Tải bản đầy đủ (.doc) (148 trang)

Một số biện pháp gây hứng thú học tập cho học viên trong dạy học lịch sử lớp 10 ở các trung tâm giáo dục thường xuyên th

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 148 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN THỊ THÙY DUNG

MỘT SỐ BIỆN PHÁP GÂY HỨNG THÚ HỌC TẬP
CHO HỌC VIÊN TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ LỚP 10
Ở CÁC TRUNG TÂM GIÁO DỤC THƯỜNG XUYÊN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Chuyên ngành: LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC MÔN LỊCH SỬ
Mã số: 60 14 10

LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. TRỊNH ĐÌNH TÙNG

VINH, NĂM 2012

1


LỜI CẢM ƠN

Để hồn thành luận văn này, tơi xin bày tỏ lịng biết ơn chân thành đến:
Q thầy cơ trong Tổ Lý luận và Phương pháp dạy học, Khoa Lịch sử Trường Đại học Vinh, đã giúp đỡ, tạo điều kiện cho tơi trong q trình học
tập và thực hiện đề tài.
Các trung tâm giáo dục thường xuyên quận 4, quận 12, Gị Vấp, Phú
Nhuận tại Tp. Hồ Chí Minh đã giúp đỡ tơi trong q trình điều tra và tiến
hành thực nghiệm sư phạm.


Đặc biệt, xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy giáo PGS. TS. Trịnh
Đình Tùng đã trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ để tơi có thể hồn thành luận văn.
Cuối cùng, xin cảm ơn gia đình, đồng nghiệp và bạn bè đã ln ở bên
cạnh, quan tâm giúp đỡ và ủng hộ tôi.
Những thiếu sót trong luận văn là điều khơng thể tránh khỏi, rất mong
nhận được ý kiến phê bình và đóng góp q báu của thầy cơ và các bạn.
Vinh, tháng 09 năm 2012
Tác giả

Nguyễn Thị Thùy Dung

2


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Viết tắt

Viết đầy đủ

GDTX

:

Giáo dục thường xuyên

GV

:

Giáo viên


HV

:

Học viên

PPDH

:

Phương pháp dạy học

SGK

:

Sách giáo khoa

THCS

:

Trung học cơ sở

THPT

:

Trung học phổ thông


TTGDTX

:

Trung tâm giáo dục thường xuyên

3


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng
tôi, các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung
thực, được các đồng tác giả cho phép sử dụng và chưa từng công
bố trong bất cứ cơng trình nào khác.
Tác giả

Nguyễn Thị Thùy Dung

4


MỤC LỤC
Trang

5


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Viết tắt

Viết đầy đủ

GDTX

:

Giáo dục thường xuyên

GV

:

Giáo viên

HV

:

Học viên

PPDH

:

Phương pháp dạy học

SGK


:

Sách giáo khoa

THCS

:

Trung học cơ sở

THPT

:

Trung học phổ thông

TTGDTX

:

Trung tâm giáo dục thường xuyên

6


1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Một trong những nhân tố quyết định sự thành công khi làm bất cứ cơng
việc gì chính là sự hứng thú. Hứng thú là một trong những biểu hiện quan
trọng của xu hướng nhân cách, nó được xem là động lực cơ bản nhất thúc đẩy
tính tích cực hoạt động của cá nhân.

Trong học tập, hứng thú giúp cho người học chiếm lĩnh kiến thức
nhanh hơn, sâu sắc hơn, làm khơi dậy trong lòng người học mong muốn và
khao khát nhận thức. Từ đó, người học trở nên tích cực, độc lập và đầy sáng
tạo trong hoạt động học tập.
1.2. Hiện nay, giáo dục ngày một phát triển lớn mạnh hơn để có thể đào tạo
những con người toàn diện phục vụ cho xã hội. Trong “Thư gửi các thầy
giáo, cô giáo, các bậc cha mẹ và các em học sinh, sinh viên nhân ngày nhà
giáo Việt Nam 20/11/2007”, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo - Nguyễn
Thiện Nhân đã nhắn nhủ: “Trong thế kỉ XXI của hội nhập và cạnh tranh tồn
cầu, của xã hội thơng tin và kinh tế trí thức, thời gian là tài nguyên vô giá,
không tái tạo được... Hãy làm sao mỗi giờ các em tới trường là một giờ khám
phá, nhận thức được nhanh, sâu sắc thế giới tự nhiên, cuộc sống văn hóa,
lịch sử dân tộc và nhân loại”,[48] . Để có được những giờ học lí thú như vậy
thì người giáo viên (GV) khơng những cung cấp cho học sinh kiến thức cơ
bản trong sách giáo khoa (SGK), mà cần phải giúp các em tìm được hứng thú
trong việc học tập. Có thể nói hứng thú học tập là “chìa khóa vàng” cần thiết
để người học sinh vượt khỏi tính áp đặt của cách học truyền thống, hướng đến
cách học tích cực.
1.3. Mỗi đất nước đều có niềm kiêu hãnh, tự hào về lịch sử của dân tộc mình;
mỗi người Việt Nam chúng ta ai cũng rất tự hào về lịch sử của đất nước. Đã là
người Việt Nam thì dù ở đâu cũng phải biết lịch sử nước mình vì đó là đạo lí
mn đời của dân tộc. Những trang sử vẻ vang, hào hùng đã để lại những ấn

