Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Mặt trận Việt Minh và những phong trào đấu tranh giải phong dân tộc từ 1941- 1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (34.54 KB, 8 trang )

-1-
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Văn học Việt Nam và văn xuôi nói riêng từ 1975 đến nay đã chuyển sang một thời kỳ
mới với những đặc điểm khác giai đoạn trước. Đã có nhiều bài báo khoa học nghiên cứu về văn
xuôi sau 1975 nhưng chưa có một công trình chuyên sâu bàn về những đặc điểm chính của nó.
Là người trực tiếp giảng dạy chuyên đề “Văn học Việt Nam sau 1975” tại khoa Ngữ văn trường
Đại học Đà Lạt, chúng tôi tự thấy có trách nhiệm góp phần mình vào công việc nghiên cứu văn
xuôi giai đoạn này.
2. Mục tiêu của đề tài.
Việc theo dõi hết tất cả các tác phẩm văn xuôi giai đoạn 1975-2000 là điều bất khả.
Chúng tôi chọn phương án nghiên cứu mẫu, nghóa là quan tâm đến những tác phẩm văn xuôi có
giá trò hoặc những tác phẩm có vấn đề nào đấy nổi bật và cũng chỉ hạn chế chủ yếu ở thể loại
truyện và tiểu thuyết. Kết quả nghiên cứu đề tài Những đặc điểm chính của văn xuôi Việt Nam
giai đoạn 1975-2000 sẽ phục vụ trực tiếp việc giảng dạy và là tài liệu tham khảo cho những
người quan tâm.
3. Phương pháp nghiên cứu.
Với đề tài này chúng tôi sử dụng các phương pháp: phân tích, tổng hợp, so sánh, loại
hình. Về phương pháp luận, chúng tôi cố gắng tiếp cận đối tượng từ hai phía. Một mặt là bối
cảnh văn hoá của thời đại đổi mới đã dẫn đến sự biến đổi của văn học và hai là sự vận động,
phát triển nội tại của văn xuôi Việt Nam hiện đại.
4. Lòch sử đề tài.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến những lónh vực khác nhau của văn xuôi
Việt Nam giai đoạn 1975-2000. Tiêu biểu là:
- Văn học 1975 - 1985 tác phẩm và dư luận do Vân Trang, Ngô Hoàng, Bảo Hưng sưu tầm
và biên soạn (Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội, 1997).
- Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn xuôi sau cách mạng tháng Tám, đề tài
khoa học cấp Nhà nước kí hiệu KX-07, đề tài KX07-01, Hà Nội, 1995, do GS Nguyễn Hải Hà và
Ths Nguyễn Thò Bình thực hiện.
- Tự sự học- một số vấn đề lý luận và lòch sử do Trần Đình Sử chủ biên (Nxb. Đại học Sư
phạm Hà Nội, 2004).


- Tài liệu mới nhất là cuốn sách Văn học Việt Nam sau 1975- những vấn đề nghiên cứu và
giảng dạy do Nguyễn Văn Long và Lã Nhâm Thìn đồng chủ biên (Nxb. Giáo dục, Hà Nội,
2006).
Về phần văn xuôi và nghiên cứu văn xuôi sau 1975 của người Việt ở hải ngoại vì thiếu tư
liệu xin không trình bày ở đây.
Có thể thấy rằng đã có nhiều công trình nghiên cứu nhưng chưa có công trình nghiên cứu
chuyên sâu, toàn diện về vấn đề những đặc điểm chính của văn xuôi Việt Nam sau 1975.
5. Bố cục đề tài.
Ngoài Phần mở đầu và Kết luận đề tài của chúng tôi trình bày thành 4 chương.
Chương 1: Cơ sở hiện thực xã hội và quan niệm văn học giai đoạn 1975-2000.
Chương 2: Một nền văn xuôi mang cảm hứng hiện thực.
Chương 3: Một nền văn xuôi hướng về các thể tài đời tư và thế sự với tư duy tiểu thuyết.
Chương 4: Một nền văn xuôi hiện đại hoá, đa dạng về phương thức thể hiện.
-2-
Chương 1. CƠ SỞ HIỆN THỰC XÃ HỘI VÀ QUAN NIỆM VĂN HỌC
GIAI ĐOẠN 1975-2000
1.1. Cơ sở hiện thực xã hội và bối cảnh văn hoá.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975 mãi mãi đi vào lòch sử dân tộc như một mốc son chói lọi.
Điều ít ai nghó tới là ngay sau đó đất nước đã phải đối mặt với những vấn đề hậu chiến và những
mặt trái của cơ chế điều hành theo kiểu xã hội chủ nghóa thời chiến (chỉ huy, quan liêu, bao
cấp). Đất nước đứng trước nguy cơ của một cuộc tổng khủng hoảng.
Sự nghiệp đổi mới đã thu được những thành tựu lớn lao. Với sự hội nhập vào thế giới
hiện đại (trong đó hội nhập về văn hoá) đất nước được đặt vào quỹ đạo hoà bình, hữu nghò và
phát triển.
Từ một nền văn hoá mang đậm tính cộng đồng, làng quê, nông nghiệp đang hình thành
một nền văn hoá dân tộc- hiện đại, hình thành ý thức cá nhân hiện đại, thức tỉnh những tiềm
năng sáng tạo kì diệu của con người.
1.2. Sự đổi mới quan điểm văn học.
Ở giai đoạn văn học trước đây con người chủ yếu được nhận thức và thể hiện ở bình diện
đạo đức, chính trò. Khoa học về con người trong thời đại ngày nay cũng đã có nhiều tiến bộ. Từ

