Tải bản đầy đủ (.doc) (54 trang)

Mặt trận việt minh liên tỉnh nghệ tĩnh trong cách mạng tháng 8 1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (266.68 KB, 54 trang )

Lời cảm ơn
Em xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới thầy Trần Văn Thức đã tận tình hớng dẫn, giúp đỡ và động viên em trong qúa trình lựa chọn và thực hiện đề tài.
Để hoàn thành đợc luận văn này, em còn nhận đợc sự giúp đỡ nhiệt tình
của các thầy, cô giáo trong khoa.
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất!.
Tác giả

Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài:

Dân tộc Việt Nam vốn đổi tự hào về truyền thống dựng nớc và giữ nớc
của mình và đã viết nên nhiều trang sử vẻ vang với những chiến công chói lọi
chống xâm lợc. Cách mạng tháng 8/1945 thành công là một trang sử vẻ vang,
chói lọi bậc nhất, đánh dấu bớc ngoặc vĩ đại trong lịch sử dân tộc.
Cách mạng tháng Tám là bớc nhảy vọt vĩ đại đánh dấu một cuộc biến đổi
cực kỳ to lớn trong lịch sử tiến hoá của dân tộc Việt Nam. Nó đập tan chính
quyền của thực dân và phong kiến, lập nên nớc Việt Nam dân chủ cộng hoà Nhà nớc công nông đầu tiên ở Đông Nam Châu á.
Năm tháng trôi qua càng làm nổi bật tầm vóc lịch sử và ý nghĩa thời đại
của nó. Chúng ta có thể khẳng định rằng, năm tháng có thể trôi qua nhng thắng
lợi của Cách mạng tháng 8/1945 mãi mãi đợc ghi vào lịch sử của dân tộc ta, đó
1


là một biểu tợng sáng ngời về sự thắng lợi, đồng thời là thắng lợi của trí tuệ con
ngời Việt Nam.
Trong thắng lợi chung của toàn dân tộc tháng Tám 1945 có sự đóng góp
đáng kể của nhân dân Nghệ Tĩnh.
Nghệ Tĩnh đã cùng cả nớc tiến hành cuộc khởi nghĩa giành chính quyền
về tay nhân dân. Nghệ Tĩnh với vị thế có tính chất đặc thù của mình, đã trở
thành địa bàn chiến lợc quan trọng trong cuộc khởi nghĩa giành chính quyền
của cả nớc.


Những ngời dân Nghệ Tĩnh đã vợt qua mọi khó khăn gian khổ dới sự
lãnh đạo của Mặt trận Việt Minh liên tỉnh Nghệ Tĩnh, ra đời vào ngày
19/5/1945 đã đứng dậy giành chính quyền thắng lợi trong Cách mạng tháng
8/1945, đóng góp vào sự thắng lợi chung của cả nớc.
Mặt trận Việt Minh liên tỉnh Nghệ Tĩnh mặc dù ra đời muộn nhng đã
đáp ứng đợc yêu cầu của lịch sử. Chính điều đó, mà cơ hội ngàn năm có một
tới gần, Mặt trận Việt Minh liên tỉnh Nghệ Tĩnh, mà nòng cốt là các đảng viên
cộng sản đã vận động đứng đắn chủ trơng của Mặt trận Việt Minh vào hoàn
cảnh địa phơng một cách linh hoạt và sáng tạo. Mặt trận Việt Minh liên tỉnh
Nghệ Tĩnh đã tổ chức, tập hợp đợc mọi tầng lớp nhân dân, phân hoá đợc hàng
ngũ kẻ thù, ngăn chặn đợc sự chống đối có thể, của quân Nhật và tay sai, sử
dụng hình thức và phơng pháp đấu tranh thích hợp, tuỳ hoàn cảnh của từng địa
phơng để đa ra đờng lối cho phù hợp.
Vai trò của Mặt trận Việt Minh liên tỉnh Nghệ Tĩnh trong cuộc khởi
nghĩa giành chính quyền ở Nghệ Tĩnh là rất to lớn, mặc dù sự kiện lịch sử đó
đã diễn ra năm 57 nhng qua những bài học của nó vẫn giữ nguyên giá trị.
Là một sinh viên chuyên lịch sử, tôi mạnh dạn chọn đề tài: "Mặt trận
Việt Minh liên tỉnh Nghệ Tĩnh trong Cách mạng tháng 8/1945" làm đề tài luận
văn tốt nghiệp đại học, nhằm góp phần nhỏ bé trong việc nghiên cứu lớn lao
nói trên. Hơn thế nữa là một ngời con xứ Nghệ, qua luận văn này tôi muốn tình
hiểu sâu thêm về lịch sử của địa phơng mình.
2. Lịch sử vấn đề.

Từ trớc tới nay khi bàn về vấn đề Cách mạng tháng 8/1945 nói chung
trên toàn quốc đã có nhiều công trình nghiên cứu mà điển hình nhất là cuốn:
"Cách mạng tháng 8/1945" của nhà xuất bản sự thật Hà Nội (tháng 9/1970)
ngoài ra còn nhiều cuốn sách khác nữa.
Đối với Cách mạng tháng 8/1945 ở Nghệ Tĩnh về cơ bản cho tới nay vẫn
cha có một công trình nào chuyên sâu về vấn đề: "Mặt trận Việt Minh liên tỉnh
2



Nghệ Tĩnh trong Cách mạng tháng 8/1945 ", Tuy nhiên trong một chừng mực
nhất định chúng ta có thể thấy vai trò của Mặt trận Việt Minh liên tỉnh Nghệ
Tĩnh, trong các tài liệu các tài liệu lịch sử địa phơng. Nh:
+ Ban nghiên cứu lịch sử Đảng tỉnh uỷ Nghệ Tĩnh: Lịch sử Đảng bộ
Đảng cộng sản Việt Nam Tỉnh Nghệ Tĩnh, sơ thảo tập một (1925 - 1954). Nhà
xuất bản Nghệ Tĩnh. Vinh 1987.
+ Ban chấp hành Đảng bộ Đảng cộng sản Việt Nam Tỉnh Nghệ An: Lịch
sử Đảng bộ Nghệ An. Tập 1 (1930 - 1954). Nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà
Nội 1998.
+ Ban chấp hành Đảng bộ Đảng cộng sản Việt Nam Tỉnh Nghệ Tĩnh:
Lịch sử Đảng bộ Nghệ Tĩnh. Tập 1 (1930 - 1954). Nhà xuất bản chính trị quốc
gia Hà Nội 1993.
+ Lịch sử Đảng bộ Đảng cộng sản Việt Nam Tỉnh Nghệ An: Cách mạng
tháng tám 1939 - 1945. Ban nghiên cứu lịch sử Đảng Tỉnh uỷ Nghệ An xuất
bản.
+ Ban nghiên cứu lịch sử đảng Tỉnh uỷ Hà Tĩnh xuất bản 1996: Thời kỳ
Cách mạng tháng Tám 1939 - 1945.
Trên những phơng diện khác nhau có thấy đợc vai trò của Mặt trận Việt
Minh liên tỉnh Nghệ Tĩnh Cách mạng tháng 8/1945 trong những công trình
nghiên cứu trên đây.
Ngoài ra, còn có các cuốn sách về lịch sử địa phơng các huyện nh:
+ Ban chấp hành Đảng bộ huyện Can Lộc: Hoạt động của Đảng bộ nhân
dân Can Lộc trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và bớc đầu xây dựng
chế độ xã hội mới (Thời kỳ 1930 - 1975). Xuất bản 8/1999.
+ Ban thờng vụ huyện uỷ huyện Đảng bộ Cẩm Xuyên: Lịch sử Đảng bộ
huyện Cẩm Xuyên - Tập 1 (1930 - 1935) tái bản 1998.
+ Ban thờng vụ huyện uỷ Đảng bộ Đức Thọ: Lịch sử Đảng bộ huyện Đức
Thọ - Tập 1 (1930 - 1943). Xuất bản 1973.

+ Ban chấp hành Đảng bộ huyện Thanh Chơng: Lịch sử Đảng bộ Đảng
cộng sản Việt Nam Huyện Thanh Chơng, sơ thảo tập 1 (1930 - 1945) nhà xuất
bản Nghệ Tĩnh, Vinh 1985.
+ Huyện uỷ, uỷ nhân dân huyện Yên Thành: Lịch sử huyện Yên Thành
nhà xuất bản Nghệ Tĩnh, Vinh 1990 ...
Các cuốn sách lịch sử địa phơng các huyện chỉ thiên về tính chất lịch sử
Đảng. Đặc biệt, đề cập đến vai trò của Mặt trận Việt Minh liên tỉnh Nghệ Tĩnh
trong Cách mạng tháng 8/1945 thì còn khá mờ nhạt.
3


Nhằm làm nổi bật đợc vai trò to lớn của Mặt trận Việt Minh liên tỉnh
Nghệ Tĩnh trong Cách mạng tháng 8/1945, cần phải có một công trình nghiên
cứu chuyên sâu đợc đầu t một cách công phu và chu đáo hơn.
Với đề tài này, trên cơ sở kế thừa thành quả của các nhà nghiên cứu đi trớc, đồng thời dựa vào các nguồn t liệu thu nhập đợc trong các chuyến đi khảo
sát thực tế và t liệu lu trữ chúng tôi mong muốn hoàn thành yêu cầu khoa học
mà đề tài đặt ra.
3. Phơng pháp nghiên cứu:

Để hoàn thành đề tài này, chúng tôi chủ yếu sử dụng các phơng pháp:
Phơng pháp lịch sử, phơng pháp lô gích và phơng pháp đối chiếu, so sánh.
Phơng pháp lịch sử đợc nhấn mạnh, đó là việc phân tích, đánh giá sự
kiện lịch sử một cách chân thực, khoa học.
Sử dụng phơng pháp lô gích, giúp chúng ta tránh những chi tiết vụn vặt
mà đi sâu vào bản chất, các lô gích của sự phát triển từ đó nêu rõ tính quy luật
chi phối tác động đến sự phát triển của lịch sử.
Với phơng pháp lô gích này, chúng ta sẽ thấy đợc rằng sự ra đời của Mặt
trận Việt Minh liên tỉnh Nghệ Tĩnh là hợp với quy luật phát triển lịch sử khách
quan.
Với phơng pháp đối chiếu, so sánh cho chúng ta thấy đợc trong quá trình

lãnh đạo của Mặt trận Việt Minh liên tỉnh Nghệ Tĩnh trong Cách mạng tháng
8/1945 thì ở Tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh có sự giống nhau và khác nhau.
4. Phạm vi đề tài:

Đề tài này đợc xác định trong khoảng thời gian từ khi Mặt trận
Việt Minh liên tỉnh Nghệ Tĩnh ra đời (19/5/1945) đến khi Tổng khởi nghĩa
giành chính quyền thắng lợi (2/9/1945)
Trọng tâm của đề tài là nêu hoàn cảnh ra đời, chủ trơng khởi nghĩa giành
chính quyền của Mặt trận Việt Minh liên tỉnh Nghệ Tĩnh và vai trò lãnh đạo
của nó trong khởi nghĩa giành chính quyền ở Nghệ An và Hà Tĩnh.
5. Bố cục của đề tài:

Ngoài phần mở đầu, nội dung đề tài đợc trình bày ba chơng:
Chơng 1: Bối cảnh lịch sử trớc sự ra đời của Mặt trận Việt Minh liên
tỉnh Nghệ Tĩnh.
Chơng 2: Việt Minh Liên tỉnh Nghệ Tĩnh sự ra đời và vai trò của nó đối
với cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Nghệ Tĩnh.
Chơng 3: Một số nhận xét, đánh giá.
4


Nội dung
Chơng 1.
Bối cảnh lịch sử trớc sự ra đời của Mặt trận Việt Minh liên
tỉnh Nghệ Tĩnh.

