1
mở đầu
1 . Lý do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu
1.1. Ngô Tất Tố là một nhà văn hiện thực xuất sắc nhng Ngô Tất Tố trớc hết
là một nhà báo, một nhà báo kể cả khi viết tiểu thuyết, một nhà báo có biệt tài
[2], một tay ngôn luận xuất sắc trong đám nhà nho [29]. Là nhà báo, Ngô Tất
Tố đã chọn thể loại tiểu phẩm báo chí- một thể loại đợc xem là gọn nhẹ, tinh
giản phù hợp với yêu cầu kịp thời và giàu tính chiến đấu trên báo chí hàng
ngày. Với các bút danh quen thuộc nh Thiết Khẩu Nhi, Thục Điểu, Lộc Hà,
Lộc Đình, Thôn Dân, Phó Chi, Tuệ Nhỡn, Thuyết Hải, Xuân Trào, Đạm
Thiên, Huy Cừ... ông đã viết hơn 158 tiểu phẩm báo chí trên các tuần báo và
tạp chí trong Nam ngoài Bắc từ năm 1928- 1945. Đánh giá các tiểu phẩm báo
chí của Ngô Tất Tố, nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ viết: Văn tiểu phẩm của Ngô
Tất Tố dờng nh làm thành một bộ sử biên niên của xã hội Việt Nam những
năm từ trớc sau 1930 cho đến hồi đại chiến thế giới lần thứ hai [5, 41].
1.2. Đọc các tiểu phẩm của Ngô Tất Tố, ta thấy mỗi bài một kiểu, không có sự
đơn điệu, trùng lặp và tẻ nhạt mà ngợc lại luôn khơi gợi sự hứng thú ở ngời
đọc. Qua các tiểu phẩm báo chí, ngời đọc dễ dàng nhận ra tác giả là một tài
năng đa dạng, độc đáo, một ngòi bút hết sức linh hoạt và uyển chuyển; khi
thâm thuý, sắc sảo; khi dứt khoát đanh thép; khi thì hài hớc và dí dỏm; khi thì
hồn hậu và khoẻ khoắn. Tiểu phẩm báo chí của ông là một phòng triển lãm
những bức chân dung đợc phác thảo theo kiểu biến hoạ giai cấp thống trị và
những kiểu ngời điển hình trong xã hội cũ bằng một thứ ngôn ngữ đa đạng,
linh hoạt, nhiều màu sắc. Có thể khẳng định rằng, thủ pháp châm biếm trong
tiểu phẩm báo chí của Ngô Tất Tố có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa cái thâm
thuý của một nhà nho uyên bác với cái hồn hậu khoẻ khoắn, lạc quan giàu tính
chiến đấu của văn học dân gian. Do đó, ngôn ngữ tiểu phẩm của ông vừa có
cái uyên thâm, bác học vừa có cái mộc mạc, bình dân, vừa có cái thâm trầm
2
của lối văn cử nghiệp, vừa có cái hơi thở nồng nàn, tơi mới của dân tộc, của
thời đại.
1.3. Nếu nh những nghiên cứu, đánh giá về di sản văn học của Ngô Tất Tố đã
thống nhất ổn định thì di sản báo chí của ông cho đến nay vẫn đang đợc tiếp
tục su tầm, tập hợp, nghiên cứu và khám phá để đạt đợc sự đánh giá đầy đủ
hơn. Làm cả hai nghề viết văn và làm báo giữa lúc Hán học đang suy tàn còn
chữ quốc ngữ bắt đầu đợc phổ biển rộng rãi, Ngô Tất Tố đã nhận thức rất đúng
đắn: Sau một thời kỳ lâu dài bị ruồng bỏ, khinh rẽ, Quốc âm ta đã đợc để ý
đến... và đợc kể là khí cụ của văn chơng. Và ông đã nhanh chóng nắm bắt các
khí cụ là chữ quốc ngữ để viết tiểu phẩm báo chí và viết tản văn với một bút
lực dồi dào, thể hiện bằng một ngôn từ độc đáo, giàu cá tính.
Xuất phát từ những nhận thức trên chúng tôi chọn đề tài Ngôn ngữ tiểu
phẩm báo chí của Ngô Tất Tố làm luận văn tốt nghiệp cao học nhằm tập
trung phân tích và làm nổi bật những nét đặc sắc trong ngôn ngữ tiểu phẩm
báo chí của Ngô Tất Tố.
2. Lịch sử vấn đề
Đặc điểm nổi bật trong sự nghiệp sáng tác của Ngô Tất Tố là phần lớn
các tác phẩm đợc giới thiệu đến bạn đọc trớc hết bằng con đờng báo chí, sau
đó một phần đợc in ngay thành sách. Do đó, những sáng tác của ông đợc các
nhà nghiên cứu chú ý tập hợp thành bộ sách Ngô Tất Tố toàn tập, gồm 5 tập,
Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1996. Cho đến nay đã có nhiều công trình
nghiên cứu, gồm 200 bài viết của các nhà nghiên cứu, nhà văn, nhà báo, khắc
hoạ đậm nét chân dung nhà văn, phác hoạ chân dung nhà báo và đã đề cập đến
t cách nhà văn, nhà báo của tác giả. Một số các công trình, các bài viết này đợc tập hợp trong cuốn Ngô Tất Tố về tác giả và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà
Nội, 2007.
3
Tính riêng sự nghiệp báo chí của Ngô Tất Tố, cụ thể tiểu phẩm báo chí cũng
đợc một số nhà nghiên cứu quan tâm xem xét. Chẳng hạn, các tác giả Phan Cự
Đệ (2005), Nguyễn Đăng Mạnh (2005 ), Trơng Chính (1993 ), Hà Minh Đức
(1998 ), Lan Nhi (2003 ), Lê Thị Đức Hạnh (1983),... đã tập trung làm nổi bật
các giá trị nội dung và nghệ thuật viết tiểu phẩm của Ngô Tất Tố, khẳng định
ông là một nhà báo có biệt tài. ở các bài viết này, các nhà nghiên cứu chủ yếu
phân tích và lý giải các khía cạnh nội dung các tiểu phẩm báo chí của Ngô Tất
Tố nhng thấp thoáng ở đôi chỗ, các bài viết đã nhắc tới yếu tố ngôn ngữ tiểu
phẩm và hiệu quả của nó. Trong bài Tiểu phẩm của Ngô Tất Tố , Trơng Chính
xác nhận cách viết của Ngô Tất Tố: Ông viết nh nói không trau chuốt mà cũng
không thật thà [3]. Còn Hà Minh Đức, trong bài Tiểu phẩm văn học và báo
chí của Ngô Tất Tố thì khẳng định: Ngôn ngữ tiểu phẩm của Ngô Tất Tố đã
kết hợp đợc nét sắc nhọn mạnh mẽ của ngôn ngữ báo chí với chất thâm thuý,
nhuần nhị, hàm xúc của ngôn ngữ văn chơng [7,18]. Lê Thị Đức Hạnh trong
bài Đặc sắc trong tiểu phẩm của Ngô Tất Tố thì cho rằng: Ông có cách viết tự
nhiên, dí dỏm, hấp dẫn khiến ngời đọc nhiều khi có cảm giác nh tác giả đang
trực tiếp nói chuyện với mình [17, 24]. Dĩ nhiên, các lời nhận xét đánh giá trên
cha đợc các nhà nghiên cứu phân tích và lý giải thấu đáo, có hệ thống bởi vì
đó không phải là điều họ quan tâm. Có thể khảng định rằng những nghiên cứu
về tiểu phẩm báo chí của Ngô Tất Tố dù có những thành tựu rất đáng kể vẫn
cha khai thác hết những tiềm năng vô cùng to lớn ẩn sau mỗi tác phẩm báo chí
của Ngô Tất Tố. Cho đến nay, cha có công trình nghiên cứu nào đặt vấn đề
nghiên cứu ngôn ngữ tiểu phẩm báo chí của Ngô Tất Tố nh một đối tợng độc
lập. Vấn đề này, nếu nghiên cứu thấu đáo, một mặt góp phần khẳng định Ngô
Tất Tố là một tài năng đa dạng, mặt khác đóng góp về mặt lý và thực tiễn cho
một thể loại báo chí thể loại tiểu phẩm.
