Tải bản đầy đủ (.doc) (104 trang)

Một số giải pháp quản lý sinh viên trong đào tạo theo hệ thông tín chỉ ở trường đại học vinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (400.96 KB, 104 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

LÊ CÔNG ĐỨC

MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ SINH VIÊN TRONG
ĐÀO TẠO THEO HỆ THỐNG TÍN CHỈ
Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ GIÁO DỤC
MÃ SỐ: 06.14.05

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS PHẠM MINH HÙNG

VINH, 2009


2

LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm chân thành, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đến Lãnh
đạo Nhà trường, Khoa Sau đại học Trường Đại học Vinh đã tạo điều
kiện thuận lợi cho chúng tôi được học tập, nghiên cứu nâng cao trình độ
đáp ứng yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao của nhiệm vụ mới.
Xin chân thành cảm ơn các nhà giáo, các nhà khoa học đã tận tình
giảng dạy, giúp đỡ chúng tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu vừa
qua. Đặc biệt, tôi xin chân thành cảm ơn Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phạm


Minh Hùng - người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi hoàn thành luận
văn tốt nghiệp Thạc sĩ chuyên ngành Quản lý giáo dục.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới tất cả anh em, bạn bè, đồng nghiệp
đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ tôi trong quá tình học tập, nghiên cứu.
Những nội dung học tập được ở trường thông qua tài liệu, được các
nhà giáo lên lớp, hướng dẫn nghiên cứu cùng với sự giúp đỡ của các
đồng nghiệp đã giúp tôi nâng cao nhận thức để hoàn thiện đề tài:“Một
số giải pháp quản lý sinh viên trong đào tạo theo hệ thống tín chỉ ở
Trường Đại học Vinh’’.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
Tác giả: Lê Công Đức

BẢNG CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
1.
2.
3.

ANTT
ATGT
CBCC

An ninh trật tự
An toàn giao thông
Cán bộ, công chức


3

4.
5.

6.
7.
8.
9.
10.
11.
12.
13.
14.
15.
16.
17.
18.
19.
20.
21.
22.
23.
24.
25.
26.
27.
28.

CLB
CNKH
CNTT
CSVC
CSKV
CTCT

CTXH
ĐHSP
Đ.
GD
GDĐH
GD&ĐT
GS
KS
KTX
LHS
PGS
QLGD
QLSV
SĐH
SP
THCN
ThS
TL QLSV
TS

Câu lạc bộ
Cử nhân khoa học
Công nghệ thong tin
Cơ sở vật chất
Cảnh sát khu vực
Công tác chính trị
Công tác xã hội
Đại học sư phạm
Điều
Giáo dục

Giáo dục đại học
Giáo dục và Đào tạo
Giáo sư
Kỹ sư
Ký túc xá
Lưu học sinh
Phó Giáo sư
Quản lí giáo dục
Quản lý sinh viên
Sau đại học
Sư phạm
Trung học chuyên nghiệp
Thạc sĩ
Trợ lý Quản lý sinh viên
Tiến sĩ

MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
BẢNG CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN...............................1
MỞ ĐẦU.......................................................................................................2


4

CHƯƠNG 1: Cơ sở lý luận của đề tài ......................................................7

1.1. Sơ lược lịch sử vấn đề nghiên cứu.......................................................7
1.2. Một số khái niệm cơ bản....................................................................10
1.3. Mục đích, yêu cầu của công tác quản lý sinh viên.............................25
1.4. Các nội dung của công tác QLSV và hệ thống tổ chức,QLSV..........27

CHƯƠNG 2: Thực trạng công tác quản lý sinh viên trong đào tạo theo

hệ thống tín chỉ ở Trường Đại học Vinh........................31
2.1. Khái quát về Trường Đại học Vinh.....................................................31
2.2. Thực trạng công tác quản lý sinh viên ở Trường Đại học Vinh..........38
2.3. Một số hoạt động về quản lý sinh viên trong đào tạo theo hệ thống tín
chỉ đã thực hiện ở Trường Đại học Vinh.............................................59
2.4. Nguyên nhân của thực trạng................................................................64
CHƯƠNG 3: Một số giải pháp quản lý sinh viên trong đào tạo theo hệ

thống tín chỉ ở Trường Đại học Vinh..............................67
3.1. Các nguyên tắc đề ra giải pháp............................................................67
3.2. Các nhóm giải pháp quản lý sinh viên trong đào tạo theo hệ thống tín
chỉ ở Trường Đại học Vinh.................................................................68
3.3. Khảo nghiệm tính cần thiết và khả thi của các giải pháp....................92
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.......................................................................96
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................99
PHỤ LỤC

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tuyên bố của UNESCO năm 1994 nêu rõ: “Không có một sự tiến bộ và
thành đạt của quốc gia nào có thể tách khỏi sự tiến bộ và thành đạt trong lĩnh vực
giáo dục của quốc gia đó. Và những quốc gia nào coi nhẹ giáo dục hoặc không


5

đủ tri thức và khả năng cần thiết để làm giáo dục một cách hiệu quả thì số phận
của quốc gia đó xem như đã an bài và điều đó còn tội tệ hơn cả sự phá sản”

[16,45]. Như vậy, giáo dục có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với mỗi quốc gia,
dân tộc, có quan hệ mật thiết với sự hưng vong của mỗi quốc gia. Do đó, rất
nhiều nước trên thế giới đã coi giáo dục là “quốc sách hàng đầu”, đầu tư cho giáo
dục là đầu tư cho một tương lai phát triển bền vững.
Ở nước ta, từ khi Cách mạng tháng Tám thành công đến nay, giáo dục
Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, thể hiện trong các mặt: nâng cao
dân trí, đào tạo nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn kĩ thuật, bồi dưỡng nhân
tài phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Bước vào thế kỷ XXI với sự
phát triển như vũ bão của cách mạng khoa học - công nghệ, đặc biệt là công nghệ
thông tin và xu thế toàn cầu hóa, vai trò của giáo dục lại ngày càng trở nên quan
trọng, là động lực phát triển và là nhân tố quyết định tương lai, vận mệnh đất
nước.
Trước yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp phát triển giáo dục trong bối
cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt khi Việt Nam đã trở
thành thành viên chính thức của tổ chức Thương mại thế giới, các cơ sở giáo dục
trong nước nói chung, các trường đại học nói riêng một mặt phải phát huy những
thành tựu đã đạt được, mặt khác phải kiên quyết và nhanh chóng khắc phục
những hạn chế, yếu kém, tận dụng tối đa các cơ hội, vượt qua những thách thức
trong quá trình hội nhập để phát triển và nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng
đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục, góp phần tích cực vào công cuộc đổi
mới phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Song song với sự phát triển của các mặt kinh tế, xã hội, số lượng sinh viên,
chất lượng đào tạo của hệ thống giáo dục cũng được nâng lên, dần hoà nhập với
xu thế hội nhập quốc tế. Tuy vậy, sự phát triển của kinh tế và sự giao lưu về văn
hoá cũng làm nẩy sinh những tác động tiêu cực, gây ra nhiều tệ nạn xã hội, tác