1.1. Vị trí và truyền thống.
1.1.1. Vị trí:
Nghệ An và Hà Tĩnh là hai tỉnh nằm ở Bắc Trung bộ vào khoảng toạ độ
17 o 53/ đến 200 02/ vĩ độ bắc, từ 1030 02/ đến 1060 30/ độ kinh đông. Phía bắc

giáp tỉnh Thanh Hoá, Nam giáp tỉnh Quảng Bình, Tây giáp tỉnh Xiêng Khoảng,
Bôlykhămxây và Khămmuộn của nớc Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào, với đờng biên giới dài 564km. Đông giáp biển Đông với bờ biển dài 230km. Chiều
ngang nơi rộng nhất là 200km, nơi hẹp nhất là 80km. Nghệ An và Hà Tĩnh có
5


tổng diện tích là 22.502km2, có một Thành phố, 3 thị xã và 25 huyện, bao gồm
13 huyện đồng bằng và ven biển, 6 huyện trung du và 6 huyện ở miền núi.
Thành phố Vinh là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá quan trọng, là
đầu mối giao thông của Nghệ An nói riêng và hai tỉnh nói chung với cả các
miền trong nớc và Lào. Trải qua nghìn năm Bắc thuộc và các thời đại sau đó, tổ
chức điạ giới hành chính cùng tên gọi của vùng Nghệ Tĩnh luôn thay đổi, có
lúc là một châu, một trấn hay một tỉnh. Mãi cho đến năm Minh Mạng thứ 12
(1831), trấn Nghệ An đợc tách thành hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh.
Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nớc, từ năm 1976, Hà
Tĩnh và Nghệ An đợc nhập lại thành một tỉnh lấy tên là Nghệ Tĩnh.
Từ tháng 8/1991 đến nay tỉnh Nghệ Tĩnh lại tách ra làm hai: Nghệ An và
Hà Tĩnh.
Trong tiến trình lịch sử, mặc dù Nghệ Tĩnh có lúc tách ra, lúc thì nhập
lại, nhng c dân hai tỉnh có tính cấu kết cộng đồng sát sao, là một bộ phận
khăng khít của cộng đồng ngời Việt cổ, đã từng góp phần xây dựng nền văn
hoá của toàn cộng đồng, tạo nên một trong các tiền đề hình thành dân tộc Việt
Nam.
Các di chỉ khảo cổ học phát hiện ở Nghệ Tĩnh từ trớc tới nay phần nào
chứng minh đợc điều đó.
Qua quá trình kiến tạo, phát triển, c dân Nghệ Tĩnh đã tạo nên một nền
văn hoá phong phú, đặc sắc.
Nghệ Tĩnh là một vùng đất có cấu tạo địa hình, địa chất và khí hậu đa
dạng, nhiều tài nguyên thiên nhiên phong phú, có miền núi, đồng bằng trung
du và đồng bằng ven biển. Phía đông có biển bao la, phía tây có dãy Trờng Sơn

hùng vĩ.
Rừng chiếm khoảng 3/4 diện tích tự nhiên của hai tỉnh, có nhiều loại
thực vật và động vật quý, có trữ lợng gỗ khai thác lớn, khoáng sản có tới hàng
chục điểm mỏ, điểm quặng và lớn nhất mỏ thiếc Quỳ Hợp, mỏ sắt Thạch Khê.
Biển Nghệ Tĩnh có nhiệt độ và độ mặn phù hợp với sự sinh sống của nhiều loại
hải sản. Đồng bằng trồng đợc các loại cây lơng thực và nhiều cây nông nghiệp
có giá trị.
Hệ thống sông ngòi Nghệ Tĩnh dày đặc, tiêu biểu là hệ thống Sông Lam
gồm 15 sông lớn, nhỏ. Trong đó có các phụ lu chính là sông Nậm Nôn, sông
Hiếu, sông Giang, sông Rô, sông Rào Gang, sông La và chi lu chính là sông
Cấm và sông Nghèn.

6


Về giao thông, nơi đây có hệ thống đờng thuỷ, đờng bộ thông với các
vùng kinh tế của c dân trong tỉnh, trong nớc, với nớc láng giềng Lào. Nghệ
Tĩnh trở thành đầu mối quan trọng, có nhiều tuyến giao thông chiến lợc nối
liền với toàn quốc và một số tỉnh của nớc Lào.
Thiên nhiên, tuy rất u đãi ngời dân Nghệ Tĩnh với nhiều tài nguyên
phong phú, đa dạng song đặt trớc họ những thử thách vô cùng khắc nghiệt. Do
vị trí địa lý, đặc điểm địa hình nên mùa hạ vùng này qúa khô nóng, các đợt gió
tây nam gây bốc hơi lớn. Mùa đông xuân quá ẩm ớt kéo dài, hạn hán, bão lụt
thờng xuyên xẩy ra.
Vì vậy trong quá trình xây dựng và bảo vệ quê hơng, nhân dân Nghệ
Tĩnh có những khó khăn riêng và phức tạp hơn nhiều so với các tỉnh đồng bằng
Bắc bộ và Nam bộ.
Những đặc điểm về lịch sử, địa lý kể trên đã góp phần tạo nên con ngời
Nghệ Tĩnh với những truyền thống tốt đẹp và cả những tính cách riêng - tính
cách ngời Nghệ Tĩnh.

1.1.2. Truyền thống:
Do phải sống ở miền đất có điều kiện khí hậu khắc nghiệt, lại phải thờng
xuyên đối mặt với giặc ngoại xâm nên ngời dân Nghệ Tĩnh sớm gắn bó, giản dị
và kiết kiệm, cùng nhau xây đắp nên những truyền thống vô cùng quý báu.
Trớc hết, đó là truyền thống lao động cần cù, kiên trì, chịu đựng gian
khổ, đấu tranh không mệt mỏi với điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt để tồn tại
và phát triển. C dân Nghệ Tĩnh làm ăn, sinh sống chủ yếu bằng hoạt động kinh
tế nông nghiệp. Bằng bàn tay lao động, họ đã khai phá, cải tạo những vùng đất
hoang vu, cằn cỗi thành đồng ruộng tơi tốt, hình thành nên những xóm làng trù
phú. Ngời dân Nghệ Tĩnh đã mài đá luyện sắt, khai thác tài nguyên vùng biển,
làm ra công cụ sản xuất, phơng tiện vận chuyển giao lu và sản phẩm phục vụ
cho nhu cầu đời sống, xây dựng đợc cách sống tơng ứng với điều kiện tự
nhviên, kinh tế của mình và không ngừng vơn lên theo đà phát triển của đất nớc.
Ngoài ra, ta còn tìm thấy ngời dân ở nơi đây những truyền thống, phẩm
chất, phong cách tốt đẹp thể hiện rõ nét là tính cách cần kiệm, giản dị, kiên trì
bền bỉ, thuần hậu, chân tình, cơng trực khảng khái, tận tình, trung thành, giàu
đức hy sinh và tinh thần đoàn kết cộng đồng rất cao.
Một truyền thống quý báu khác là nhân dân Nghệ Tĩnh ham học hỏi, tôn
s trọng đạo, có chí học hành. Do vậy, vào thời nào cũng có ngời học hành đỗ
7


đạt cao. Chỉ tính riêng ở Hà Tĩnh từ thời Trần đến thời Nguyễn đã có tới 148 vị
đại khoa nổi tiếng nh Nguyễn Huy Tự, Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ.
Đặc biệt, nhân dân Nghệ Tĩnh có lòng yêu quê hơng, yêu nớc nồng nàn,
và ý chí kiên cờng bất khuất trong đấu tranh chống ngoại xâm để bảo vệ quê hơng, giữ yên bờ cõi đất nớc. Nghệ Tĩnh là quê hơng của nhiều vị anh hùng dân
tộc, những danh nhân, những anh hùng cách mạng tiêu biểu nh Mai Thúc Loan;
Phan Bội Châu; Phạm Hồng Thái. Và cũng là nơi xuất thân của lớp ngời cộng
sản đầu tiên của nh Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Phong, Trần Phú... Nghệ Tĩnh tự
hào là quê hơng của nhà cách mạng, lãnh tụ vĩ đại của dân tộc là Chủ tịch Hồ