4
3. Đối tợng và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Đối tợng nghiên cứu
Từ việc xác định cách hiểu về thể loại tiểu phẩm báo chí, luận văn xác lập
danh sách các tiểu phẩm báo chí của Ngô Tất Tố. Đối tợng nghiên cứu của
luận văn là ngôn ngữ trong các tiểu phẩm báo chí của Ngô Tất Tố. Số lợng các
tiểu phẩm báo chí của Ngô Tất Tố đợc xác lập từ Ngô Tất Tố toàn tập, tập 1
và cuốn Ngô Tất Tố - muôn mặt cuộc đời, tổng cộng 158 tiểu phẩm.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Chúng tôi đặt ra cho luận văn phải tập trung giải quyết những vấn đề sau:
- Từ góc độ ngôn ngữ học, luận văn tập trung làm nổi bật những đặc điểm
nổi trội trong cách sử dụng từ ngữ và hình thức diễn đạt trong các tiểu phẩm
của Ngô Tất Tố.
- Phân tích và lý giải một số biện pháp tu từ đặc sắc nhằm chứng tỏ ngôn
ngữ tiểu phẩm của Ngô Tất Tố vừa có cái sắc nhọn của ngôn ngữ báo chí lại
vừa có cái hàm súc của ngôn ngữ văn chơng.
- So sánh ngôn ngữ tiểu phẩm báo chí của Ngô Tất Tố với ngôn ngữ báo chí
của Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ đó khẳng định cá tính ngôn ngữ của Ngô Tất Tố
trong lĩnh vực báo chí.
4. Nguồn t liệu và phơng pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn t liệu
Sự nghiệp báo chí của Ngô Tất Tố hết sức phong phú và đa dạng vì trong
thời gian 1928- 1945 ông viết cho rất nhiều báo và tạp chí trong Nam ngoài
Bắc, xuất hiện trên các chuyên mục khác nhau của các báo. T liệu mà luận
văn sử dụng dựa vào hai nguồn sau:
5
- Ngô Tất Tố toàn tập, tập 1, Nxb Văn học, Hà Nội, 1996, gồm 105 tiểu
phẩm đợc công bố trên các tờ báo trong Nam ngoài Bắc từ 1929- 1939.
- Ngô Tất Tố - muôn mặt cuộc đời, của hai tác giả Cao Đắc Điểm và Ngô Thị
Thanh Lịch (su tầm biên soạn ) từ 1928- 1945, Nxb Văn hoá thông tin, Hà
Nội, 2008, gồm 53 tiểu phẩm.
Nh vậy, từ hai nguồn trên, t liệu mà chúng tôi khảo sát là 158 tiểu phẩm của
Ngô Tất Tố, đợc viết từ năm 1928- 1945.
4.2. Phơng pháp nghiên cứu
Để giải quyết những nhiệm vụ đã đề ra, luận văn sử dụng các phơng pháp
và thủ pháp nghiên cứu sau đây:
- Dùng phơng pháp thống kê định lợng (trên văn bản ) để thu thập, phân
loại và xử lý t liệu.
- Dùng thủ pháp phân tích và tổng hợp để làm nổi bật các đặc điểm ngôn
ngữ tiểu phẩm của Ngô Tất Tố, chỉ ra những nét đặc sắc trong ngôn ngữ tiểu
phẩm của ông.
- Dùng phơng pháp so sánh đối chiếu để xác định cá tính trong phong
cách ngôn ngữ báo chí của Ngô Tât Tố và những đóng góp của ông về ngôn
ngữ báo chí.
5. Đóng góp của luận văn
- Lần đầu tiên, ngôn ngữ tiểu phẩm báo chí của Ngô Tất Tố đợc khảo
sát một cách có hệ thống, từ đó chứng tỏ những nét đặc sắc trong phong cách
ngôn ngữ của tác giả, góp phần lý giải Ngô Tất Tố là một tài năng đa dạng.
6
- Các kết quả luận văn góp làm sáng tỏ đặc điểm của một thể loại báo chí
Việt Nam- thể loại tiểu phẩm giúp cho những ngời viết báo nhận thức đợc
những vấn đề lý luận và thực tiễn về ngôn ngữ báo chí.
- Các kết quả của luận văn cũng chứng tỏ Ngô Tất Tố có những đóng góp
to lớn trong việc làm phong phú cho tiếng Việt, khẳng định vai trò và chức
năng của ngôn ngữ trong sự nghiệp đấu tranh và phát triển văn hoá dân tộc.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phụ lục và tài liệu tham khảo, phần mở đầu và phần kết luận,
nội dung luận văn đợc triển khai trong ba chơng:
Chơng 1: Những vấn đề liên quan đến đề tài
Chơng 2: Từ ngữ và hình thức diễn đạt trong tiểu phẩm báo chí Ngô
Tất Tố
Chơng 3: Một số biện pháp tu từ trong tiểu phẩm báo chí Ngô Tất Tố.
7
Chơng 1
NHững vấn đề liên quan đến đề tài
1.1. Vài nét về Ngô Tất Tố
1.1.1. Ngô Tất Tố - nhà văn xuất sắc của văn học hiện thực phê phán
Ngô Tất Tố xuất thân trong một gia đình nho học nhng không may
mắn. Ông nội nhà văn từng lận đận trong khoá thi hơng mới đậu tú tài. Cha
ông sau sáu lần lều chõng về không đành cam phận thầy đồ ở một làng quê
nghèo. Bản thân ông dẫu có tài học và từng đỗ đầu xứ trong một kỳ khảo hạch
nhng lại trắng tay sau hai lần lặn lội ở trờng thi. Ông thuộc thế hệ nhà nho
cuối mùa, từng chứng kiến cảnh chợ chiều của nền Hán học và từ thực tế thất
bại trong thi cử của mình, của gia đình mình, Ngô Tất Tố hiểu đến chân tơ kẻ
tóc sự mục ruỗng của chế độ thi cử phong kiến và sự lỗi thời, bất lực của bọn
hủ nho. Ông đã sáng suốt nhận ra thân phận của ngời trí thức nho học Việt
Nam, không ngơ ngác trong thời đại có sự giao thoa cũ - mới mà bứt vợt lên
hít thở cái không khí xã hội của K. Marx nh tất cả các thiếu niên văn sĩ ở
hàng tranh đấu (Trần Minh Tớc). Ngô Tất Tố thực sự là một nhà nho có óc
phê bình, có trí xét đoán, có t tởng mới... theo kịp các nhà văn thuộc phái tân
học xuất sắc nhất nh nhà văn Vũ Ngọc Phan từng đánh giá. Mặt khác, là một
nhà nho nghèo, Ngô Tất Tố từng chia sẻ cái nghèo, cái đói với những ngời
nông dân ở vùng quê quanh năm cam phận nghèo đói. Ngô Tất Tố đã gắn bó
trái tim mình với ngời nông dân cần cù chất phác- những con ngời nhỏ bé,
mờ xám đang quằn quại trong đau khổ, bất hạnh dới nhiều từng áp bức của
địa chủ phong kiến và các thế lực thống trị khác. Do đó, thái độ sống của ông
vừa có yêu thơng và căm ghét, vừa bênh vực những ngời bị áp bức vừa phê
phán tố cáo cái ác cái xấu, tất cả những cái đó chính là linh hồn, là máu thịt
của từng trang văn, tạo nên giá trị hiện thực sâu sắc và giá trị nhân văn cao cả
trong văn nghiệp của Ngô Tất Tố. Hơn bất cứ nhà văn nào cùng thời, Ngô Tất
8
Tố đã viết ra những trang sách thật cảm động đáng khóc, đáng cời về cảnh
sống cơ cực ở thôn quê và thân phận ngời nông dân thời thực dân phong kiến
nh Tắt đèn, Việc làng, Tập án cái đình... Trong các tác phẩm đó, Tắt
đèn là tác phẩm xuất sắc nhất viết về nông thôn Việt Nam trớc cách mạng
tháng Tám. Theo đánh giá của Vũ Trọng Phụng thì Tắt đèn là cuốn tiểu
thuyết có luận điểm xã hội,... hoàn toàn phụng sự dân quê, một áng văn có thể
gọi là kiệt tác, tơng lai cha từng thấy. ở thời điểm đó, vấn đề nông dân, vấn đề
đấu tranh chống lại chính sách su thuế, áp bức bóc lột của bọn thực dân, quan
lại địa chủ cờng hào đòi cải thiện đời sống cho dân cày là vấn đề trọng tâm
của cách mạng do Đảng lãnh đạo. Tuy cha phải là ngời cách mạng nhng do
yêu nớc thơng dân, có sự gắn bó sâu sắc với số phận ngời nông dân lao động,
điều đó nh một nội lực của ngòi bút Ngô Tất Tố, khiến nhà văn nhanh chóng
tiếp thu và tiếp thu một cách chân thành, tự nhiên tinh thần dân chủ, tiến bộ
của phong trào mặt trận dân chủ. Chính sự gặp gỡ giữa yêu cầu của thời đại,
của cách mạng và sự thôi thúc bên trong của một ngòi bút giàu tính nhân văn
đã tạo nên một nét đặc sắc và thành công xuất sắc của ông trong tiểu thuyết
Tắt đèn nói riêng, mảng đề tài về nông thôn, nông dân nói chung.