7


tượng sâu sắc cho các dân tộc anh em nói riêng và cho thế giới nói chung.
Thơng qua tri thức lịch sử, học sinh thấy được những truyền thống, đạo lí,
phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam. Lịch sử là nhân tố trung gian giúp
học sinh tìm hiểu về quá khứ, cội nguồn của đất nước, từ đó hình thành cho

các em lịng biết ơn những vị anh hùng, lịng u thương đồng bào, u nước
thiết tha. Chính vì vậy, lịch sử là mơn học bắt buộc khơng chỉ cho học sinh
phổ thông mà cả học viên (HV) học tập văn hóa ở các Trung tâm giáo dục
thường xuyên (TTGDTX).
1.4. Là một giáo viên (GV) trực tiếp giảng dạy ở TTGDTX, chúng tôi nhận
thấy hầu hết HV TTGDTX chưa có hứng thú học tập lịch sử, họ đều xem lịch
sử là một môn học nhàm chán và không thiết thực. Cịn GV cũng chưa thực
sự tồn tâm tồn ý cho việc giảng dạy của mình, phần lớn HV học theo kiểu
đối phó vì vậy dẫn đến kết quả học tập chưa cao.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên, song nguyên nhân chủ
yếu xuất phát từ đối tượng và điều kiện học tập của HV trong các TTGDTX
có sự khác biệt so với học sinh phổ thơng. Đa số HV ở các TTGDTX là
những người không đủ tiêu chuẩn vào học tập ở các trường trung học phổ
thơng, có học lực yếu, trình độ nhận thức có nhiều hạn chế. Điều này đã ảnh
hưởng rất lớn đến q trình học tập của HV. Do đó, việc nghiên cứu thực
trạng và nguyên nhân gây nên thực trạng đó sẽ giúp thầy cô giáo đưa ra
những biện pháp nhằm nâng cao kết quả học lịch sử của HV TTGDTX. Đây
là một vấn đề cấp bách có ý nghĩa thực tiễn lâu dài.
Giải quyết tốt đề tài, luận văn không chỉ góp phần làm sáng tỏ hơn sự
cần thiết phải gây hứng thú học tập lịch sử nói chung, cho HV ở TTGDTX
nói riêng mà cịn góp phần nâng cao chất lượng học tập lịch sử ở các
TTGDTX Thành phố Hồ Chí Minh. Hơn nữa, đề tài có thể giúp tác giả vận
dụng vào thực tiễn cơng tác của mình.

8


Xuất phát từ những lí do trên, chúng tơi chọn vấn đề “Một số biện
pháp gây hứng thú học tập cho học viên trong dạy học lịch sử lớp 10 ở các
TTGDTX Thành phố Hồ Chí Minh” làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ

chuyên ngành lý luận và phương pháp dạy học lịch sử.
2. Lịch sử vấn đề
Hứng thú nhận thức là một vấn đề đã được nhiều người nghiên cứu.
Các nhà tâm lí học, giáo dục học đều thừa nhận vai trò to lớn của hứng thú
trong đời sống và trong lĩnh vực học tập. Liên quan đến đề tài nghiên cứu đã
có nhiều cơng trình của nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước:
2.1. Tài liệu nước ngồi
- Trong tác phẩm “Phát huy tính tích cực học tập của học sinh như thế
nào?” [29,30], I. F. Khalamôp khẳng định tầm quan trọng của hứng thú trong
hoạt động dạy học, đồng thời nhấn mạnh sự cần thiết phải gây hứng thú cho
học sinh để nâng cao hiệu quả học tập.
- A. G. Côvaliôp: “Hứng thú là một thái độ đặc thù của cá nhân đối với đối
tượng nào đó, do ý nghĩa của nó trong đời sống và sự hấp dẫn về tình cảm của
nó”[1]
- Trong tác phẩm “Tâm lí học” [32], P.A. Ruđich đề cập đến khái niệm
hứng thú và đặc điểm tiêu biểu của hứng thú. Tuy nhiên, trong tác phẩm này,
Ruđich chỉ phân tích vai trò của hứng thú trong vận động.
- Trong tác phẩm “Vấn đề hứng thú nhận thức trong khoa học giáo
dục” [34] của G. I Sukina và trong cuốn “Từ hứng thú đến tài năng” của L.X
Xlơvâytrích, hai tác giả này đã đề cập một cách cụ thể về hứng thú, cơ sở để
phát triển hứng thú, vai trò của nó đối với nhận thức cũng như sự phát triển
nhân cách và tài năng của học sinh.
- Trong tác phẩm “Những cơ sở của Tâm lý học sư phạm”, V. A
Cruchetxki đề cập đến vị trí, vai trị, biểu hiện của hứng thú trong học tập

9


cũng như mối quan hệ giữa hứng thú tập với việc phát triển tư duy, tích cực,
độc lập; với dạy học nêu vấn đề; với hiệu quả của hoạt động học tập...

- Trong tác phẩm “Những cơ sở của lý luận dạy học” [14], B. P Êxipôp
nêu lên mối quan hệ giữa hứng thú học tập với tính tích cực, tự giác của học
sinh trong học tập; vai trò của phương pháp dạy học đối với việc kích thích
hứng thú của học sinh; vai trò của hứng thú đối với kết quả học tập của học
sinh,...
- Trong sách “Tư duy của học sinh” , M. N Sacđacôp chỉ ra rằng, hứng
thú là một trong những điều kiện bên trong của tư duy, “làm cho tư duy trở
thành một quá trình có ý chí, có mục đích và đơi khi đầy hăng say, hào hứng”.
- Trong cuốn “Gây hứng thú toán học cho học sinh như thế nào?”, I. P.
Tơrêphilốp trình bày mối liên hệ giữa nhiệm vụ giáo dục của nhà trường và
GV toán với hứng thú toán học của học sinh. Tác giả đề xuất 15 biện pháp
giúp GV thành cơng trong việc gây hứng thú tốn học cho học sinh.
- Trong tác phẩm “Phương pháp dạy học lịch sử ở trường phổ thơng” ,
A. A.Vaghin trình bày các biện pháp nâng cao chất lượng dạy học lịch sử
trong đó có ý nghĩa của việc sử dụng SGK và các loại tài liệu lịch sử.
- Trong cuốn “Chuẩn bị giờ học lịch sử như thế nào?” [11], N. G. Đairi
cho rằng, một trong những nhân tố góp phần đạt được hiệu quả to lớn của
việc dạy học lịch sử ngay trong giờ học ở trên lớp là “ sự thi đua đạt mục
đích hứng thú đối với chính quá trình hoạt động lơgích và đối với việc
“khám phá” ra cái mới”.
2.2. Tài liệu trong nước
2.2.1. Các tài liệu về tâm lý học và giáo dục học
- Trong cuốn “Một số vấn đề tâm lý học sư phạm và lứa tuổi học sinh
Việt Nam” , Đức Minh cùng Ban Tâm lý học Viện khoa học giáo dục cho
rằng, hứng thú nhận thức của học sinh chủ yếu do nghệ thuật giảng dạy và
bản thân nội dung tri thức khoa học của môn học quyết định.

