 2/ chuyển từ giáo dục khép kín sang giáo dục
mở cửa, chủ động hội nhập quốc tế. Đặc biêt, sau khi gia nhập Tổ chức
thường mại thế giới, cũng như nhiều lĩnh vực khác, giáo dục Lào đứng trước
một cơ hội mới: bước vào “sân chơi toàn cầu” về giáo dục. Cùng với cơ hội
mới là một thách thức lớn: chấp nhận thị trường giáo dục. Đó là một đặc
trưng mới của giáo dục Lào trong giai đoạn mới. Chính đặc trưng này, cùng
cơ hội mới của quá trình hội nhập và những đòi hỏi mới của đất nước trong
giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH, gắn với phát triển kinh tế tri thức, đã đặt
giáo dục trước yêu cầu khách quan phải cải cách.

Hơn 25 năm tiến hành công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh
đạo, giáo dục Lào đã đổi mới liên tục. Tuy nhiên, so với yêu cầu đổi mới của
đất nước hiện nay thì nền giáo dục Lào còn bộc lộ không ít những hạn chế,
bất cập trên nhiều phương diện, như Đại hội VIII của Đảng đã nhận định:
“cách đổi mới còn mang tính chắp vá, thiếu tầm nhìn tổng thể, thiếu kế hoạch
đồng bộ” [33; 42].
Vì vậy, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khoá VIII về một số chủ
trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Lào là
thành viên của Tổ chức thương mại thế giới, đã yêu cầu: “Khẩn trương xây dựng
đề án tổng thể cải cách giáo dục - đào tạo nghề, từ nội dung, chương trình đến
phương pháp dạy học, chế độ thi cử…” [33; 127].
Như vậy, cải cách giáo dục là lời giải cho bài toán lớn của giáo dục Lào
trong giai đoạn mới, với nhiều vấn đề cần được nghiên cứu và làm rõ trong
21


thời gian tới. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ PPDH, nâng cao chất lượng giáo
dục- đào tạo luôn là một trong những vấn đề cốt lõi, nhằm đáp ứng nguồn
nhân lực có chất lượng cao cho sự nghiệp CNH, HĐH và hội nhập quốc tế.
1.1.3.2. Nâng cao chất lượng giảng dạy môn triết học Mác - Lênin gắn
với yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực cho đội ngũ cán bộ ở Trường Cao đẳng
sư phạm Khăng Khảy, Tỉnh Xiêng Khoảng, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào
- Mục tiêu chung về đào tạo nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, hội nhập quốc tế
Để thực hiện CNH, HĐH thành công, để hội nhập và phát triển, Đảng
NDCM Lào đặc biệt chú trọng tới nhân tố con người, coi phát huy nhân tố
con người, khơi dậy tiềm năng vô tận của con người là nhân tố quyết định
thắng lợi trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Do đó, một trong những
vấn đề vừa mang tính cấp bách, vừa mang tính chiến lược được xã hội quan
tâm nhất hiện nay là xây dựng một nền giáo dục với chất lượng ngày càng cao

để không chỉ góp phần nâng cao dân trí mà còn tăng cường chất lượng nguồn
lực con người Lào trong quá trình CNH, HĐH và hội nhập quốc tế. “Nguồn
lực con người là vô tận trong quá trình khai thác và sử dụng để đẩy mạnh
CNH, HĐH đất nước. Nó còn là nhân tố quyết định hiệu quả sử dụng các
nguồn lực khác, như: tài nguyên thiên nhiên, nguồn vốn, thành tựu khoa học
và công nghệ… để phát triển nhanh và bền vững. Để có nguồn nhân lực có
chất lượng cao, đủ sức đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất
nước, cần phải phát triển con người toàn diện cả về thể lực, trí lực, phẩm chất
và năng lực; cần xây dựng con người có kỹ năng lao động giỏi, năng động,
sáng tạo, có ý thức, trình độ và năng lực làm chủ, có ý chí và bản lĩnh trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc’’[26; 73]. Vì vậy, định hướng phát
triển nguồn lực con người đã trở thành một trong những mục tiêu cơ bản của
giáo dục- đào tạo, được thể hiện trong các Văn kiện, Nghị quyết của Đảng
qua các thời kỳ. “Để nâng cao chất lượng giảng dạy và học môn triết học
Mác- Lênin ngoài những cố gắng của sinh viên, còn cần phải nâng cao trình
22


độ, năng lực giảng dạy và nghiên cứu khoa học của đội ngũ giáo viên” [26;
75].
Luật Giáo dục, điều 2 quy định rõ về mục tiêu giáo dục: “Mục tiêu giáo
dục là đào tạo con người Lào phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức
khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực
của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”
[37; 8].
Nghị quyết Hội nghị BCH Trung ương lần thứ 2 khoá VIII của Đảng đã
định hướng chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo trong thời kỳ CNH, HĐH:
“Nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản của giáo dục là nhằm xây dựng những con
người và thế hệ thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã

hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc;
CNH, HĐH đất nước; giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá của dân tộc, có
năng lực tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại; phát huy tiềm năng của dân tộc
và con người Lào, có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực của cá nhân,
làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, có kỹ
năng thực hành giỏi, có tác phong công nghiệp, có tính tổ chức kỷ luật; có sức
khoẻ, là những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa
“chuyên” như lời căn dặn của Bác Hồ” [33; 29]. Nghị quyết cũng nêu rõ: “Mục
tiêu chủ yếu là thực hiện giáo dục toàn diện đức dục, trí dục, thể dục, mỹ dục ở
tất cả các bậc học. Hết sức coi trọng giáo dục chính trị tư tưởng, nhân cách, khả
năng tư duy sáng tạo và năng lực thực hành” [33; 33].
Văn kiện Đại hội VIII khẳng định: “Đổi mới cơ bản công tác quản lý
và tổ chức giáo dục; xây dựng hệ thống giáo dục nhằm tạo điều kiện cho mọi
người có thể học tập suốt đời theo hướng thiết thực, hiện đại, gắn chặt với yêu
cầu của xã hội. Hoàn thiện cơ chế, chính sách và luật pháp để bảo đảm sự nghiệp
giáo dục phát triển ổn định, chất lượng, hiệu quả đáp ứng nhu cầu về con người
và nguồn nhân lực cho đất nước phát triển nhanh và bền vững” [33; 78].
23


