Tải bản đầy đủ (.doc) (43 trang)

Ngôn ngữ người kể chuyện trong tác phẩm truyện kiều của nguyễn du

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (233.88 KB, 43 trang )

Ngôn ngữ ngời kể chuyện trong tác phẩm "Truyện Kiều" của Nguyễn Du

Lời nói đầu
Truyện Kiều từ khi ra đời cho đến nay luôn là món ăn tinh thần hấp
dẫn của mỗi ngời dân Việt Nam. Vì thế đã có rất nhiều ngời đi vào nghiên
cứu tìm hiểu và khám phá thế giới bên trong Truyện Kiều nhằm tìm ra
những điều bổ ích và lý thú. Mặc dù thời gian eo hẹp nhng với sự dạy dỗ của
các thầy, cô giáo, sự kế thừa những thành tựu nghiên cứu của ngời đi trớc và
hiểu biết của bản thân, chúng tôi đã hoàn thành luận văn này mong muốn góp
một phần công sức nhỏ bé vào việc khẳng định giá trị đích thực của tác phẩm
Truyện Kiều.
Luận văn là công trình nghiên cứu khoa học thực sự đầu tiên của
chúng tôi và là một đề tài còn mới cho nên chúng tôi không thể tránh
những thiếu sót. Rất mong sự chỉ bảo tận tình của các thầy, cô giáo và bạn
bè đồng nghiệp.
Luận văn hoàn thành là nhờ sự hớng dẫn nhiệt tình, chu đáo của thầy
giáo Trơng Xuân Tiếu và các thầy cô giáo trong khoa Ngữ văn.
Nhân dịp này tôi xin đợc bày tỏ lòng biết ơn chân thành đối với
thầy giáo hớng dẫn, các thầy, cô giáo trong khoa đã giúp tôi hoàn thành
luận văn này.
Vinh, tháng 5 năm 2004.
Sinh viên:
Nguyễn Thị Thuý Quyên

Lớp 40E3-Ngữ văn.

mục lục
Lời nói đầu ...

Chơng1:
1.1.


1.1.1.

Phần mở đầu
Phần nội dung

Lời kể và lời tả trong ngôn ngữ ngời kể chuyện ở tác phẩm
Truyện Kiều .
Lời kể trong ngôn ngữ ngời kể chuyện ở tác phẩm
Truyện Kiều.
Sự phong phú trong lời kể của tác phẩm Truyện Kiều

Nguyễn Thị Thuý Quyên

[1]

Trang
1
2
5
5
5
5


Ngôn ngữ ngời kể chuyện trong tác phẩm "Truyện Kiều" của Nguyễn Du
1.1.2.
Lời kể trực tiếp ...
16
1.1.3.
Lời kể gián tiếp ...

20
1.1.4.
Lời kể tăng tiến ...
23
1.2.
Lời tả trong ngôn ngữ ngời kể chuyện ở tác phẩm
Truyện Kiều .
27
1.2.1.
Tả ngoại hình nhân vật .
27
1.2.2.
Tả cảnh ...
31
1.2.3.
Tả tình .
36
Chơng 2: Lời bình luận trữ tình ngoại đề trong ngôn ngữ ngời kể
chuyện ở tác phẩm Truyện Kiều .
41
2.1.
Vấn đề lời bình luận trữ tình của ngôn ngữ ngời kể chuyện ở
tác phẩm Truyện Kiều .
41
2.1.1.
Sự xuất hiện lời bình luận trữ tình ngoại đề của ngôn ngữ ngời kể chuyện ..
41
2.1.2.
Đối tợng bình luận của tác giả thờng là những lúc
Thuý Kiều bị chà đạp, hành hạ .

45
2.2.
Nội dung chính của lời bình luận ngoại đề ..
46
51
Phần kết luận ...
Tài liệu tham khảo ...
52

Phần mở đầu.
1. Lí do chọn đề tài:

Truyện Kiều là kiệt tác của Nguyễn Du và thơ ca trung đại Việt Nam.
Đây là một tác phẩm tiêu biểu cho thể loại truyện Nôm. Nhiều ngời đã tìm
hiểu về Truyện Kiều dới những góc độ khác nhau và cũng đã gặt hái đợc
những thành công đáng kể. Vấn đề Ngôn ngữ ngời kể chuyện trong tác
phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du đã đợc một số công trình nghiên
cứu đề cập đến. Nhng cho đến hôm nay cha có một công trình nào nghiên cứu
thật hệ thống vấn đề này. Nhìn chung những bài nghiên cứu hay các chuyên
luận vẫn còn những khoảng trống cha giải quyết để chúng tôi có dịp đi vào
tìm hiểu sâu hơn tác phẩm này.
Nghiên cứu ngôn ngữ ngời kể truyện trong tác phẩm Truyện Kiều
của Nguyễn Du sẽ giúp chúng tôi nâng thêm hiểu biết về tác phẩm và nắm
chắc đợc vấn đề dới góc độ nghiên cứu khoa học.
2. Phạm vi giải quyết đề tài:

Ngôn ngữ ngời kể truyện bao trùm toàn bộ tác phẩm Truyện
Kiều cho nên đây là vấn đề rất rộng đòi hỏi ng ời viết phải có sự gia
công nghiên cứu.
Nguyễn Thị Thuý Quyên


[2]


Ngôn ngữ ngời kể chuyện trong tác phẩm "Truyện Kiều" của Nguyễn Du
Tuy nhiên, vì đây là đề tài rộng cho nên với phạm vi một luận văn tốt
nghiệp Đại học chúng tôi chỉ đi vào tìm hiểu ở những chi tiết cụ thể, điển
hình mà nơi đó ngôn ngữ ngời kể chuyện đã góp phần đắc lực vào sự thành
công của tác phẩm.
Đề tài này chỉ tập trung tìm hiểu ngôn ngữ ngời kể chuyện chứ không
phải tìm hiểu hình tợng tác giả (bởi hình tợng tác giả bao gồm nhiều vấn đề
trong đó có cả vấn đề ngôn ngữ ngời kể chuyện), cho nên chỉ khám phá trên
ngôn từ văn bản để thấy cách kể trong Truyện Kiều sinh động nh thế nào.
3. Phơng pháp giải quyết đề tài:

Trong Truyện Kiều, ngôn ngữ ngời kể chuyện đóng vai trò hết sức
quan trọng và nó chi phối việc đi sâu vào khám phá cuộc đời, số phận
nhân vật. Để có thể giải quyết đợc đề tài chúng tôi sử dụng một số phơng
pháp sau:
- Phơng pháp khảo sát qua thống kê, phân loại. Tức là thống kê xem
ngôn ngữ ngời kể chuyện chiếm bao nhiên phần trăm trong tác phẩm, sau đó
phân loại các ngôn ngữ ấy theo nội dung từng loại.
- Phơng pháp phân tích, lý giải. Tức là phân tích ngôn ngữ ngời kể
chuyện để tìm ra cái hay, cái độc đáo từ đó lý giải tại sao ngôn ngữ ngời kể
chuyện lại hay và độc đáonh vậy.
- Phơng pháp so sánh, phân biệt: Đây là loại phơng pháp đợc vận
dụng khá phổ biến trong nghiên cứu văn học. ta có thể so sánh nội dung,
cấu tứ của tác phẩm Truyện Kiều với tác phẩm truyện Nôm khác để
thấy rằng không phải truyện Nôm nào cũng có sự xuất hiện của ngôn
ngữ ngời kể chuyện.

Tất cả phơng pháp trên nhằm giúp cho việc phát triển đề tài đợc tốt hơn.
4. Lịch sử vấn đề:

Vấn đề ngôn ngữ ngời kể chuyện đã đợc các nhà nghiên cứu đề cập
đến. Một số chuyên luận đề cập đến một cách bề mặt đó là:
Thi pháp Truyện Kiều của Trần Đình Sử.
Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều của Phan Ngọc.
Trong cuốn Thi pháp Truyện Kiều của Trần Đình Sử cũng mới chỉ đề
cập đến khái niệm hình tợng tác giả Một khái niệm rộng mang tầm bao
quát, còn khái niệm ngôn ngữ ngời kể chuyện trong Truyện Kiều thì cha đợc đề cập đến (mặc dù khái niệm này nằm trong khái niệm Hình

Nguyễn Thị Thuý Quyên

[3]


Ngôn ngữ ngời kể chuyện trong tác phẩm "Truyện Kiều" của Nguyễn Du
tợng tác giả), cũng có nói qua đến lời bình luận trữ tình của tác giả mà cha đi
sâu vào vấn đề này.
Cuốn Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều của tác
giả Phan Ngọc có đề cập đến khá nhiều vấn đề của Truyện Kiều trong đó
chơng IV nói về Truyện Kiều tiểu thuyết phân tích tâm lý cũng có đề
cập đến ngôn ngữ tác giả (ngôn ngữ ngời kể chuyện). Nh vậy Phan Ngọc
cũng đã đề cập đến ngôn ngữ ngời kể chuyện. Tuy nhiên tác giả chỉ dừng lại ở
việc lý giải có tác dụng nh thế nào đến việc phân tích nội tâm nhân vật, chứ
cha đi sâu vào từng khía cạnh của vấn đề này.
Nh vậy hầu hết các nhà khoa học đã nghiên cứu về vấn đề ngôn ngữ
ngời kể chuyện trong Truyện Kiều ở những khía cạnh bề mặt mà cha đi sâu
nghiên cứu nh một chỉnh thể có hệ thống.
Chúng tôi hi vọng rằng, với đề tài này sẽ có phần nào đi sâu vào tìm

hiểu, nghiên cứu một cách hệ thống về vấn đề ngôn ngữ ngời kể chuyện trong
tác phẩm Truyện Kiều nhằm giúp cho việc tìm hiểu Truyện Kiều của
Nguyễn Du một cách thấu đáo hơn.
5. Bố cục luận văn:

Gồm 3 phần:
- Phần mở đầu.
- Phần nội dung:
Chơng 1: Lời kể và lời tả trong ngôn ngữ ngời kể chuyện ở tác phẩm
Truyện Kiều.
Chơng 2: Lời bình luận trữ tình ngoại đề trong ngôn ngữ ngời kể
chuyện ở tác phẩm Truyện Kiều.
- Phần kết luận.