10



- Trong cuốn “Phương pháp dạy học truyền thống và đổi mới” [44],
Thái Duy Tuyên phân tích những vấn đề về phương pháp dạy học truyền
thống, các hệ thống phương pháp dạy học hiện đại, những vấn đề cấp thiết
trong đổi mới phương pháp dạy học. Qua đó tác giả viết: “Hứng thú là sự
thống nhất giữa bản chất bên trong và thế giới khách quan ... Hứng thú
không phải là một q trình tự lập và khép kín mà phải có nguồn gốc từ cuộc
sống tự nhiên và xã hội xung quanh. Nếu ta thay đổi điều kiện sống thì hứng
thú có thể thay đổi. Điều đó có nghĩa là có thể điều khiển được hứng thú...
Điều mà thầy giáo phải thực hiện thường xuyên là kích thích hứng thú trong
quá trình dạy học...”. Và trong tác phẩm “Giáo dục học hiện đại (Những nội
dung cơ bản)” [43], ông cho rằng “Người thầy có thể điều khiển hứng thú của
học sinh qua các yếu tố của quá trình dạy học: nội dung, phương pháp,
phương tiện, hình thức tổ chức; qua các bước lên lớp: mở bài, giảng bài mới,
củng cố, vận dụng, kiểm tra kiến thức; qua mối quan hệ thầy trò.v.v...”.
- Tác giả Nguyễn Thị Thảo với đề tài : “Thực trạng hứng thú học Văn
của học sinh trung học cơ sở thành phố Biên Hòa” [36], cho rằng hứng thú là
nguồn kích thích mạnh mẽ đối với tính tích cực cá nhân.
- Tác giả Lê Hồng Thái trong bài “Kích thích hứng thú để phát huy tính
tích cực nhận thức cho học viên các trường đại học quân sự” [35] cho rằng,
hứng thú thường gắn với những cảm xúc, tình cảm như ham muốn nhận thức,
niềm say mê học tập và thái độ với kết quả đạt được.
- Tác giả Nguyễn Thị Thu Cúc trong bài viết “Hứng thú và hứng thú
học tập ở người học”,[10] cho rằng, để nghiên cứu có hiệu quả hứng thú học
tập ở người học cần cụ thể hóa 3 tiêu chí: nhận thức, xúc cảm, hành động
thành những biểu hiện đặc trưng, sát thực đối với nó. Trong đó, cần chú trọng
đặc biệt đến những biểu hiện của hứng thú học tập bằng những hành động tiêu
biểu của mỗi người trong quá trình học tập.

11



2.2.2. Các tài liệu về phương pháp dạy học lịch sử
Các giáo trình phương pháp dạy học lịch sử xuất bản từ năm 1961 đến
nay, như cuốn “Sơ thảo phương pháp dạy học lịch sử ở trường phổ thông cấp
II, III” (tập 2) của Lê Khắc Nhãn (chủ biên); “Phương pháp dạy học lịch sử”
của Phan Ngọc Liên, Trần Văn Trị xuất bản từ năm 1976 đến năm 1992, đặc
biệt cuốn “Phương pháp dạy học lịch sử” (tập 1,2) [25] do Phan Ngọc Liên
(chủ biên), đều đề cập đến sự cần thiết phải tạo hứng thú cho học sinh trong
dạy học lịch sử ở trường THPT.
- Cuốn “Kinh nghiệm giảng dạy theo chủ đề: I - Gây hứng thú học tập
lịch sử” (cho học sinh các trường phổ thông trung học)” đã tập hợp bài viết
về kinh nghiệm dạy học của các tác giả đặc biệt là các GV đã cuốn hút tinh
thần học tập của học sinh, qua đó góp phần giải quyết những khó khăn trong
dạy học lịch sử của GV.
- GS. TS Nguyễn Thị Côi trong “Các con đường, biện pháp nâng cao
hiệu quả bài học lịch sử ở trường phổ thông” [7] đã xem xét hứng thú như là
một yếu tố của hiệu quả bài học lịch sử, đồng thời cũng chính là động cơ quan
trọng của học sinh trong học tập để đạt đến hiệu quả của bài học lịch sử.
Trong các biện pháp, tác giả đã đề cập “phát triển tính tích cực, độc lập
trong nhận thức đặc biệt trong tư duy là phương tiện tốt để hình thành kiến
thức, gợi dậy những xúc cảm lịch sử, kích thích hứng thú học tập, tạo cơ sở
để giáo dục tư tưởng, đạo đức, tình cảm học sinh” [tr. 69].
- Trong “Thiết kế và sử dụng bài tập trong dạy học lịch sử ở trường
Trung học phổ thông” [39], tác giả Trần Quốc Tuấn cho rằng sử dụng bài tập
lịch sử có tác dụng tạo hứng thú học tập bộ mơn, góp phần phát triển tư duy
cho học sinh...
- Luận văn thạc sĩ của Đặng Thị Yên “Gây hứng thú học tập lịch sử
cho học sinh miền núi tỉnh Lai Châu qua dạy học khóa trình lịch sử lớp 6
THCS” [45] (1999) đã nghiên cứu những vấn đề lí luận về hứng thú và hứng