Chí Minh.
Trong suốt tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc, nhân dân Nghệ Tĩnh
đã liên tục phải đấu tranh vừa chinh phục thiên nhiên, vừa chống trả quyết liệt
với bọn cớp nớc để tồn tại và phát triển.
ở đây, có vị thế thuận lợi cho tiến công và phòng thủ, có lúc là bãi chiến
trờng, nhng có lúc cũng là "nơi đứng chân" để tích luỹ lực lợng, là nơi xuất
phát của các cuộc tiến công áp đảo quân thù. Trên mảnh đất này, Lê Lợi Nguyễn Trãi đã lập nên nhiều chiến công hiển hách trong cuộc kháng chiến
chống quân Minh; Quang Trung hành quân thần tốc ra Bắc, cũng đã dừng lại
nơi đây để tuyển thêm binh hùng, tớng mạnh để đánh tan 29 vạn quân Thanh
xâm lợc.
Vào nửa cuối thế kỷ XIX, nhân dân Nghệ Tĩnh phải đơng đầu với đế
quốc Pháp và bọn phong kiến tay sai. Trớc đó nhiều cuộc khởi nghĩa của nông
dân đã nổ ra khá dồn dập, nhất là vào thời kỳ phong kiến suy tàn cuối thế kỷ
XVIII đầu thế kỷ XIX. Nó đã góp phần nhen nhóm và thổi phồng lên ngọn lửa
chiến tranh nông dân dới triều Nguyễn phản động, làm lay chuyển nền tảng của
chế độ phong kiến Việt Nam và nói lên sức mạnh tiềm tàng, truyền thống quật
khởi của nhân dân Nghệ Tĩnh.
Hơn nữa, đã có nhiều cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp diễn ra sôi
nổi hào hùng. Đặc biệt dới ngọn cờ Cần Vơng cứu nớc, tại mảnh đất này có
các cuộc khởi nghĩa của Lê Ninh, khởi nghĩa của Nguyễn Xuân Ôn, Lê Doãn
Nhã và tiêu biểu nhất là cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng - Cao Thắng.
Nghệ Tĩnh trở thành trung tâm tiêu biểu nhất của phong trào đấu tranh chống
thực dân Pháp của cả nớc cuối thế kỷ XIX. Trong những năm đầu thế kỷ XX,
cuộc đấu tranh của nhân dân Nghệ Tĩnh khi âm ỉ, khi bùng lên mạnh mẽ, lúc
diễn ra một cách "ôn hoà", lúc mang tính chất "bạo động" quyết liệt, không lúc

8


nào ngừng, một lần nữa lại trở thành trung tâm của phong trào yêu nớc chống

Pháp của cả nớc.
Vào đầu thế kỷ XX, cả nớc ta bùng lên phong trào Đông Du và công
cuộc vận động Duy Tân. Ngời khởi xớng phong trào Đông Du là nhà chí sĩ yêu
nớc kiệt xuất Phan Bội Châu, một ngời con u tú của quê hơng Nghệ An. Năm
1904 ông lập Duy Tân hội, vận động thanh niên sang Nhật du học để tìm phơng
kế cứu vong dân tộc. Là ngời tiêu biểu cho xu hớng bạo động lúc bấy giờ, Phan
Bội Châu cùng Ngô Quảng lôi kéo đợc nhiều tầng lớp nhân dân kể cả giáo dân
tham gia phong trào kháng Pháp. Phan Bội Châu xứng đáng là nhân vật tiêu
biểu nhất trong phong trào yêu nớc và cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX.
Giữa lúc đó thì phong trào chống thuế ở Trung Kỳ bùng nổ mạnh mẽ, hởng ứng lời kêu gọi của các ông Nguyễn Hằng Chi ở Can Lộc, Trịnh Khắc Lập
ở Nghi Xuân, nhân dân Hà Tĩnh phẫn nổ biểu tình đòi giảm thuế. Còn ở Nghệ
An, ở các vùng nông thôn, cuộc đấu tranh giữa "làng hộ" chống "làng hào"
càng thêm kịch liệt. Nhân khí thế ấy, các sỹ phu yêu nớc ở Nghệ An đứng đầu
là Chu Trạc lãnh đạo nhân dân đứng dậy đấu tranh đòi giảm thuế.
Các phong trào hoà quyện vào nhau tạo thành phong trào cứu nớc rộng
lớn ở nớc ta vào những năm đầu thế kỷ XX. Nó đã tạo tiền đề để đa phong trào
cứu nớc ở nớc ta từ khuynh hớng Cần Vơng sang khuynh hớng dân chủ t sản, từ
lực lợng văn thân sỹ phu yêu nớc mở rộng ra nhiều tầng lớp nhân dân khác.
Sau chiến tranh thế giới thứ nhất phong trào yêu nớc và cách mạng ở hai
tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh tiếp tục phát triển. Trên cơ sở đó nhiều tổ chức yêu nớc xuất hiện, tiêu biểu là Đảng Tân Việt, một tổ chức yêu nớc của tầng lớp tiểu
t sản đã dần dần chuyển hoá theo xu hớng cộng sản để hình thành nên Động Dơng cộng sản liên Đoàn - một trong ba tổ chức cộng sản ở nớc ta vào cuối
những năm 20 của thế kỷ XX.
Trớc những yêu cầu cấp bách của cách mạng Đông Dơng, ngày 3/2/1930
Nguyễn ái Quốc, đại diện Quốc tế cộng sản đã triệu tập đại biểu của ba tổ
chức cộng sản trong nớc họp ở Cửu Long (Hơng Cảng, Trung Quốc). Dới sự
chủ trì của Ngời, hội nghị đã quyết định thống nhất ba tổ chức cộng sản thành
Đảng cộng sản Việt Nam . Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam đã đáp ứng
kịp thời đòi hỏi của phong trào công nhân và phong trào yêu nớc của nhân dân
ta.
Thực hiện nghị quyết của hội nghị thành lập Đảng, thì ở Nghệ Tĩnh đã

thành lập ra phân cục Trung ơng Đảng cộng sản Việt Nam. Vào khoảng tháng
3/1930 tại Vinh, đồng chí Nguyễn Phong Sắc thay mặt Trung ơng Đảng liên lạc
9


với Động Dơng cộng sản Liên đoàn và đảng viên giác ngộ cộng sản trong Đảng
Tân Việt ở Nghệ Tĩnh thành lập ra phân cục trung ơng Đảng cộng sản Việt
Nam, gồm các đồng chí trong kỳ bộ Đông Dơng cộng sản ở Trung Kỳ, các
đồng chí lãnh đạo Đông Dơng cộng sản Liên đoàn hoạt động ở Nghệ Tĩnh nh
Lê Mao, Lê Viết Thuật. Phân cục Trung ơng lâm thời Trung Kỳ đặt trụ sở chính
ở Vinh và một trụ sở ở Đà Nẵng (tỉnh Quảng Nam) để xây dựng cơ sở Đảng ở
các tỉnh miền Bắc và miền Trung xứ Trung Kỳ.
Dới sự lãnh đạo trực tiếp của phân cục Trung ơng và sự nỗ lực của các
tỉnh uỷ lâm thời, trong một thời gian ngắn, hệ thống tổ chức Đảng đợc hình
thành từ tỉnh đến huyện, xã.
Sự hình thành các Đảng bộ Đảng cộng sản Việt Nam ở Nghệ Tĩnh là kết
quả tất yếu của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lên Nin với phong trào công nhân
và phong trào yêu nớc ở hai tỉnh. Đây là bớc ngoặt lịch sử quan trọng, chấm
dứt tình trạng phân tán về tổ chức, tạo nên sự thống nhất về chính trị t tởng và
hành động trong phong trào cách mạng ở Nghệ Tĩnh .
Trong những năm 1930 - 1931, dới sự lãnh đạo của Đảng bộ hai tỉnh các
tầng lớp nhân dân Nghệ Tĩnh đã vùng dậy làm nên một cao trào cách mạng
rộng lớn quyết liệt, chỉa mũi nhọn vào thực dân phong kiến và tay sai. Mặc dù
bị kẻ thù đàn áp, khủng bố khốc liệt, nhng Xô Viết Nghệ Tĩnh 1930-1931 đã
giành đợc những thành quả có ý nghĩa lịch sử quan trọng và để lại nhiều bài
học kinh nghiệm vô cùng quý báu.
Cao trào cách mạng 1930-1931 mà đỉnh cao Xô Viết Nghệ Tĩnh là
phong trào quần chúng tự giác lớn mạnh cha từng có. Nó khẳng định trong thực
tế sức mạnh của khối liên minh công nông và quyền lãnh đạo tuyệt đối của
Đảng. Có thể khẳng định đâylà trận chiến đấu rung trời, chuyển đất với ý chí và

sức mạnh của mình, nhân dân Nghệ Tĩnh đã vung ra nghị lực cách mạng phi
thờng, làm lung lay, tê liệt và tan rã bộ máy chính quyền thực dân Pháp và tay
sai ở nhiều làng xã, lập nên chính quyền Xô Viết.
Đánh giá về Xô Viết Nghệ Tĩnh, đồng chí Nguyễn ái Quốc viết:
"Tuy đế quốc Pháp đã dập tắt phong trào đó trong biển máu nhng Xô
Viết Nghệ Tĩnh đã chứng tỏ tinh thần oanh liệt và năng lực cách mạng của
nhân dân lao động Việt Nam, phong trào tuy thất bại, nhng nó rèn luyện lực lợng cho cuộc Cách mạng tháng Tám thắng lợi sau này [18;154].
Xô Viết Nghệ Tĩnh chứng minh đợc rằng, nhân dân Nghệ Tĩnh có truyền
thống yêu nớc và cách mạng, từng trải tranh đấu hy sinh, đang đứng trớc mâu
thuẫn gay gắt của xã hội Việt Nam, trớc sự bế tắc không lối thoát thì bắt gặp đ10


ợc đờng lối và phơng pháp mới, họ sẵn sàng đứng lên dới ngọn cờ của Đảng,
chấp nhận mọi hy sinh to lớn và với nghị lực phi thờng để làm cách mạng đánh
đổ đế quốc, phong kiến, giải phóng dân tộc.
Hoảng sợ trớc sự lớn mạnh của phong trào đấu tranh của nhân dân Nghệ
Tĩnh, thực dân Pháp đã huy động lực lợng thẳng tay đàn áp phong trào.
Vợt qua sự khủng bố, kìm kẹp quyết liệt của kẻ thù trong những năm
1932 - 1935, các chiến sỹ cộng sản u tú của hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh đã
kiên trì cùng với toàn Đảng tiếp tục chiến đấu khôi phục các Đảng bộ, khôi
phục phong trào cách mạng.
Trong thời kỳ 1936 - 1939 nhờ phát động đợc phong trào cách mạng của
quần chúng để củng cố phát triển tổ chức tập hợp lực lợng, Đảng bộ Nghệ An
và Hà Tĩnh đã từng bớc khắc phục đợc khó khăn, giành đợc những thắng lợi
trong cuộc vận động dân tộc, dân chủ do Đảng ta tổ chức và lãnh đạo.
Vận động sáng tạo những chủ trơng và biện pháp đúng đắn của Trung ơng Đảng, đồng thời phát huy truyền thống đấu tranh bất khuất của nhân dân
Nghệ Tĩnh và sử dụng một số hình thức, phơng pháp đấu tranh thích hợp với
hai Đảng bộ đã chuyển đợc từ chỗ kìm kẹp sang thế tấn công, phát động phong
trào rộng lớn của quần chúng, hoà nhịp với phong trào đấu tranh giành dân chủ
1936 - 1939 của cả nớc.