Phần nội dung.
Chơng 1: lời kể và lời tả trong ngôn ngữ ngời
kể chuyện ở tác phẩm Truyện Kiều.

Nguyễn Thị Thuý Quyên

[4]


Ngôn ngữ ngời kể chuyện trong tác phẩm "Truyện Kiều" của Nguyễn Du
1.1. Lời kể trong ngôn ngữ ngời kể chuyện ở tác phẩm
Truyện Kiều:

1.1.1. Sự phong phú trong lời kể của tác phẩm Truyện Kiều:
Trong các tiểu thuyết truyền kỳ, chơng hồi của Trung Quốc hay truyện
Nôm Việt Nam và kể cả Kim Vân Kiều truyện cũng thế, không có phạm trù

gọi là ngôn ngữ ngời kể chuyện (ngôn ngữ tác giả), vai trò của tác giả là hết
sức thứ yếu. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du có một cách tổ chức nghệ
thuật khác hẵn. Ngôn ngữ ngời kể chuyện xuất hiện mọi lúc, mọi nơi, thay
đổi hầu hết lại tất cả mọi yếu tố của tác phẩm.
So với Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân thì ngôn ngữ
trong tác phẩm này là ngôn ngữ nặng về tự sự, dàn trải, bởi vì đó là văn xuôi chơng hồi. Nội dung tác phẩm nặng về kể lể, miêu tả chi tiết một cách khách quan,
lạnh lùng. Tác giả không hề tham gia vào câu chuyện, nhân vật là tất cả, họ nói,
hành động, mu mô, tính toán một cách hoàn toàn khách quan, không theo chủ
quan của tác giả. Sau mỗi hồi cũng chỉ có sự xuất hiện lời giới thiệu của tác giả,
đại để nh là: Cha biết sự thể sẽ ra sao. Xin xem hồi sau phân giải. Nghĩa là vai
trò của tác giả chỉ nh là ngời nối câu chuyện từ hồi này sang hồi kia, tác giả không
có sự bày tỏ quan điểm của mình về các sự kiện, biến cố.
Còn tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du thì hoàn toàn khác hẳn.
Nó thuộc thể loại truyện Nôm nhng sáng tác theo thể thơ lục bát cho nên
ngoài yếu tố tự sự ra, thì tác phẩm còn bao gồm cả yếu tố trữ tình.
Lời kể trong ngôn ngữ ngời kể chuyện ở Truyện Kiều cũng bao gồm
nhiều khía cạnh khác nhau và mỗi cách kể nh thế đóng góp thêm sắc thái
riêng cho tác phẩm.

1.1.1.1. Kể bằng tự sự:
Đây là loại lời kể đơn thuần chỉ là kể bằng kể, hay nói cách khác là kể
bằng các sự kiện và hành động. Loại lời kể này xuất hiện hầu hết ở các chơng
hồi trong Kim Vân Kiều truyện. Nh trong hồi IV của Kim Vân Kiều
truyện kể về việc gia đình họ Vơng bị vu vạ nh sau: Quả nhiên ông (Vơng Viên ngoại) vừa nói đợc mấy câu, thì bên ngoài bỗng thấy một bọn công
sai chừng bảy, tám tên đạp ngõ sấn vào, chẳng cần phân giải, bắt hai cha con
viên ngoại trói ghì vào cột, rồi chúng quát tháo: Đi tìm tang vật gian phi; tìm
khắp trớc sau rồi đến hòm tủ, thứ gì đáng giá chúng đều thu hết, cả bộ áo mới
của Vơng bà mặc đi mừng thọ, chúng cũng lột, các đồ trang sức vét sạch sành
sanh, sau cùng đến áo Thuý Kiều, Thuý Vân, dẫu đã cũ, nhng là hàng tơ,
chúng cũng định lột

Nguyễn Thị Thuý Quyên

[5]


Ngôn ngữ ngời kể chuyện trong tác phẩm "Truyện Kiều" của Nguyễn Du
ở đoạn trích trên ta thấy việc bị vu oan của gia đình họ Vơng đã đợc Vơng Viên ngoại đoán định trớc, tất cả đều đợc kể tỉ mỉ, chi tiết về việc làm của
bọn sai nha. Còn trong Truyện Kiều thì khác, Nguyễn Du cứ để cho mọi
việc đến một cách tự nhiên, chuyện vu oan là chuyện bất ngờ, không định trớc, là chuyện không biết trớc của gia đình họ Vơng:
Hàn huyên cha kịp dã dề,
Sai nha bỗng thấy bốn bề xôn xao.
Ngời nách thớc, kẻ tay đao,
Đầu trâu mặt ngựa ào ào nh sôi.
Già giang một lão một trai,
Một dây vô loại buộc hai thâm tình.
Đầy nhà vag tiếng ruồi xanh,
Rụng rời khung dệt, tan tành gói may.
Đồ tế nhuyễn, của riêng tây,
Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham.
Điều đâu bay buộc ai làm?
Này ai đan dập giật giàm bỗng dng?
Hỏi ra, sau mới biết rằng:
Phải tên xng xuất tại thằng bán tơ.
Một nhà hoảng hốt ngẩn ngơ,
Tiếng oan dậy đất, án ngờ loà mây
Nguyễn Du không chỉ kể những hành động của bọn sai nha mà
còn miêu tả tính cách của chúng thông qua ngoại hình Đầu trâu mặt
ngựa ào ào nh sôi. Chúng nh những tên cớp đã ngang nhiên vào nhà
ngời dân vơ vét của cải. Và một điều lý thú là Nguyễn Du đã sắp xếp
cho việc vu oan này đến một cách quá nhanh chóng và là điều không

ngờ tới của gia đình Vơng Viên ngoại.
Cách hành truyện của tác giả Truyện Kiều có sức thuyết phục triệt
để, thậm chí Nguyễn Du tham gia vào cả sự kiện, biến cố của câu chuyện:
Một đoàn đổ đến trớc sau,
Vuốt đầu xuống đất, cánh đâu lên trời.
Tú Bà tốc thẳng đến nơi,
Hằm hằm áp điệu một hơi lại nhà.
Hung hăng chẳng hỏi chẳng tra,
Đang tay dập liễu vùi hoa tơi bời.
Thịt da ai cũng là ngời,
Lòng nào hồng rụng thắm rời chẳng đau
Nguyễn Thị Thuý Quyên

[6]


Ngôn ngữ ngời kể chuyện trong tác phẩm "Truyện Kiều" của Nguyễn Du
Vì thế trong Truyện Kiều những lời kể thuộc loại đơn thuần chỉ ra
các sự kiện, hành động chiếm tỷ lệ rất ít. Bởi vì trong bất cứ sự kiện, biến cố
hay hành động nào ngoài lời kể của mình ra Nguyễn Du còn đa cả lời bình
luận trữ tình ngoại đề vào trong tác phẩm. Ví nh ở đoạn thơ trên, Nguyễn Du
kể việc Kiều bị Tú Bà bắt quả tang khi đang đi trốn cùng Sở Khanh, nhng tác
giả lại còn diễn tả cả nỗi đau ở da thịt của Kiều khi bị Tú Bà đánh đập. Dờng
nh Nguyễn Du thấu hiểu, cảm nhận hết nỗi đau ấy và kêu lên rằng: Thịt da
ai cũng là ngời Lòng nào hồng rụng thắm rời chẳng đau.

Mặc dù là ngời kể lại các sự kiện nhng Nguyễn Du nh là ngời chứng
kiến, thậm chí là ngời trong cuộc hiểu hết chân tơ kẻ tóc các sự việc. Tấm
lòng nhân đạo trong ông đã không cho phép Nguyễn Du đứng ngoài cuộc để
nhìn một cách bàng quan, lãnh đạm.