6

động không nhỏ đến đời sống của giới trẻ. Nhiệm vụ quản lý, giáo dục sinh viên

lại được đặt ra cho các trường chuyên nghiệp nói riêng và cho xã hội nói chung.
Công tác học sinh, sinh viên, đặc biệt là công tác QLSV trở thành vấn đề được dư
luận xã hội, đông đảo phụ huynh và lãnh đạo các trường đại học, cao đẳng đặc
biệt quan tâm.
Hiện nay, Trường Đại học Vinh là một trong những trường đại học đầu
tiên trong cả nước chuyển từ đào tạo theo học chế niên chế truyền thống sang đào
tạo theo hệ thống tín chỉ. Cách thức tổ chức, quản lý cũ hầu như bị phá vỡ, mô
hình quản lý cũ không còn phù hợp, trong khi mô hình quản lý mới đang bắt đầu
hình thành, công tác QLSV còn gặp rất nhiều khó khăn. Do đó, đổi mới công tác
quản lý sinh viên là một yêu cầu cấp bách được đặt ra cho Nhà trường trong thời
gian tới.
Từ những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài: “Một số giải pháp quản lý
sinh viên trong đào tạo theo hệ thống tín chỉ ở Trường Đại học Vinh” để làm
đề tài nghiên cứu của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và khảo sát thực tiễn, đề xuất các giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả công tác QLSV trong đào tạo theo hệ thống tín chỉ ở
Trường Đại học Vinh.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu:
3.1. Khách thể nghiên cứu: Công tác quản lý sinh viên ở Trường Đại học Vinh.
3.2. Đối tượng nghiên cứu: Một số giải pháp QLSV trong đào tạo theo hệ thống
tín chỉ ở Trường Đại học Vinh.
4. Giả thuyết khoa học
Có thể nâng cao hiệu quả của công tác QLSV trong đào tạo theo hệ thống
tín chỉ ở Trường Đại học Vinh nếu đề xuất được các giải pháp có cơ sở khoa học
và có tính khả thi.


7


5. Nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận của đề tài.
4.2. Nghiên cứu cơ sở thực tiễn của đề tài.
4.3. Đề xuất các giải pháp QLSV trong đào tạo theo hệ thống tín ở Trường Đại
học Vinh.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Các phương pháp nghiên cứu lý luận: Phân tích, khái quát các tài liệu nghiên
cứu lý luận, các văn bản nghị quyết của Đảng, Nhà nước và các quy chế, quy
định của ngành giáo dục và đào tạo có liên quan đến đề tài.
6.2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
- Phương pháp điều tra qua các phiếu xin ý kiến.
- Phương pháp đàm thoại, phương pháp chuyên gia: Trao đổi, phỏng vấn
trực tiếp cán bộ quản lý, giảng viên, sinh viên, chính quyền địa phương, cảnh sát
khu vực, các hộ kinh doanh phòng trọ sinh viên… nhằm thu thập thêm thông tin
bổ sung cho phần nghiên cứu thực trạng.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: nghiên cứu thực tiễn để từ đó rút ra
những kết luận và bài học kinh nghiệm cho công tác QLSV trong đào tạo theo hệ
thống tín chỉ nhằm đạt hiệu quả cao nhất.
6.3. Phương pháp thống kê toán học.
7. Đóng góp của luận văn
- Về lý luận: Nêu và hệ thống hoá các cơ sở lý luận của công tác quản lý
sinh viên trong đào tạo theo tín chỉ.
- Về thực tiễn: Đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao công tác quản lý sinh
viên trong đào tạo theo tín chỉ ở Trường Đại học vinh
8. Cấu trúc của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn gồm có 3
chương:
Chương I . Cơ sở lý luận của đề tài.



8

Chương II. Thực trạng công tác quản lý sinh viên trong đào tạo theo hệ
thống tín chỉ ở Trường Đại học Vinh.
Chương III. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả của công tác quản lý sinh
viên trong đào tạo theo hệ thống tín chỉ ở Trường Đại học Vinh.

CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. SƠ LƯỢC LỊCH SỬ CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU


9

Công tác QLSV là một mảng lớn của công tác quản lý nhà trường, do đó
nó luôn được các nhà nghiên cứu giáo dục trong và ngoài nước, các trường đại
học, cao đẳng hết sức quan tâm.
1.1.1. Ở nước ngoài
Phương thức đào tạo theo hệ thống tín chỉ đã được áp dụng ở nhiều nước
trên thế giới từ đầu thế kỷ XX. Nó được áp dụng rộng rãi nhất ở Hoa Kỳ, tiếp là
các nước như: Canađa, Nhật Bản, Philippin, Hàn Quốc, Thái Lan, Malaixia,
Inđônêxia, ấn Độ, Sênêgan, Môzămbích, Nigêria, Uganđa, Camơrun. Do đã đào
tạo khá lâu đời, trong quá trình phát triển, nhiều vấn đề về nộ dung, cách thức
của phương thức đào tạo mới này đã được bổ sung, sửa đổi để phù hợp với đặc
điểm mỗi vùng miền, mỗi thời kỳ lịch sử. Song song với việc triển khai phương
thức đào tạo,công tác quản lý sinh viên cũng được các trường đại học các nước
quan tâm, cải tiến và hoàn thiện các quy trình.
Các trường đại học trên thế giới khi chuyển sang phương thức đào tạo này
cũng gặp phải những khó khăn như ở nước ta do phương thức đào tạo theo tín
chỉ không giống với những gì của phương thức đào tạo trước đó để lại. Do đó,