12


thú học tập, trên cơ sở đó đề xuất một số biện pháp nhằm gây hứng thú học
tập lịch sử cho học sinh lớp 6 THCS.
- “Một số biện pháp sư phạm nhằm gây hứng thú học tập lịch sử cho
học sinh trường THPT (Vận dụng qua phần lịch sử thế giới cận đại lớp 10
Chương trình Chuẩn)” [17] (2008) của Nguyễn Thị Hằng đã xác định vị trí,
các nguyên tắc và một số biện pháp sư phạm nhằm tạo hứng thú học tập môn
Lịch sử cho học sinh THPT.
- Một số báo cáo trong các Hội thảo khoa học “Những giải pháp chủ
yếu nâng cao chất lượng dạy học lịch sử Việt Nam ở trường phổ thông hiện
nay” (Hà Nội, 4/2008), “Đổi mới phương pháp dạy học lịch sử ở trường phổ
thơng theo chương trình, sách giáo khoa mới” (Huế, 11/2008) đã đi sâu phân
tích hoạt động của thầy, trò và gợi mở vấn đề: Làm thế nào để tạo hứng thú
cho học sinh trong học tập lịch sử nói chung, lịch sử Việt Nam nói riêng;
đồng thời đề cập đến mối quan hệ giữa việc chọn lựa và sử dụng phương pháp
dạy học với hứng thú học tập bộ mơn Lịch sử của học sinh.
Có thể nói việc nghiên cứu vấn đề gây hứng thú học tập đã thu hút
được sự quan tâm của các nhà khoa học giáo dục. Trên phương diện lý luận
và thực tiễn, các cơng trình nghiên cứu này đều đề cập vấn đề hứng thú học
tập và cần phải gây hứng thú trong dạy học nói chung và dạy học lịch sử nói
riêng. Tuy nhiên, các cơng trình nêu trên chỉ đề cập đến hứng thú học tập cho
học sinh phổ thơng nói chung, còn hứng thú học tập lịch sử cho các HV ở
TTGDTX thì chưa đề cập đến. Chính vì vậy, kế thừa những cơng trình của
các tác giả đã cơng bố, luận văn của tôi tập trung làm rõ vấn đề này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu của đề tài là trên cơ sở tìm hiểu thực trạng học
tập lịch sử của HV TTGDTX, nghiên cứu chương trình, tài liệu học tập, đề
xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hứng thú học tập Lịch sử ở các


13


TTGDTX nói chung, ở Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng. Qua đó, góp phần
nâng cao chất lượng dạy học lịch sử ở các TTGDTX.
3.2. Để đạt được mục đích nói trên, đề tài có nhiệm vụ:
- Tìm hiểu hệ thống lí luận những vấn đề liên quan đến hứng thú học
tập.
- Tiến hành điều tra thực tiễn việc dạy và học môn Lịch sử của GV và
HV trong các TTGDTX ở Thành phố Hồ Chí Minh.
- Xác định các biện pháp sư phạm nhằm tạo hứng thú học tập cho các
HV trong dạy học lịch sử ở các TTGDTX.
- Tiến hành thực nghiệm sư phạm tại TTGDTX Trường Đại học cơng
nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh để khẳng định tính hiệu quả, tính khả thi của
những biện pháp do chúng tôi đề xuất.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các biện pháp gây hứng thú học tập
cho HV trong quá trình dạy học lịch sử ở các TTGDTX Thành phố Hồ Chí
Minh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Do điều kiện thời gian và khuôn khổ của luận văn thạc sĩ, chúng tôi
giới hạn đề tài trong phạm vi nghiên cứu việc xây dựng và đề xuất một số
biện pháp gây hứng thú học tập lịch sử cho HV học tập văn hóa của TTGDTX
thông qua dạy học ở một khối lớp cụ thể là lớp 10. Việc điều tra và tiến hành
thực nghiệm sư phạm chủ yếu diễn ra tại TTGDTX Trường Đại học cơng
nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh.
5. Giả thuyết khoa học
Nếu GV vận dụng các biện pháp tạo hứng thú học tập lịch sử cho HV
theo đề xuất của Luận văn sẽ không chỉ tạo hứng thú học tập lịch sử cho HV

mà cịn góp phần nâng cao hiệu quả dạy học lịch sử trên tất cả các mặt kiến
thức, thái độ và kỹ năng, góp phần tích cực vào quá trình đổi mới PPDH lịch
sử ở các TTGDTX.
6. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

14


6.1. Cơ sở phương pháp luận của đề tài là dựa trên các tác phẩm lí luận của
các tác giả kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ
trương, đường lối của Đảng, Nhà nước ta về lịch sử và giáo dục lịch sử.
6.2. Phương pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu các tài liệu giáo dục học, tâm lí học, phương pháp dạy
học và các vấn đề lịch sử có liên quan đến đề tài và nghiên cứu chương trình,
nội dung sách giáo khoa Lịch sử lớp 10 - THPT.
- Nghiên cứu thực tế tình hình giảng dạy bộ mơn ở một số TTGDTX,
tìm hiểu quan niệm của GV về việc tạo hứng thú học tập cho HV. Công việc
này được tiến hành qua việc trao đổi trực tiếp với GV.
- Tìm hiểu thực trạng hứng thú học tập lịch sử của HV TTGDTX (điều
tra bằng phiếu hỏi).
- Tiến hành thực nghiệm sư phạm ở TTGDTX Trường Đại học cơng
nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh để đánh giá tính đúng đắn và khả thi của giả
thuyết đề tài.
7. Đóng góp của đề tài
- Đánh giá được thực trạng hứng thú học tập lịch sử của HV thuộc
TTGDTX nói chung, TTGDTX trường Đại học cơng nghiệp Thành phố Hồ
Chí Minh nói riêng và ngun nhân của thực trạng đó.
- Đề xuất các biện pháp thích hợp để nâng cao hứng thú học tập lịch sử
cho HV tại các TTGDTX nói chung và TTGDTX trường Đại học cơng
nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng.