Trớc cách mạng tháng Tám, thuế má là tai hoạ khủng khiếp nhất đối với
ngời nông dân. Xoáy sâu về thuế thân- một thứ thuế vô nhân đạo nhất trong
chính sách thuế khoá dã man của chế độ thuộc địa, Tắt đèn đã phơi bày đến
tận cùng bản chất bóc lột, xấu xa, bẩn thỉu của chế độ thực dân phong kiến
Việt Nam. Thuế đánh vào ngời sống, thuế đánh cả ngời chết, thuế chồng chất
lên một gia đình quanh năm thiếu ăn. Vì phải lo từng suất thuế mà cả một
chuỗi tai hoạ thắt buộc số phận ngời đàn bà, dẫn chị Dậu đến bớc đờng cùng:
bòn từng gánh khoai để bán, bán chó rồi phải bán con và bỏ nhà đi ở vú cho
nhà quan. Khắc hoạ nỗi thông khổ và số phận thê thảm của ngời dân quê, Tắt
đèn do vậy là bản cáo trạng đanh thép vạch mặt chỉ tên cả một bộ máy thống
trị của quan tây, quan ta hà hiếp, đục khoét ngời nông dân đến tận xơng tuỷ.
9
Quả quyết và sắc sảo trong tố cáo tội ác của bọn quan lại thống trị là để bênh
vực quyền sống của ngời nông dân và không chỉ thấu hiểu, chia sẻ nỗi thống
khổ của ngời nông dân, Ngô Tất Tố còn phát hiện ở họ những tình cảm nhân
ái đẹp đẽ và bản lĩnh sống kiên cờng không chịu khuất phục. Chân dung chị
Dậu trong Tắt đèn là điển hình cho ngời nông dân bị bóc lột, bị vùi dập thậm
tệ nhng cũng là chân dung lạc quan, khoẻ khoắn, ngời sáng của ngời phụ nữ
nông dân Việt Nam. Có thể nói Ngô Tất Tố là nhà văn duy nhất trong số các
nhà văn cùng thời có cái nhìn trân trọng, yêu thơng đối với ngời nông dân. Do
vậy, Tắt đèn xứng đáng là một áng văn mới mẻ nhất về loại văn chơng xã hội
ngày nay và là một thiên kiệt tác hoàn toàn phục vụ dân quê... (Vũ Trọng
Phụng), một trong những thành tựu xuất sắc nhất của dòng văn học hiện thực
Việt Nam trớc cách mạng tháng Tám.
Cùng với su cao thuế nặng, nạn cho vay lãi, các hủ tục ở thôn quê cũng
là những tai hoạ khủng khiếp dẫn đến những thảm cảnh bi đát, tuyệt vọng cho
ngời nông dân. Viết Việc làng, Tập án cái đình, Ngô Tất Tố đã cảm
thông chia sẽ sâu sắc với nổi đau khổ uất ức của ngời dân quê trớc cảnh cho
vay nặng lãi, những hủ tục nặng nề, vô lối. Còn nữa, với tiểu thuyết Lều
chõng, Ngô Tất Tố muốn gợi lại ngọn lửa tàn của một thời đại khoa cử với
những hủ tục mục nát, những vinh nhục của một chế độ lỗi thời qua đó phán
ánh tấn bi kịch đau xót của trí thức nho học dới chế độ phong kiến.
Tóm lại, nghiệp văn của Ngô Tất Tố tuy chỉ nằm trọn nửa đầu thế kỷ
XX nhng từng ấy tác phẩm, đặc biệt căn cứ vào giá trị của Tắt đèn, chúng ta
đặt Ngô Tất Tố đứng hàng đầu của nền văn học hiện thực. Nói đến Ngô Tất
Tố là nói đến một nhà văn có đóng góp xuất sắc cho các giá trị văn chơng
hiện thực Việt Nam.
1.1.2 Ngô Tất Tố- nhà phê bình nghiên cứu, dịch thuật đầy tâm huyết
10
Nếu nh một mặt Ngô Tất Tố đã nổ lực vợt qua những hạn chế của thế hệ
mình để tiến kịp thời đại thì mặt khác ông cũng đã nổ lực phát huy những u
thế từ vốn Hán học, vốn văn hoá phơng Đông uyên thâm của mình để có
những đóng góp đầy tâm huyết trên lĩnh vực phê bình, nghiên cứu dịch thuật.
Với t cách nhà văn hoá, một học giả, Ngô Tất Tố đã có những đóng góp dày
dặn và sâu sắc trong việc nghiên cứu văn hoá dân tộc nói riêng, văn hoá phơng
Đông cổ truyền nói chung. Có thể xem đây là phần cơ bản tạo nên cốt cách
riêng của Ngô Tất Tố so với phần lớn thế hệ tây học cùng thời. Ông phê bình
nho giáo của Trần Trọng Kim là một thứ Trần Trọng Kim giáo, vừa thêm
bớt, vừa xuyên tạc và đề cao những mặt tiêu cực, lỗi thời của nho giáo. Từ
những công trình nghiêm túc và có giá trị nh Mặc Tử, Lão Tử, Ngô Tất
Tố cố gắng gạn lọc những yếu tố tiến bộ trong các học thuyết cổ để ta góp
phần làm sáng tỏ những vấn đề triết học, văn hoá, chính trị đơng thời. Với
cách làm đó, phần lớn các công trình nghiên cứu của Ngô Tất Tố đều có ý
nghĩa thực tiễn. Xuất phát từ lòng yêu nớc, tinh thần dân tộc, Ngô Tất Tố đã
thực hiện các công trình khảo cứu đầy tâm huyết về di sản văn hoá dân tộc. Bộ
Thi văn bình chú và đặc biệt hai cuốn Văn học đời Lí, Văn học đời
Trần trong bộ Văn học Việt Nam chẳng những ghi nhận công phu su tầm,
nghiên cứu say mê cùng những dấu ấn tài hoa của dịch giả Ngô Tất Tố mà cao
hơn là tấm lòng trân trọng, nâng niu, là ý thức bảo tồn vốn cổ dân tộc trong
buổi đất nớc còn nô lệ. Ông đã có công đặt nền móng cho việc nghiên cứu
biên soạn những công trình đồ sộ, trọn vẹn về tinh hoa văn hoá dân tộc nh bộ
Thơ văn Lí Trần ngày nay.
Dịch thuật cũng là một lĩnh vực khảng định những đóng góp vừa tài
hoa, vừa độc đáo, đáng trân trọng của Ngô Tất Tố. Ông là một trong số rất ít
những dịch giả để lại dấu ấn của phong cách cá nhân bằng những bản dịch
chân chất, mộc mạc theo sát từng con chữ trong nguyên tác nhng lại diễn tả đợc một cách tinh tế những biểu hiện của đời sống con ngời từ nhận thức trí tuệ
11
đến những cung bậc tình cảm. Ông dịch từ thơ văn Lí Trần, Hoàng Lê nhất
thống chí, Kinh dịch, Đờng thi... Những bản dịch ấy cho đến nay vẫn đợc coi
là những công trình có giá trị về sử học, văn học. Những năm cuối đời ở chiến
khu Việt Bắc, trong những điều kiện vô cùng khó khăn nhng Ngô Tất Tố vẫn
miệt mài dịch những tác phẩm văn học tiến bộ của thế giới, góp phần động
viên tích cực quần chúng tham gia kháng chiến và xây dựng đất nớc. Có thể
nói Ngô Tất Tố là một trí tuệ uyên bác, một tài năng đa dạng và một phong
cách văn chơng độc đáo nhng nổi bật nhất ở nhà nho Ngô Tất Tố là lòng yêu
nớc chân thành.