bối cảnh xã hội mới đã dần dần hình thành một quan niệm toàn vẹn, sâu sắc hơn về con người
trong văn học.
Quan niệm văn học cũng đã khác trước. Văn học không chỉ là tiếng nói chung của cộng
đồng, dân tộc, thời đại mà còn là tiếng nói riêng của cá nhân nhà văn làm giàu thêm kinh
nghiệm thẩm mỹ của loài người. Nhận thức về hiện thực trong tác phẩm văn học không còn đơn
giản. Hiện thực được quan niệm là cuộc sống đa dạng, phức tạp, cả phần tươi sáng lẫn khuất lấp,
đen tối. Hiện thực không chỉ là đời sống cộng đồng với những biến cố lòch sử- xã hội mà còn là
đời sống hàng ngày của con người cá nhân chằng chòt các mối quan hệ đa đoan, đa sự. Thế giới
nghệ thuật của nhà văn không đồng dạng với hiện thực đời sống mà có thể là một thế giới sáng
tạo kì ảo, siêu thực…
Ở giai đoạn trước các nhà văn chỉ có thể sáng tác với phương pháp hiện thực xã hội chủ
nghóa. Từ Đổi mới đến nay nhà văn có thể viết bằng bất cứ phương pháp sáng tác nào.
Quan niệm về người đọc cũng đã có sự thay đổi căn bản. Người đọc hôm nay không phải
là đối tượng để nhà văn ban phát chân lý, tác động về tư tưởng, không chỉ là số đông quần
chúng nhân dân mà còn là bạn đọc hàng đầu – những người có tầm đón nhận tiên tiến, góp phần
thúc đẩy sự tiến bộ của văn học.
Hiện đại hoá là nhu cầu gấp rút của văn học Việt Nam hôm nay. Nó tiếp tục quá trình đã
được mở ra từ đầu thế kỷ XX.
Xác đònh những đặc điểm chính của văn xuôi giai đoạn 1975-2000 có nghóa là phải chỉ ra
được những đặc điểm có tính chất đặc trưng làm nên diện mạo của nó, đồng thời phân biệt được
với văn xuôi các giai đoạn trước. Chúng tôi cho rằng văn xuôi giai đoạn này có những đặc điểm
chính sau đây:
1. hướng về thực tại với cảm hứng hiện thực;
2. hướng về các thể tài đời tư và thế sự với tư duy tiểu thuyết;
3. là một nền văn xuôi hiện đại hoá, đa dạng về phương thức thể hiện.
-3-
Sau đây chúng tôi sẽ làm sáng tỏ những đặc điểm ấy.
Chương 2. MỘT NỀN VĂN XUÔI MANG CẢM HỨNG HIỆN THỰC
2.1. Cảm hứng hiện thực ở đề tài tái hiện cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trong văn
xuôi giai đoạn 1975-1985.