- Là tài liệu giúp cho GV lịch sử tại các TTGDTX tham khảo và vận
dụng, góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ mơn.
8. Bố cục của luận văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục thì nội dung
chính của luận văn bao gồm hai chương
Chương 1: Vấn đề gây hứng thú học tập cho học viên trong dạy học lịch sử ở
các trung tâm giáo dục thường xuyên – Lý luận và thực tiễn.

15


Chương 2: Các biện pháp gây hứng thú học tập cho học viên trong dạy học
lịch sử lớp 10 ở các trung tâm giáo dục thường xuyên. Thực nghiệm sư phạm.

Chương 1
VẤN ĐỀ GÂY HỨNG THÚ HỌC TẬP CHO HỌC VIÊN TRONG DẠY
HỌC LỊCH SỬ Ở TRUNG TÂM GIÁO DỤC THƯỜNG XUYÊN –
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

16


1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Quan niệm về hứng thú trong dạy học
* Hứng thú
Theo Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam: “Hứng thú là hình thức
biểu hiện tình cảm và nhu cầu nhận thức của con người nhằm ý thức một
cách hào hứng về mục đích hoạt động, nhằm tìm hiểu sâu hơn, phản ánh đầy
đủ hơn đối tượng trong đời sống hiện thực. Hứng thú có tính ổn định, thể
hiện ở độ lâu dài và mạnh mẽ của nó” [48]. Về phương diện chủ quan, hứng

thú thường phản ánh thái độ quan tâm đặc biệt của chủ thể đối với đối tượng
do tính hấp dẫn hoặc do ý thức được ý nghĩa quan trọng của đối tượng. Hứng
thú tạo nên ở chủ thể khát vọng được tiếp cận và đi sâu vào đối tượng, làm
nảy sinh cảm xúc tích cực (hài lịng, phấn khởi, u thích...) nâng cao sức tập
trung chú ý và khả năng làm việc. Khi được làm việc phù hợp với hứng thú,
dù phải vượt khó khăn, con người vẫn cảm thấy thoải mái và đạt hiệu quả cao.
Còn theo Từ điển tiếng Việt: “hứng thú là sự ham thích, cảm thấy hào hứng”
[48].
Như vậy, “Hứng thú” là một hiện tượng tâm lí phức tạp, vấn đề này đã
được nhiều nhà tâm lí học, giáo dục học nghiên cứu. Theo I.F. Kharlamop thì
“Hứng thú - đó là nhu cầu nhuốm màu sắc cảm xúc đi trước giai đoạn gây
động cơ và làm cho hoạt động của con người có tính hấp dẫn” [29, tr.28].
Các nhà Tâm lý học mácxít xem xét hứng thú theo quan điểm duy vật
biện chứng, coi hứng thú không phải là cái trừu tượng vốn có trong mỗi cá
nhân mà là kết quả của sự hình thành và phát triển nhân cách cá nhân, nó
phản ánh một cách khách quan thái độ đang tồn tại ở con người. Trong cuốn
Tâm lý học cá nhân, A.G. Côvaliốp coi hứng thú là sự định hướng của cá
nhân, vào một đối tượng nhất định, tác giả đã đưa ra một khái niệm khá hoàn
chỉnh về hứng thú “là một thái độ đặc thù của cá nhân đối với đối tượng nào
đó, do ý nghĩa của nó trong đời sống và do sự hấp dẫn về tình cảm của nó”
[1, tr. 228].

17


* Hứng thú nhận thức
Với tư cách là một thuộc tính tâm lí cá nhân, hứng thú liên quan chặt
chẽ với các thuộc tính khác của xu hướng và với các hiện tượng tâm lí khác.
Hứng thú là tăng hiệu quả của quá trình nhận thức, làm nảy sinh khát vọng
hành động và hành động sáng tạo làm tăng sức làm việc. Vậy, thế nào là

hứng thú nhận thức?
Chúng ta biết rằng, nhận thức là quá trình phản ánh biện chứng, tích
cực, tự giác và sáng tạo thế giới khách quan vào trong đầu óc của con người.
Hứng thú nhận thức là loại hứng thú nhằm hướng đến những tri thức mới mà
cá nhân chưa biết hoặc biết chưa đầy đủ. Theo các nhà Tâm lý học, hứng thú
nhận thức là một hiện tượng tâm lý diễn ra trong quá trình con người tiến
hành hoạt động nhận thức, theo con đường biện chứng mà V.I. Lênin đã khái
quát: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng
đến thực tiễn”. Từ góc độ chủ thể nhận thức, hứng thú được xem như là một
cơ chế bên trong, một động cơ thúc đẩy quá trình nhận thức của con người.
G.I. Sukina viết: “Hứng thú nhận thức giữ vai trò là động cơ quan trọng của
hoạt động trong quá trình hình thành của cá nhân và thường biểu lộ ra ngồi
dưới dạng hiểu biết, tính tị mị, lòng khao khát kiến thức mãnh liệt” [34,
tr.112]. Hứng thú đem đến ý chí và nghị lực để con người vượt qua những trở
ngại trên con đường tìm kiếm tri thức.
Như vậy, hứng thú nhận thức là khuynh hướng lựa chọn của cá nhân
nhằm vào việc nhận thức được một hoặc một số lĩnh vực khoa học nhằm vào
mặt nội dung và q trình hoạt động của nó. Hứng thú nhận thức được thể
hiện dưới hình thức hứng thú học tập, hứng thú khoa học có tính chất chun
mơn như hứng thú tốn học, vật lí học, triết học, tâm lí học, sử học...
* Hứng thú học tập
Bản chất của hoạt động học tập cũng là một quá trình nhận thức. Tuy
nhiên, đây là q trình nhận thức tích cực, tự lực và sáng tạo, là một quá trình