1.1.3. Ngô Tất Tố - một nhà báo có biệt tài
Ngô Tất Tố không chỉ là một nhà văn hiện thực xuất sắc, nhà nghiên
cứu, phê bình, dịch thuật uyên bác mà còn là nhà báo có biệt tài, một tay ngôn
luận xuất sắc trong đám nhà nho. Tranh thủ thời kì mặt trận dân chủ, báo chí
có điều kiện phát triển mạnh, Ngô Tất Tố tung hoành trong trờng ngôn luận,
trên các báo Bắc kì, Trung kì và Nam kì, với những bút danh khác nhau. Ông
đã đứng vững trên lập trờng dân chủ, chiến đấu kịch liệt với những thế lực áp
bức, bóc lột nhân dân, phơi bày những mảng tối, những mặt tiêu cực, lạc hậu
trong xã hội thực dân phong kiến. Vốn là nhà nho uyên thâm, cơng trực, khinh
gét sự giả dối, đê tiện, lại là ngời luôn luôn quan tâm đến thời thế, đến vận
mệnh dân tộc và số phận của những ngời lao động nghèo khổ, Ngô Tất Tố đẫ
dùng ngòi bút báo chí đấu tranh đến cùng chống lại xã hội thực dân phong
kiến đang chà đạp lên quyền sống của con ngời nh một bộ biên niên sử của xã
hội Việt Nam suốt những thập kỷ đầu thế kỷ XX. Di sản báo chí của Ngô Tất
Tố giúp ngời đọc nhận biết một cách đầy đủ và sâu sắc bức tranh toàn cảnh
chuẩn xác về xã hội thực dân phong kiến Việt Nam. Từ những bài báo của
Ngô Tất Tố ta có thể thấy ở đó là đời sống thành thị với những sự lộn xộn, nhố
nhăng trong sự chuyển động giao thoa cũ- mới; là đời sống nông thôn với
những thắt buộc, tù túng, đói nghèo điêu đứng. ở những bài báo của Ngô Tất
12
Tố có những vấn đề vật chất, miếng cơm manh áo với bao tủi nhục, cay đắng
và cả những vấn đề phong hoá, đạo đức, tâm linh nhức nhối. Qua các bài báo,
Ngô Tất Tố đã vạch mặt kết tội chính xác và đích đáng từ những kẻ tai to mặt
lớn đại diện cho chính phủ bảo hộ và bù nhìn Nam triều cho đến bọn quan lại,
địa chủ, t sản, nghị viên cùng với tất cả các tổ chức bịp bợm của chúng. Ông
cũng vạch mặt bọn ngời chuyên giây máu ăn phần, lợi dụng tình thế xã hội để
đục nớc béo cò, làm giàu trên nổi khốn khổ của ngời dân lơng thiện. Đó là
bọn cho vay nặng lãi, bọn lang băm lừa bịp bằng dao cầu thuyền tán, bọn
buôn thần bán thánh quàng xiên. Là ngời trong cuộc, xuất phát từ lòng nhiệt
thành muốn góp phần cải tạo xã hội bằng ngòi bút, Ngô Tất Tố đã công khai
chiến đấu để xoá bỏ những cái xấu xa thối nát của xã hội cũ. Do vậy, di sản
báo chí của Ngô Tất Tố thật là đồ sộ, mang nội dung xã hội sâu sắc. Nhng
toàn bộ cái nội dung xã hội sâu sắc ấy lại đợc thể hiện bằng một trình độ nghệ
thuật ngôn ngữ báo chí có cá tính đã tạo nên phong cách độc đáo, tạo nên giá
trị và sức sống lâu bền cho di sản báo chí của Ngô Tất Tố.
Khẳng định tính chiến đấu, ý thức xã hội, văn phong báo chí của Ngô
Tất Tố cũng là khảng định sự trởng thành của báo chí nớc ta nửa đầu thế kỷ
XX, ghi nhận vai trò của ngời trí thức nho học trớc cộng đồng, trớc vận mệnh
của dân tộc. Sinh thời, Vũ Trọng Phụng đánh giá rất cao về nhà báo Ngô Tất
Tố. Tuy nhiên, nếu nh việc nghiên cứu, đánh giá về di sản văn học của Ngô
Tất Tố đã thống nhất ổn định thì di sản báo chí của ông cho đến nay còn tiếp
tục su tầm, tập hợp, nghiên cứu, khám phá để mong có sự đánh giá đầy đủ
hơn.
1.2. Tiểu phẩm báo chí và tiểu phẩm báo chí của Ngô Tất Tố
1.2.1. Tiểu phẩm báo chí
1.2.1.1. Sự ra đời của tiểu phẩm báo chí
13
Lâu nay, về sử dụng, các thuật ngữ có gốc Âu Mỹ đều đợc phiên
chuyển thành các đơn vị Hán Việt làm cho các thuật ngữ đó đựơc Việt hoá và
đảm bảo tính dân tộc hơn. Dĩ nhiên, cách chuyển dịch sang tiếng Việt và cách
hiểu đối với một số thuật ngữ là cha có sự thống nhất giữa các nhà nghiên cứu,
trong đó thuật ngữ tiểu phẩm là một ví dụ. Trong cách dùng lâu nay, tiểu
phẩm đợc hiểu theo cách hiểu rộng rãi nhất, là một tác phẩm nhỏ. Tiểu phẩm
là tác phẩm giới hạn về quy mô, kích cỡ, độ dài văn bản. Trên các phơng tiện
truyền thông (truyền hình, phát thanh) hay trên sân khấu, khi nói đến tiểu
phẩm là ngời ta hiểu ngay đó là tác phẩm ngắn, chỉ diễn ra trong ít phút. Khán
giả, thính giả có thể yên tâm là không mất nhiều thời gian với nó. Nếu nh tác
phẩm ngắn đó không có yếu tố khôi hài, châm biếm thì cũng không sao. Tất
nhiên, cách hiểu về tiểu phẩm nh vậy cha phải là t cách thuật ngữ khoa học.