1.1.1.2. Kể bằng miêu tả nội tâm nhân vật:
Miêu tả nội tâm nhân vật là một thành công lớn nhất của Nguyễn Du
trong Truyện Kiều. Dới ngòi bút của ông dờng nh mọi suy nghĩ của nhân
vật đều đợc thể hiện một cách sinh động.
Nguyễn Du với cảm quan nhân đạo của mình - ông đã sáng tạo nên
thi phẩm Truyện Kiều với một hệ thống những hình tợng nhân vật mà ở đó
thế giới nội tâm đợc bộc lộ vô cùng phong phú.
Đối với nhân vật Thuý Kiều nhân vật chính của tác phẩm, Nguyễn
Du đã miêu tả nội tâm thông qua chủ yếu những đoạn độc thoại. Thúy Kiều là
một con ngời có một đời sống nội tâm phong phú và là ngời giàu tình cảm, có
cốt cách đa tình.
Nguyễn Du đã dựa theo cốt truyện Kim Vân Kiều truyện của Thanh
Tâm Tài Nhân và sáng tạo ra một tác phẩm lớn với một loạt những nhân vật
điển hình. Nguyễn Du có biệt tài trong việc sử dụng ngôn ngữ kể chuyện của
tác giả. Nhờ sử dụng phơng tiện này mà chúng ta thấy đợc thái độ của
Nguyễn Du đối với nhân vật, đối với các hiện tợng miêu tả, thấy đợc cuộc
sống nội tâm của nhân vật. ở Kim Vân Kiều truyện ngôn ngữ ngời kể
chuyện không xuất hiện cho nên nhân vật có một cuộc sống nội tâm đơn giản,
nghèo nàn. Mọi ý nghĩ, hành động của nhân vật nếu để y nguyên nh trong
Kim Vân Kiều truyện thì sẽ hết sức sống sợng, Nguyễn Du đã biến chúng
thành những lời nhận xét của tác giả. Chính vì vậy mà tác giả đi vào thế giới
nội tâm của Kiều rất dễ dàng và hợp lý. Trong Kim Vân Kiều truyện, sau
Nguyễn Thị Thuý Quyên

[7]


Ngôn ngữ ngời kể chuyện trong tác phẩm "Truyện Kiều" của Nguyễn Du
khi Kiều nhận lời bán mình lấy tiền cứu cha và em, nàng viết th nhờ Thúy
Vân gửi cho Kim Trọng và Kiều đã nói: Chàng Kim hỡi hỡi, trớc kia mà

thiếp phải giữ tấm thân, chẳng để cho chàng tuỳ theo ý muốn, chỉ vì thiếp sợ
sau này cái đêm hợp cẩn biết lấy chi đối chất với chàng. Ví chăng lúc ấy mà
thiếp sớm biết có ngày nay, thì thiếp có giữ làm chivà Cái đêm dới đèn cự
tuyệt, thiếp cam chịu tội cùng chàng, chàng mà nhớ lại, sao khỏi oán hận
thiếp đây (Hồi IV). Những lời nói này xuất phát từ nhận thức của một tiểu
th khuê các. Nguyễn Du thì lại làm khác, tác giả không để cho nhân vật nói
dài dòng và lý luận nh vậy. Trong cảnh Bốn bề xuân khoá, một nàng ở
trong, Thúy Kiều đã phải rời bỏ mối tình trong trắng, thiêng liêng của mình
và khi rơi vào cảnh một kẻ khi ăn khi nói, lỡ làng Khi thầy khi tớ, xem thờng xem khinh, nàng đã lên tiếng bộc lộ niềm căm phẫn và sự tiếc nuối:
Biết thân đến bớc lạc loài,
Nhị đào thà bẻ cho ngời tình chung
Nhiều ngời đã thắc mắc đây là ngôn ngữ của tác giả hay của nhân vật
Thúy Kiều. Rõ ràng ta thấy rằng đây chính là niềm tâm sự của Thúy Kiều đợc
bộc lộ bằng chính ngôn ngữ của tác giả. Tiếng kêu phản kháng của nhân vật
đã chuyển thành lời của tác giả và sự phân tích nội tâm đó của ngôn ngữ tác
giả đã chuẩn bị cho quá trình diễn biến chủ quan của nội tâm nhân vật.
Không ai phủ nhận rằng Truyện Kiều của Nguyễn Du bắt nguồn từ
Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Tuy nhiên những đoạn mà
Nguyễn Du vay mợn chất liệu ở Kim Vân Kiều truyện để chuyển thành
ngôn ngữ ngời kể chuyện là rất ít. Phần lớn tác giả tự tiến hành phân tích nội
tâm độc lập với Kim Vân Kiều truyện. Điều này thể hiện rõ ở đoạn Thúc
Sinh trở về nhà Hoạn Th. Hoạn Th đón tiếp chồng thân mật, rồi gọi Kiều ra
lạy mừng. Đoạn này dài 80 câu (1805 1884). Trong suốt 24 câu đầu, Thúc
Sinh, Hoạn Th, Kiều không ai nói một lời, nhng tâm trạng mỗi ngời đợc khắc
hoạ hết sức rõ nét. Thúy Kiều bớc ra lúng túng, ngần ngại Bớc ra,

một bớc một dừngvà trông xa nàng đã thấy rõ Thúc Sinh nhng vẫn không tin
vào chính mắt của mình:
Phải rằng nắng quáng đèn loà?
Nguyễn Thị Thuý Quyên


[8]


Ngôn ngữ ngời kể chuyện trong tác phẩm "Truyện Kiều" của Nguyễn Du
Rõ ràng ngồi đó chẳng là Thúc Sinh?
Và ngay lập tức nàng nhận ra tình trạng nguy hiểm của mình và mu mô
của Hoạn Th: Thôi thôi đã mắc vào vành chẳng sai.
Chợt trong lòng nàng nỗi căm hờn bốc lên Chớc đâu có chớc lạ đời?
Ngời đâu mà lại có ngời tinh ma!. Nàng thấy rõ bụng dạ Hoạn Th hết sức
hiểm độc:
Bề ngoài thơn thớt nói cời,
Mà trong nham hiểm giết ngời không dao
Nhng nàng còn thấy rõ hơn tình trạng lép vế của mình khi há miệng
mắc quai:
Bây giờ đất thấp trời cao,
Ăn làm sao, nói làm sao bây giờ?
Thế nhng trong lòng càng căm tức bao nhiêu thì bên ngoài nàng càng
tỏ ra nhún nhờng, khuất phục trớc Hoạn Th bấy nhiêu:
Sợ uy dám chẳng vâng lời,
Cúi đầu nép xuống sân mai một chiều
Ta thấy rằng sự diễn biến nội tâm của nàng Kiều khác hẳn với hành
động bên ngoài. Điều này là do ngôn ngữ ngời kể chuyện chi phối, chứng tỏ
ngôn ngữ ngời kể chuyện hết sức quan trọng trong việc lý giải sự việc, phân
tích tâm lý và tổ chức hành động.
Trong Truyện Kiều nhân vật Thúy Kiều đợc miêu tả nội tâm nhiều nhất
không phải vì nàng là nhân vật trung tâm của tác phẩm mà nàng còn là ngời đa
tình, đa cảm và thông minh, luôn tự thức về bản thân mình nhng lại gặp nhiều
ngang trái bất công. Hầu nh mọi sự kiện, biến cố chính trong tác phẩm đều liên
quan đến nàng, cho nên dù chỉ một chút ít đổi thay cũng làm cho

Thúy Kiều day dứt nội tâm. Những khi đó tác giả thờng để cho nhân vật của
mình ngồi một mình suy nghĩ về quá khứ, hiện tại và tơng lai. Trong Kim Vân
Kiều truyện không hề có điểm này, nếu không hành động và nói năng thì tác
giả để cho Thúy Kiều làm thơ. Trong đoạn Kiều ở lầu Ngng Bích thì Kim
Vân Kiều truyện chỉ để nàng nhớ đến Kim Trọng bèn làm thơ đề 10 vận Bất
Giai ghi nỗi niềm thơng nhớ. Còn ở Truyện Kiều nàng Kiều đợc tác giả miêu
tả trong một không gian Bốn bề bát ngát xa trông, bắt đầu nhớ đến ngời yêu,
cha mẹ và nghĩ về thân phận nổi nênh phiêu dạt của mình.
Ngôn ngữ ngời kể chuyện trong Truyện Kiều đã góp phần làm
cho nhân vật trong tác phẩm có một nội tâm phong phú. Chỉ cần so
Nguyễn Thị Thuý Quyên

[9]