khâu nghiên cứu, cải tiến quy trình đào tạo và quản lý sinh viên cũng được các
trường thực hiện ngay từ đầu. Trong đó, đã có hàng trăm công trình nghiên cứu
để tìm ra các mô hình QLSV hiệu quả, sát với sứ mạng của các trường nêu trên.
Tuy nhiên, do tình hình chính trị, xã hội, kinh tế của mỗi nước một khác,
đặc điểm của mỗi trường đại học một khác nên những quy trình, những cách
thức của các nhà nghiên cứu thế giới đã làm không thể áp dụng được vào điều
kiện của Việt Nam hiện nay.
1.1.1. Ở Việt Nam
Ở Việt Nam, trước năm 1975, một số trường đại học ở miền Nam chịu ảnh
hưởng của nền giáo dục Hoa Kỳ đã áp dụng đào tạo theo hệ thống tín chỉ như:
Viện Đại học Cần Thơ, Viện đại học Thủ Đức...


10

Trong quá trình Đổi mới ở nước ta từ cuối năm 1986 chuyển nền kinh tế
kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, GDĐH ở nước ta cũng có nhiều thay đổi. Hội nghị Hiệu trưởng các
trường đại học tại Nha Trang hè 1987 đã đưa ra nhiều chủ trương đổi mới
GDĐH, trong đó có chủ trương triển khai trong các trường đại học qui trình đào
tạo 2 giai đoạn và môdun-hoá kiến thức. Theo đó, học chế học phần ra đời và
chính thức được triển khai trong toàn bộ hệ thống các trường đại học và cao đẳng
nước ta từ năm 1988. Học chế học phần có các đặc điểm cơ bản là tích luỹ dần
kiến thức, mô đun hoá kiến thức thành các học phần một cách khá trọn vẹn và
không quá lớn để có thể lắp ghép với nhau, tạo nên một chương trình đào tạo dẫn
đến một văn bằng mà người học có thể tích luỹ dần trong quá trình học tập. Để
đo lường kiến thức theo khối lượng lao động học tập của người học, khái niệm
đơn vị học trình được đưa vào.
Từ năm 1993, học chế tín chỉ đã được thực hiện ở Trường Đại học Bách
khoa Thành phố Hồ Chí Minh, sau đó là các trường Đại học Khoa học Tự nhiên

Thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Xây dựng Hà Nội, Đại học Bách khoa Đà
Nẵng, Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Thăng Long
Hà Nội, Đại học Đà Lạt, Đại học Thủy sản Nha Trang, Đại học Cần Thơ...
Năm 2007, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Quy chế đào tạo đại học
và cao đẳng hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ (số 43/2007/QĐ-BG&DĐT),
chính thức mở ra hướng đào tạo theo hệ thống tín chỉ trên phạm vi toàn quốc.
Tuy nhiên, hiện nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo vẫn chưa ban hành Quy chế
HSSV trong đào tạo theo hệ thống tín chỉ nên công tác QLSV ở mỗi trường học
áp dụng tín chỉ lại có một hướng đi khác nhau. Và đến nay, chưa có nhà nghiên
cứu nào có công trình nghiên cứu toàn diện về QLSV trong đào tạo theo hệ
thống tín chỉ mà chỉ là những công trình nghiên cứu, những bài viết, những sáng


11

kiến kinh nghiệm được trích đăng tại các hội thảo do Bộ Giáo dục và Đào tạo
cũng như Ban Liên lạc các trường đại học và cao đẳng Việt Nam (VUN) tổ chức.
Một số bài báo, bài viết ngắn về tín chỉ và QLSV theo hệ thống tín chỉ có
thể liệt kê:
- Bài báo “phương pháp học tập và quản lý học tập của sinh viên đào tạo
theo hệ thống tín chỉ” của PGS.TS Ngô Doãn Đãi, Trường Đại học quốc gia Hà
Nội.
- Bài tham luận “Phát huy tính chủ động và tự giác của sinh viên trong
quản lý đào tạo theo hệ thống tín chỉ” của PGS.TS Võ Xuân Đàn, Trường Đại
học Ngoại ngữ - Tin học Thành phố Hồ Chí Minh.
- Bài tham luận “Đại học công lập, quản lý sinh viên trong đào tạo theo
học chế tín chỉ như thế nào?” của ThS Nguyễn Cao Đạt, Trường Đại học Cửu
Long…
Những tài liệu, bài báo này đang mang tính thông tin chứ chưa phải những
công trình khoa học, chưa mang tính hệ thống, toàn diện về công tác QLSV

trong đào tạo theo hệ thống tín chỉ.
Ở Trường Đại học Vinh, nhà trường triển khai đào tạo theo hệ thống tín
chỉ từ học kỳ II năm học 2007 – 2008. Vấn đề quản lý sinh viên cũng đã được đề
cập trong một số sáng kiến kinh nghiệm do công đoàn trường tổ chức. Công
trình – luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục của tác giả Nguyễn Quốc Dũng - “Một
số mô hình hoạt động Đoàn, Hội trong đào tạo theo hệ thống tín chỉ ở Trường
Đại học Vinh” là công trình khoa học duy nhất về vấn đề này ở Trường Đại học
Vinh cho đến thời điểm hiện nay.