18


căng thẳng, địi hỏi phải nỗ lực thường xun. Vì vậy, hứng thú nhận thức
làm nâng cao tính tích cực của học viên và làm tăng hiệu quả của quá trình
nhận thức. Hứng thú nhận thức khơng chỉ là sự kích thích bên ngồi mà cịn là

q trình kích thích từ bên trong của bản thân HV, chính sự kích thích bên
trong đó mới duy trì lâu dài được hứng thú. Những nội dung kích thích HV từ
bên ngồi có thể là nội dung bài học, do GV giảng dạy, do đồ dùng trực quan
đẹp..., nhưng đó chỉ là những cảm xúc nhất thời chưa thể gọi là hứng thú đồng
thời cũng khơng duy trì được sự bền vững. Để gây hứng thú cho HV, chúng ta
phải “giúp cho học sinh cảm xúc niềm vui sướng của thành công, tin tưởng
vào sức của mình, vào khả năng vượt qua khó khăn sẽ gặp” [31, tr. 28]. Hiểu
rõ ý nghĩa của hứng thú nhận thức trong quá trình dạy học là cơ sở để tổ chức
có hiệu quả cao hoạt động giáo dục trí tuệ trong nhà trường. Với ý nghĩa đó,
hứng thú nhận thức đã tạo ra động cơ quan trọng của hoạt động học tập, là cơ
sở của thái độ đúng đắn của người học đối với việc học tập của chính mình,
làm cho các em say sưa, cũng như tìm thấy niềm vui thích trong q trình
học, từ đó các em có khát vọng đi sâu nghiên cứu môn học.
A.K. Markova và V.V. Repkin cho rằng “Hứng thú học tập là loại
hứng thú chưa được ý thức một cách rõ ràng, có tính chất tình huống, thường
chú ý tới những khía cạnh bên ngồi của đối tượng hoạt động học tập, ít có
tác dụng thúc đẩy hành động học tập theo sáng kiến riêng của người học,
được xuất hiện dưới những phản ứng rất mãnh liệt nhưng ngắn ngủi”[3, tr.
114] . Cịn theo A.G. Cơvaliơp thì “Hứng thú học tập chính là thái độ lựa
chọn đặc biệt của chủ thể đối với đối tượng của hoạt động học tập, vì sự cuốn
hút về tình cảm và ý nghĩa thiết thực của nó trong đời sống cá nhân” [1, tr.
116].
- Hứng thú học tập được chia làm hai loại:
+ Hứng thú gián tiếp trong hoạt động học tập (hứng thú bên ngoài) là
thái độ lựa chọn đặc biệt của chủ thể đối với đối tượng của hoạt động học tập,

19


do những yếu tố bên ngoài, gián tiếp liên quan đến đối tượng của hoạt động

này gây nên.
+ Hứng thú trực tiếp trong hoạt động học tập (hứng thú bên trong, hứng
thú nhận thức) là hứng thú đối với nội dung tri thức, quá trình học tập và các
phương pháp tiếp thu, vận dụng những nội dung tri thức đó
- Hứng thú học tập biểu hiện:
+ Trước hết, là xu hướng say mê với việc học tập bộ mơn, có óc tị mị
khoa học, ham hiểu biết, ln tìm tịi suy nghĩ và sẵn sàng đặt câu hỏi với
thầy cô, bạn bè nhằm hiểu sâu vấn đề. Thông thường, khi có hứng thú học tập
thì các em sẽ cần cù, nhẫn nại, ln có xu hướng phải trả lời vấn đề đặt ra,
đọc thêm tài liệu tham khảo để hiểu sâu hơn kiến thức hoặc ứng dụng trong
thực tiễn.
+Thứ hai, là khi đặt ra vấn đề cần giải quyết, các em ln kiên nhẫn
suy nghĩ, tìm hiểu vấn đề đến cùng, sau đó là thích thú, phấn khởi trong q
trình học tập, chủ động giành nhiều thời gian cho việc học, chờ đón kiến thức
mới, nhận thức và lý giải được các nguyên nhân tạo ra được sự yêu thích ấy ở
chủ thể. Từ đó, dẫn đến kết quả cao trong học tập, nếu kết quả chưa cao
thường có xu hướng quyết tâm để đạt kết quả cao hơn.
+ Thứ ba, hứng thú học tập còn được thể hiện ở chỗ thích học một vài
bộ mơn mà các em cho là phù hợp, từ đó thúc đẩy các em đọc thêm sách báo,
hoạt động ngoại khóa... Các em khơng chỉ hứng thú với những điều thầy dạy
mà còn hứng thú với những cái nằm ngồi phạm vi chương trình học tập ở
nhà trường.
1.1.2. Hứng thú học tập lịch sử và biểu hiện của nó
* Hứng thú học tập Lịch sử
Lịch sử là “Cơ giáo của cuộc sống, là bó đuốc soi đường đi đến tương
lai”. Không những thế, Lịch sử cịn là phương tiện để tìm lại q khứ và tạo
dựng sự thống nhất về văn hóa...Lịch sử là nội dung phát triển khả năng tiếp
cận có phê phán các nguồn thơng tin và óc tưởng tượng được làm chủ. Cũng