Ngôn ngữ ngời kể chuyện trong tác phẩm "Truyện Kiều" của Nguyễn Du
sánh việc ba lần Kiều đi tu ta sẽ thấy rõ Truyện Kiều khác Kim Vân
Kiều truyện đến nhờng nào. ở Kim Vân Kiều truyện kể sự việc ba
lần Thúy Kiều đi tu nh sau:
Lần thứ nhất ở Quan Âm các tác giả chỉ kể có một câu: Từ đó Thúy
Kiều an tâm sao chép kinh quyển ở trên lầu (Hồi XVI).
Lần thứ hai ở Chiêu ẩn am (Sau khi nghe Giác Duyên nhận Thúy Kiều
làm chị em tu hành): Thúy Kiều nghe nói bèn tơng kế tựu kế, bái nhận ngay
Giác Duyên là đạo huynh. Hai ngời rất ý hợp tâm đầu (Hồi XVI).
Lần thứ ba ở thảo l trên sông Tiền Đờng: (Giác Duyên) bèn bảo nhà
chài nhân lúc đêm tối, chèo thuyền đến trớc am, rồi lén dắt Thúy Kiều vào đó
ẩn náu không để một ngời nào đợc biết (Hồi XIX).
Cũng là việc Thúy Kiều đi tu nhng Thanh Tâm Tài Nhân và
Nguyễn Du mỗi ngời có một thái độ khác nhau. Thanh Tâm Tài Nhân thì
bàng quan, còn Nguyễn Du thì khác, tác giả xót xa thao thức cho ngời đi

tu mà lòng còn nặng với thế tục. Với lời kể của Nguyễn Du chúng ta
thấy cuộc sống nội tâm của nhân vật phong phú biết bao. Đi tu mà lòng
vẫn xót xa cho thân phận của mình:

Quan phòng then nhặt lớt mau,
Nói lời trớc mặt rơi châu vắng ngời
Đi tu mà lòng vẫn nặng trĩu những đâu đâu:
Sớm khuya lá bối phiến mây,
Ngọn đèn khêu nguyệt tiếng chày nện sơng
Đi tu mà lòng vẫn bâng khuâng buồn man mác:
Bốn bề bát ngát mênh mông,
Triều dâng hôm sớm, mây lồng trớc sau.
Nguyễn Du đã rất tài tình khi đa ngôn ngữ ngời kể chuyện vào tác
phẩm để xây dựng nên cuộc sống nội tâm của con ngời: nhớ ngời yêu, nhớ
cha mẹ, băn khoăn về cuộc đời, số phận, rạo rực yêu đơng và cả những tâm lý
ghen tuông. Tất cả cái đó đợc diễn tả bằng một ngôn ngữ thơ ca điêu luyện
hầu nh thâu tóm bằng hết mọi tinh hoa của ngôn ngữ dân tộc.
Nguyễn Du đã tỏ ra có tài sáng tạo vai ngời kể chuyện kể lại những nỗi
băn khoăn về cuộc đời và thân phận của nàng Kiều. Mở đầu cho một mối tình
đang chớm nở, Thúy Kiều đã băn khoăn:
Ngời đâu gặp gỡ làm chi?

Nguyễn Thị Thuý Quyên

[10]


Ngôn ngữ ngời kể chuyện trong tác phẩm "Truyện Kiều" của Nguyễn Du
Trăm năm biết có duyên gì hay không?
Rồi từ cái băn khoăn ban đầu ấy, những nỗi băn khoăn khác dồn dập

tiếp theo tràn đến tâm hồn Kiều trong suốt 15 năm lu lạc, khi say sa với hạnh
phúc bên cạnh ngời yêu:
Nghĩ mình phận mỏng cánh chuồn
Khuôn xanh biết có vuông tròn mà hay
Cũng nh khi chán chờng phải tiếp khách ở chốn thanh lâu:
Khi tỉnh rợu, lúc tàn canh
Giật mình, mình lại thơng mình xót xa:
Khi sao phong gấm rủ là?
Giờ sao tan tác nh hoa giữa đờng?
Và ngay cả khi bên cạnh ngời anh hùng Từ Hải, sau cuộc báo ân báo
oán, là lúc mà chúng ta tởng chừng nh cuộc đời Thúy Kiều không còn gì phải
băn khoăn nữa; thế mà Kiều vẫn băn khoăn nói với Giác Duyên:
Rồi đây bèo hợp mây tan,
Biết đâu hạc nội chim ngàn là đâu?
Lời kể bằng miêu tả nội tâm của nhân vật hết sức phong phú. Cái tài
của Nguyễn Du là đã làm đợc cái việc tởng chừng nh không thể đó hết sức
thành công.
1.1.1.3. Kể bằng nghệ thuật tả cảnh:
Lời kể của Nguyễn Du bằng nghệ thuật tả cảnh cũng hết sức đặc sắc.
Cảnh sắc thiên nhiên bao trùm cả Truyện Kiều, bất cứ trang thơ nào ta cũng
bắt gặp. Từ chuyện chị em Thúy Kiều đi chơi Tết Thanh Minh cảnh sắc cũng
đợc diễn tả đầy ấn tợng:
Ngày xuân con én đa thoi,
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mơi.
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
Rồi đến câu chuyện Kim Kiều thề thốt, tác giả cùng lồng cả hình
ảnh thiên nhiên vào, thiên nhiên nh làm chứng cho mối tình thiêng liêng đó:
Vầng trăng vằng vặc giữa trời,
Đinh ninh hai mặt một lời song song


Nguyễn Thị Thuý Quyên

[11]


Ngôn ngữ ngời kể chuyện trong tác phẩm "Truyện Kiều" của Nguyễn Du
Đã có biết bao câu chuyện trong Truyện Kiều đợc Nguyễn Du kể
bằng nghệ thuật tả cảnh. Ngay cả chuyện Sở Khanh lừa rủ Kiều đi trốn hẹn
ngày rõ ràng, hình ảnh thiên nhiên cũng xuất hiện để chuyển đổi thời gian:
Chim hôm thoi thót về rừng,
Đoá trà mi đã ngậm gơng nửa vành

Hay cảnh màn đêm đợc Nguyễn Du khắc hoạ khi Kiều lẻn trốn cùng Sở
Khanh.
Đêm thu khắc lậu canh tàn,
Gió cây trút lá trăng ngàn ngậm gơng.
Lối mòn cỏ lợt màu sơng,
Lòng quê đi một bớc đờng một đau
Khi kể chuyện Thúc Sinh từ biệt Thúc ông để về kể hết sự thật với
Hoạn Th về việc mình lấy thiếp thì cảnh tiễn đa cũng hiện ra hết sức
buồn bã:
Sông Tần một dải xanh xanh,
Loi thoi bờ liễu mấy cành Dơng Quan
Lời kể của Nguyễn Du bằng nghệ thuật tả cảnh còn xuất hiện khi Kim
Trọng trở lại vờn Thuý để tìm Kiều. Tác giả tả cảnh vờn Thuý để cho Kim
Trọng nhận ra sự vắng lặng cô liêu khi không có ngời ở: cỏ thì mọc rậm rạp,
tờng vách thì sụp đổ, tiêu điều, tất cả đều gợi lên sự trống vắng:
Đầy vờn cỏ lau tha,
Song trăng quạnh quẽ, vách ma rã rời.

Trớc sau nào thấy bóng ngời,
Hoa đào năm ngoái còn cời gió Đông.
Xập xè én liệng lầu không,
Cỏ lan mặt đất, rêu phong dấu giày.
Cuối tờng gai góc mọc đầy,
Đi về này những lối này năm xa
Đằng sau cảnh sắc đó còn cả một nỗi niềm của Kim Trọng, chàng Kim
hết sức bàng hoàng, sửng sốt, ngạc nhiên trớc cảnh ấy. Kim Trọng không thể

Nguyễn Thị Thuý Quyên

[12]


Ngôn ngữ ngời kể chuyện trong tác phẩm "Truyện Kiều" của Nguyễn Du
nghĩ rằng sau nửa năm cách biệt mọi cảnh vật, dấu tích lại có thể biến đổi
nhanh đến nh thế.
Nh vậy ngôn ngữ kể chuyện của Nguyễn Du trong việc tả cảnh cũng
hết sức trữ tình và sinh động. Sức hấp dẫn trong lời kể của tác giả Truyện
Kiều là lồng cả nghệ thuật tả cảnh ở trong đó.
1.1.1.4. Kể bằng lời đối thoại:
Những câu chuyện hay lời đối đáp của các nhân vật trong Truyện
Kiều cũng đợc Nguyễn Du kể lại bằng một ngôn ngữ hết sức riêng biệt.
Không giống nh trong Kim Vân Kiều truyện", lời đối thoại giữa các nhân vật
choán rất nhiều trong tác phẩm. ở Truyện Kiều, Nguyễn Du không tuỳ tiện
sử dụng lời đối thoại giữa các nhân vật, mà tác giả đã kể một cách hết sức
chọn lọc. Những lời đối đáp trong Truyện Kiều chủ yếu là giữa Thuý Kiều
với những nhân vật tiêu biểu nh Kim Trọng, Thúc Sinh, Từ Hải.
Lời đối thoại giữa Thuý Kiều và Kim Trọng trong đêm thề nguyền hết
sức ngắn gọn, đó là lời đối thoại về tài nghệ đánh đàn của nàng Kiều:

Rằng: - Nghe nổi tiếng cầm đài,
nớc non luống những lắng tai Chung Kỳ.
Tha rằng: - Tiện kỹ xá chi,
Đã lòng dạy đến, dạy thì phải vâng.
Hay trong đoạn đối thoại giữa Thuý Kiều và Thúc Sinh về việc Thúc
Sinh muốn cới Kiều về làm vợ sau khi chàng Thúc đổi chuyện trăng gió ra
chuyện đá vàng.
- Thiếp nh hoa đã lìa cành
Chàng nh con bớm lợn vành mà chơi.
Chúa xuân đành đã có nơi,
Ngắn ngày thôi chớ dài lời làm chi?
Sinh rằng: - Từ thuở tơng tri,
Tấm riêng riêng những nặng vì nớc non.
Trăm năm tính cuộc vuông tròn,
Phải dò cho hết ngọn nguồn lạch sông
Lời kể của Nguyễn Du rất khéo léo khi lồng lời đối thoại giữa Hoạn
Th và Thúc Sinh ở Quan Âm các. Mặc dù Nguyễn Du sắp xếp cho Hoạn Th
nghe hết câu chuyện giữa Thúc Sinh và Thuý Kiều, nhng khi để cho nhân vật
xuất hiện giữa câu chuyện ấy thì lời lẽ cũng hết sức ôn tồn, niềm nở:
Nguyễn Thị Thuý Quyên

[13]


Ngôn ngữ ngời kể chuyện trong tác phẩm "Truyện Kiều" của Nguyễn Du
Nhẫn ngừng nuốt tủi, đứng ra,
Tiểu th đâu đã rẽ hoa bớc vào.
Cời cời nói nói ngọt ngào,
Hỏi: - Chàng mới ở chốn nào lại chơi?
Dối quanh Sinh mới liệu lời:

Tìm hoa qúa bớc, xem ngời viết kinh
Sự gặp gỡ giữa Từ Hải và Thuý Kiều cũng đợc Nguyễn Du kể lại
bằng một loạt các câu đối thoại. Một đoạn đối thoại khá dài giữa trai anh
hùng Từ Hải và gái thuyền quyên Thuý Kiều, đợc diễn ra; qua đoạn
đối thoại này cả hai nhân vật đã hiểu nhau hơn và cùng Phỉ nguyền sánh phợng đẹp duyên cỡi rồng. Nguyễn Du cũng cho ngời đọc thấy đợc con mắt
tinh đời của Thuý Kiều khi nhìn nhận Từ Hải, sự thông minh, nhạy bén của
nàng Kiều đã khiến Tấm lòng nhi nữ cũng xiêu anh hùng, Từ Hải cũng phải
khen ngợi Kiều.
1.1.2. Lời kể trực tiếp:
Lời kể trực tiếp của ngôn ngữ ngời kể chuyện là lời kể thông qua lời
nhân vật. Dẫu biết rằng rất nhiều lời kể của tác giả trong Truyện Kiều và lời
kể trực tiếp. Ngay khi giới thiệu vào câu chuyện, Nguyễn Du cũng kể sơ lợc
về gia đình họ Vơng nh sau:
Rằng: Năm Gia Tĩnh triều Minh,
Bốn phơng phẳng lặng, hai kinh vững vàng.
Có nhà viên ngoại họ Vơng,
Gia t nghĩ cũng thờng thờng bậc trung.
Một trai con thứ rốt lòng,
Vơng Quan là chữ nối dòng nho gia.
Đầu lòng hai ả tố nga,
Thuý Kiều là chị, em là Thuý Vân.
Hoàn cảnh gia đình nàng Kiều đợc Nguyễn Du giới thiệu nh vậy đó, lời
lẽ hết sức tự nhiên không một chút cầu kỳ, trau chuốt.
Kể chuyện lần đầu Kim Trong gặp Thuý Kiều cũng thế, tác giả chỉ đa
ra bốn câu thơ mà đã nói hết đợc tình ý giữa hai nhân vật này:
Bóng hồng nhác thấy nẻo xa,
Xuân lan, thu cúc mặn mà cả hai.
Ngời quốc sắc, kẻ thiên tài,
Tình trong nh đã mặt ngoài còn e


Nguyễn Thị Thuý Quyên

[14]


Ngôn ngữ ngời kể chuyện trong tác phẩm "Truyện Kiều" của Nguyễn Du
Trong Kim Vân Kiều truyện tất cả đều là lời kể của tác giả, trong đó
lời kể trực tiếp chiếm phần đa số. Trong Truyện Kiều thì nhiều lời kể trực
tiếp đợc Nguyễn Du chuyển thành lời kể gián tiếp.
Chuyện về nỗi oan của gia đình họ Vơng đợc Nguyễn Du kể trực tiếp:
Tần ngần dạo gót lầu trang,
Một đoàn mừng thọ ngoại hơng mới về.
Hàn huyên cha kịp dã dề,
Sai nha bỗng thấy bốn bề xôn xao.
Ngời nách thớc, kẻ tay đao,
Đầu trâu mặt ngựa ào ào nh sôi.
Già giang một lão một trai,
Một dây vô lại buộc hai thâm tình
Mọi diễn biến, hành động của bọn sai nha nh diễn ra trớc mắt ngời đọc;
cảnh tợng nhốn nháo của chúng nh là một lũ ăn cớp đến cớp phá gia
đình Thuý Kiều. Tác giả đã ví chúng nh những con ruồi thấy miếng mồi ngon
là bu đến, vét sạch sành sanh.
Lời kể trực tiếp của Nguyễn Du có tác dụng làm ngời đọc dễ hình dung
ra sự vật, sự việc và dễ xác định đợc thời gian, địa điểm. Tuy nhiên, những sự
việc đó thờng thì không đợc tác giả kể một cách cặn kẽ:
Cách tờng, phải buổi êm trời,
Dới đào, dờng có bóng ngời thớt tha.
Buông cầm, xốc áo vội ra,
Hơng còn thơm nức, ngời đà vắng tanh!
Lần theo tờng gấm dạo quanh,

Trên đào, nhác thấy một cành kim thoa.
Giơ tay với lấy về nhà
Đoạn thơ trên kể về chuyện Kim Trọng bắt đợc Kim Thoa, Nguyễn Du
chỉ kể thoáng qua và quan tâm hơn đến cảm giác của nhân vật khi bắt đợc
chiếc kim thoa ấy. Thanh Tâm Tài Nhân thì kể khác hẳn, tác giả Kim Vân
Kiều truyện lại chú trọng kể kỹ tình huống nhặt đợc (Hồi II)
Trong Kim Vân Kiều truyện, điểm nhìn của ngời trần thuật biết hết
rất lộ làm cho ngời đọc luôn thấy vai trò của ngời kể. Còn ở Truyện Kiều
Nguyễn Du không hề để lộ dấu vết của ngời kể chuyện:
Hoa trôi bèo dạt đã đành,
Biết duyên mình, biết phận mình thế thôi.

Nguyễn Thị Thuý Quyên

[15]


Ngôn ngữ ngời kể chuyện trong tác phẩm "Truyện Kiều" của Nguyễn Du
Nỗi riêng lớp lớp sóng giồi,
Nghĩ đòi cơn lại sụt sùi đòi cơn
Nguyễn Du không đa ngời đọc vào đầu mối sự việc mà chuyển điểm
nhìn của ngời đọc vào bên trong nhân vật, cảm nhận sự việc qua lăng kính
tâm hồn nhân vật. Có khi nhân vật đợc Nguyễn Du giới thiệu hết sức khái
quát, cách kể của tác giả do vậy cũng sơ lợc, đại khái:

Sự lòng ngỏ với băng nhân,
Tin sơng đồn đại, xa gần xôn xao.
Gần miền có một mụ nào,
Đa ngời viễn khách tìm vào vấn danh.
Đoạn thơ trên là đoạn đầu trong cảnh Mã Giám Sinh mua Kiều.

Nguyễn Du đã tạo ra không khí cần thiết và tình huống điển hình của một
cuộc mua bán ngời đợc ngụy trang dới hình thức một lễ đính hôn. Tiếp đó
Nguyễn Du kể về lai lịch của Mã Giám Sinh một lai lịch không rõ ràng:
Hỏi tên, rằng: Mã Giám Sinh.
Hỏi quê, rằng: Huyện Lâm Thanh cũng gần.
Ngôn ngữ ngời kể chuyện hết sức tự nhiên, qua lời kể của tác giả, bản
chất con buôn, vô học của Mã Giám Sinh dần dần đợc bộc lộ. Nguyễn Du đã
miêu tả cuộc mua bán hết sức khách quan, song vẫn kín đáo bộc lộ niềm xúc
động, thơng cảm đối với nỗi bất hạnh của Thuý Kiều.
Tuy là ngôn ngữ kể chuyện song Nguyễn Du luôn đa cả tình cảm, t tởng, thái độ của mình vào trong lời kể, khiến cho lời kể không đơn điệu, cứng
nhắc mà rất uyển chuyển, tinh tế. Ngôn ngữ Nguyễn Du hết sức điêu luyện
làm cho lời thơ đọc lên không có sự nhàm chán, tuy đó là một tác phẩm có số
lợng dòng thơ rất lớn 3254 câu lục bát.
Khi kể chuyện Thuý Kiều sang nhà Kim Trọng trong đêm tối Nguyễn
Du cũng dùng ngôn ngữ trực tiếp của mình để kể:
Cửa ngoài vội rủ rèm the,
Xăm xăm băng lối vờn khuya một mình.
Nhặt tha gơng giọi đầu cành,
Ngọn đèn trông lọt trớng huỳnh hắt hiu.
Tác giả đã biết cách tổ chức lời thơ kể chuyện của mình một cách hợp
lý để tạo ra một câu chuyện mới khác với Kim Vân Kiều truyện và cũng
khác với cách tổ chức câu chữ của một số truyện Nôm khác. Nghệ thuật kể