Nhiều ngời làm báo, viết văn chuyên nghiệp lâu nay có ý thức hơn khi
dùng khái niệm tiểu phẩm. Theo từ điển tiếng Nga của Ozêgôv thì tiểu phẩm
là một bài báo hoặc bài tạp chí về một đề tài có tính chất thời sự cấp thiết, thờng sử dụng biện pháp mô tả theo lối khôi hài châm biếm. Trong các từ điển
tiếng Việt, trong đó Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên thì tiểu phẩm
là một bài báo ngắn về vấn đề thời sự có tính chất châm biếm [, 714]. Từ
điển bách khoa toàn th Liên Xô (cũ) định nghĩa nh sau: Tiểu phẩm là một
thể loại vừa mang tính báo chí, vừa mang tính văn học. Tính báo chí thể hiện ở
tính thời sự, tính chân thật; tính văn học thể hiện ở tính h cấu, sử dụng ngoa
dụ, ẩn dụ, đợc diễn đạt bằng ngôn ngữ châm biếm, hài hớc về một sự vật, một
sự việc cụ thể hoặc khái quát, thông qua đó tác giả bộc lộ quan điểm của mình
trớc một sự kiện, hiện tợng nào đó trong đời sống xã hội. Các tác giả Từ
điển thuật ngữ văn học lại cho rằng tiểu phẩm còn gọi là tạp văn, là những
áng văn tiểu phẩm có nội dung chính trị, có tác dụng chiến đấu mạnh mẽ. Đó
là một thứ văn vừa có tính chính luận sắc bén, vừa có tính nghệ thuật cô đọng,
phản ánh và bình luận kịp thời các hiện tợng xã hội [15,294]. Qua cách hiểu
14
trên thì tiểu phẩm là thể loại có tính chất lỡng tính: vừa có tính chất báo chí
vừa có tính chất văn học. Để hiểu khái niệm tiểu phẩm một cách chính xác
phải lần trở lại cội nguồn phát sinh của thể loại báo chí này, tức là lần theo
những quan niệm của các nhà nghiên cứu phơng tây. Theo các nhà nghiên cứu
Phơng Tây, thuật ngữ tiểu phẩm có gốc tiếng Pháp là Feuilleton, nghĩa gốc là
chiếc lá, trang giấy, tờ rơi. Đây là một thể văn thông tin nghệ thụât gắn bó
chặt chẽ với các báo và tạp chí. Trong vòng 150 năm tồn tại của nó, thuật ngữ
này đợc dùng với nhiều nghĩa khác nhau. Thể loại báo chí này xuất hiện năm
1800, khi trên một tờ báo Pháp là Jounaldes Débets lần đầu tiên có một tờ
giấy in kèm vào báo. Tờ giấy đó chuyển tải cả tin tức về nhà hát, mốt thời
trang, đồ dùng nội thất và một số tin vụn vặt khác. Tờ giấy có tính chất quảng
cáo này nhanh chóng đợc thay thế bằng bản text vốn đợc in tách khỏi các
thông tin khác của báo đợc ngăn cách bằng một vạch lớn (filê đậm). Điều đó
có nghĩa là khái niệm tiểu phẩm không có ý nghĩa nh một thể loại nhất định
mà chỉ là vị trí của một loạt thông tin đợc công bố mà thôi. Quan niệm về tiểu
phẩm với t cách nh là một bài báo đợc in dới vạch ngày nay vẫn tồn tại. Sau
đó, khái niệm tiểu phẩm dần dần đợc mở rộng ý nghĩa dùng để chỉ một tác
phẩm có chức năng làm sinh động bài báo hoặc tạp chí. Quan niệm về tiểu
phẩm với t cách nh một tác phẩm trớc hết có ý nghĩa giải trí để lảng tránh vấn
đề đặc trng thể loại đặc thù của tiểu phẩm: bất kỳ một bài viết sinh động hay
một ghi chép, chú thích trong trờng hợp này đều có thể xếp vào mục fejton.
Thế là, những cuộc tranh luận về khái niệm tiểu phẩm đã diễn ra trong hơn
100 năm qua và trở thành đối tợng gây sự chú ý của khoa nghiên cứu văn học
Xô Viết những năm 20, 30 của thế kỷ XX.
Hiện nay đang có một cách hiểu mở rộng nhất về khái niệm tiểu phẩm:
tiểu phẩm là một thể văn thông tin nghệ thuật hạng nhỏ mà cơ sở của nó là các
sự kiện thực tế đời sống. Tiểu phẩm xuất hiện trên ranh giới của văn học nghệ
thuật, ở đó có những khái quát hoá rộng rãi, đáng chú ý và có những bài báo
15
có tác dụng trực tiếp, cụ thể, có địa chỉ hớng tới một cách xác định. Tiểu phẩm
đặc trng bởi vô số những thủ pháp nghệ thuật. Nếu chúng ta sử dụng thuật ngữ
thông dụng trong nghiên cứu văn học Xô Viết thì có hai thuật ngữ: tiểu phẩm
văn học và tiểu phẩm báo chí. Bên cạnh đó, ảnh hởng qua lại của các yếu tố
văn học nghệ thuật và báo chí lại có vô số những biến thể về phong cách.
Tổng hợp các định nghĩa lâu nay, chúng tôi xin đa ra một số kết luận về
đặc điểm của tiểu phẩm: 1, tiểu phẩm đợc hiểu theo nghĩa rộng, là một loại tác
phẩm báo chí không quá dài. Cách hiểu và cách dùng này không chỉ có ở Việt
Nam mà còn phổ biến ở nhiều nớc khác, chẳng hạn ở Đức. 2, Là một thể loại
báo chí, nảy sinh từ nhu cầu thông tin báo chí. Từ hình thức một tờ rơi, một
phụ trơng in kèm theo tờ báo, dần dần đợc xếp dới vạch đậm ngăn với phần tin
chính thức cuả tờ báo. 3, Thờng hớng về một vấn đề hoặc một sự kiện có tính
thời sự cấp thiết. 4, Đây là một thể loại đợc xem nh giàu tính văn học trong đó
yếu tố văn học nổi trội nhất là giọng điệu châm biếm, khôi hài. 5, Nhận dạng
về hình thức in ấn, tiểu phẩm thờng đợc in bằng kiểu chữ nghiêng. Trên mặt
báo, tiểu phẩm thờng nằm ở phần dới của trang cuối tờ báo.
Đã có hai quan niệm nảy sinh trên thực tế phong phú và phức tạp của
sáng tác tiểu phẩm. Quan niệm thứ nhất cho rằng tiểu phẩm là thể loại nằm
giao thoa giữa văn học và báo chí. Quan niệm thứ hai là có sự song song tồn
tại hai kiểu tiểu phẩm: tiểu phẩm văn học và tiểu phẩm báo chí. Theo chúng
tôi, trong hai quan niệm nói trên chỉ có thể chấp nhận quan niệm thứ nhất. Tức
là chỉ có thể xem tiểu phẩm nh một thể loại mang tính giao thoa. Hay có thể
quan niệm chỉ có một thể loại tiểu phẩm duy nhất- tiểu phẩm báo chí nảy sinh,
phát triển từ nhu cầu của hoạt động thông tin báo chí, gắn liền với sự phát
triển của báo chí. Do sinh sau đẻ muộn, thể loại tiểu phẩm báo chí hết sức
năng động, đầy sức sống, sẵn sàng tiếp nhận các ảnh hởng tích cực của văn
học. Tiểu phẩm báo chí nhanh chóng tiếp thu một số yếu tố sáng tạo của kiểu
t duy nghệ thuật (t duy văn học), đồng hoá, biến thành thuộc tính, thành tiềm
16
năng thể loại của mình. Chúng ta có thể tìm hiểu và xác nhận điều đó qua tiểu
phẩm báo chí của Ngô Tất Tố.
1.2.1.2. Báo chí Việt Nam với thể loại tiểu phẩm báo chí
Trong lịch sử báo chí thế giới, ngời ta ghi nhận tiểu phẩm đã xuất hiện
từ hơn hai trăm năm gắn liền với cuộc cách mạng dân chủ t sản Pháp. Tiểu
phẩm báo chí ra đời do yếu tố khách quan của xã hội, là tiếng nói của giai cấp
cách mạng, tiếng nói của khuynh hớng vận động tích cực hợp với quy luật lịch
sử chống lại giai cấp phản động. Phẩm chất tiêu biểu tạo nên tính chiến đấu
của tiểu phẩm là tỉếng cời châm biếm. Nhiều nhà văn, nhà báo lớn có t tởng
tiến bộ ở Châu Âu trớc đây đã sử dụng tiểu phẩm trên diễn đàn báo chí để
công khai đả kích, châm biếm, lên án sự thối nát bất công của xã hội đơng
thời. Lịch sử tiểu phẩm báo chí gắn liền với các tên tuổi của các nhà văn nổi
tiếng nh Annton Frăng, Gorơki, Lỗ Tấn,những lãnh tụ vĩ đại của giai cấp
công nhân thế giới nh C. Mác, Ph. Ăngghen, Lênin đã sử dụng tiểu phẩm báo
chí nh một vũ khí sắc bén trong đấu tranh chống kẻ thù giai cấp.