1.2. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN
1.2.1. Sinh viên và công tác QLSV.
1.2.1.1. Sinh viên


12

a. Khái niệm: Quy chế công tác học sinh, sinh viên trong các trường đào
tạo (Ban hành kèm theo Quyết định số 1584/GD- ĐT ngày 27 tháng 7 năm
1993 của Bộ Trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo) nêu rõ: “Người đang học trong
hệ đại học và cao đẳng gọi là sinh viên”. [5]
b. Sinh viên có nhiệm vụ:
- Thực hiện nhiệm vụ học tập theo mục tiêu, chương trình và kế hoạch
giáo dục của nhà trường;
- Kính trọng nhà giáo, cán bộ quản lý, công nhân viên của nhà trường và
cơ sở giáo dục khác; tuân thủ pháp luật của nhà nước; thực hiện nội quy, điều lệ
nhà trường.
- Rèn luyện thân thể, giữ gìn vệ sinh cá nhân và bảo vệ môi trường.
- Giữ gìn và bảo vệ tài sản nhà trường.
- Tham gia lao động công ích và hoạt động xã hội ở địa ương.
- Góp phần xây dựng, bảo vệ và phát huy truyền thống của nhà trường, cơ

sở giáo dục khác. [15]
c. Quyền, nghĩa vụ và những hành vi sinh viên không được làm:
* Quyền của sinh viên:
- Được nhận vào học đúng ngành nghề đã đăng ký dự tuyển nếu đủ các điều
kiện trúng tuyển theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo và nhà trường.
- Được nhà trường tôn trọng và đối xử bình đẳng; được cung cấp đầy đủ
thông tin cá nhân về việc học tập, rèn luyện theo quy định của nhà trường; được
nhà trường phổ biến nội quy, quy chế về học tập, thực tập, thi tốt nghiệp, rèn
luyện, về chế độ chính sách của Nhà nước có liên quan đến sinh viên.
- Được tạo điều kiện trong học tập và rèn luyện, bao gồm:
+ Được sử dụng thư viện, các trang thiết bị và phương tiện phục vụ các hoạt
động học tập, thí nghiệm, nghiên cứu khoa học, văn hoá, văn nghệ, thể dục, thể
thao;


13

+ Được tham gia nghiên cứu khoa học, thi sinh viên giỏi, thi Olympic các
môn học, thi sáng tạo tài năng trẻ;
+ Được chăm lo, bảo vệ sức khoẻ theo chế độ hiện hành của Nhà nước;
+ Được đăng ký dự tuyển đi học ở nước ngoài, học chuyển tiếp ở các trình
độ đào tạo cao hơn theo quy định hiện hành của Bộ Giáo dục và Đào tạo;
+ Được tạo điều kiện hoạt động trong tổ chức Đảng Cộng sản Việt Nam,
Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Hội Sinh viên Việt Nam, Hội Liên hiệp Thanh niên
Việt Nam; tham gia các tổ chức tự quản của sinh viên, các hoạt động xã hội có
liên quan ở trong và ngoài nhà trường theo quy định của pháp luật; các hoạt động
văn hoá, văn nghệ, thể thao lành mạnh, phù hợp với mục tiêu đào tạo của nhà
trường;
+ Được nghỉ học tạm thời, tạm ngừng học, học theo tiến độ chậm, tiến độ
nhanh, học cùng lúc hai chương trình, chuyển trường theo quy định của quy chế

về đào tạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo; được nghỉ hè, nghỉ tết, nghỉ lễ theo quy
định.
- Được hưởng các chế độ, chính sách ưu tiên theo quy định của Nhà nước;
được xét nhận học bổng do các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tài trợ;
được miễn giảm phí khi sử dụng các dịch vụ công cộng về giao thông, giải trí,
tham quan viện bảo tàng, di tích lịch sử, công trình văn hoá theo quy định của
Nhà nước.
- Được trực tiếp hoặc thông qua đại diện hợp pháp của mình kiến nghị với
nhà trường các giải pháp góp phần xây dựng nhà trường; được đề đạt nguyện
vọng và khiếu nại lên Hiệu trưởng giải quyết các vấn đề có liên quan đến quyền,
lợi ích chính đáng của sinh viên.
- Được xét tiếp nhận vào ký túc xá theo quy định của trường. Việc ưu tiên
khi sắp xếp vào ở ký túc xá theo quy định tại Quy chế công tác HSSV nội trú của
Bộ Giáo dục và Đào tạo.


14

- Sinh viên đủ điều kiện công nhận tốt nghiệp được nhà trường cấp bằng tốt
nghiệp, bảng điểm học tập và rèn luyện, hồ sơ sinh viên, các giấy tờ có liên quan
khác và giải quyết các thủ tục hành chính.
- Được hưởng chính sách ưu tiên của Nhà nước trong tuyển dụng vào các
cơ quan Nhà nước nếu tốt nghiệp loại giỏi, rèn luyện tốt và được hưởng các
chính sách ưu tiên khác theo quy định về tuyển dụng cán bộ, công chức, viên
chức [6].
* Nghĩa vụ của sinh viên:
- Chấp hành chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và
các quy chế, nội quy, điều lệ nhà trường.
- Tôn trọng nhà giáo, cán bộ và nhân viên của nhà trường; đoàn kết, giúp đỡ
lẫn nhau trong quá trình học tập và rèn luyện; thực hiện tốt nếp sống văn minh.

- Giữ gìn và bảo vệ tài sản của nhà trường; góp phần xây dựng, bảo vệ và
phát huy truyền thống của nhà trường.
- Thực hiện nhiệm vụ học tập, rèn luyện theo chương trình, kế hoạch giáo
dục, đào tạo của nhà trường; chủ động tích cực tự học, nghiên cứu, sáng tạo và tự
rèn luyện đạo đức, lối sống.
- Thực hiện đầy đủ quy định về việc khám sức khoẻ khi mới nhập học và
khám sức khoẻ định kỳ trong thời gian học tập theo quy định của nhà trường.
- Đóng học phí đúng thời hạn theo quy định.
- Tham gia lao động và hoạt động xã hội, hoạt động bảo vệ môi trường phù
hợp với năng lực và sức khoẻ theo yêu cầu của nhà trường.
- Chấp hành nghĩa vụ làm việc có thời hạn theo sự điều động của Nhà nước
khi được hưởng học bổng, chi phí đào tạo do Nhà nước cấp hoặc do nước ngoài
tài trợ theo Hiệp định ký kết với Nhà nước, nếu không chấp hành phải bồi hoàn
học bổng, chi phí đào tạo theo quy định.