Cao trào cách mạng 1930 - 1931 và phong trào dân chủ 1936 - 1939 ở
Nghệ Tĩnh đã tạo nên những tiền đề quan trọng cho những thắng lợi trong giai
đoạn cách mạng tiếp theo. Để có những thắng lợi thì nhân dân Nghệ Tĩnh luôn
phát huy những truyền thống tốt đẹp của mình, phát huy truyền thống đó, mà
trong đó đặc biệt đó là truyền thống yêu nớc, thơng nòi trở thành nét đặc trng
của Nghệ Tĩnh. Và chính những đều đó đã góp phần to lớn vào những thắng lợi
chung của cách mạng Việt Nam. Đúng nh chủ tịch Hội đồng bộ trởng Phạm
Văn Đồng đã khẳng định; "Trong lịch sử Cách mạng nớc ta, Nghệ Tĩnh là một
trong những địa phơng có truyền thống sớm nhất và rạng rỡ nhất...Nghệ Tĩnh
đã góp phần xứng đáng nhất của mình cho dân tộc ngay tại địa phơng, đồng
thời gửi biết bao con em mình, những ngời chiến sỹ, những cán bộ, những ngời
tri thức đi khắp các miền của đất nớc và đang làm nghĩa vụ quốc tế của hai nớc
láng giềng anh em, con ngời Nghệ Tĩnh là vốn quý của địa phơng và của nớc ta
[3;17].
Bởi thế, mà Đảng bộ và nhân dân Nghệ Tĩnh luôn luôn kế thừa phát huy
truyền thống tốt đẹp của mình, học tập và vận dụng khoa học tiên tiến của thời

11


đại, không ngừng phấn đấu vơn lên đáp ứng sự quan tâm và lòng mong mỏi của
đồng bào, đồng chí trong cả nớc.
Từ buổi bình minh của lịch sử cho đến trớc Cách mạng tháng 8/1945,
nhân dân Nghệ Tĩnh đã góp phần xứng đáng của mình vào truyền thống dựng
nớc và giữ nớc vẻ vang của dân tộc Việt Nam, đồng thời đã kế thừa phát huy
truyền thống tốt đẹp đó, tạo tiền đề vững chắc để tiếp tục phát triển lên mức cao
hơn trong thời kỳ lịch sử tiếp theo.
1.2. Phong trào cách mạng của nhân dân Nghệ Tĩnh ngay sau khi
chiến tranh thế giới thứ II bùng nổ.
1.2.1. Chính sách thống trị của Pháp - Nhật.

Ngày 1/9/1939 Phát xít Đức tấn công Ba Lan, chiến tranh thế giới II
bùng nổ, đẩy loài ngời vào cuộc tàn sát cha từng có trong lịch sử. Hai ngày
sau, vào ngày 3/9/1939 Pháp - Anh tuyên chiến với phát xít Đức.
Trớc sự biến chuyển của tình hình thế giới, Hội nghị Trung ơng Đảng
lần thứ VI tháng 11/1939 nhận định: "Đông Dơng bị lôi cuốn vào guồng máy
chiến tranh đế quốc, chế độ cai trị của Pháp ở Đông Dơng đã trở thành chế độ
phát xít, một thứ phát xít quân phiệt thuộc địa vô cùng tàn bạo" [3;161-162].
Thực tế lịch sử đã diễn ra nh nhận nhận định trên . Ngay sau khi nhảy
vào vòng chiến, đế quốc pháp liền thẳng tay đàn áp Đảng cộng sản Pháp và
phong trào dân chủ tiến bộ ở trong nớc cũng nh ở các thuộc địa của chúng.
Ngày 25/12/1939 Chính phủ phản động Đalađiê ra lệnh giải tán Đảng cộng sản
Pháp và bắt giamnhững ngời cộng sản. Ngay sau đó bọn phản động thuộc địa
Pháp ở Đông Dơng ban hành hàng loạt nghị định giải tán các tổ chức dân chủ,
đóng cửa các tờ báo tiến bộ. Thực ra chẳng phải đợi khi có sắc lệnh, nghị định
mà ngay từ khi rục rịch nổ ra chiến tranh, bọn phản động thuộc địa Pháp đã tấn
công vào Đảng cộng sản Đông Dơng và vào các tổ chức quần chúng do Đảng
lãnh đạo.
Ngay trong tháng 8/1939 các báo Đời nay, Ngày mới, Ngời mới, Nortre
Voix (Tiếng nói của chúng ta) ở Hà Nội đã bị khám xét và hàng loạt ngời viết
báo bị bắt.
Trong tháng 9, ở Sài Gòn có 14 tờ báo bị đóng cửa, trong đó có các báo
Lepeuple (Nhân dân ), Dân chúng, Lao động, Công luận do Đảng ta chủ trơng.
ở Bắc bộ có 1.051 vụ khám xét và nhiều ngời bị bắt.
Ngày 28/9/1939, toàn quyền Đông Dơng Catơru ra nghị định giải tán
các tổ chức ái hữu, Nghiệp đoàn, tịch thu giấy tờ và tài sản của các tổ chức đó.
Ngày 17/1/1939 y lại ra nghị định tịch thu và phát mại các tài sản của Đảng
cộng sản Đông Dơng.
12



Tiếp đó ngày 5/10/1939 chính phủ Nam Triều ra đạo dụ cấm hội họp,
cấm tuyên truyền cộng sản và tịch thu sách báo ở Việt Nam
Nghị định của toàn quyền Đông Dơng và đạo dụ cấm của chính phủ
Nam Triều ban hành tuần trớc thì tuần sau phong trào của hai tỉnh Nghệ An và
Hà Tĩnh bị bọn cầm quyền khủng bố giữ dội. Hàng trăm tổ chức nghiệp đoàn,
tơng tế, ái hữu bị phá vở và tịch thu tài sản. Hàng loạt cán hộ, đảng viên và
quần chúng tích cực tham gia trong phong trào mặt trận dân chủ bị bắt giam.
Bọn thực dân và tay sai từng bớc thủ tiêu mọi quyền lợi chính trị mà
nhân dân Nghệ Tĩnh đã giành đợc trong thời kỳ dân chủ, chúng đặt mọi hoạt
động của những ngời cộng sản ra ngoài vòng pháp luật, những ngời cầm đầu
các tổ chức nghiệp đoàn, phờng hội, bị phạt tù hoặc phạt tiền. Bọn tay sai các
loại từ lính khố xanh, nhân viên mật vụ đến bang tá, tuần phủ ngày đêm rình
mò, sục sạo tiến hành những cuộc khủng bố khắp nơi. Chúng cho lập lại các
điền canh, các trạm kiểm soát ở những nơi xung yếu.
Tại Nghệ An nhất là Vinh - Bến Thuỷ, ngoài các lực lợng cảnh sát, mật
thám cũ, thực dân pháp còn cấp ngân sách cho mỗi khu phố trởng lập một đơn
vị "đoàn phòng" trên 30 tên để canh phòng trong từng khu phố [4,137]. Chúng
chỉ thị cho hào lý phải thực hiện "hơng ớc" (nội quy của làng) để giữ trị an
thôn xã. Những ngời đã hoạt động cách mạng và bị tình nghi đều bị quản thúc
nghiêm ngặt, hàng loạt cán bộ, đảng viên, quần chúng bị bắt giam. Tính từ
tháng 9 đến 12/1939 số cán bộ chủ chốt trong Đảng bộ Nghệ Tĩnh bị bắt là 258
đảng viên. Hầu hết những tổ chức đã đợc Pháp dùng để đàn áp phong trào cách
mạng trong thời kỳ 1930 - 1931 nh hệ thống bang tá, đoàn phu, đồn binh đều
đợc chúng khôi phục lại.
Đứng trớc sự tàn sát, khủng bố của bọn thực dân Pháp tháng 12/1939 hai
Đảng bộ Nghệ Tĩnh và Hà Tĩnh đã bị thực dân pháp và tay sai phá vở, cuộc
vận động dân chủ ở hai tỉnh kết thúc. Tuy vậy số cố cán bộ, đảng viên, và quần
chúng còn lại sau cuộc khủng bố vẫn tiếp tục hoạt động.
Song song với hành động khủng bố về chính trị, để đáp ứng nhu cầu của
chiến tranh, đế quốc Pháp đã thi hành "chính sách kinh tế thời chiến" nhằm ra

sức vơ vét của cải, bắt phu, bắt lính. Phục vụ cho cuộc chiến tranh đế quốc,
chúng chủ trơng trng thu, trng mua lơng thực của nông dân với giá rẻ mạt, su
thuế tăng vọt.
Tổng số thuế ở Hà Tĩnh năm 1925 là 326.568đ, năm 1941 tăng lên
1.204 730đ [3;159]. Chúng bắt các làng xã phải bán ruộng công để lập quỹ
"nghĩa thơng trợ chiến", chúng mở rộng gấp đôi nhà máy sửa chữa xe Trờng
13


Thi (Vinh), đa tổng số công nhân từ 1.000 vào năm 1930 - 1931 lên 4.000
trong những năm 1940 - 1941. Chúng tăng giờ làm việc từ 8 giờ lên 9 giờ
trong ngày, nhng vẫn giữ nguyên mức lơng. Trong nhà máy, chúng bủa lới mật
thám để theo dõi hành vi của công nhân. Tầng lớp t sản nớc ngoài và bản xứ ra
sức vơ vét hàng hoá, đầu cơ tích trử, làm cho hàng hoá khan hiếm, đắt đỏ, giá
cả không ổn định.
Lợi dụng thời cơ đó, giai cấp địa chủ và quan lại lớn nhỏ đợc dịp "đục nớc béo cò", tha hồ dùng các mu mẹo gian lận để bóc lột dân đen.
ở Thị xã Hà Tĩnh, ai nuôi chó, nuôi gà hai con trở lên đều bị phạt, ai
đánh trống, đốt pháo mà không có giấy phép cũng bị phạt [5;150], luật lệ này
thực chất là một thủ đoạn ăn cớp trắng trợn của bọn xâm lợc.
Tóm lại, "Chính sách kinh tế thời chiến" của thực dân Pháp đã làm cho
đời sống của các tầng lớp nhân dân Nghệ Tĩnh bị sa sút và điêu đứng. Công
chức phải làm thêm giờ, làm việc thay cho số ngời bị điều đi phục vụ chiến
tranh, tiểu thơng, tiểu chủ buôn bán thua lỗ, kinh doanh thu hẹp. Đời sống dân
nghèo thành thị bấp bênh. T sản dân tộc, địa chủ nhỏ và vừa cũng chịu ảnh hởng bởi chính sách su thuế, trng thu, trng mua lơng thực của đế quốc Pháp. Mặt
khác, họ còn bị quan lại các địa phơng chèn ép, hạch sách. Trừ tầng lớp t sản
mại bản, địa chủ và quan lại phong kiến ôm chân đế quốc, còn hầu hết các tầng
lớp nhân dân Nghệ Tĩnh đều bị ảnh hởng bởi chính sách kinh tế thời chiến của
Pháp.
Đầu năm 1940, tình hình thế giới có nhiều biến chuyển, phát xít Đức, ý
mở rộng chiến tranh xâm lợc châu Âu, đánh chiếm Cộng hoà Pháp. Ngày