Văn kiện đại hội IX nêu rõ nhiệm vụ chủ yếu của giáo dục - đào tạo 5
năm 2011-2015 là: “Phát triển mạnh giáo dục và đào tạo; nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước, phát triển kinh tế tri
thức, chọc thủng tư tưởng và chọc thủng nguồn nhân lực” [34; 140].
Như vậy, trong các Văn kiện, Nghị quyết của Đảng đều nhất quán quan
điểm coi trọng đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao, phát triển con người
toàn diện cho sự nghiệp đổi mới, CNH, HĐH, xây dựng và bảo về Tổ quốc.
- Vai trò của môn triết học Mác - Lênin trong việc đào tạo nguồn nhân
lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập quốc tế
Ở nước ta, quá trình dạy và học môn triết học Mác- Lênin chỉ thực sự

bắt đầu ở bậc Đại học và Cao đẳng. Để nâng cao chất lượng của môn học này
ở các trường Đại học và Cao đẳng, cần nhận thức một cách đúng đắn vị trí,
vai trò của môn học trong hệ thống nội dung chương trình đào tạo của nhà
trường.
Môn triết học Mác- Lênin có nhiệm vụ trang bị tư duy lý luận nói
chung, thế giới quan, phương pháp luận khoa học nói riêng cho người học;
trên cơ sở đó, thực hiện giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho SV
các trường Đại học, Cao đẳng. Tư duy lý luận có vai trò đặc biệt quan trọng
trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người, như
Ăngghen đã nhận xét: “Một dân tộc muốn đứng vững trên đỉnh cao của khoa
học thì không thể không có tư duy lý luận. Nhưng tư duy lý luận chỉ là một
đặc tính bẩm sinh dưới dạng năng lực của người ta mà thôi. Năng lực ấy cần
phải được phát triển hoàn thiện, và muốn hoàn thiện nó thì cho tới nay, không
có một cách nào khác hơn là nghiên cứu toàn bộ triết học thời trước” [7; 489].
Ngoài ra, việc trang bị lý luận chung sẽ là cơ sở cho việc giải quyết
những vấn đề riêng - những vấn đề của các khoa học cụ thể, chuyên ngành.
Do đó, sinh viên các trường Đại học, Cao đẳng ngoài việc nghiên cứu các
khoa học cơ bản, chuyên ngành không thể không nghiên cứu triết học và triết
học Mác- Lênin. Hay nói cách khác, việc nghiên cứu, học tập triết học Mác 24


Lênin không những giúp cho họ học tốt hơn các môn chuyên ngành, mà còn
giúp họ hình thành những phẩm chất xã hội, góp phần hình thành nhân cách
của người lao động mới - năng động, sáng tạo, không những giỏi về chuyên
môn, nghiệp vụ, mà còn có phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ lý luận, có bản
lĩnh chính trị vững vàng đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng trong từng
thời kỳ.
Thực hiện những nhiệm vụ đó, môn triết học Mác- Lênin có vai trò hết
sức quan trọng trong mục tiêu đào tạo nói chung, đào tạo nguồn nhân lực nói
riêng cho sự nghiệp đổi mới, CNH, HĐH, hội nhập quốc tế hiện nay.

Trước hết, cũng như các hệ thống triết học khác, triết học Mác - Lênin
có vai trò thế giới quan và phương pháp luận. Lênin đã nhận xét rằng: triết
học Mác là “công cụ nhận thức vĩ đại” [2; 43], bởi trong triết học Mác có sự
thống nhất giữa thế giới quan duy vật và phương pháp luận khoa học. Hệ
thống các quan điểm của chủ nghĩa duy vật mác xít, do tính đúng đắn và triệt
để của nó đem lại đã trở thành nhân tố định hướng cho hoạt động nhận thức
và thực tiễn. Do đó, nắm vững triết học Mác - Lênin không chỉ là tiếp nhận
một thế giới quan khoa học mà còn là xác định một phương pháp luận đúng
đắn.
Như vậy, triết học Mác- Lênin góp phần hình thành thế giới quan,
phương pháp luận khoa học cho sinh viên, giúp họ có cái nhìn khách quan,
khoa học về thế giới, xã hội và con người luôn vận động, biến đổi; Trên cơ sở
đó, giúp họ hình thành nhân sinh quan đúng đắn để định hướng cho mọi hoạt
động trong cuộc sống.
Ngoài ra, triết học Mác - Lênin góp phần vào sự hình thành và phát
triển trí tuệ, nâng cao năng lực, trình độ tư duy khái quát, lôgíc và hệ thống
cho sinh viên; giúp cho sinh viên bồi dưỡng và nâng cao bản lĩnh chính trị,
đấu tranh chống lại âm mưu “Diễn biến hoà bình” của các thế lực trong và
ngoài nước, góp phần giữ vững ổn định chính trị, củng cố quốc phòng, phòng
chống các tệ nạn xã hội một cách có hiệu quả; góp phần hình thành những giá
25


×