15

- Tham gia phòng, chống tiêu cực, gian lận trong học tập, thi cử và các hoạt
động khác của sinh viên, cán bộ, giáo viên; kịp thời báo cáo với khoa, phòng
chức năng, Hiệu trưởng nhà trường hoặc các cơ quan có thẩm quyền khi phát
hiện những hành vi tiêu cực, gian lận trong học tập, thi cử hoặc những hành vi
vi phạm pháp luật, vi phạm nội quy, quy chế khác của sinh viên, cán bộ, giáo
viên trong trường.
- Tham gia phòng chống tội phạm, tệ nạn ma tuý, mại dâm và các tệ nạn xã
hội khác [6].
* Các hành vi sinh viên không được làm:
- Xúc phạm nhân phẩm, danh dự, xâm phạm thân thể nhà giáo, cán bộ, nhân
viên nhà trường và HSSV khác.
- Gian lận trong học tập như: quay cóp, mang tài liệu vào phòng thi, xin

điểm; học, thi, thực tập, trực hộ người khác hoặc nhờ người khác học, thi, thực
tập, trực hộ; sao chép, nhờ hoặc làm hộ tiểu luận, đồ án, khoá luận tốt nghiệp; tổ
chức hoặc tham gia tổ chức thi hộ hoặc các hành vi gian lận khác.
- Hút thuốc, uống rượu, bia trong giờ học; say rượu, bia khi đến lớp.
- Gây rối an ninh, trật tự trong trường hoặc nơi công cộng.
- Tham gia đua xe hoặc cổ vũ đua xe trái phép.
- Đánh bạc dưới mọi hình thức.
- Sản xuất, buôn bán, vận chuyển, phát tán, tàng trữ, sử dụng hoặc lôi kéo
người khác sử dụng vũ khí, chất nổ, các chất ma tuý, các loại hoá chất cấm sử
dụng, các tài liệu, ấn phẩm, thông tin phản động, đồi trụy và các tài liệu cấm
khác theo quy định của Nhà nước; tổ chức, tham gia, truyền bá các hoạt động mê
tín dị đoan, các hoạt động tôn giáo trong nhà trường và các hành vi vi phạm đạo
đức khác.


16

- Thành lập, tham gia các hoạt động mang tính chất chính trị trái pháp luật;
tổ chức, tham gia các hoạt động tập thể mang danh nghĩa nhà trường khi chưa
được Hiệu trưởng cho phép [6].
d. Vị trí, vai trò của sinh viên trong quá trình đào tạo:
Sinh viên là nhân vật trung tâm trong các học viện, đại học, các trường đại
học, cao đẳng. Trọng tâm hoạt động của bộ máy chính quyền, các tổ chức Đảng,
Đoàn, Hội Sinh viên trong nhà trường dưới sự chỉ đạo của Bộ Giáo dục và Đào
tạo cùng với sự phối hợp chặt chẽ của các Ban, Ngành ở TW, của các cấp ủy
đảng và chính quyền địa phương đều hướng vào nhiệm vụ chính trị quan trọng
nhất của các trường là giáo dục, rèn luyện sinh viên.
Công tác sinh viên trong các trường đào tạo là một trong những công tác
trọng tâm của hiệu trưởng. Hiệu trưởng các trường đào tạo chịu trách nhiệm tất
cả các khâu trong công tác sinh viên, tạo điều kiện để sinh viên thực hiện đầy đủ

quyền và nghĩ vụ của mình.
Làm tốt công tác sinh viên có ý nghĩa tiên quyết đối với việc thực hiện
thắng lợi các nhiệm vụ của nhà trường.
1.2.1.2. Công tác quản lý sinh viên
a. Khái niệm về quản lý:
Khái niệm quản lý được hình thành từ xa xưa, khi loài người xuất hiện sự
hợp tác, phân công lao động. Quản lý là các hoạt động do một hay nhiều người
điều phối hoạt động của người khác nhằm đạt mục tiêu đã định trước. Mác nói:
"Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành trên quy
mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng cần đến một sự chỉ đạo để điều hòa những
hoạt động cá nhân... Một người độc tấu vĩ cầm tự mình điều khiển lấy mình, còn
một dàn nhạc thì cần phải nhạc trưởng".
Các nhà lý luận quản lý quốc tế như Frederich Wiliam Taylo (1856-1915),
Henri Fayol (1841-1925), Max Weber ( 1864-1920) đều đã khẳng định: Quản lý


17

là khoa học và đồng thời là nghệ thuật thúc đẩy sự phát triển xã hội. Giáo trình
khoa học quản lý (T1.NXB khoa học kỹ thuật. Hà Nội. 1999) ghi: "Quản lý là
các hoạt động được thực hiện nhằm đảm bảo sự hình thành công việc qua nỗ lực
của người khác". Có tác giả lại quan niệm: Quản lý là một quá trình hoạt động có
định hướng, có tổ chức dựa trên các thông tin về tình trạng của đối tượng và môi
trường nhằm giữ cho sự vận hành của đối tượng được ổn định và phát triển tới
mục tiêu đã định. [1]
Hiện nay, quản lý được hiểu là quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức
bằng cách vận dụng các hoạt động (chức năng) kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo
(lãnh đạo) và kiểm tra.
Như vậy, có thể khái quát: quản lý là sự tác động chỉ huy, điều khiển,
hướng dẫn hoạt động của một nhóm (hay nhiều nhóm) xã hội cùng thực hiện

những nhiệm vụ và mục đích chung. [16]
Với ý nghĩa thông thường, phổ biến thì quản lý có thể hiểu là hoạt động
nhằm tác động một cách có tổ chức và định hướng của chủ thể quản lý vào một
đối tượng nhất định để điều chỉnh các quá trình xã hội và hành vi của con người
nhằm duy trì tính ổn định và phát triển của đối tượng theo những mục tiêu đã
định.
- Quản lý bao giờ cũng là một tác động hướng đích, có mục tiêu xác định.
Nói cách khác, quản lý là một quá trình tác động gây ảnh hưởng của chủ
thể quản lý đến với khách thể quản lý nhằm đạt được mục tiêu chung.
b. Khái niệm về quản lý sinh viên:
Quản lý sinh viên là cách thức tác động (tổ chức, điều khiển, chỉ huy)
hợp quy luật của chủ thể quản lý (ở đây gồm có nhà trường, gia đình, xã hội,
trong đó vai trò nhà trường là quan trọng nhất) đến sinh viên trong và ngoài
trường học làm cho nhà trường vận hành đạt hiệu quả mong muốn và đạt được
các mục tiêu đề ra.