20



như các mơn học khác, Lịch sử có nhiều ưu thế trong giáo dục tư tưởng, tình
cảm, đạo đức, thẩm mỹ. Những con người và những việc thực của quá khứ có
sức thuyết phục, có sự rung cảm mạnh mẽ đối với HV... Qua đó, giáo dục cho
họ tình cảm yêu - ghét trong đấu tranh giai cấp, chủ nghĩa anh hùng, bồi
dưỡng tình cảm yêu quý lao động, yêu cái đẹp, có óc thẩm mỹ, biết cách ứng
xử đúng đắn, có lịng khoan dung, nhân hậu trong cuộc sống.
Hứng thú học tập Lịch sử là một hình thức của hứng thú nhận thức có
tác động đến sự hình thành nhân cách HV là một trong những động lực thúc
đẩy người học tự giác học tập và là điều kiện để học tập có kết quả đối với nội
dung Lịch sử. “Hứng thú học tập lịch sử là một thái độ say mê tự giác tích
cực đặc biệt của cá nhân đối với nội dung lịch sử cụ thể” [46, tr. 16].
* Những biểu hiện của hứng thú học tập Lịch sử
Hứng thú học tập Lịch sử của HV biểu hiện ở các dấu hiệu, chỉ số cụ
thể trong hoạt động học tập và trong cuộc sống chứ không phải là cái gì trừu
tượng và nhà giáo dục có thể quan sát những biểu hiện này. Những biểu hiện
này khá phong phú, đa dạng và nhiều khi phức tạp đan xen vào nhau. Tuy
vậy, những biểu hiện của hứng thú học tập Lịch sử có thể được tóm lại trong
các mặt sau đây:
- Về mặt kiến thức: Học tập với sự hứng thú sẽ giúp HV lĩnh hội sâu sắc
và nhớ lâu những sự kiện, hiện tượng quá trình lịch sử. Các em không chỉ
“biết” sử mà quan trọng hơn thơng qua một q trình học tập tích cực với sự
hoạt hóa các q trình tâm lý, HV sẽ “hiểu” sâu sắc nội dung bản chất của
các tri thức lịch sử bằng việc lĩnh hội các khái niệm, quy luật, bài học lịch sử
và nhờ vậy có thể vận dụng những tri thức lịch sử để giải thích các sự kiện
lịch sử đương đại, những vấn đề của cuộc sống. Từ đó, giúp các em có thái độ
hăng say trong học tập, tìm kiếm nhiều nguồn tài liệu, sách báo để phục vụ
cho việc học tập Lịch sử.


21


- Về mặt tư tưởng, tình cảm: Hứng thú học tập Lịch sử thể hiện ở lịng
say mê, thích thú, phấn khởi với bộ môn, chủ động giành nhiều thời gian cho
việc học, chủ động trong việc tiếp cận các vấn đề mới...
- Về mặt kĩ năng: Hứng thú học tập Lịch sử sẽ phát triển các năng lực
như: ghi nhớ, tưởng tượng, tư duy, quan sát, so sánh, phán đốn, phân tích,
tổng hợp vấn đề, có thể khai thác nội dung kênh hình thơng qua sự hướng dẫn
của GV.
1.1.3. Quan niệm về Giáo dục thường xuyên
“Giáo dục thường xuyên” là mợt tḥt ngữ được nhiều người nói tới
hằng ngày trên các phương tiện thông tin đại chúng. Người đọc và nghe
dường như khơng cịn xa lạ với nó. Song, nếu đi sâu vào nội hàm và ngoại
diên của thuật ngữ này - tức là xem xét nó như một khái niệm - thì mới vỡ lẽ
ra rằng, trong quan niệm của con người, cho đến nay vẫn còn nhiều ý kiến
không thống nhất về định nghĩa thế nào là GDTX.
Ở nhiều quốc gia, công việc giáo dục phải được tiến hành đối với mọi
lứa tuổi, từ lúc lọt lòng cho đến lúc kết thúc cuộc sống. Cái quá trình giáo dục
đó, khơng phân biệt học trong nhà trường hay học ngồi xã hội hoặc tại gia
đình, học có mục đích hay học ngẫu nhiên, học theo hệ thống tri thức và kỹ
năng hoặc cần gì học nấy - đều phải được quan tâm và phải có sự quản lý từ
phía Nhà nước được hiểu là GDTX. Với cách hiểu này, GDTX là một chính
sách xã hội của một xã hội hiện đại, trong đó học tập là quyền của con người.
Như vậy, nếu phân chia hệ thống giáo dục ra làm 2 hệ nhỏ thành phần là hệ
thống giáo dục ban đầu và hệ thống giáo dục tiếp tục, thì sự liên kết, liên
thơng, kết nối và được tiến hành không đứt đoạn nhờ sự đan xen và liên tục
của sự học ở mỗi con người được gọi là GDTX.
Theo quan niệm mới của các nhà giáo dục trên thế giới thì giáo dục
khơng chỉ là một giai đoạn tức thời, diễn ra một lần trong một độ tuổi nhất