Nguyễn Thị Thuý Quyên

[16]


Ngôn ngữ ngời kể chuyện trong tác phẩm "Truyện Kiều" của Nguyễn Du
chuyện của Nguyễn Du ở ngôi thứ nhất đã chi phối đặc điểm và chất lợng của

lời kể trong tác phẩm Truyện Kiều. Ngôi kể chuyện thứ nhất vẫn có giọng
điệu riêng trong việc tạo thành giọng điệu kể và một ngời kể chuyện mới
mang giọng điệu kể bộc lộ thái độ, tình cảm trực tiếp của ngời kể nh là ngời
trong cuộc.
1.1.3. Lời kể gián tiếp:
ở loại lời kể này, nhãn quan của ngời kể chuyện bị giới hạn trong nhãn
quan của nhân vật. Do đó, nội dung kể không còn giản đơn là các sự việc xảy
ra bên ngoài mà ngời kể muốn thông báo mà là bản thân sự nhận biết, cảm
thấy của nhân vật đối với các sự việc ấy. Nói cách khác nội dung của lời kể
gián tiếp đợc chuyển từ sự việc bên ngoài sang thế giới chủ quan của nhân
vật.
Nguyễn Du là ngời luôn đi trớc thời đại mình trong việc khám phá bản
chất sự vật, sự việc. Ngôn ngữ lời kể chuyện của tác giả có tác dụng chi phối
hầu hết mọi giá trị tác phẩm. Trong Truyện Kiều có nhiều lời kể là lời gián
tiếp của tác giả kể về các sự kiện có trong tác phẩm. Nói rằng lời kể gián tiếp
đó thông qua con mắt của nhân vật không có nghĩa là tác giả đứng ngoài
cuộc, mà tất cả đều đợc tác giả định hớng, chỉ đạo cách nhìn nhận sự kiện,
hành động của nhân vật.
Cảnh đẹp trong tiết Thanh Minh khi chị em Thuý Kiều đi chơi xuân đợc tác giả kể lại hết sức giản dị, tự nhiên thông qua nhãn quan, trạng thái của
chị em nhà họ Vơng trớc mùa xuân:
Ngày xuân con én đa thoi,
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mơi.
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
Thanh minh trong tiết tháng ba,
Lễ là Tảo mộ, hội là Đạp thanh
.
Gần xa nô nức yến anh,
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.
Dập dìu tài tử giai nhân,

Ngựa xe nh nớc, áo quần nh nêm.
Cảnh đẹp mùa xuân qua lời kể gián tiếp của Nguyễn Du đợc hiện lên
với những sắc màu tơi vui, náo nức. Tác giả đã đa những hình ảnh biểu tợng

Nguyễn Thị Thuý Quyên

[17]


Ngôn ngữ ngời kể chuyện trong tác phẩm "Truyện Kiều" của Nguyễn Du
của mùa xuân vào trong đoạn thơ nh: con én, cỏ non, cành lê làm trang điểm
thêm cho cảnh đẹp mùa xuân mùa của tình yệu và tuổi trẻ. Qua buổi
Thanh Minh thì câu chuyện nàng Đạm Tiên đợc hiện lên qua lời kể của Vơng
Quan và dới sự chỉ đạo của ngôn ngữ tác giả:
Đạm Tiên nàng ấy xa là ca nhi,
Nổi danh tài sắc một thì,
Xôn xao ngoài cửa hiếm gì yến anh.
Kiếp hồng nhan có mong manh,
Nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hơng
Tài hoa, sắc đẹp của Đạm Tiên đợc tác giả khái quát trong một từ
nổi danh, điều đó cũng đã nói lên đợc khá nhiều điều. Lời kể không cần
dài dòng, chi tiết mà cũng đã tóm gọn cả cuộc đời long đong, lận đận của
Đạm Tiên. Kế đó, dới sự chỉ đạo của ngôn ngữ ngời kể chuyện tác giả
thì số phận Đạm Tiên lại đợc khái quát trong ba chữ kiếp hồng nhan. Đến
đây thì dờng nh tác giả đã báo hiệu cho ngời đọc biết một điều là những ngời
hồng nhan thờng hay đa truân, hoặc có thể nói hồng nhan bạc phận.
Câu chuyện kể về Đạm Tiên có lồng cả câu chuyện về một ngời khách
phơng xa nghe tiếng đàn nàng Đạm Tiên đã đến tìm thì hỡi ơi nàng đã không
còn ở trên đời này nữa. Ngời khách ấy đã khóc thơng vì sự ra đi của một kẻ
hồng nhan tri kỉ:


Khóc than khôn xiết tự tình:
Khéo vô duyên bấy là mình với ta!
Đã không duyên trớc chăng mà,
Thì chi chút ớc gọi là duyên sau.
Khi nghe xong câu chuyện nàng Kiều sẵn mối thơng tâm đã khóc
cho nàng Đạm Tiên:
Đau đớn thay phận đàn bà,
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung
Lời của nàng Kiều hay cũng chính là lời của tác giả. Nguyễn Du
lên tiếng khóc than cho những phận đàn bà nhỏ nhoi trong xã hội
phong kiến một xã hội bóp nghẹt sự sống và bóp nghẹt số mệnh con
ngời, nhất là ngời phụ nữ.

Nguyễn Thị Thuý Quyên

[18]


Ngôn ngữ ngời kể chuyện trong tác phẩm "Truyện Kiều" của Nguyễn Du
Lời kể gián tiếp của Nguyễn Du còn thấm đợm tính chất trữ tình, tác
giả không chỉ nhìn, chứng kiến mà còn có sự đồng cảm cùng nhân vật:
Nhẫn từ quán khách lân la,
Tuần trăng thấm thoắt nay đà thêm hai.
Cách tờng, phải buổi êm trời,
Dới đào, dờng có bóng ngời thớt tha.
Buông cầm, xốc áo vội ra,
Hơng còn thơm nức, ngời đà vắng tanh!
Nhiều khi trong ngôn ngữ kể chuyện của Nguyễn Du còn có tâm trạng
của nhân vật. Khi Mã Giám Sinh đa Kiều về Lâm Tri tác giả đã kể nh sau:

Đùng đùng gió giục mây vần,
Một xe trong cõi hồng trần nh bay.
Trông vời gạt lệ phân tay,
Góc trời thăm thẳm, đêm ngày đăm đăm

Một cuộc đón dâu mà nh là đi vào cõi xa xăm nào. Lời kể của tác
giả xen lẫn cả sự dự báo về tơng lai của nàng Kiều một tơng lai mờ
mịt, xa xôi.
Lời kể gián tiếp của Nguyễn Du còn đợc thể hiện trong màn Kiều báo
ân, báo oán. Đây là một đoạn khá dài có mặt đầy đủ những kẻ oán và những
ngời có ơn đối với Thuý Kiều. Ngôn ngữ tác giả chi phối trong cảnh này đã
giúp Kiều xử phân minh, ai có ơn thì trả ơn, ai có oán thì báo oán. Lúc đầu
Nguyễn Du thuật chuyện Thuý Kiều thổ lộ những ân, oán của mình cho
chồng nghe, Nguyễn Du đồng thời miêu tả thái độ của Từ Hải khi nghe câu
chuyện ân, oán. Qua lời kể của Thuý Kiều, tác giả dờng nh thay lời Từ Hải
bất bình với những bất công trong xã hội phong kiến và những bọn buôn thịt,
bán ngời đã đày đoạ, hành hạ Thuý Kiều bấy lâu.
Trong Kim Vân Kiều truyện ở màn báo ân, báo oán này Thanh
Tâm Tài Nhân đã kể hết sức tỉ mỉ các kiểu tra tấn đã gây nên một tâm lí ghê
rợn, khủng khiếp đối với mọi ngời. ở Truyện Kiều thì khác, Nguyễn Du chỉ
tập trung thuật lại lời tuyên án của Thuý Kiều trong t thế vị quan toà đang xét
xử bọn tội phạm. Điều đó thể hiện cảm quan nhân đạo của Nguyễn Du trong
việc kể chuyện Thuý Kiều báo oán. Nội dung lời tuyên án của Thuý Kiều

Nguyễn Thị Thuý Quyên

[19]