18

Công tác quản lý sinh viên, dưới khía cạnh là những phương diện hoạt
động công ích của nhà trường nhằm quản lý, tư vấn, hướng dẫn, trợ giúp sinh
viên thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình trong quá trình học tập tại trường.
Công tác quản lý sinh viên bao gồm tất cả tiện ích do nhà trường cung cấp
nhằm tạo điều kiện cho sinh viên thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình từ khi
trúng tuyển vào trường cho đến khi ra trường; từ hoạt động học tập của sinh viên
cho đến hoạt động rèn luyện đạo đức, nhân cách, thể chất; từ việc sinh viên thực
hiện những quy định bắt buộc cho đến việc chủ động, tích cực thực hiện
trong điều kiện cho phép sinh viên lựa chọn, yêu cầu.
1.2.2. Tín chỉ và đào tạo theo hệ thống tín chỉ
1.2.2.1. Tín chỉ và học phần

a. Tín chỉ:
Tín chỉ (credit) là đơn vị căn bản để đo khối lượng kiến thức và đánh giá
kết quả học tập của sinh viên. Một tín chỉ được quy định bằng 15 tiết học lý
thuyết; 30 - 45 tiết thực hành, thí nghiệm hoặc thảo luận; 45 - 90 giờ thực tập tại
cơ sở; 45 - 60 giờ làm tiểu luận, bài tập lớn hoặc đồ án, khoá luận tốt nghiệp.
Đối với những học phần lý thuyết hoặc thực hành, thí nghiệm, để tiếp thu
được một tín chỉ sinh viên phải dành ít nhất 30 giờ chuẩn bị cá nhân.
Tùy từng trường mà số tiết, số giờ học đối với từng học phần được quy định
riêng nhằm phù hợp với đặc điểm của trường.
Đối với những chương trình, khối lượng của từng học phần đã được tính
theo đơn vị học trình thì 1,5 đơn vị học trình được quy đổi thành 1 tín chỉ.
Người ta thường chia ra 2 loại tín chỉ: Tín chỉ học tập và Tín chỉ học phí.
Tín chỉ học tập là đơn vị quy chuẩn để lượng hoá khối lượng kiến thức và
khối lượng học tập, giảng dạy trong quy trình đào tạo. Tín chỉ học tập cũng là
đơn vị để đo lường tiến độ học tập của sinh viên. [14]


19

Tín chỉ học phí là đơn vị dùng để lượng hoá chi phí hoạt động giảng dạy,
học tập tính cho từng học phần (kể cả học phần Giáo dục thể chất và Giáo dục
quốc phòng). Học phí được xác định căn cứ theo số học phần, loại học phần của
ngành học mà sinh viên được xếp thời khoá biểu trong học kỳ và bằng tổng số
tín chỉ học phí của các học phần nhân với mức tiền học phí của tín chỉ học phí.
Hệ số tín chỉ học phí cho các loại học phần, ngành học do Hiệu trưởng quy định
[14, Đ2].
b. Học phần:
Là khối lượng kiến thức tương đối trọn vẹn, thuận tiện cho sinh viên tích
luỹ trong quá trình học tập. Học phần có khối lượng kiến thức từ 2 đến 5 tín chỉ,
nội dung được bố trí giảng dạy trọn vẹn và phân bố đều trong 1 học kỳ. Kiến

thức trong mỗi học phần phải gắn với một mức trình độ theo năm học thiết kế và
được kết cấu như một phần của môn học hoặc dưới dạng tổ hợp từ nhiều môn
học [14].
Hoạt động dạy - học một học phần gồm một hay kết hợp một số trong các
hình thức: lý thuyết, thực hành, bài tập, thí nghiệm, thực tập, tiểu luận, đồ án,
khoá luận tốt nghiệp.
Học phần có mã số riêng và số tín chỉ xác định. Mỗi học phần đều có đề
cương chi tiết. Đề cương chi tiết học phần được Hội đồng khoa học và đào tạo
khoa phê duyệt và công bố cùng chương trình đào tạo, được giảng viên phụ trách
học phần thông báo cho sinh viên trong buổi học đầu tiên của học phần [14].
Có 2 loại học phần chính là học phần bắt buộc và học phần tự chọn, cụ
thể:
- Học phần bắt buộc là học phần trong chương trình đào tạo chứa đựng
những nội dung chính yếu của ngành và chuyên ngành đào tạo mà sinh viên bắt
buộc phải hoàn thành đạt yêu cầu để được xét công nhận tốt nghiệp.


20

- Học phần tự chọn (nhóm học phần tự chọn) là học phần trong chương
trình đào tạo chứa đựng những nội dung cần thiết cho định hướng nghề nghiệp
mà sinh viên có thể lựa chọn đăng ký học. Để đủ điều kiện công nhận tốt nghiệp,
sinh viên phải hoàn thành đạt yêu cầu một số học phần nhất định để tích luỹ đủ
số tín chỉ tối thiểu. Nếu không đạt học phần tự chọn nào đó, sinh viên có quyền
chọn đăng ký học lại học phần đó hoặc học phần khác cùng nhóm [14].
Ngoài ra còn có các loại học phần thay thế, học phần tiên quyết, học phần
học trước.
- Học phần thay thế là học phần được sử dụng khi một học phần có trong
chương trình đào tạo nhưng nay không còn tổ chức giảng dạy nữa và được thay
thế bằng học phần khác đang tổ chức giảng dạy.

Học phần thay thế do khoa chuyên ngành đề xuất có thể được áp dụng cho
các khoá, ngành hoặc áp dụng hạn chế cho một số khoá, ngành.
- Học phần tiên quyết: Học phần A là học phần tiên quyết đối với học
phần B, khi đăng ký học phần B sinh viên phải tích luỹ đạt học phần A.
- Học phần học trước: Học phần A là học phần học trước của học phần B,
khi đăng ký học học phần B sinh viên phải được xác nhận học xong học phần A
(có thể chưa đạt). [14]
1.2.2.2. Đào tạo theo hệ thống tín chỉ
a. Sơ lược đôi nét về lịch sử đào tạo theo hệ thống tín chỉ trên thế giới và
ở Việt Nam:
Xuất phát từ đòi hỏi quy trình đào tạo phải tổ chức sao cho mỗi sinh viên
có thể tìm được cách học thích hợp nhất cho mình, đồng thời trường đại học phải
nhanh chóng thích nghi và đáp ứng được những nhu cầu của thực tiễn cuộc sống,
vào năm 1872 Charle Eliot - Viện trưởng Viện Đại học Harvard đã đề xuất một
quy trình đào tạo mới gọi là giải pháp mô đun hoá các môn học được cung cấp
trong trường đại học để sinh viên có thể lựa chọn một tổ hợp môn học thích hợp