ở nớc ta, do báo chí ra đời và phát triển muộn nên thể loại tiểu phẩm
cũng ra đời muộn hơn so với các nớc phơng tây. Vào những năm hai mơi của
thế kỷ XX thể loại tiểu phẩm mới xuất hiện lẻ tẻ trên mặt báo nên cha tạo đợc
sự chú ý của d luận. Bởi vì tiểu phẩm báo chí lúc này còn quá ít, trình độ văn
hoá của quần chúng còn quá thấp và ảnh hởng của báo chí trong xã hội rất hạn
chế. Hơn nữa, chế độ thống trị hà khắc của bọn thực dân, phong kiến làm ngời
viết có phần dè dặt, lo ngại. Theo Vũ Ngọc Khánh, tác phẩm Tên là gì?
của tác giả Đ.T.L đăng ở tờ Đăng cổ trùng báo năm 1907 là một trong
những tiểu phẩm châm biếm bằng văn xuôi đầu tiên ở nớc ta. Nó ra đời trong
phong trào Duy Tân, có tác dụng đả kích óc phẩm hàm, thói h danh và đề cao
thực nghiệp theo khuynh hớng t sản. Trên thực tế, phải đến năm 30 của thế kỷ
XX, khi mà báo chí công khai phát triển rầm rộ thì tiểu phẩm báo chí mới
17
khẳng định đợc vai trò vị trí của mình là một thể loại có uy lực. Đặc biệt,
trong thời kỳ mặt trận dân chủ 1936- 1939, khi báo chí tiến bộ và cách mạng
có điều kiện phát triển công khai thì tiểu báo chí mới thực sự nở rộ. Trong giai
đoạn này, một số ngời cầm bút sử dụng thể loại tiểu phẩm để làm vũ khí đã
kích, nhằm phơi bày bản chất xấu xa tàn bạo của xã hội thực dân phong kiến
và những thói h tật xấu trong xã hội. Trong số các tác giả sử dụng thể loại tiểu
phẩm báo chí dễ dàng nhận thấy Nguyễn ái Quốc và Ngô Tất Tố sớm khảng
định tên tuổi và vị trí của mình là hai nhà báo xuất sắc nhất đối với thể loại
báo chí này. Trong báo chí, tiểu phẩm là thể loại có dung lợng nhỏ và xuất
hiện ít hơn so với các thể loại nh tin, phóng sự, bình luận xã hội.nhng với sự
ra đời và phát triển gắn liền với những tên tuổi Nguyễn ái Quốc, Ngô Tất Tố,
tiểu phẩm khảng định đợc vai trò là vũ khí sắc bén vạch mặt, đấu tranh trực
tiếp với các lực lợng đen tối trong xã hội. Tiểu phẩm là một thể loại báo chí
đặc sắc, độc đáo và hấp dẫn, đợc sử dụng rộng rãi trên báo chí Việt Nam hiện
nay.
1.2.2. Tiểu phẩm báo chí của Ngô Tất Tố
1.2.2.1. Nghệ thuật trào phúng trong tiểu phẩm Ngô Tất Tố
Ngô Tất Tố không chỉ là một nhà văn hiện thực xuất sắc, nhà nghiên
cứu phê bình, dịch thuật u tú mà còn là nhà báo kỳ cựu và có biệt tài trớc cách
mạng tháng Tám. Những tiểu phẩm báo chí của ông giàu tính nghệ thuật, có
sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý trí và hình tợng thông qua những sự kiện,
những tài liệu cụ thể tạo nên sức thuyết phục mạnh mẽ. Đọc các tiểu phẩm
báo chí của ông dễ dàng nhận thấy một nghệ thuật châm biếm sắc sảo, thâm
thuý, đậm đà tính dân tộc. Bằng các tiểu phẩm ngắn gọn, đanh thép, dí dỏm
trong các mục nói mà chơi, nói hay đừngNgô Tất Tố đã phanh phui
những điều bất công, nhơ nhuốc, nhan nhản trong cuộc sống trớc mắt, làm cho
không ít kẻ phải nhục nhã ê chề trớc d luận công chúng, khiến cho cái xã hội
18
đơng thời phải hiện nguyên hình là cái quái thai của cái xã hội thực dân phong
kiến. Trớc hết, với cái nhìn sắc bén tỉnh táo, Ngô Tất Tố đã chỉa ngòi bút trào
phúng vào những chính sách bịp bợm của các phong trào bảo tồn quốc tuý,
vui vẻ trẻ trung, cải lơng hơng chính, các thuyết bảo hộ tự trị, mị dân của
thực dân Pháp đợc bọn bồi bút tung hô. Các tiểu phẩm của Ngô Tất Tố đã
vạch trần bộ mặt của những kẻ cơ hội, đầu cơ chính trị (Ông Phạm Quỳnh là
bạc tình lang), mỉa mai bọn ngời hô hào phong trào bảo tồn quốc tuý để ru
ngủ thanh niên(Mời năm nữa báo chí Bắc kì sẽ cổ động đến
bọn thò
lò quay đất), châm biếm bọn nghị viên bù nhìn (Bọn dân biểu suy đới ông
Phạm Huy Lục là phải), giễu cợt những kẻ buôn thần bán thánh, đĩ thoã (Kiểu
đất ở phố hàng Trống).
Tranh thủ điều kiện thuận lợi của thời kỳ mặt trận dân chủ, Ngô Tất Tố
viết nhiều tác phẩm có tính chiến đấu cao. Cha lúc nào ngòi bút của ông tỏ ra
sắc sảo và dũng cảm bằng lúc này. Ông phân tích trực tiếp mâu thuẫn xã hội
lúc đó, tức là mâu thuẫn giữa nhân dân cần lao với bọn thực dân xâm lợc. Ông
viết các tiểu phẩm báo chí đánh trực tiếp vào bọn thực dân Pháp, trớc hết là
chính sách kinh tế nhằm vơ vét thuộc địa, làm kiệt quệ đời sống của nhân dân
ta (Cho no đủ đã, Dân vô sản với những ngày đã đợc gọi là kinh tế phục hng).
Ngô Tất Tố phanh phui những trò hề bịp bợm về cái gọi là công lao bảo hộ,
khai hoá thực chất là những trò đầu độc nhân dân bằng thuốc phiện (Từ nay
dân Pháp lại khổ hơn dân An Nam một lần nữa). Ông còn gọi tên chỉ mặt
những tên thực dân cỡ lớn nh Tholance, thủ hiến Bắc Kỳ, Pagces, thống đốc
Nam Kì đại diện cho mẫu quốc ở Việt Nam( Ông thống sứ với trận ma hôm
nọ, Ông Pages có đọc qua Trang Tử). Sau bọn thực dân, Ngô Tất Tố chú ý
nhiều và lên án mạnh nhất bọn quan lại và những thủ đoạn độc ác, dã man
nhất là những mánh khoé bóc lột của chúng (Tơng lai với thái thợng lão quân,
Dân quê chúng tôi muốn đợc tự do mất cớp). Bằng cái nhìn sắc sảo, Ngô Tất
Tố đả kích vào mọi mắt xích của bộ máy cai trị của thực dân Pháp. Ông châm
19
biếm cay độc bọn dân biểu tìm mọi cách để giữ cái ghế bù nhìn (Tôi muốn cử
ông Phạm Huy Lục). Ông lên án bọn dốt nát bịp bợm kiếm tiền bằng nghề
thầy lang (Dao cầu thuyền tán), bọn lợi dụng buôn thần bán thánh để làm
những điều xằng bậy (Lời của Giản Ung đã đợc thực hành), bọn nhà báo nịnh
bợ (Kính mừng Việt Nam tổ quốc và tiếc thay cho làng báo của nó), bọn văn
sĩ xu thời cổ động những trò khoái lạc (Không nên quên một bọn văn sĩ ).
Bên cạnh những bài đã kích, châm biếm xã hội thực dân phong kiến,
Ngô Tất Tố viết nhiều bài báo phản ánh những nỗi đắng cay, cực khổ của ngời
nông dân dới hai tầng áp bức (Một cái thảm trạng, Làm no hay cái ăn trong
những ngày nớc ngập). ở những tiểu phẩm này, ông phân tích nguyên nhân
thiếu đói, khơi gợi tinh thần đấu tranh của nông dân (Thế thì nhà báo là ông
trời, Dạ dày Nam không tốt bằng dạ dày Bắc,), cổ động những giá trị tiến
bộ trong xã hội (Tiếng đàn thần kinh ). Nh vậy, nếu nh thời kỳ này, tiểu phẩm
cha đợc xem trọng và đánh giá đúng mức trong ý thức của ngời viết cũng nh
ngời đọc thì ở Ngô Tất Tố không để cho thể loại báo chí này trợt sang phía
khôi hài phù phiếm. Ông đã làm đợc nh Lỗ Tấn quan niệm Văn tiểu phẩm
muốn tồn tại thì phải là mũi dao nhọn, là khẩu súng, có thể cùng với ngời đọc
mở một con đờng sống bằng máu (Tạp văn Lỗ Tấn, Nxb Văn hoá thông tin,
H.2002). Mũi dao nhọn, khẩu súng ấy trong tiểu phẩm báo chí của Ngô Tất
Tố chính là thái độ châm biếm mạnh mẽ, là nghệ thuật trào phúng sâu sắc.