Ngôn ngữ ngời kể chuyện trong tác phẩm "Truyện Kiều" của Nguyễn Du

đã nhấn mạnh mục đích xét xử của phiên toà là thực hiện sự công bằng, lẽ
phải ở trên cõi đời này.
Nh vậy, qua lời kể gián tiếp của ngôn ngữ ngời kể chuyện ta càng hiểu
rõ thêm t tởng, quan điểm của Nguyễn Du, tác giả không chỉ kể để mà kể, mà
còn thể hiện thái độ, tình cảm của mình trong tác phẩm.
1.1.4. Lời kể tăng tiến:
Ngoài các lời kể nêu lên ở trên, trong Truyện Kiều ngôn ngữ ngời kể
chuyện còn có loại lời kể tăng tiến. Đây là loại lời kể về các sự kiện trong tác
phẩm, trong đó một sự kiện liên quan, kéo theo các sự kiện khác.
Sự kiện thứ nhất và là sự kiện đầu tiên liên quan đến 15 năm lu lạc của
cuộc đời Kiều đó là vụ án Vơng ông. Đây là sự kiện liên quan đến nhiều sự
kiện sau đó.
Vụ án Vơng ông theo lời kể của Nguyễn Du thì thực chất là một vụ
tống tiền. Chúng ta đọc cả đoạn trích về sự kiện này thì sẽ thấy rất rõ. Đầu
tiên Nguyễn Du miêu tả khung cảnh của gia đình họ Vơng là mới đi mừng
thọ ở bên ngoại về, mọi ngời đang nói chuyện vui vẻ thì bỗng nhiên một lũ sai
nha ở đâu xông vào. Chúng không nói năng, không giải thích gì cả và cứ thế
trói hai cha con nhà Vơng ông, trói xong chúng thực thi nhiệm vụ vơ vét. Cả
nhà họ Vơng ngơ ngác không biết rõ nguyên do, đến khi hỏi ra thì mới biết là
thằng bán tơ vu oan, lúc ấy thì:
Một nhà hoảng hốt ngẩn ngơ,
Tiếng oan dậy đất, án ngờ loà mây.
Tất cả đều diễn ra hết sức chóng vánh, chúng không để cho ngời nào
trong gia đình họ Vơng nói một lời, rõ ràng đây là chuyện oan khiên nhng
biết kêu ai đợc, bởi vì:
Một ngày lạ thói sai nha,
Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền.
Bởi vậy để có tiền cứu gia đình, nàng Kiều phải đành bán mình, mặc dù
nàng phân vân:
Duyên hội ngộ, đức cù lao,

Bên tình, bên hiếu bên nào nặng hơn
Và rồi nàng đã đi đến quyết định:
Để lời thệ hải minh sơn,
Làm con trớc phải đền ơn sinh thành

Nguyễn Thị Thuý Quyên

[20]


Ngôn ngữ ngời kể chuyện trong tác phẩm "Truyện Kiều" của Nguyễn Du
Đây là lời Thuý Kiều nói nhng lại đặt dới quan niệm của Nguyễn Du,
đó là một ngời con hiếu thảo khi gặp tai biến phải biết nghĩ đến công ơn sinh
thành dỡng dục của cha mẹ.
Từ sự kiện Kiều bán mình dẫn đến sự kiện Mã Giám Sinh mua
Kiều. Về thực chất sự kiện này khép lại những ngày tháng Thuý Kiều
sống êm đềm trong tổ ấm của gia đình họ Vơng và mở đầu cho mời
lăm năm nàng phải sống chìm nổi giữa dòng đời đen bạc, rồi đi đến kết
cục bi thảm ở sông Tiền Đờng.
Tác giả mở đầu đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều đã có sự giới
thiệu tạo không khí cho cuộc mua bán ngời. Tham gia vào cuộc mua - bán
ngời đó có ba nhân vật: Mã Giám Sinh (ngời mua), Thuý Kiều (ngời bán) và
mụ mối (ngời môi giới). Thông qua việc kể cuộc mua bán ngời này, Nguyễn
Du tố cáo hiện thực xã hội phong kiến vô cùng sâu sắc. Nếu nh vụ kiện Vơng
ông thực chất là việc vu oan tống tiền có tính quy luật trong xã hội đơng thời,
thì việc Mã Giám Sinh mua Kiều ở đoạn này thực chất là việc mua bán
ngời cũng mang tính quy luật trong xã hội phong kiến.
Qua lời kể của tác giả, ta thấy đợc t tởng nhân đạo Nguyễn Du bộc lộ
trong đoạn trích nêu trên là nhằm lên án bản chất phi nhân đạo của bọn buôn
thịt, bán ngời và tố cáo sự tha hoá của đồng tiền đối với con ngời.

Mặc dù cốt truyện của tác phẩm Truyện Kiều là mợn từ Kim Vân
Kiều truyện nhng phải là ngời có tấm lòng cao cả, là một nhà thơ điêu luyện,
một cây bút tài hoa thì Nguyễn Du mới viết lên đợc những lời lẽ đanh thép
đối với cái xã hội phong kiến thối nát, bất công ấy.
Thuý Kiều bị Mã Giám Sinh lừa là cới vợ thiếp nhng thực chất là đa về
Lâm Tri làm gái thanh lâu. Nàng Kiều đã bị Tú Bà hành hạ về thể xác hết sức
dã man, bên cạnh đó mụ ta còn đày đoạ cả tâm hồn trong trắng của nàng.
Thuý Kiều bắt buộc phải ra tiếp khách bởi nàng đã bị Tú Bà và Sở Khanh lập
mu lừa.
Sự kiện lớn tiếp theo là Kiều gặp Thúc Sinh và đợc Thúc Sinh chuộc ra
khỏi lầu xanh cới về làm vợ lẽ. Ngôn ngữ kể chuyện của Nguyễn Du trong
đoạn này hết sức thông cảm với hoàn cảnh của nàng Kiều. Lúc này Thuý
Kiều chỉ mong muốn có một cuộc sống trong sạch, một gia đình bình thờng
nh bao nhiêu ngời khác:
Một nhà sum họp trúc mai,
Càng sâu nghĩa bể, càng dài tình sông.

Nguyễn Thị Thuý Quyên

[21]


Ngôn ngữ ngời kể chuyện trong tác phẩm "Truyện Kiều" của Nguyễn Du
Mong ớc của Kiều thế là thực hiện đợc. Thế nhng vì Kiều muốn là một
ngời vợ đờng hoàng của Thúc Sinh, không muốn sống một cách vụng trộm
nên nàng đã khuyên Thúc Sinh về nói sự thật với vợ cả là Hoạn Th. Thế nhng
Thúc Sinh không dám nói và đã xảy ra chuyện mẹ con Hoạn Th lập mu bắt
cóc Thuý Kiều để hành hạ. Sau Kiều xin ra Quan Âm các viết kinh bị Hoạn
Th bắt quả tang Thúc Sinh đang tự tình cùng nàng, Thuý Kiều sợ Hoạn Th
bức hại nên lại chạy trốn.

Cuộc đời Kiều đợc Nguyễn Du kể từ giai đoạn này sang giai đoạn khác.
Kiều sống một cuộc sống tủi cực , nhọc nhằn. Cho đến khi Thuý Kiều gặp Từ
Hải thì cuộc đời Kiều có sự thay đổi lớn. Sự kiện này xảy ra đã đa đến những
ngày sống yên ổn của nàng Kiều, nàng đã gặp đợc ngời tri kỷ của mình. Thuý
Kiều đã hết lời ca ngợi Từ Hải và Từ Hải càng thêm quý trọng, tin yêu, khâm
phục Thuý Kiều. Màn báo ân, báo oán dờng nh còn là mong ớc của tác giả
để lập lại công bằng cho xã hội.
Sự kiện cuối cùng là màn đại đoàn viên của gia đình Thuý Kiều. Kiều
đợc trở về sum họp với gia đình, với chàng Kim. Nhng chính câu chuyện cuối
này lại là một bớc ngoặt đau khổ nhất của nàng Kiều, nàng không còn thấy
xứng đáng với chàng Kim nữa, trở về với gia đình là việc bắt buộc đối với
nàng và duyên đôi lứatrở thành duyên bạn bầy. Có thể nói sự kiện cuối
cùng này là bản cáo trạng của cuộc đời Kiều (Xuân Diệu).
Nói chung các sự kiện bên trong Truyện Kiều chủ yếu xoay quanh
cuộc đời luân lạc của Thuý Kiều, từ một sự kiện này kéo theo nhiều sự kiện
khác. Cuộc đời Kiều chìm nổi lênh đênh, nàng cứ bắt đầu đợc hởng hạnh
phúc thì hạnh phúc lại bị tuột mất, cứ thế nàng gặp hết nạn nọ đến nạn kia và
không tìm đâu ra lối thoát.
Nhờ có lời kể của ngôn ngữ tác giả mà chúng ta hiểu rõ hơn về số phận,
cuộc đời Kiều, đó là một cuộc đời ba chìm bảy nổi, trôi dạt không biết đi
đâu, về đâu. Qua sự phân tích các lời kể ở trên ta thấy lời kể trong Truyện
Kiều ít sử dụng thành ngữ, điển cố mà sử dụng nhiều từ Hán Việt tăng thêm
sắc thái trang trọng cho lời kể. So với Kim Vân Kiều truyện thì lời kể trong
Truyện Kiều chiếm tỷ lệ ít hơn rất nhiều. Điều này là do quan niệm của
Nguyễn Du muốn giảm nhẹ lời kể và vì thế tác giả Truyện Kiều thấm đẫm
chủ nghĩa nhân đạo.
Ngôn ngữ lời kể của Nguyễn Du mang điểm nhìn bên trong của nhân
vật, và ngời kể bộc lộ tình cảm hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp nh là ngời trong
Nguyễn Thị Thuý Quyên