định mà diễn ra trong suốt cuộc đời, bản thân cuộc sống mà con người đang

22


sống cũng là một quá trình học tập thường xuyên, là môi trường để mỗi cá
nhân con người tự học hỏi, tự phấn đấu để nâng cao trình độ và hoàn thiện
nhân cách. Năm 1990, Hội nghị cấp cao toàn thế giới được tổ chức tại Thái
Lan đã khẳng định nhu cầu học tập cơ bản của tất cả các công dân trong cộng
đông từ trẻ em cho tới người lớn, đã khẳng định nhu cầu cần thiết là phải mở
rộng không ngừng quy mô giáo dục thông qua các hoạt động như: xóa mù
chữ, phổ cập giáo dục tiểu học và GDTX. Năm 1996, Hội nghị lần thứ III khu
vực châu Á - Thái Bình Dương về GDTX do UNESCO tổ chức tại Malaysia
đã thể hiện rõ sự quan tâm của các nước về GDTX, các chuyên gia và các nhà
giáo dục trong hội nghị này đã thừa nhận vai trị và sự đóng góp to lớn của
GDTX đối với việc nâng cao dân trí và đào tạo nguồn nhân lực cho sự phát
triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia nói chung và từng cá nhân nói riêng.
Có thể khẳng định chắc chắn rằng, vai trị của GDTX là chìa khóa vàng
để bước vào thế kỉ XXI. UNESCO đưa ra một quan niệm về GDTX rất phù
hợp với điều kiện phát triển hiện nay ở Việt Nam. Theo quan niệm đó, GDTX
bao gồm tất cả các cơ hội học tập mà mọi người đều mong muốn hoặc cần có
sau xố mù chữ cơ bản và giáo dục tiểu học.
Việc cung ứng các cơ hội học tập tiếp theo sau xóa mù chữ (Postlieracy Programmes) có nhiều chương trình khác nhau mà nhiều nước thực
hiện như:
- Chương trình nâng cao chất lượng cuộc sống (Quality of Life
Improvement Programmes);
- Chương trình tương đương (Equivalency Programmes);
- Chương trình tạo thu nhập (Income - Generating Programmes);
- Chương trình đáp ứng sở thích cá nhân (Individual Interest Promotion
Programmes);

- Chương trình định hướng tương lai (Future–Oriented Programmes)v.v

23


Trong thực tế, những chương trình đại loại như trên thường được nhiều
đối tượng hoan nghênh như những người phải bỏ học giữa chừng khi đang
học trong nhà trường chính quy, những người nghèo hoặc thất nghiệp, những
người di cư, những người tị nạn, những phụ nữ ít có cơ may học tập, những
người về hưu…
Do vậy, GDTX thực hiện nhiều chức năng khác nhau. Tổng kết về vai
trò cần thiết của GDTX, người ta rút ra 4 chức năng chính của hệ thống giáo
dục này như sau:
Chức năng thay thế: GDTX tạo cơ hội học tập thứ hai cho những ai
chưa bao giờ đi học, từ đó góp phần vào việc mang lại cơng bằng xã hội và
bình đẳng trong giáo dục.
Chức năng nối tiếp: Với những người bỏ học giữa chừng vì lý do nào
đó, GDTX nối lại sự đứt đoạn trong quá trình học tập của họ, làm cho việc
học tập lại được thực hiện tiếp tục, liền mạch.
Chức năng bổ sung: Những người đã được cung ứng những tri thức và
kỹ năng nhờ quá trình giáo dục chính quy hoặc khơng chính quy thường ln
ln thấy bản thân còn thiếu hụt những kiến thức, những kỹ năng nào đó
trong q trình lao động, giao lưu xã hội… Sự thiếu hụt này làm cho họ khó
thích nghi, khó phát triển trong điều kiện xã hội thay đổi nhanh chóng về các
phương diện sản xuất, kinh doanh, quan hệ đối ngoại… Thực tiễn đó yêu cầu
con người phải cập nhật những hiểu biết, những phương pháp làm việc… cần
thiết mà cuộc sống địi hỏi.
Chức năng hồn thiện: GDTX mang lại cơ hội học tập mà qua đó con
người làm cho vốn kinh nghiệm của mình đầy đủ hơn, năng lực hoạt động
được nâng cao, sức khoẻ được tăng cường, những phẩm chất nhân cách được

phát triển hài hoà và hồn chỉnh hơn.
UNESCO đánh giá cao vai trị của GDTX thông qua những nhận định
sau:

24


- Giáo dục chính quy và GDTX đều có tầm quan trọng như nhau đối
với sự phát triển tài nguyên con người;
- Giáo dục chính quy và GDTX bổ sung cho nhau và vì vậy, các
chương trình giáo dục tương đương cần phải được khuyến khích;
- Cả giáo dục chính quy lẫn GDTX đều có đối tượng riêng của mình;
- GDTX là một phần tiếp tục của giáo dục chính quy, vì vậy cả hai loại
chương trình này cần được tiến hành song song với nhau;
- Giáo dục chính quy và GDTX cần phải có những tài liệu học tập tốt
mang tính đặc thù, đều phải có giáo viên chun trách và sự trợ giúp về tài
chính;
- Giáo dục chính quy và GDTX cần được tổ chức một cách hệ thống;
- Bồi dưỡng cập nhật kiến thức cho giáo viên và người học đều cần
thiết đối với cả giáo dục chính quy và GDTX, nhất là phải thường xuyên tổ
chức các khóa huấn luyện về đổi mới phương pháp dạy học cho người dạy;
- Việc nghiên cứu lý luận và biên soạn giáo trình, học liệu phù hợp với
các chương trình giáo dục chính quy và GDTX là rất cần thiết;
- GDTX cần đến sự tham gia của cộng đồng nhiều hơn so với giáo dục
chính quy;
- Chất lượng và hiệu quả của chương trình GDTX phụ thuộc vào mức
độ đáp ứng nhu cầu của con người dân ở từng cộng đồng;
- Giáo dục chính quy và GDTX đều phải hướng tới sự phát triển của
các kỹ năng hành dụng “học đi đơi với hành”. Đó là điều hết sức quan trọng
đối với giáo dục chính quy và GDTX;

- Việc quản lý, điều hành và đánh giá giáo dục chính quy và GDTX
phải được thiết lập một cách có tổ chức;
- Mặc dù cả giáo dục chính quy và GDTX đều được cấu trúc theo
chương chình chuẩn, nhưng chương trình của GDTX xuyên mang tính mềm
dẻo hơn.

25


×