1.2.2.2. Màu sắc văn học trong các tiểu phẩm báo chí của Ngô Tất Tố
Tiểu phẩm báo chí của Ngô Tất Tố đứng về mặt thể loại gần gũi với tạp
văn của Lỗ Tấn. Các tiểu phẩm của Ngô Tất Tố đăng trên báo chí hàng ngày
mang tính chất của những bài bình luận xã hội, bình luận thời sự chính trị có
sức thuyết phục logíc, có căn cứ và lập luận chặt chẽ. Gọi là tiểu phảm báo chí
vì các tác phẩm này đều khai thác một cách thời sự chuyện có thật trong đời
sống hàng ngày. Ngời và việc trong các tiểu phẩm của ông thờng có địa chỉ từ
20
báo ngày nay, nhóm tự lực văn đoàn cho đến các nhân vật nh Thống sứ
Tholance, Thống đốc Pages, rồi các nhân vật trên chính trờng Nam triều nh
Phạm Huy Lục, Lê Ngọc Thiều đến các trí thức nh Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn
Vĩnh,Nói ngời thật việc thật chủ yếu không phải để ngợi ca mà đã kích
châm biếm nên tính đấu tranh, khẩu khí bút chiến của các tiểu phẩm thể hiện
rất rõ rệt. Toàn bộ tiểu phẩm của Ngô Tất Tố làm thành một bức tranh rộng
lớn và chân thực về xã hội thực dân phong kiến Việt Nam trớc cách mạng
tháng Tám. Tiểu phẩm báo chí của ông cũng là một phòng triển lãm những
bức chân dung đợc phác thảo theo kiểu biếm hoạ của giai cấp thống trị và
những kiểu ngời điển hình trong xã hội cũ. Nghĩa là tiểu phẩm của Ngô Tất Tố
đã phản ánh chân thực sự kiện, thông tin ngời thật việc thật thông qua những
hình tợng có sức truyền cảm mạnh mẽ, sâu sắc đối với ngời đọc. Hay nói cách
khác, tiểu phẩm báo chí của Ngô Tất Tố có giá trị văn học. Chính vì điều này
mà các nhà nghiên cứu nh Phan Cự Đệ (1997 ), Hà Minh Đức (1998 )đều
cho rằng tiểu phẩm của Ngô Tất Tố vừa là tiểu phẩm báo chí vừa là tiểu phẩm
văn học, còn tác giả Cao Đắc Điểm, Ngô Thị Thanh Lịch (2008) thì gọi các
tiểu phẩm báo chí của ông là tản văn. Khác với tạp văn của Lỗ Tấn giàu chất
trữ tình, phong cách châm biếm trong tiểu phẩm của Ngô Tất Tố là sự kết hợp
hài hoà cái thâm thuý của một nhà nho trí thức với cái vui tơi hồn hậu, lạc
quan, giàu chất chiến đấu của văn học dân gian. Biện pháp hình tợng hoá
trong các tiểu phẩm báo chí của ông thờng là mợn những chuyện có sẵn trong
sử sách hoặc trong cuộc sống, những tục ngữ ca dao hoặc các truyền thuyết
dân gian để làm nổi bật vấn đề mình định viết. Ông khai thác vốn Nho học
uyên thâm của mình để liên hệ những chuyện đời xa với đời nay ở các điển
tích (Ông thống sứ với trận ma hôm nọ, Bộ thuộc địa với anh chàng Đặng Bá
Đạo,). Sự so sánh thật tài tình đôi khi đã gây đợc ấn tợng mạnh mẽ vì nó tạo
ra cho các tiểu phẩm một chiều sâu t tỏng và hình tợng hoá đối tợng đã kích
thành một nhân vật quen thuộc vốn xa nay bị ngời đời nguyền rủa. Là nhà văn
tài năng nên khi viết tiểu phẩm báo chí ông đã dùng kiến thức văn chơng để
21
liên hệ, so sánh, cảm nhận sự việc, con ngời dới nhiều góc độ, vừa là sự việc
trong đời sống vừa là báo chí nhng cũng là văn chơng. Hơn nữa, ngôn từ trong
các tiểu phẩm của ông có giá trị văn học. Dĩ nhiên, điều nổi bật trong các tiểu
phẩm báo chí của Ngô Tất Tố là tinh thần đấu tranh mạnh mẽ cho công bằng
xã hội, cho quyền sống con ngời. Phẩm chất ấy thể hiện trong các tiểu phẩm
tạo nên dũng khí và linh hồn của ngòi bút. Phẩm chất ấy thể hiện bằng một
thứ ngôn ngữ có sự kết hợp giữa nét sắc nhọn mạnh mẽ của ngôn ngữ báo chí
với tính chất thâm thuý, nhuần nhuỵ, hàm súc của ngôn ngữ văn chơng. Dờng
nh, ở các tiểu phẩm báo chí của ông, ngời đọc thấy đợc dụng công của tác giả
về mặt ngôn từ.
1.3. Tiểu kết
Ba mơi tuổi, Ngô Tất Tố bớc vào làng báo, làng văn và suốt ba mơi năm
còn lại của cuộc đời, ông chân thành miệt mài đem ngòi bút cống hiến cho sự
nghiệp chung, cho nền văn hoá của dân tộc. Sự nghiệp báo chí của Ngô Tất Tố
chỉ là bộ phận nhỏ trong toàn bộ sự nghiệp hoạt động văn hoá của ông nhng
đã ghi dấu những đóng góp vừa tài hoa, độc đáo, vừa thiết thực, đáng trân
trọng của ông. Các nhà nghiên cứu gần nh đã thống nhất đánh giá: Ngô Tất
Tố- một nhà nho yêu nớc, thức thời, một cây bút chiến đấu sắc bén; nhà tiểu
thuyết phóng sự đặc sắc; nhà khảo cứu, dịch thuật đầy tâm huyết; một nhà báo
có biệt tài. Quả thực, cha nói tới các lĩnh vực khác, chỉ riêng ở tiểu phẩm báo
chí cũng đã thấy rõ tính chất phong phú và đa dạng của ngòi bút Ngô Tất Tố.
Tiểu phẩm báo chí của Ngô Tất Tố cũng là tiểu phẩm văn học. Đơng nhiên,
ông là nhà văn tài năng nên các loại hình sáng tác thờng mang đậm dấu ấn văn
học. Tiểu phẩm báo chí của Ngô Tất Tố chất chứa kiến thức văn chơng, tạo
điều kiện cho ông liên hệ, so sánh, cảm nhận các sự kiện, sự việc trong đời
sống dới nhiều góc độ, vừa là sự kiện báo chí, vừa là văn chơng. Dĩ nhiên,
điều nổi bật trong tiểu phẩm của ông là tinh thần đấu tranh mạnh mẽ cho công
bằng xã hội, cho quyền sống con ngời. Phẩm chất ấy thể hiện trong các tiểu
22
phẩm tạo nên linh hồn và dũng khí của ngòi bút. Điều đặc biệt là ngôn ngữ
tiểu phẩm của Ngô Tất Tố có nhiều nét đặc sắc, có sự giao thoa giữa ngôn ngữ
sự kiện (định lợng) và ngôn ngữ nghệ thuật. Chính vì lẽ đó, ở những chơng
tiếp theo chúng tôi mạnh dạn tìm hiểu tiểu phẩm báo chí của Ngô Tất Tố từ
góc độ ngôn ngữ nhằm góp phần khảng định một tài năng đa dạng, độc đáo.