[22]


Ngôn ngữ ngời kể chuyện trong tác phẩm "Truyện Kiều" của Nguyễn Du
cuộc. Đó là phơng pháp kể cha từng có trong tiểu thuyết tài tử giai nhân mà
Nguyễn Du vay mợn, cũng cha hề có trong truyền thống truyện Nôm trớc đó.
Chỉ có hình thức tự sự đó mới kéo theo những đổi mới khác trong lời tả của
tác giả (1).
1.2. Lời tả trong ngôn ngữ ngời kể chuyện ở tác phẩm
Truyện Kiều:

1.2.1. Tả ngoại hình nhân vật:
Trong Truyện Kiều của Nguyễn Du có hai hệ thống nhân vật đó là
nhân vật chính diện và nhân vật phản diện và ở mỗi kiểu nhân vật này đợc tác
giả miêu tả ngoại hình theo những cách khác nhau.
1.2.1.1. Nhân vật chính diện:
Thờng thì khi tả ngoại hình nhân vật chính diện, tác giả tả rất kỹ càng.
Những nhân vật chính diện đợc tác giả đặc biệt lu ý là: Thuý Kiều, Kim
Trọng, Từ Hải.
Chân dung Thuý Kiều đợc tác giả miêu tả sau chân dung Thuý Vân.
Đây là dụng ý của tác giả theo kiểu vẽ mây nẩy trăng. Nguyễn Du miêu tả
chân dung Thuý Vân là để miêu tả chân dung Thuý Kiều theo bút pháp nghệ
thuật tá khách hình chủ. Vẻ đẹp đoan trang, phúc hậu của Thuý Vân ánh
lên đậm nét trong vẻ đẹp chân dung của Thuý Kiều:
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn
Tuy vậy để khắc hoạ rõ chân dung nàng Kiều, Nguyễn Du đã tập trung
đặc tả đôi mắt của nàng. Tác giả sử dụng hình ảnh mỹ lệ của thiên nhiên dới
(1). Trần Đình Sử, Thi pháp Truyện Kiều, NXB Giáo dục, 2003, tr 182.


hình thức nghệ thuật ẩn dụ, so sánh, thậm xng để biểu hiện vẻ đẹp đầy sức
quyến rũ ở đôi mắt của Thuý Kiều:
Làn thu thuỷ, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh
Miêu tả đôi mắt, Nguyễn Du không chỉ tả cái sắc của Thuý Kiều, mà
thông qua đó để tả cái tình của nàng.
Dới ngòi bút của tác giả, nàng Kiều không chỉ là một thiếu nữ tuyệt sắc
mà còn là một thiếu nữ tuyệt tài. Nàng giỏi cả cầm, kỳ, thi, hoạ và sáng tác
đợc một bản nhạc rất hay có tên là Bạc mệnh oán để phổ vào tiếng đàn
tuyệt diệu của nàng.
Miêu tả chân dung Thuý Kiều, Nguyễn Du không đơn thuần chỉ miêu
tả sắc. Bên cạnh đó tác giả còn miêu tả cả cái tài và cái tình. Chính
sắc - tài tình làm nên trọn vẹn chân dung tuyệt đẹp của Thuý Kiều.

Nguyễn Thị Thuý Quyên

[23]


Ngôn ngữ ngời kể chuyện trong tác phẩm "Truyện Kiều" của Nguyễn Du
Ngoại hình nhân vật Kim Trọng đợc tác giả miêu tả qua mắt nhìn của
Thuý Kiều. Hình ảnh Kim Trọng hiện lên hết sức khoan thai, nhẹ nhàng. Trớc
hết tác giả miêu tả hình ảnh một con ngựa câu đang bớc đi thong thả dới
trời xuân, tiếng nhạc reo vui phát ra từ chùm lục lạc đeo dới cổ. Nỗi bật trên
hình ảnh con ngựa non, khoẻ, sắc trắng là hình ảnh chủ nhân của nó: Một
chàng văn nhân mà từ màu áo, túi thơ đều thể hiện rõ dáng dấp của một con
ngời cao quý, phong lu:
Trông chừng thấy một văn nhân,
Lỏng buông tay khấu bớc lần dặm băng.
Đề huề lng túi gió trăng

Bên cạnh việc miêu tả dáng dấp, tác giả còn chú ý miêu tả động tác, cử
chỉ của Kim Trọng. Chàng Kim có những cử chỉ, động tác hết sức đàng
hoàng, lịch sự trớc chị em Thuý Kiều. Từ đó tác giả nêu bật nhân cách cao thợng và phẩm chất trong sáng của con ngời này:

Hài văn lần bớc dặm băng,
Một vùng nh thể cây quỳnh, cành dao
Với điển cố cây quỳnh, cành dao tác giả đã diễn đạt ý thơ một cách
súc tích trong đó hàm nghĩa bình luận, so sánh để đi tới khẳng định phong độ
hào hoa, tơi trẻ của chàng văn nhân nh tạo nên vẻ đẹp huyền thoại của một
vùng thiên nhiên cây cỏ.
Vẻ đẹp của Kim Trọng đợc hiện lên một cách toàn diện qua lời tả gián
tiếp của tác giả, dói con mắt sắc sảo của nàng Kiều. Chính vẻ đẹp ấy đã đầy
sức hấp dẫn và cuốn hút ánh mắt Thuý Kiều ngay từ cái nhìn đầu tiên của
nàng khi chàng văn nhân hiện diện trớc mặt mọi ngời.
Khác với các miêu tả ngoại hình ở hai nhân vật Thuý Kiều và Kim
Trọng, với Từ Hải, tác giả dã dùng cách miêu tả trực tiếp. Nguyễn Du đã sử
dụng phối hợp nghệ thuật ớc lệ, miêu tả, hình thức tiểu đối, lối nói phóng đại
kết hợp với việc sử dụng điển cố để giới thiệu lai lịch, diện mạo, tài năng của
Từ Hải:
Râu hùm, hàm én, mày ngài,
Vai năm tấc rộng, thân mời thớc cao.
Đờng đờng một đấng anh hào,
Côn quyền hơn sức, lợc thao gồm tài.

Nguyễn Thị Thuý Quyên

[24]


Ngôn ngữ ngời kể chuyện trong tác phẩm "Truyện Kiều" của Nguyễn Du

Đội trời đạp đất ở đời,
Họ Từ tên Hải, vốn ngời Việt Đông.
Giang hồ quen thú vẫy vùng,
Gơm đàn nửa gánh, non sông một chèo
Dới ngòi bút của Nguyễn Du, Từ Hải hiện lên nh là một nhân vật hiện
thân của tự do, của khát vọng công lý và là con ngời xuất chúng, là bậc anh
hùng cái thế.
Từ Hải là nhân vật phi thờng gặp gỡ Thuý Kiều trong một hoàn
cảnh không bình thờng (giữa lầu xanh), nhng Từ Hải đã không hề tỏ ý
coi thờng, thơng hại Thuý Kiều. Trái lại, Từ Hải rất trân trọng, cảm phục
Thuý Kiều.
Cũng là nhân vật chính diện nhng ngoại hình nhân vật đợc hiện lên dới
ngòi bút của Nguyễn Du mỗi lúc một khác. Điều đó thể hiện bút pháp đa
dạng và phong phú của tác giả khi dụng công miêu tả ngoại hình nhân vật. Và
ở đó mỗi một độc giả khi đọc lên lại hình sung nhân vật của mình mỗi vẻ đẹp
một khác và mỗi giai đoạn khác nhau sẽ cho ngời đọc sự hình dung về nhân
vật của mình cũng có những hình ảnh khác nhau.
1.2.1.2. Nhân vật phản diện:
Nếu nh ở nhân vật chính diện tác giả đã miêu tả vẻ đẹp ngoại hình hết sức
toàn diện, toàn mĩ thì ở nhân vật phản diện tác giả chỉ tả vài nét phác hoạ để làm
nổi rõ chân dung ở nhân vật này. Trong số những nhân vật phản diện đợc Nguyễn
Du chú ý miêu tả nhất là: Mã Giám Sinh, Tú Bà. ở những nhân vật này tác giả thờng tả trực tiếp diện mạo nhằm phản ánh nét bản chất ở nhân vật.
ở nhân vật Mã Giám Sinh, Nguyễn Du tập trung khắc hoạ cái lốt nho
sĩ của hắn. Cái lốt nho sĩ của Mã Giám Sinh có nhiều điểm mâu thuẫn: lai
lịch không rõ ràng:
Gần miền có một mụ nào,
Đa ngời viễn khách tìm vào vấn danh.
Hỏi tên, rằng: Mã Giám Sinh
Hỏi quê, rằng: Huyện Lâm Thanh cũng gần
Trong khi đó hắn lại có dáng vẻ bề ngoài không oai vệ của một ngời

đàn ông và ăn diện rất đỏm dáng:
Quá niên trạc ngoại tứ tuần,
Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao.
Nhng t thế lại không đàng hoàng:

Nguyễn Thị Thuý Quyên

[25]


×