22/6/1940 chính phủ Pháp kí kết hiệp ớc đầu hàng phát xít Đức. Ngày
18/6/1940 chính phủ Nhật đã gửi tối hậu th cho thống chế Pêtanh đòi đa ngay
một phái đoàn quân sự Nhật vào Việt Nam. Liên tiếp các ngày sau đó, Nhật gửi
tối hậu th do Pháp phải cho quân Nhật vào Miền Bắc và kiểm soát các sân bay,
căn cứ hải quân. Chính phủ Pháp hèn hạ chấp nhận tất cả các yêu sách đó của
Nhật.
Ngày 22/9/1940 quân Nhật kéo vào đánh chiếm Lạng Sơn và ném bom
Hải Phòng, đổ bộ lên Đồ Sơn. Ngày hôm sau, theo lệnh của chính phủ Pháp,
toàn quyền Đông Dơng ở Hà Nội đã ký nhận yêu sách chiếm đóng toàn cõi
Đông Dơng của phát xít Nhật. Từ đây nhân dân ta phải chịu cảnh " một cổ hai
tròng" Pháp-Nhật.
Bên cạnh chính sách áp bức của Pháp lại thêm ách áp bức của Nhật do
đó đời sống của nhân dân ngày càng bị bần cùng và điêu đứng. Cuối năm
14


1944, phát xít Nhật đa 10.000 quân vào chiếm đóng Nghệ Tĩnh để án ngữ
phía đông vùng trung Đông Dơng. Trớc đó các công ty khai thác của Nhật đã
hoạt động trong tỉnh. Nhất là sau khi Nhật hất cẳng Pháp để độc chiếm Đông
Dơng, ở Hà Tĩnh có 2 công ty Nhật là Dainan Koshi (Đại nam công ty) và
Mitsubishi giữ độc quyền thu mua khai thác gỗ phục vụ cho xí nghiệp đóng
tàu ở Bến Thủy. Chúng bắt nhân dân khai thác các mỏ sắt ở Hơng Sơn, Đức
Thọ, Thạch Hà để có thêm nguyên liệu chở về Nhật Bản sản xuất vũ khí, phục
vụ chiến tranh.
ở Nghệ An, chúng rải quân xuống xây dựng tuyến phòng thủ dọc bờ
biển Cửa Lò, Cửa Hội, sửa chữa cảng Bến Thuỷ, sân bay Vinh, nạo vét kênh
nhà Lê, mở rộng quy mô khai thác gỗ, khai thác khoáng sản, phục vụ cho công
nghiệp quốc phòng nh mỏ Măng gan ở Rú Thành (Hng Nguyên), mỏ sắt ở Phơng Tích (Nghi Lộc), mỏ than Khe Bố (Tơng dơng)...
Nghệ Tĩnh lúc này trở thành căn cứ lớn của Nhật, chúng biến nơi đây
thành kho hậu cần phục vụ cho nhu cầu quân sự tại chỗ, vừa phục vụ cho chiến

tranh. Chính sách thâm độc và tàn ác của phát xít Nhật đối với nhân dân Nghệ
Tĩnh là bắt nhân dân nhổ lúa và hoa màu ven sông lam để trồng đay.
ở Hà Tĩnh, nhân dân các huyện Đức Thọ, Hơng Sơn, Thạch Hà, Cẩm
Xuyên, Kỳ Anh phải nhổ hàng ngàn mẫu lúa và hoa màu để trồng đay cho
Nhật. Đồn điền Sông Con (Hơng Sơn) cũng bị chúng chiếm làm nơi trồng đay
và chăn nuôi trâu, bò. Chúng khuanh vùng trng mua các thứ nguyên vật liệu
nh vừng, lạc, thầu dầu...và ngăn cấm nhân dân mua, bán và vận chuyển những
thứ đó. Chúng phân bổ thóc, ngô theo đầu mẫu ruộng, bắt hào lý thu nạp không
kể ngời nhiều ruộng hay ít ruộng. Tại Anh Sơn (Nghệ An) cứ đến phiên chợ,
bọn Nhật giành độc quyền mua hết các loại thóc, ngô, đậu, hễ ai trái ý chém
đầu ngay.
Hơn thế nữa, hàng ngày chúng đa lính về càn quét nhân dân đi phu, sửa
chữa sân bay Yên Đại, nạo vét kênh Ma Đa Nghệ An - Thanh Hoá, tu sửa đờng
chiến lợc Vinh - Na Pê; Vinh - Xiêng Khoảng và xây dựng các công trình quân
sự khác. Chúng dỡ nhà, đuổi dân, cớp đất của nhân dân dọc bờ biển Cửa Lò,
Cửa Hội để xây dựng doanh trại và xây dựng các công trình quân sự. Ngoài
việc mở rộng những cơ sở khai thác sẵn có nh mỏ Măng Gan ở Rú Thành (Hng
Nguyên), mỏ sắt Phơng Tích (Nghi Lộc), mỏ than Khe Bố (Tơng Dơng), chúng
xây dựng thêm xởng đóng tàu ở Cửa Hội, xởng ATAKA ở Bến Thuỷ và tiến
hành khai thác gỗ một cách triệt để.

15


Dựa vào thế lực của Nhật, một số quan lại, viên chức và hào lý đã trở
thành những tên chủ thầu trong việc cung cấp hàng hoá cho Nhật và đại lý phân
phối mọi thứ nhu cầu cần thiết trong xây dựng nh gạo, muối, vải, diêm...
Những tên t sản trớc đây buôn bán với Pháp, nay chuyển sang buôn bán với
Nhật. Một số ít địa chủ ở vùng Hng Nguyên, Nam Đàn, Thanh Chơng, Anh Sơn
lúc này cũng đứng ra lập xởng ép dầu lạc, trng thầu việc trồng đay, trồng thầu

dầu... để phục vụ cho nhu cầu của phát xít Nhật.
Những chính sách thâm độc và tàn bạo của phát xít Nhật đã làm cho
nhân dân Nghệ Tĩnh rơi vào tình trạng bần cùng. Theo thống kê cha đầy đủ chỉ
ba tháng đầu năm 1945 hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh đã có 10 vạn ngời chết
đói. Hàng vạn gia đình tan nát, hàng ngàn thôn xóm tiêu điều. Làng Đô Uyên ở
Nghi Xuân tỉnh Hà Tĩnh có 845 ngời thì 378 ngời bị chết đói. ở Nghệ An có
tới 2.250 gia đình bị chết đói cả nhà [3;179]. Nhiều gia đình chỉ có một vài ngời sống sót. Ngời đi ăn xin đầy đờng, chật chội. Ngời chết đói la liệt khắp nơi.
Hàng ngày bọn cầm quyền Vinh phải thuê xe bò đi nhặt xác ngời chết đói trên
các lề đờng, vỉa hè đình chợ, rồi đem đổ vào những cái hố chôn chung ở ngoài
thành phố.
Bên cạnh chính sách bóc lột về kinh tế, thực dân phát xít Pháp - Nhật
tăng cờng áp bức về chính trị. Cũng nh trên phạm vi tòan quốc sau cuộc đảo
chính 9/3/1945, tất cả bọn quan lại ngời Pháp đều bị Nhật bắt. Trong lúc cha
tìm đợc bọn tay sai thay thế, phát xít Nhật một mặt vẫn sử dụng bộ máy chính
quyền bù nhìn của Pháp. Mặt khác, giúp đỡ những phần tử tri thức, viên chức
trong giai cấp t sản, địa chủ và một số cựu cách mạng bị lừa dối hoặc đã thoái
hoá lập ra tổ chức "ủng hộ Việt Nam độc lập đoàn" ở Nghệ An và tổ chức
"Tân dân đoàn "ở Hà Tĩnh, để chuẩn bị cơ sở cho chính sách cai trị của chúng.
Đợc phát xít Nhật khuyến khích và cổ vũ, bọn tay sai trong tổ chức "ủng hộ
Việt Nam đội lập đoàn" đã đem hết sức mình để phục vụ cho chính sách ăn cớp
của chúng. Hàng ngày chúng tổ chức mít tinh, diễn thuyết, rải truyền đơn, hô
khẩu hiệu hoan nghênh nền "độc lập" do phát xít Nhật đa lại và ca ngợi chính
sách "Đại đông á", chính sách "Đồng văn, Đồng chủng" của Nhật. Chúng tố
cáo tội ác của Pháp, tố cáo bọn tham quan ô lại và nêu chiêu bài "ái quốc", "ái
quần" đế đánh lạc hớng d luận của nhân dân và kích động những ngời có tinh
thần yêu nớc ra hợp tác với Nhật...Chúng mở trờng dạy tiếng Nhật, tổ chức
luyện võ, tập thể thao... để kích thích và lôi cuốn tầng lớp thanh niên học sinh
theo chúng.