Sau 1975, đề tài chiến tranh tiếp tục thu hút tâm lực của các nhà văn với nhiều tác phẩm
xuất sắc. Tiêu biểu là: Ký sự miền đất lửa (Vũ Kỳ Lân – Nguyễn Sinh), Đất trắng (Nguyễn
Trọng Oánh), Hai người trở lại trung đoàn (Thái Bá Lợi), Âm vang chiến tranh (Xuân Thiều),
Bức tranh, Mùa trái cóc ở miền Nam (Nguyễn Minh Châu)… Nét nổi bật của các tác phẩm này là
đã phản ánh cuộc kháng chiến chống Mỹ bằng cái nhìn hiện thực khắc nghiệt. Trước đây chiến
tranh chỉ là không gian nghệ thuật để làm nổi bật chủ nghóa anh hùng cách mạng. Giờ đây chiến
tranh trở thành đối tượng khám phá và thể hiện. Nhiều tác phẩm được viết với nỗi lo âu cho con
người trước hiểm hoạ chiến tranh làm khô kiệt nhân tính. Nhìn chung trong đề tài chiến tranh
tính chất sử thi và cảm hứng lãng mạn nhạt dần nhường chỗ cho cảm hứng hiện thực khắc
nghiệt.
2.2. Cảm hứng hiện thực ở đề tài xây dựng chủ nghóa xã hội giai đoạn 1975-1985.
Ở đề tài này, các nhà văn phản ánh cuộc sống với cảm hứng hiện thực và khát vọng
tham gia vào việc cải tiến quản lý xã hội, đấu tranh chống tiêu cực. Tiêu biểu là các tác phẩm:
Năm hoà bình đầu tiên (1978), Đứng trước biển (1982), Cù lao Tràm (1985) của Nguyễn Mạnh
Tuấn; Gặp gỡ cuối năm (1988) của Nguyễn Khải; Chân dung một quản đốc (1982) của Nguyễn
Hiểu Trường, Giấy trắng (Triệu Xuân)…
giai đoạn này nhiều nhà văn nhạy cảm đã nhìn thấy khoảng cách giữa nhu cầu người
đọc và tác giả, giữa văn học và đời sống. Họ âm thầm vật vã, trăn trở đổi mới. Nguyễn Minh
Châu là trường hợp tiêu biểu cho ý thức văn học đang vận động.
Cùng với sự nhạt dần của tính chất sử thi là sự dò ứng với cảm hứng lãng mạn. Cuộc sống
vô cùng khắc nghiệt, trong khi đó văn chương lại cứ véo von ngợi ca những điều không thực
chất.
2.3. Cảm hứng hiện thực trong văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1986-2000.
Sự thật khắc nghiệt của cuộc sống đương thời đã ùa vào văn xuôi giai đoạn đầu Đổi mới
trước tiên ở thể loại ký, đặc biệt là các thể phóng sự và ký sự [Cái đêm hôm ấy đêm gì (Phùng
Gia Lộc), Người đàn bà quỳ (Trần Khắc), Lời khai của bò can (Trần Huy Quang), Đêm trắng
(Hoàng Hữu Các), Tiếng kêu cứu của một vùng văn hoá (Võ Văn Trực), Câu chuyện về một ông
vua lốp (Nhật Linh), Thủ tục để làm người còn sống; Người không cô đơn (Minh Chuyên)…].
Bên cạnh đó còn có thể nói đến thành tựu của hồi ký, tuỳ bút, tạp văn, nhàn đàm… mà
nổi bật là các tác giả: Tô Hoài, Nguyễn Khải, Hoàng Phủ Ngọc Tường.