Chơng 2
Từ ngữ và hình thức diễn đạt
trong tiểu phẩm báo chí của Ngô Tất Tố
2.1. Sử dụng linh hoạt vốn từ vựng tiếng Việt
2.1.1. Dẫn nhập
23
Từ là một trong số các đơn vị cơ bản nhất của ngôn ngữ. Nó ở vào vị trí
trung tâm của hệ thống ngôn ngữ. Nó là cơ sở để con ngời có thể tiến hành
hoạt động nhận thức và tạo ra mọi sản phẩm ngôn ngữ (câu, đoạn, văn bản)
phục vụ nhu cầu giao tiếp của con ngời. Hoạt động giao tiếp và nhận thức của
con ngời chính là bắt đầu từ đơn vị cơ sở là từ. Đợc sử dụng trong hoạt động
giao tiếp với một lịch sử lâu dài, ở các từ của ngôn ngữ dần dần định hình
những đặc điểm về phong cách, mang những màu sắc phong cách. Những đặc
điểm hay màu sắc này trở thành nét đặc thù của từ, gắn liền với sự xuất hiện
của từ trong giao tiếp. Chúng tạo nên bình diện phong cách của từ. Đặc điểm
hay màu sắc phong cách nảy sinh trên cơ sở những liên tởng thờng xuyên gắn
với cách sử dụng thông thờng từ đó trong những phạm vi lời nói nhất định,
hoặc những hoàn cảnh trao đổi nhất định.
Ngôn ngữ của các tác phẩm báo chí phải mang đợc ý nghĩa của chúng
tới những đối tợng công chúng vô cùng đa dạng. Ranh giới của công chúng
trải dài từ cái ngời ta gọi là mới biết đọc biết viết cho đến việc thông thạo
hoàn toàn và có nhận thức tiếng mẹ đẻ với tất cả sắc thái tinh tế của nó. Nhiệm
vụ của ngời làm báo là không chỉ có sự chính xác về sự kiện mà còn phải đợc
thể hiện bằng ngôn ngữ có cá tính độc đáo. Và về mặt ngôn ngữ thì không chỉ
quan tâm đến cấu trúc văn bản mà còn phải chú ý đến từng câu, rồi việc lựa
chọn từ ngữ là hết sức quan trọng. Tài năng của ngời viết thể hiện ở chỗ lựa
chọn và sử dụng từ ngữ trong các bài viết của mình để đạt hiệu quả cao nhất.
Đối với Ngô Tất Tố, ông đã sử dụng hết sức linh hoạt vốn từ vựng tiếng Việt,
khai thác triệt để những tiềm năng của vốn từ dân tộc để tạo nên những câu
văn hay, những tiểu phẩm báo chí đặc sắc. Đọc các tiểu phẩm báo chí của ông
chúng ta có thể thấy tác giả tập trung khai thác và sử dụng có hiệu quả các lớp
từ nh: từ Hán Việt, từ khẩu ngữ, thành ngữ,
2.1.2. Các lớp từ tiêu biểu trong tiểu phẩm báo chí của Ngô Tất Tố
24
2.1.2.1. Sử dụng từ Hán- Việt
a. Vài nét về từ Hán- Việt
Từ Hán- Việt là kết quả của một quá trình tiếp xúc văn hoá và ngôn ngữ
Việt- Hán kéo dài trong hai thiên niên kỉ, trong những hoàn cảnh lịch sử đặc
biệt, với những phơng cách nói chung là không bình thờng, trong đó tài trí
thông minh của biết bao thế hệ tiền nhân đã đợc động viên và phát huy mạnh
mẽ nhằm bảo tồn và phát triển ngôn ngữ dân tộc. Từ Hán- Việt là từ Việt có
nguồn gốc từ tiếng Hán, đã nhập vào hệ thống từ vựng của tiếng Việt, chịu sự
chi phối của các quy luật ngữ âm, ngữ pháp và ngữ nghĩa của tiếng Việt. Theo
cách hiểu thông thờng, từ Hán- Việt là những từ mợn tiếng Hán từ thời Đờng,
Tống nhng đọc theo cách đọc Hán Việt, tức là cách đọc chữ Hán của ngời
Việt.
Trong từ vựng tiếng Việt, những từ thuần Việt và Hán- Việt có ý nghĩa
tơng đơng (đẳng nghĩa ) vẫn cùng tồn tại nhng khác nhau về sắc thái ý nghĩa,
về sắc thái biểu cảm, cảm xúc, bình giá và phong cách.
Nh đã biết, với cách đọc Hán Việt cho ta từ Hán Việt, từ đó tiếng Việt
có thêm một vốn từ vựng hết sức phong phú về số lợng và đa dạng về chất lợng. Hơn nữa, âm Hán- Việt lại đợc ghi bằng chữ quốc ngữ nên từ Hán- Việt
đã đem lại cho ngời Việt khả năng tri nhận mới về nghĩa một cách tự do hơn,
nhờ đó ngoài việc biểu thị chính xác các khái niệm, nghĩa của từ Hán Việt có
thể phát triển theo t duy liên tởng của ngời Việt, làm nảy sinh một loạt vấn đề
thú vị trong tiếng Việt nh các hiện tợng đồng âm, đồng nghĩa,làm phong
phú vốn từ tiếng Việt cả trong sử dụng. Lớp từ này đâ góp phần tích cực vào
việc làm cho tiếng Việt thêm giàu có, tinh tế, chuẩn xác, uyển chuyển; đủ khả
năng đáp ứng một cách tốt nhất mọi yêu cầu do cuộc sống văn hoá - xã hội
phát triển đề ra. Trong sự đối sánh với từ thuần Việt, từ Hán- Việt không
mang tính chất miêu tả sinh động, mang tính chất tĩnh tại nhng lại có sắc thái
25
nghĩa trừu tợng khái quát. Về màu sắc biểu cảm, cảm xúc, từ Hán Việt mang
sắc thái trang trọng, thanh nhã, ý nhị. Về màu sắc phong cách, từ Hán Việt
mang phong cách gọt dũa và đợc dùng trong các phong cách khoa học, chính
luận, hành chính. Đối với ngời bản địa, từ Hán Việt vừa là thực thể vừa quen
lại vừa lạ nhng đối với nhà nho Ngô Tất Tố thì lớp từ này lại vô cùng quen
thuộc. Dĩ nhiên, ông dễ dàng nhận ra kho tàng từ ngữ Hán- Việt vừa phong
phú, đa dạng về số lợng và chất lợng, góp phần tích cực vào sự nghiệp bảo tồn
và phát triển tiếng Việt.
b. Từ Hán- Việt trong tiểu phẩm báo chí Ngô Tất Tố
Do tiểu phẩm báo chí có sự kết hợp giữa ngôn ngữ sự kiện với ngôn ngữ
nghệ thuật nên cho phép sử dụng các lớp từ thuộc nhiều phong cách khác
nhau. Cố nhiên, việc khai thác và sử dụng chủ yếu lớp từ nào là tuỳ thuộc ở
kiểu lựa chọn của ngời viết. Là một nhà nho có vốn kiến thức uyên thâm, Ngô
Tất Tố đã phát huy từ vốn Hán học, vốn văn hoá Phơng Đông mà trớc hết là
lớp từ Hán- Việt. Nhà Nho Ngô Tất Tố đã thấy đợc tiềm năng vô cùng to lớn
của từ Hán- Việt, ông đã khai thác và sử dụng chúng một cách dày đặc trong
các tiểu phẩm. Qua cách sử dụng của Ngô Tất Tố, các từ Hán- Việt đã tạo đợc
những liên tởng bất ngờ, thú vị, những hàm nghĩa tinh tế làm bật lên những
tiếng cời châm biếm sâu cay, đem lại cho từ Hán- Việt những màu sắc tu từ
độc đáo. Vì thế, đánh giá về Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng viết Ngô Tất Tố
là một nhà báo về phái Nho học và là một tay ngôn luận xuất sắc trong đám
nhà Nho (Tắt đèn của Ngô Tất Tố, báo Thời vụ, số 100, ngày 31-1- 1939).
Cũng làm báo nhng Ngô Tất Tố rất khác những nhà báo phần lớn là tân
học, nên khi viết tiểu phẩm ông không để cho thể loại báo chí này trợt sang
phía khôi hài, phù phiếm. Ông đã làm đợc nh cách của Lỗ Tấn Viết tiểu
phẩm muốn tồn tại phải là mũi dao nhọn, là khẩu súng, có thể cùng với ngời
đọc mở một con đờng sống bằng máu ( Văn tiểu phẩm khủng hoảng, tạp văn