16



Với những việc làm đó, bọn chúng muốn khuếch trơng thế lực của mình
và tung ra những luận điệu để tuyên truyền bịp bợm để tập trung lực lợng làm
tay sai cho chúng và để đánh lạc hớng d luận nhân dân ta. Nhng tất cả mọi cố
gắng của bọn tay sai không thể che lấp nổi dã tâm ăn cớp và hành động tàn ác
của phát xít Nhật. Trong lúc chúng giơng cờ, trống tuyên truyền cho chính sách
"Đồng văn Đồng chủng" của phát xít Nhật, thì hàng ngày lính Nhật mổ bụng,
moi gan, chặt đầu chôn sống, bỏ dỏ trôi sông những ngời dân lơng thiện bị
chúng khép vào tội "ăn cắp", "vi phạm quân lệnh" diễn ra khắp nơi.
Tóm lại chính sách cớp bóc của phát xít Nhật đã tự phơi bày bộ mặt thật
của chúng. Trừ một số viên chức, tri thức, thanh niên, học sinh, tiểu t sản vì
mắc cái bã của Nhật nên đua nhau học tiếng Nhật, cạo đầu nh Nhật, ca ngợi
tinh thần võ sỹ đạo của Nhật, hoặc tham gia cổ động cho phong trào thân Nhật.
Còn tuyệt đại đa số nhân dân Nghệ Tĩnh lúc này, nhất là công nhân và nông
dân trớc đây đã từng nghe phát xít Nhật tàn sát nhân dân Trung Quốc, nhân dân
Triều Tiên, tất cả những thủ đoạn tàn bạo đó nay phải trực tiếp chịu đựng, lòng
căm ghét của họ đối với phát xít Nhật ngày càng cao độ. Cũng nh nhân dân cả
nớc, nhân dân Nghệ Tĩnh nhận ra rằng: Phát xít Nhật và thực dân Pháp đều là
bọn cớp nớc, đều là kẻ thù không đội trời chung, muốn cởi ách xiềng xích nô
lệ, muốn giành lấy tự do độc lập thật sự chỉ có con đờng duy nhất là đánh đuổi
phát xít Pháp - Nhật ra khỏi đất nớc, đồng thời đánh đuổi bọn tay sai của
chúng, giành lấy chính quyền về tay mình.
Trớc chính sách khủng bố và cớp bóc của thực dân Pháp và phát xít
Nhật, tinh thần đấu tranh cách mạng của nhân dân Nghệ Tĩnh lại đợc nhen lên
sau một thời gian bị chúng dìm xuống trong khủng bố.
1.2.2. Phong trào Cách mạng của nhân dân Nghệ Tĩnh.
Chính sách cai trị của bọn đế quốc và tay sai làm cho mâu thuẩn giữa
toàn thể dân tộc ta với bọn đế quốc phong kiến, ngày càng sâu sắc, vấn đề giải
phóng dân tộc trở thành bức xúc hơn bao giờ hết. Bối cảnh đó ảnh hởng đến

cuộc dấu tranh của Đảng bộ và nhân dân hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh khi bớc
vào thời kỳ cách mạng mới. Cuộc khủng bố của địch càng khốc liệt, càng thôi
thúc cuộc đấu tranh quyết liệt của nhân dân ta chống lại chúng.
Trớc mọi hành động của kẻ thù, nhân dân Nghệ Tĩnh cũng nh đồng bào
cả nớc lúc này tin tởng vào đờng lối đấu tranh và lãnh đạo của Đảng, tin tởng ở
thắng lợi của cách mạng, đã vợt lên cả mọi gian nguy, hiểm trở, quyết giành
thắng lợi cuối cùng.
Phong trào đấu tranh của quần chúng lên cao ở Nghệ An bằng cuộc đấu
tranh của công nhân nhà máy Trờng Thi, họ đã thiết lập nhóm "chỉ đạo bí mật".
17


Nhóm "chỉ đạo bí mật" đã liên lạc với các tổ chức lãnh đạo của công nhân các
nhà máy xe lửa Tháp Chàm (Nam Trung Kỳ) và Dĩ An (Ngoại ô Sài Gòn). Theo
kế hoạch đã định, công nhân từ Vinh đến Sài Gòn nhất loạt đình công 15 phút
và cử đại biểu đa yêu sách đòi tăng lơng 30%, cải thiện sinh hoạt và điều kiện
làm việc cho công nhân, tự do tổ chức nghiệp đoàn, không đợc đuổi thợ tham
gia bãi công. Sợ nổ ra biến cố nh thời kỳ 1930 - 1931 và 1936 - 1939 nên đầu
năm 1941 tên Muy Le, giám đốc nhà máy Trờng Thi đã vội vàng gửi th lên Sở
hoả xa Đồng Dơng đề nghị phải có ngay và thờng trực ngày đêm tối thiểu ba
đơn vị lính chiến đấu có đủ vũ khí và những sỹ quan tham gia tích cực vào cuộc
tuần tiểu, kiểm soát và bảo vệ nhà máy. [3;161]
Để ủng hộ cuộc đấu tranh của công nhân Trờng Thi, công nhân đờng sắt
Đà Nẵng, Nha Trang, Tháp Chàm, Dĩ An, Sài Gòn... cũng tiếp tục bãi công làm
cho tuyến đờng sắt Miền Nam Đông Dơng bị tê liệt. Bị động, bọn t sản phải
dùng công nhân ngời Pháp lái tàu và làm công tác khác ở ga. Chúng phải huy
động cảnh sát đến bốc dỡ hàng hoá.
Tình trạng đó kéo dài, số tuyến xe lửa bị giảm hẳn đi. Hàng hoá ứ đọng
lại ở các sân kho và nhà ga. Những lò thực phẩm bị ôi thối, nhiều xí nghiệp
giảm hoặc ngừng sản xuất. Cuộc đình công của công nhân nhà máy Trờng Thi

đã góp sức cùng giai cấp công nhân và nhân dân lao động cả nớc đánh mạnh
vào hệ thống kinh tế của thực dân Pháp ở Đông Dơng, thúc đẩy thêm cuộc tổng
khủng hoảng của kinh tế t bản chủ nghĩa. Cuộc đình công của công nhân nhà
máy Trờng Thi đã có tác động cổ vũ lớn lao đối vơí phong trào công nhân và
nông dân trong toàn tỉnh.
Còn ở nông thôn, các cuộc đấu tranh đòi giảm thuế, chống bắt phu, bắt
lính, chống t sản, địa chủ cớp ruộng đất, chống cờng hào, tham nhũng diễn ra
liên tiếp. Bên cạnh việc đấu tranh đòi chia lại ruộng đất công thì nông dân tích
cực đấu tranh đòi thực hiện cải cách hơng thôn, chống những tệ nạn xã hội, hủ
tục lạc hậu mà bọn thực dân Pháp đang khuyến khích thực hiện.
ở Hà Tĩnh, đặc biệt là ở các huyện Nghi Xuân, Can Lộc, Đức Thọ,
Thạch Hà, phong trào đấu tranh chống bắt lính diễn ra khá rầm rộ. Trớc thái độ
kiên quyết của nhân dân, nhiều nơi bọn địch đã không dám bắt thanh niên đi
lính.
Phong trào chống thu thóc, chống phá hoa màu trồng đay cũng diễn ra
sôi nổi nhiều nơi Nhân dân đã đánh cả lính lệ, bang tá về làng đốc thúc thu
thuế. ở một số làng, quần chúng đã lợi dụng tình hình lộn xộn không đóng

18


thuế cho địch trong nhiều mùa liền, có nơi nhân dân đã trừng trị những tên tây
đoan về bắt rợu, bắt muối nh ở Hộ Độ, Thạch Hà, Ba Xã, Can Lộc...
Trớc tình hình đó, bọn cầm quyền ở Nghệ Tĩnh hết sức hốt hoảng. Ngày
30/6/1940 công sứ Nghệ An gửi báo cáo khẩn lên toàn quyền Đông Dơng phản
ánh một thật sự đang diễn ra ở Nghệ An: "Kể từ ngày nớc Pháp lâm nguy, nhân
dân lại càng tỏ ra hăng hái hơn cả. Những ngời lãnh đạo và họ muốn ra hành
động ngay, cũng có đặc trng nh những năm loạn 1930 - 1931 và có điều khác là
họ không sợ nói trắng ra rằng chúng ta là dân tộc chiến bại dễ bị đánh đuổi đi"
[3;164 - 165]. Nhận đợc báo cáo này, ngày 20/7/1940, Sô Nhi chánh mật thám

Trung Kỳ đã ra lệnh cho sở mật thám các tỉnh: "Không thể đợi chúng tổ chức
xong và có bằng chứng cụ thể mới truy tố. Trong bất cứ tình huống nào, dù chỉ
có bằng chứng để truy tố cũng phải thi hành tức khắc một trong những biện
pháp đã định trong sắc luật ngày 21/1/1940, đặc biệt là đem những tên hoạt
động mạnh nhất đi trại tập trung " [3;164 - 165].
Trong lúc thực dân Pháp hoảng hốt nh thế, quần chúng nhân dân Nghệ
Tĩnh càng sục sôi ý chí quyết tâm đấu tranh chống lại thực dân phát xít Pháp Nhật. Quần chúng nhân dân Nghệ Tĩnh đang trong không khí bàn luận về độc
lập dân tộc và chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang bạo động ở một số nơi ở trong các
cơ sở đảng, các tổ chức quần chúng.
Không khí cách mạng ở Nghệ Tĩnh nói riêng và trong cả nớc nói chung
lúc này rất mạnh mẽ và quyết liệt. Điển hình là cuộc khởi nghĩa ngày
27/9/1940 nhân dân Bắc Sơn dới sự lãnh đạo của Đảng bộ địa phơng đã kịp thời
nổi dậy tớc vũ khí của tàn quân Pháp để tự vũ trang cho mình, thực hiện đánh
Nhật đuổi Pháp.
Hai tháng sau, 23/11/1940 cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ bùng nổ nhng kết
quả là bị thất bại là vì điều kiện cha chín muồi. Nhng hai cuộc nghĩa đó đã có
tiếng vang rất lớn trong cả nớc, thức tỉnh quần chúng và mở đầu cho một thời
kỳ mới của cách mạng Việt Nam - thời kỳ vân động cách mạng giải phóng dân
tộc.
Sau cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kỳ không khí cách mạng của các
tầng lớp nhân dân Nghệ Tĩnh càng sôi sục, quyết liệt hơn.
ở Nghệ An đợc sự chỉ đạo của Xứ uỷ Trung Kỳ và Đảng bộ, từ đầu năm
1941 phong trào cách mạng của quần chúng đã phát triển sôi nổi. Ngày
4/1/1941 học sinh các trờng: Quốc học, Chính Hoá, Minh Tâm đã bỏ học để ra
đờng, hợp lực với thanh niên và tiểu thơng ở Vinh kéo đến phá hiệu buôn của
một ngời nớc ngoài, vì tên chủ hiệu buôn ấy đã có hành động dã man đối với
19