Tiếp tục cảm hứng hiện thực khắc nghiệt trong văn xuôi những năm trước, nhiều tác
phẩm đã phản ánh hoàn cảnh chiến đấu quá sức chòu đựng của con người, những số phận oan
khuất, éo le, sự hy sinh tuổi trẻ, hạnh phúc cá nhân... Chiến tranh cách mạng làm cho người ta
trở thành anh hùng nhưng cũng là hoàn cảnh làm biến dạng nhân tính (Âm vang chiến tranh của
Xuân Thiều, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh).
Văn xuôi Đổi mới còn phản ánh một sự thật là do cực đoan, ấu tró chúng ta đã phạm
không ít sai lầm trong tổ chức xã hội và quản lý con người mấy chục năm qua (Chuyện làng
ngày ấy của Võ Văn Trực, Những mảnh đời đen trắng của Nguyễn Quang Lập, Đám cưới không
có giấy giá thú của Ma Văn Kháng, Chuyện làng Cuội của Lê Lựu, Bi kòch nhỏ của Lê Minh
-4-
Khuê… ). Trong những tác phẩm ấy sự thật nhiều khi rất đắng cay nhưng cần thiết cho nhận thức
của con người.
Cảm hứng sự thật đặc biệt nổi bật ở đề tài đô thò trong nền kinh tế thò trường. Đồng tiền
trở nên có sức mạnh ghê gớm làm tha hoá con người: Đồng đô la vó đại, Anh lính Tôny D (Lê
Minh Khuê), Tướng về hưu, Huyền thoại phố phường, Không có vua (Nguyễn Huy Thiệp), Minu
xinh đẹp (Nguyễn Thò Thu Huệ), Thợ may (Phạm Hải Vân)… Sự thật được khám phá và thể hiện
từ những điểm nhìn khác nhau là một bước tiến về tư duy văn học. Cảm hứng hiện thực đã đưa
đến những tác phẩm giàu tính chân thực lòch sử. Đây phải được xem là một đặc điểm nổi bật của
văn xuôi sau 1975 khi so sánh với giai đoạn văn xuôi trước đó.
Chương 3. MỘT NỀN VĂN XUÔI HƯỚNG VỀ CÁC THỂ TÀI ĐỜI TƯ, THẾ SỰ VỚI TƯ
DUY TIỂU THUYẾT
3.1. Văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1975-2000 hướng về các thể tài đời tư, thế sự.
Sau 1975 văn xuôi hướng dần về cuộc sống cá nhân. Con người với số phận riêng tư của
nó được quan tâm nhận thức và thể hiện. Nổi bật lên là những khát vọng về tình yêu và hạnh
phúc. Nhiều tác phẩm thể hiện sự trân trọng đối với hạnh phúc giản đơn, trần thế của con người.
Văn xuôi cũng đã hướng về đời sống thế sự phức tạp, đa đoan, đa sự của con người; nhất là
trong bối cảnh xã hội chuyển biến nhanh chóng sang đời sống kinh tế thò trường và đô thò hoá.
3.2. Văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1975-2000 chuyển dần tư duy sử thi sang tư duy tiểu
thuyết.
Nhiều nhà nghiên cứu đã thống nhất ở nhận đònh rằng văn xuôi sau 1975 đã chuyển dần

từ tư duy sử thi sang tư duy tiểu thuyết. Chúng tôi thấy bước chuyển này đã diễn ra không đơn
giản mà phải trải qua bước đệm là tư duy kí sự; ở đó tính chân thực của văn học được nâng lên
một bước, nhưng về nguyên tắc vẫn lấy hiện thực cuộc sống làm thước đo tính chân thực của
văn học.
Tư duy tiểu thuyết dần dần thành khí quyển sáng tạo của các nhà văn. Đúng như Nguyên
Ngọc đã cảm nhận rất tinh tế rằng một số truyện ngắn gần đây (như Phiên chợ Giát của Nguyễn
Minh Châu, truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, Bước qua lời nguyền của Tạ Duy Anh chẳng
hạn…) lại có tính tiểu thuyết hơn cả những sách có ghi là tiểu thuyết hẳn hoi.
Xuất hiện trong văn xuôi tính chất đa âm (polyphonie), đa ngôn (plurilignisme), đối
thoại… Văn xuôi là nơi cùng tồn tại không hoà đồng nhiều tiếng nói và ý thức độc lập, bình
quyền, đầy đủ giá trò, nơi tiếng nói của nhân vật bình đẳng với tiếng nói của tác giả, tác giả
không chỉ nói về nhân vật mà còn nói với nhân vật, quan hệ đối thoại với nhân vật.
Chương 4. MỘT NỀN VĂN XUÔI HIỆN ĐẠI HOÁ, ĐA DẠNG
VỀ PHƯƠNG THỨC THỂ HIỆN
4.1. Một nền văn xuôi tiếp tục hành trình hiện đại hoá.
Hiện đại hoá văn học Việt Nam là một quá trình đã được mở ra từ đầu thế kỷ XX với
nhiều thế hệ nhà văn.
Sau 1975, đặc biệt từ Đổi mới văn học Việt Nam lại được hội nhập vào dòng chảy chung
của văn học thế giới, nhu cầu hiện đại hoá lại được đặt ra một cách bức thiết.
Vấn đề quan trọng là phải Việt hoá những ảnh hưởng thi pháp văn học nước ngoài.
Một số truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thò Hoài và các
tác giả khác chòu ảnh hưởng của văn học phương Tây và đã Việt hoá khá thành công.
-5-
Những tác phẩm văn xuôi theo hướng phi truyền thống như Thiên sứ (Phạm Thò Hoài,
1989), Cõi người rung chuông tận thế (Hồ Anh Thái, 2002), Giàn thiêu (Võ Thò Hảo, 2003),
Thoạt kỳ thuỷ (Nguyễn Bình Phương, 2004), Thiên thần sám hối (Tạ Duy Anh, 2004), Người sông
Mê (Châu Diên, 2004) đã trở thành những hiện tượng văn học được chú ý. Những tác phẩm này
rất gần với văn chương kì ảo phương Tây hiện đại.
4.2. Sự đa dạng về phương thức thể hiện trong văn xuôi giai đoạn 1975-2000.
Văn xuôi sau 1975 so với giai đoạn trước nổi bật lên sự đổi mới, đa dạng về phương thức