21

nhằm cấu thành một chương trình đào tạo để có thể nhận được văn bằng tốt
nghiệp, mở ra hình thức đào tạo theo phương pháp tín chỉ.
Vào đầu thế kỷ XX, học chế tín chỉ được áp dụng rộng rãi hầu như trong
mọi trường đại học ở Hoa Kỳ. Tiếp đó, nó được lan toả ra nhiều nước như:
Canađa, Nhật Bản, Philippin, Hàn Quốc, Thái Lan, Malaixia, Inđônêxia, ấn Độ,
Sênêgan, Môzămbích, Nigêria, Uganđa, Camơrun... Tại Trung Quốc, từ cuối
thập niên 80 (thế kỷ XX) đến nay, hệ thống học chế tín chỉ cũng lần lượt được áp
dụng ở nhiều trường đại học. Ở Châu Âu, năm 1999 Tuyên ngôn Boglona được
đề xướng. Nội dung quan trọng là triển khai áp dụng học chế tín chỉ trong toàn
hệ thống giáo dục đại học nhằm tạo thuận lợi cho việc cơ động, liên thông hoạt

động học tập của sinh viên trong khu vực Châu Âu và trên thế giới. Đến nay,
Tuyên ngôn đã được ký bởi Bộ trưởng của 45 nền giáo dục đại học.
Ở Việt Nam, trước năm 1975, một số trường đại học ở miền Nam chịu ảnh
hưởng của nền giáo dục Hoa Kỳ đã áp dụng đào tạo theo hệ thống tín chỉ như:
Viện Đại học Cần Thơ (nay là Đại học Cần Thơ), Viện đại học Thủ Đức...
Trong quá trình Đổi mới ở nước ta từ cuối năm 1986 chuyển nền kinh tế
kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, GDĐH ở nước ta cũng có nhiều thay đổi. Hội nghị Hiệu trưởng các
trường đại học tại Nha Trang hè 1987 đã đưa ra nhiều chủ trương đổi mới
GDĐH, trong đó có chủ trương triển khai trong các trường đại học qui trình đào
tạo 2 giai đoạn và môdun-hoá kiến thức. Theo đó, học chế học phần ra đời và
chính thức được triển khai trong toàn bộ hệ thống các trường đại học và cao đẳng
nước ta từ năm 1988. Học chế học phần có các đặc điểm cơ bản là tích luỹ dần
kiến thức, mô đun hoá kiến thức thành các học phần một cách khá trọn vẹn và
không quá lớn để có thể lắp ghép với nhau, tạo nên một chương trình đào tạo dẫn
đến một văn bằng mà người học có thể tích luỹ dần trong quá trình học tập. Để
đo lường kiến thức theo khối lượng lao động học tập của người học, khái niệm


22

đơn vị học trình được đưa vào. Nhằm làm cho các chương trình đào tạo mềm
dẻo, có 3 loại học phần được quy định: học phần bắt buộc phải học, học phần lựa
chọn theo hướng dẫn của nhà trường và học phần tự chọn. Mỗi học phần được
đánh giá bằng một con điểm (tổng hợp của các đánh giá bộ phận và một kỳ thi
kết thúc). Kết quả học tập chung của học kỳ, năm học (hoặc khoá học) được
đánh giá bằng điểm trung bình chung; đó là điểm trung bình của các học phần đã
tích luỹ [22].
Từ năm 1993, học chế tín chỉ đã được thực hiện ở Trường Đại học Bách
khoa Thành phố Hồ Chí Minh, sau đó là các trường Đại học Khoa học Tự nhiên

Thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Xây dựng Hà Nội, Đại học Bách khoa Đà
Nẵng, Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Thăng Long
Hà Nội, Đại học Đà Lạt, Đại học Thủy sản Nha Trang, Đại học Cần Thơ... Ở
Trường Đại học Vinh, việc chuyển sang đào tạo theo học chế tín chỉ bắt đầu thực
hiện từ học kỳ II năm học 2007 – 2008, đến nay mới chỉ diễn ra trên thực tế 2
năm (2008, 2009), đã đem lại một số hiệu quả nhất định trong công tác giáo dục,
đào tạo.
b. Đặc điểm của học chế tín chỉ
* Đặc điểm chung:
- Hệ thống tín chỉ cho phép sinh viên đạt được văn bằng đại học qua việc
tích luỹ các loại tri thức giáo dục khác nhau được đo lường bằng một đơn vị xác
định, căn cứ trên khối lượng lao động học tập trung bình của một sinh viên, gọi
là tín chỉ. Để đạt bằng cử nhân SV thường phải tích luỹ đủ 120 - 136 tín chỉ (Hoa
Kỳ), 120 - 135 tín chỉ (Nhật Bản), 120 - 150 tín chỉ (Thái Lan), v.v... Để đạt
bằng thạc sĩ học viên phải tích luỹ 30 - 36 tín chỉ (Mỹ), 30 tín chỉ (Nhật Bản), 36
tín chỉ (Thái Lan)...
Ở Châu Âu, người ta quy ước khối lượng lao động học tập ước chừng của
một sinh viên chính quy trung bình trong một năm học được tính bằng 60 tín chỉ.


23

- Khi tổ chức giảng dạy theo tín chỉ, đầu mỗi học kỳ, sinh viên được đăng
ký các môn học thích hợp với năng lực và hoàn cảnh của họ và phù hợp với quy
định chung nhằm đạt được kiến thức theo một chuyên môn chính nào đó. Sự lựa
chọn các môn học rất rộng rãi, sinh viên có thể ghi tên học các môn liên ngành
nếu họ thích. Sinh viên không chỉ giới hạn học các môn chuyên môn của mình
mà còn cần học các môn học khác lĩnh vực, chẳng hạn sinh viên các ngành khoa
học tự nhiên và kỹ thuật vẫn cần phải học một ít môn khoa học xã hội, nhân văn
và ngược lại.