phụ nữ Việt Nam. Công sứ Vinh phải huy động cảnh sát dùng vòi rồng giải tán

đám đông. Đoàn thanh niên phản đế cứu cuốc Vinh đã phát truyền đơn hoan
nghênh ý thức dân tộc của thanh niên, học sinh và kêu gọi gia nhập vào Đoàn.
Tinh thần đấu tranh của thanh niên, học sinh đã thúc đẩy phong trào cách
mạng càng dâng cao, có tác dụng giác ngộ tinh thần yêu nớc của binh lính ngời
Việt trong quân đội Pháp. Bất bình vì bắt sang Lào làm bia đỡ đạn cho Pháp
chống Thái Lan, ngày 13/1/1941 tại đồn Chợ Rạng (Thanh Chơng) và đồn Đô
Lơng nổ ra khởi nghĩa làm chấn động d luận. Cuộc khởi nghĩa này do Đội
Cung (tức Nguyễn Văn Cung) chỉ huy. Đội Cung đợc điều từ đội lính khố xanh
đóng ở Vinh đến đồn Chợ Rạng ngày 8/1/1941, thay viên chỉ huy đồn cũ là A
Lông Giơ ngời Pháp. Do giác ngộ ý thức dân tộc từ trớc, chỉ trong năm ngày
sau khi nhận làm quyền trởng đồn Chợ Rạng, Đội Cung đã cùng với số binh
lính có cảm tình với cách mạng nổi dậy khởi nghĩa. Ông tuyên bố với anh em
binh lính đồn Chợ Rạng là sẽ giết tên đồn trởng đồn Đô Lơng rồi tiến về Vinh.
Sau đó ông chỉ huy lính tập vào bu điện Đô Lơng trấn áp nhân viên bu
điện, cắt hết dây điện thoại, phá máy đàm thoại... Nhng do nó nổ ra không
đúng lúc, lại thiếu sự tổ chức chuẩn bị chu đáo và hành động không ăn khớp
giữa lực lợng tiến công và nội ứng nên cuộc binh biến đã bị dập tắt ngay tại
thành phố Vinh trong đêm đó.
Khởi nghĩa chợ Rạng Đô Lơng là tiếng chuông thứ ba (sau khởi nghĩa
Bắc Sơn, Nam Kỳ) báo hiệu sự trổi dậy của cao trào cách mạng mới trong giai
đoạn chiến tranh và cách mạng do Đảng ta phát động.
Tuy cuộc khởi nghĩa chợ Rạng - Đô Lơng không có sự lãnh đạo của
Đảng nhng ngay sau khi nó nổ ra, Xứ uỷ Trung Kỳ và Tỉnh uỷ Nghệ An đã
phân tích nguyên nhân thất bại của cuộc khởi nghĩa và rút ra bài học kinh
nghiệm để hớng dẫn phong trào đấu tranh của quần chúng phát triển theo đúng
đờng lối, chủ trởng của Đảng.
Hởng ứng lời kêu gọi của Tỉnh uỷ Nghệ An, ngày 21/1/1941, Huyện uỷ
Hng Nguyên vận động trên 2000 nông dân mít tinh, biểu tình, tuần hành, thị uy
phản đối chiến tranh đế quốc, ủng hộ cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kỳ và
khởi nghĩa chợ Rạng - Đô Lơng.

Ngoài ra các huyện uỷ Thanh Chơng, Anh Sơn... cũng dùng hình thức
nh cắm cờ và biểu ngữ lên bè chuối rồi thả trôi dọc Sông Lam để cổ động cho
phong trào.
ở Hà Tĩnh, thi hành chỉ thị của Trung ơng Đảng, Đảng bộ đã vận động
một phong trào quần chúng mạnh mẽ hởng ứng các cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ,
20


Bắc Sơn. Nhân dân Hà Tĩnh đã thể hiện sự ủng hộ của mình bằng những hành
động đấu tranh tích cực. Nhiều quãng đờng ray xe lửa ở Đức Thọ, Hơng Khê bị
tháo gở để ngăn chặn địch vận chuyển binh lính đàn áp. Cuộc quyên góp ủng
hộ đồng bào và chiến sỹ Nam Bộ đợc tổ chức rộng rãi, mọi ngời đều nêu cao
tinh thần hữu ái giai cấp, đã dành từng đồng tiền, bát gạo gửi vào cho anh em
mình đang bị giặc Pháp khủng bố.
Đầu năm 1941 một số chính trị phạm bị giam ở đồn Phố Châu (Hơng
Sơn) vợt ngục thắng lợi. Họ đi lên đồn điền Sông Con, Cẩm Lĩnh để hoạt động,
ở đây quần chúng đang sôi sục khí thế đấu tranh. Trớc tình hình đó, sau khi vợt
ngục, ngày 21/4/1941 đồng chí Hồ Hảo triệu tập huyện uỷ để thành lập lại
huyện uỷ Hơng Sơn và quyết định phối hợp với Thanh Chơng (Nghệ An ) huy
động lực lợng nổi dậy đánh đồn Phố Châu, đồng thời bàn kế hoạch lấy kho
súng đạn của chủ đồn điền Sông Con. Cuộc chuẩn bị bạo động đã đợc xứ uỷ
Trung Kỳ uốn nắn, vì lúc này nhìn chung cả nớc cũng nh từng địa phơng cha có
thời cơ để vũ trang bạo động. Trong hoàn cảnh nh vậy "Tranh đấu cha hợp thời,
tranh đấu non, tranh đấu cha có phơng pháp, có tính chất manh động. Là những
cơ hội cho quân thù khủng bố dữ dội và dập tắt phong trào"[3;169]. Mặc dù đã
nhận thức rõ đợc nh vậy, nhng ngày 15/5/1941 trong lúc đồng chí Hồ Hảo đang
đi xin chỉ thị của Xứ uỷ Trung Kỳ, một số cán bộ, quần chúng vì quá căm thù
địch nên đã nổi dậy giết tên Phe Rây - chủ đồn điền Sông Con, thu 14 khẩu
súng và 700 viên đạn. Ngày hôm sau những ngời bạo động lại trừng trị tên
bang tá Hồ Dũng Tài là một tên việt gian khét tiếng gian ác, trừ thêm một mối

hoạ cho dân.
Ngay khi tên Phe Rây và tên Hồ Dũng Tài bị giết, thực dân Pháp vô cùng
hoảng hốt. Chúng đã báo động trên toàn hạt Bắc, Trung Kỳ. ở Hà Tĩnh, chúng
huy động các lực lợng canh gác, thiết lập mạng lới mật thám dày đặc, ngày
đêm sục sạo khắp nơi. Do một tên chỉ điểm mật báo, đồng chí Hồ Hảo bị bắn
và số cán bộ Đảng viên đi cùng với đồng chí đều bị truy bắt. Cuộc bạo động Hơng Sơn bị kẻ thù đàn áp đẫm máu.
Có thể khẳng định rằng, phong trào cách mạng nớc ta nói chung và nhân
dân Nghệ Tĩnh nói riêng, kể từ khi Nhật nhảy vào Đông Dơng diễn ra đúng
nh dự đoán của Hội nghị Trung ơng Đảng lần 6 (11/1939): "Quần chúng tranh
đấu nhất định phải chịu một mệnh lệnh mà thôi, phải hết sức giữ kỷ luật, dáng
một bớc ra ngoài kỷ luật sẽ bị sa vào bẩy khiêu khích và manh động, phong
trào tranh đấu sẽ bị phá hoại một cách rất tàn nhẫn và đau đớn. Tranh đấu cha
kịp thời, tranh đấu non, tranh đấu không có phơng pháp, có tính chất manh
21


động trong thì giờ nghiêm trọng này là những cơ hội cho quân thù khủng bố
giữ dội mà đập nát phong trào..." [3;169].
.
Do không chấp hành ngiêm túc nguyên tắc ấy nên các cuộc đấu tranh
trên đã gây cho đảng bộ ở Nghệ Tĩnh những tổn thất nghiêm trọng. Hệ thống tổ
chức Đảng và tổ chức quần chúng ở các cấp vừa đợc khôi phục, lại bị chính
quyền thực dân Pháp và tay sai phá vỡ.
Trong vòng một tháng sau cuộc khởi nghĩa chợ Rạng - Đô Lơng, gần
200 cán bộ Đảng viên và quần chúng hai huyện Thanh Chơng, Anh Sơn đã bị
địch bắt. Riêng huyện Hơng Sơn đã có tới 30 ngời bị xử bắt và 170 ngời bị bắt
trong vụ giết tên Phe Rây. Cuối tháng5/ 1941, các đồng chí Xứ uỷ đi dự Trung ơng đảng lần 8 về tới ga Cầu Giát liền bị địch bắt. Ngày 16/8 công sứ Nghệ An
đa lính đến vây bắt cơ quan Xứ uỷ đóng tại xã Liên Thành, Yên Thành, Nghệ
An.
Những vụ manh động trong phong trào cách mạng ở Nghệ Tĩnh tuy có

mặt tích cực làm thức tỉnh tinh thần đấu tranh cách mạng của quần chúng và
báo hiệu nền thống trị thực dân đã đến ngày hấp hối, nhng do làm sai đờng lối,
chủ trơng của Trung ơng nên đã gây tổn thất nặng nề cho Đảng.
Tóm lại, mặc dù đạt đợc kết quả bớc đầu trong phong trào đấu tranh
cách mạng của ngời dân Nghệ Tĩnh cha nhiều, nhng nó đã bồi đắp thêm truyền
thống yêu nớc, bảo vệ độc lập tự do, yêu chuộng hoà bình và công lý, giữ gìn
đất nớc. Đó là ý chí, quyết tâm rất cao, sẵn sàng đánh kẻ địch mạnh hơn mình
nhiều lần, và chính những phong trào đó là tiền đề cho cuộc đấu tranh cách
mạng của nhân dân Nghệ Tĩnh sau này.

Chơng 2

Mặt trận Việt Minh liên tỉnh Nghệ Tĩnh ra đời và vai trò của nó
đối với cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Nghệ Tĩnh.