thể hiện.
4.2.1. Tăng điểm nhìn trần thuật.
Sau 1975 tư duy tiểu thuyết đã cho phép chuyển điểm nhìn của nhà văn sang điểm nhìn
của các nhân vật. Vì vậy cuộc sống và con người được khám phá nhiều mặt, trở nên mới mẻ và
thú vò hơn. Từ điểm nhìn hướng ngoại sang điểm nhìn hướng nội, từ điểm nhìn sử thi sang điểm
nhìn tiểu thuyết, khám phá con người bên trong con người là thay đổi rất quan trọng của văn
xuôi sau 1975. Tăng gấp bội những điểm nhìn là cách làm của nhiều tác giả. Tất nhiên là còn có
những chỗ chưa thật nhuần nhuyễn, đặc biệt là khi sử dụng điểm nhìn của nhân vật kỳ ảo, nhưng
phải ghi nhận ý thức sáng tạo của các nhà văn.
4.2.2. Đa dạng về kiểu nhân vật.
Nhìn chung nhân vật trong văn xuôi sau 1975 rất phong phú về kiểu, loại khó có thể
khuôn vào một cái khung nào như “nhân vật chính diện”, “nhân vật phản diện”, “nhân vật tích
cực”, “nhân vật tiêu cực” như ở giai đoạn trước. Có thể khái quát nên một số kiểu nhân vật sau
đây.
- Nhân vật phi sử thi và phi cổ tích.
Đây là một bước tiến trong tư duy nghệ thuật. Nhân vật văn học trở nên thực hơn, gần
gũi với cuộc đời hơn. L.Tônxtôi từng viết đại ý thật nhầm lẫn khi xác đònh người này tốt, người
kia xấu, người này thông minh, người kia ngu ngốc… Trong thực tế con người bao hàm mọi khả
năng và không ngừng biến đổi.
- Nhân vật diễu nhại.
Gần gũi với nhân vật phi sử thi, phi cổ tích là nhân vật diễu nhại. Nhại gắn liền
với sự giải thiêng và thường xuất hiện ở giai đoạn có sự đổi mới văn học.
Nhân vật diễu nhại chỉ có thể ra đời trong giai đoạn văn học đổi mới khi tự do sáng tác
và ý thức dân chủ được khơi dậy và tôn trọng.
- Nhân vật tư tưởng.
Trong văn xuôi từ Đổi mới đến nay xuất hiện rất nhiều nhân vật tư tưởng trong các tác
phẩm: Gặp gỡ cuối năm, Thời gian của người, Một cõi nhân gian bé tí, Cha và con và… (Nguyễn
Khải), Bên kia bờ ảo vọng (Dương Thu Hương), Mưa mùa hạ, Mùa lá rụng trong vườn, Đám cưới
không có giấy giá thú (Ma Văn Kháng), Bức tranh, Sắm vai (Nguyễn Minh Châu)… Nhân vật tư
tưởng khi được xây dựng thành công không đối lập với nhân vật tính cách. Nhân vật là bản thân

chúng chứ không chỉ là cái loa, cái bóng của nhà văn. Vì vậy có người đề nghò gọi là kiểu nhân
vật tư tưởng- tính cách.
- Loại nhân vật tính cách.
Không dừng lại ở những đặc điểm loại hình nhân vật tính cách thường có một cấu trúc
tinh thần nội tại phong phú, phức tạp, nhiều mâu thuẫn và luôn luôn chuyển hoá, vật động, phát
triển. Văn xuôi sau 1975 tiếp tục xây dựng được những nhân vật có tính cách độc đáo, sống tận

×