- Về việc đánh giá kết quả học tập, hệ thống tín chỉ dùng cách đánh giá
thường xuyên, và dựa vào sự đánh giá đó đối với các môn học tích luỹ được để
cấp bằng cử nhân. Đối với các chương trình đào tạo sau đại học, ngoài các kết
quả đánh giá thường xuyên còn có các kỳ thi tổng hợp và các luận văn.
* Các ưu điểm của học chế tín chỉ:
Học chế tín chỉ được truyền bá nhanh chóng và áp dụng rộng rãi nhờ có
nhiều ưu điểm. Có thể tóm tắt các ưu điểm chính của nó như sau:
- Thứ nhất, có hiệu quả đào tạo cao:
Học chế tín chỉ cho phép ghi nhận kịp thời tiến trình tích luỹ kiến thức và
kỹ năng của sinh viên để dẫn đến văn bằng. Với học chế này, sinh viên được chủ
động thiết kế kế hoạch học tập cho mình, được quyền lựa chọn cho mình tiến độ
học tập thích hợp với khả năng, sở trường và hoàn cảnh riêng của mình (học theo
tiến độ nhanh, tiến độ chậm...). Điều đó đảm bảo cho quá trình đào tạo trong các
trường đại học trở nên mềm dẻo hơn, đồng thời cũng tạo khả năng cho việc thiết
kế chương trình liên thông giữa các cấp đào tạo đại học và giữa các ngành đào
tạo khác nhau.
- Thứ hai, có tính mềm dẻo và khả năng thích ứng cao:
Với học chế tín chỉ, sinh viên có thể chủ động ghi tên học các học phần
khác nhau dựa theo những quy định chung về cơ cấu và khối lượng của từng lĩnh


24

vực kiến thức. Nó cho phép sinh viên dễ dàng thay đổi ngành chuyên môn trong
tiến trình học tập khi thấy cần thiết mà không phải học lại từ đầu.
Với học chế tín chỉ, các trường đaị học có thể mở thêm ngành học mới
một cách dễ dàng khi có nhu cầu về thị trường lao động và tình hình lựa chọn
ngành nghề của sinh viên.
Với học chế tín chỉ, người học có cơ hội học cùng lúc hai chương trình để
khi tốt nghiệp được cấp hai bằng đại học hệ chính quy, được chủ động ựa chọn

các môn học, thời gian học, lớp học phù hợp với năng lực, sở trường, hoàn cảnh
của mình...
- Thứ ba, đạt hiệu quả cao về mặt quản lý và giảm giá thành đào tạo:
Với học chế tín chỉ, kết quả học tập của sinh viên được tính theo từng học
phần chứ không phải theo năm học, do đó việc hỏng một học phần nào đó không
cản trở quá trình học tiếp tục, sinh viên không bị buộc phải quay lại học từ đầu.
Chính vì vậy giá thành đào tạo theo học chế tín chỉ thấp hơn so với đào tạo theo
niên chế.
Nếu triển khai học chế tín chỉ các trường đại học lớn đa lĩnh vực có thể tổ
chức những môn học chung cho sinh viên nhiều trường, nhiều khoa, tránh các
môn học trùng lặp ở nhiều nơi; ngoài ra sinh viên có thể học những môn học lựa
chọn ở các khoa khác nhau. Cách tổ chức nói trên cho phép sử dụng được đội
ngũ giảng viên giỏi nhất và phương tiện tốt nhất cho từng môn học. Kết hợp với
học chế tín chỉ , nếu trường đại học tổ chức thêm những kỳ thi đánh giá kiến
thức và kỹ năng của người học tích luỹ được bên ngoài nhà trường hoặc bằng
con đường tự học để cấp cho họ một tín chỉ tương đương, thì sẽ tạo thêm cơ hội
cho họ đạt văn bằng đại học.
- Thứ tư, chấp nhận sinh viên giữa các trường đại học với nhau trên cơ sở
xem xét mức độ phù hợp với tín chỉ sinh viên đã tích luỹ được nhằm tạo khả


25

năng cho sinh viên phát triển hết khả năng của mình theo năng lực và sở thích
của họ.
Học chế tín chỉ cho phép ghi nhận cả những kiến thức và khả năng tích luỹ
được ngoài trường lớp để dẫn tới văn bằng, khuyến khích sinh viên từ nhiều
nguồn gốc khác nhau có thể tham gia học đại học một cách thuận lợi. Về phương
diện này có thể nói học chế tín chỉ là một trong những công cụ quan trọng để
chuyển từ nền đại học mang tính tinh hoa sang nền đại học mang tính đại chúng.

Học chế tín chỉ cung cấp cho các trường đại học một ngôn ngữ chung, tạo
thuận lợi cho sinh viên khi cần chuyển trường cả trong nước cũng như ngoài
nước.
- Thứ năm, học chế tín chỉ tạo điều kiện để các trường đại học trong nước
mở các chương trình đào tạo liên kết với các trường đại học trong khu vực và
trên thế giới theo một chuẩn thống nhất để sinh viên có thể hoàn thành một số tín
chỉ cần thiết trong giai đoạn đầu của chương trình đào tạo trong nước, sau đó
mới ra nước ngoài tiếp tục học tập...
* Các nhược điểm của học chế tín chỉ.
- Thứ nhất, học chế tín chỉ cắt vụn kiến thức:
Phần lớn các mô đun trong học chế tín chỉ được quy định tương đối nhỏ,
cỡ 3 hoặc 4 tín chỉ, do đó không đủ thời gian để trình bày kiến thức thật sự có
đầu, có đuôi, theo một trình tự diễn biến liên tục, từ đó gây ấn tượng kiến thức bị
cắt vụn. Đây thật sự là một nhược điểm, và người ta thường khắc phục nhược
điểm này bằng cách không thiết kế các mô đun quá nhỏ dưới 3 tín chỉ, và trong
những năm cuối người ta thường thiết kế các môn học hoặc tổ chức các kỳ thi có
tính tổng hợp để sinh viên có cơ hội liên kết, tổng hợp các kiến thức đã học.
- Thứ hai, học chế tín chỉ khó tạo nên sự gắn kết trong sinh viên:
Vì các lớp học theo mô đun (lớp tín chỉ) không ổn định, khó xây dựng các
tập thể gắn kết chặt chẽ như các lớp theo khóa học, do đó việc quản lý cũng như


×