2.1. Mặt trận Việt Minh liên tỉnh Nghệ Tĩnh ra đời :
2.1.1. Quá trình chuẩn bị thành lập Mặt trận Việt Minh liên tỉnh
Nghệ Tĩnh.
Chiến tranh thế giới 2 nổ ra đợc hai tháng, Hội nghị Trung ơng Đảng lần
6 (11/1939) đã đợc triệu tập. Hội nghị xác định mục tiêu cách mạng Đông D22


ơng lúc này không còn ở giai đoạn đấu tranh giành quyền dân sinh, dân chủ
tích luỹ lực lợng nữa mà chuyển qua giai đoạn trực tiếp đánh đổ đế quốc và tay
sai, giải phóng dân tộc. Đặc biệt đến hội nghị Trung ơng Đảng lần 8 (5/1941)
dới sự chủ trì của lãnh tụ của Nguyễn ái Quốc, hội nghị đã phân tích tình hình
quốc tế và trong nớc, đề ra nhiều chủ trơng chính sách cụ thể, phát triển và
hoàn chỉnh các Nghị quyết hội nghị Trung ơng VI tháng 11/1939, Hội nghị
Trung ơng VII tháng 11/1940 nhằm giơng cao hơn nữa ngọn cờ giải phóng dân
tộc: "Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dới sự sinh tử,

tồn vong của quốc gia dân tộc. Trong lúc này nếu không giải quyết đợc vấn đề
dân tộc giải phóng, không đòi đợc đọc lập tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng
những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mải kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của
bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại đợc" [4;147].
Để chuẩn bị về tổ chức lực lợng thực hiện nhiệm vụ lịch sử trọng đại đó,
lãnh tụ Nguyễn ái Quốc nhấn mạnh: "Vấn đề đoàn kết toàn dân giải phóng dân
tộc càng quan trọng. Ta phải nghĩ đến việc lập ra một hình thức mặt trận thật
rộng rãi, có tên gọi cho thích hợp. Việt Nam giải phóng đồng minh ? Việt Nam
phản đế đồng minh ? Hay là Việt Nam độc lập đồng minh, có thể gọi tắt là Việt
Minh cho nhân dân dễ nhớ ". [2;5].
Sau khi phân tích tình hình cụ thể nh vậy, Hội nghị đã quyết định lập
Mặt trận dân tộc thống nhất chống phát xít Pháp - Nhật lấy tên là Việt Nam
độc lập đồng minh, gọi tắt là Việt Minh. Mặt trận Việt Minh chính thức ra đời
ngày 19/5/1941, thành viên của mặt trận là các hội cứu quốc nh công nhân cứu
quốc, nông dân cứu quốc, thanh niên cứu quốc, phụ nữ cứu quốc...
Để tập hợp lực lợng đấu tranh chống kẻ thù chung, hội nghị cũng ra
quyết định giúp hai nớc bạn thành lập Ai lao độc lập đồng minh và Cao Miên
độc lập đồng minh. Cùng với việc thành lập mặt trận Việt Minh, Đảng đã xúc
tiến khẩn trơng xây dựng lực lợng vũ trang, chuẩn bị mọi mặt cho tổng khởi
nghĩa toàn quốc.
Nghị quyết Trung ơng về việc thành lập mặt trận Việt Minh là kết quả
của sự phân tích khách quan, khoa học tình hình mới trên thế giới, thừa kế và
phát triển những u điểm, khắc phục các nhợc điểm, vận dụng những bài học
kinh nghiệm quý báu của Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dơng từ
năm 1930, dới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, nhất là của mặt trận thống nhất
dân tộc phản đế Đông Dơng,
Ngay sau khi Mặt trận Việt Minh đợc thành lập, từ cuối năm 1941 trở
đi, Nghị quyết của Trung ơng về thành lập Mặt trận Việt Minh bắt đầu đợc phổ
23



biến trong các nhà tù và trại tập trung, chủ yếu qua những đảng viên Đảng cộng
sản và hội viên các hội cứu quốc bị địch bắt đa đến.
Hởng ứng chỉ thị của Trung ơng Đảng, một số tỉnh trong nớc sau khi
nhận đợc chỉ thị của Mặt trận Việt Minh đã thành lập ra tổ chức Việt Minh.
Cao Bằng là tỉnh tiếp nhận chỉ thị của Việt Minh sớm nhất, do điều kiện cơ
quan Trung ơng đóng trên địa bàn. Và hầu nh các tỉnh Bắc Kỳ đều nhận đợc
chỉ thị của Trung ơng sớm hơn so với Nam Kỳ và Trung Kỳ. Đờng liên lạc từ
Trung ơng ở miền Bắc vào đến Nam kỳ xa xôi, bị địch kiểm soát gay gắt, nên
Nghị quyết của Trung ơng về Mặt trận Việt Minh đến các đồng chí Nam Kỳ bị
chậm .
ở Trung Kỳ, Nghệ Tĩnh là nơi thành lập Mặt trận Việt Minh muộn hơn
so với các nơi khác, vì lúc này ở Nghệ Tĩnh phong trào cách mạng của quần
chúng nhân dân bị kẻ thù tập trung đàn áp, khủng bố, nhiều cán bộ và quần
chúng bị địch bắt, cơ sở cách mạng, cơ sở quần chúng bị địch phá vỡ.
Cuối tháng 5/1941 các đại biểu Trung Kỳ nh Hồ Xuân Lu, Bùi San đi dự
Hội nghị Trung ơng lần thứ 8 về tới ga Cầu Giát liền bị địch bắt, do đó việc liên
lạc với xứ uỷ và Trung ơng gặp nhiều khó khăn. Trên thực tế Nghệ Tĩnh đã
không nhận đợc chỉ thị về thành lập Mặt trận Việt Minh.
Ngày 16/8/1941 công sứ Nghệ An đa lính đến vây bắt cơ quan xứ uỷ
đóng tại xã Liên Thành, Yên Thành, Nghệ An.
Vì bị mất liên lạc với Xứ uỷ Trung Kỳ, vào đầu năm 1942, Tỉnh uỷ
Quảng Trị cử đồng chí Trơng Văn An ra Vinh gặp đồng chí Nguyễn Thị Nhồng
giao thông xứ uỷ. Nhờ đó đồng chí An đã bắt liên lạc đợc với Trung ơng Đảng.
Đợc Trung ơng Đảng giao nhiệm vụ, các đồng chí này mang Nghị quyết hội
nghị lần thứ 8 của Trung ơng, chơng trình Mặt trận Việt Minh, điều lệ, các
đoàn thể cứu quốc, báo, cờ giải phóng về phổ biến ở Trung Kỳ.
Về tới Nghệ An, các đồng chí đã bắt liên lạc với đồng chí Phạm Tự, một
cán bộ xứ uỷ đang hoạt động ở huyện Diễn Châu để khôi phục lại tổ chức của
các Đảng bộ ở Nghệ Tĩnh. Phủ uỷ Diễn Châu đợc khôi phục đầu tiên và mở

rộng hoạt động vào Vinh, Nghi Lộc. Một số cơ sở vừa đợc xây dựng liền bị mật
thám phá vở. Những đồng chí trên cùng một số cán bộ và quần chúng, vừa đợc
liên lạc cũng bị địch bắt. Tổ chức Đảng hai tỉnh đợc xây dựng lại liên tục nhng
cũng liên tiếp bị địch phá vỡ. Hoạt động của Đảng bộ đến đây bị gián đoạn.
Số đồng chí còn lại vẫn giữ vững khí tiết, chờ bắt mối, hoặc tiếp tục hoạt
động dới các hình thức thích hợp để giữ liên lạc với quần chúng. Điều đó cũng
chứng minh đợc nét đặc trng cơ bản của Nghệ Tĩnh so với cả nớc đó là truyền
24


thống đấu tranh cách mạng kiên trung, bất khuất của nhân dân. Trong thời kỳ
này, tổ chức Đảng ở Nghệ Tĩnh bị phá vỡ nghiêm trọng do sự khủng bố dã man
hết sức thâm độc của kẻ thù. Cùng với việc chém giết, tra tấn điên cuồng,
chúng dùng bọn phản bội làm tay chân phá hoại Đảng, mua chuộc, lôi kéo
những phần tử hoang mang dao động vào hàng ngũ phản cách mạng, uy hiếp,
hăm doạ khống chế gây khó khăn về kinh tế, làm cho một số ngời nằm im
không dám hoạt động.
Mặt khác, chúng còn gây li gián cả ở trong đảng và ngoài quần chúng,
vu khống, tung tin bịa đặt, bắt ngời này thả ngời kia, gây tâm lý ngờ vực, hoài
nghi lẫn nhau giữa cán bộ với cán bộ, giữa cán bộ với quần chúng, làm đảo lộn
thật giả, lẩn lộn đen trắng, làm cho một số đồng chí của ta vì sợ sa vào vào cạm
bẩy của mật thám nên do dự không dám bắt liên lạc, không giám giao tài liệu,
không dám giao việc, nhận việc...
Hơn nữa, chúng còn tung mật thám chỉ điểm, đi các nơi để phá cách
mạng từ trong ra, ngoài vào; cả từ trên xuống, dới lên. Mục đích của chúng là
tiêu diệt cộng sản, chống phá cách mạng đến tận gốc. Có thể so sánh rằng: Nếu
nh đợt đánh phá cuối năm 1931 là đợt đánh phá tàn khốc thì hai đợt đánh phá
năm 1939 và 1941 là thâm độc nhất, gây di hại lâu dài nhất và cũng gây thiệt
hại lớn nhất cho cách mạng, nhất là khi chúng ta đang tích luỹ lực lợng để giải
quyết vận mệnh mất còn của dân tộc.

Cả ba đợt đánh phá đó, kẻ thù đã không từ bỏ một thủ đoạn nào, nguy
hại nhất là trong việc đánh phá vào nội bộ của ta, chúng đã lôi kéo đợc Đinh
Văn Di và hàng ngũ phản cách mạng đến mức leo cao phá lâu, gây thiệt hại lớn
về tổ chức và gây ảnh hởng xấu về t tởng, kìm hãm phong trào và việc thực
hiện đờng lối của Đảng ở Nghệ Tĩnh.
Một mặt, do sự phá hoại của mật thám, do hành động và hậu quả phản
bội của Đinh Văn Di, do có kẻ làm "nhân mối" cho địch và một số ngời hoang
mang khai báo, gây tổn thất cho Đảng. Mặt khác do các Đảng bộ thiếu cảnh
giác, thiếu tổ chức chặt chẽ và thiếu giáo dục t tởng kiên định nên kẻ thù gây
cho ta rất nhiều khó khăn.
Tình hình trên đây, không chỉ diễn ra ở Nghệ Tĩnh mà trong toàn quốc,
phong trào cách mạng đã bị ảnh hởng nghiêm trọng. Ngày 26/8/1943, báo Cờ
Giải Phóng đăng bài "Đừng mắc mu địch" của Trờng Chinh. Bài báo đã vạch rõ
âm mu, thủ đoạn phá hoại của địch ở Nghệ Tĩnh và hớng dẫn toàn Đảng về
những kinh nghiệm, biện pháp chống lại âm mu, thủ đoạn thâm độc của chúng.
Đồng chí kêu gọi toàn Đảng, trớc hết là các Đảng bộ ở Trung Kỳ: "Phải kịp
25


×