Tải bản đầy đủ (.doc) (56 trang)

Hình tượng tác giả trong thơ chữ hán nguyễn trãi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (290.49 KB, 56 trang )

Khoá luận tốt nghiệp

****

Trơng Thị Hơng

Lời cảm ơn
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến các thầy cô
trong tổ Văn học Việt Nam I, đặc biệt là thầy giáo
TS.Phạm Tuấn Vũ đã hớng dẫn hết sức tận tình chu
đáo giúp tôi hoàn thành khoá luận này.
Vinh, tháng 5 năm 2005
Ngời thực hiện
Trơng Thị Hơng

-----------------------------------***----------------------------------1


Khoá luận tốt nghiệp

****

Trơng Thị Hơng

Phần mở đầu
I. Lý do chọn đề tài
Lịch sử dân tộc Việt Nam rất tự hào khi nhắc đến Nguyễn Trãi
một nhân vật vĩ đại của thế kỷ XV. Ông không chỉ là một nhà quân sự
lỗi lạc, một nhà chính trị thiên tài mà còn là một nhà văn lớn có nhiều
đóng góp cho nền văn học dân tộc. Chỉ thị của BCH TW Đảng Cộng sản
Việt Nam về kỷ niệm 600 năm ngày sinh Nguyễn Trãi đã chỉ rõ:


Nguyễn Trãi là một thiên tài trên nhiều lĩnh vực: t tởng, chính trị, quân
sự, ngoại giao, văn hoá... Đã đem tài năng lỗi lạc và tất cả tâm hồn, nghị
lực của mình hiến dâng cho sự nghiệp cứu nớc, cứu dân... Riêng về mặt
văn hoá, văn học, Nguyễn Trãi đã để lại nhiều áng văn thơ kiệt tác chứa
chan lòng u ái, làm rạng rỡ nền văn học của nớc nhà.
Nguyễn Trãi đã trở thành đề tài nghiên cứu rất phong phú của
nhiều ngành khoa học: chính trị, quân sự, sử học, văn học, nghệ thuật...
đặc biệt là văn học. Về thơ văn của Nguyễn Trãi từ trớc đến nay đã có
rất nhiều công trình nghiên cứu trên các phơng diện nội dung và nghệ
thuật. Tuy nhiên hầu hết các công trình nghiên cứu đều tìm hiểu thơ văn
của ông bằng phơng pháp truyền thống và chủ yếu là ở phơng diện nội
dung do đó khó có thể khám phá hết đợc giá trị của thơ ca Nguyễn Trãi.
Nhân dịp làm khoá luận tốt nghiệp vì muốn đi sâu nghiên cứu thêm về
những giá trị thơ ca của thi nhân nên chúng tôi chọn đề tài Hình tợng
tác giả trong chữ Hán Nguyễn Trãi với các lý do sau:
- Hình tợng tác giả là một phạm trù của thi pháp học nhằm góp
phần tìm hiểu một phơng diện quan trọng trong giá trị của tác phẩm.
Thực tế nghiên cứu Nguyễn Trãi cho thấy có sự lẫn lộn giữa hình tợng
tác giả và tác giả tiểu sử. Nghiên cứu đề tài này chúng tôi sẽ cố gắng
phân biệt và làm rõ các khái niệm đó.
- Chúng tôi chọn nghiên cứu hình tợng tác giả trong thơ chữ Hán
vì thơ chữ Hán là nơi Nguyễn Trãi trực tiếp biểu hiện t tởng, tình cảm
-----------------------------------***----------------------------------2


Khoá luận tốt nghiệp

****

Trơng Thị Hơng


của mình. ở đó hình tợng tác giả và tác giả tiểu sử rất gần gũi, tuy nhiên
vẫn có sự phân biệt. Nghiên cứu hình tợng tác giả nhằm nghiên cứu sâu
hơn Nguyễn Trãi với t cách là một nhà thơ.
- Là một giáo viên văn tơng lai, nghiên cứu hình tợng tác giả sẽ
giúp tôi giảng dạy tốt hơn những bài thơ chữ Hán bên cạnh những bài
thơ Nôm của Nguyễn Trãi trong chơng trình phổ thông.
II. Mục đích, yêu cầu của việc giải quyết đề tài
1. Khi chọn vấn đề Hình tợng tác giả trong thơ chữ Hán Nguyễn
Trãi làm đối tợng nghiên cứu, chúng tôi muốn khái quát những đặc
điểm chủ yếu của hình tợng tác giả ở ức Trai thi tập về cả nội dung và
nghệ thuật thể hiện.
2. Bớc đầu so sánh với hình tợng tác giả ở thơ chữ Nôm (Quốc âm
thi tập).
3. Bớc đầu chỉ ra những đặc điểm phổ biến và đặc điểm riêng biệt
của hình tợng này trong loại hình tợng tác giả trong thơ nhà nho Việt
Nam.
III. Lịch sử vấn đề
Nguyễn Trãi là một tác gia lớn của nền văn học dân tộc. Vì thế
việc học tập nghiên cứu thơ văn của ông đã có một quá trình lâu dài với
nhiều nghiên cứu gia văn học nổi tiếng nh Trơng Chính, Đặng Thanh Lê,
Lê Trí Viễn, Bùi Hạnh Cẩn, Tôn Quang Phiệt và nhiều tác giả khác.
Riêng tập thơ ức Trai thi tập ra đời và tồn tại hơn 600 năm và có vị trí
đặc biệt trong nền văn học dân tộc bằng chữ Hán càng là đối tợng
nghiên cứu của nhiều ngời. Nhìn chung, mỗi công trình nghiên cứu, mỗi
bài viết đều đề cập đến một khía cạnh khác nhau về thơ chữ Hán Nguyễn
Trãi nhng về hình tợng tác giả thì cha có công trình nào nghiên cứu nh
một vấn đề chuyên biệt. Nói nh vậy không có nghĩa là cha có ai đề cập
đến vấn đề này mà đó đây ta vẫn thấy có nhiều công trình đề cập đến
từng khía cạnh của vấn đề.

-----------------------------------***----------------------------------3


Khoá luận tốt nghiệp

****

Trơng Thị Hơng

Chúng ta có thể kể đến công trình nghiên cứu của GS. Trơng
Chính với bài viết ức Trai thi tập những dòng thơ nặng chất suy t. Trong
bài viết này Trơng Chính đã nhận xét. Đó là những bài thơ chan chứa
niềm suy t của một ngời yêu cuộc sống, tích cực vào đời, muốn đem sức
mình gánh vác việc đời, nhng gặp nghịch cảnh, phải ngồi không gọi là
nhàn tản, nhng không thấy vui đợc nhàn tản[8;tr 397]. Tiếp đến, Miễn
Trai trong bài viết Hai cảnh ngộ một tâm tình của nhà thơ Nguyễn Trãi
cũng đã khẳng định: Sự nghiệp anh hùng của Nguyễn Trãi không tách
rời tâm t và ý chí của cụ đã đợc thể hiện khá rõ nét trong thơ văn của cụ.
Riêng tập thơ bằng chữ Hán cũng đủ nói lên điều đó [8;tr366]. Còn
Nguyễn Huệ Chi thì nhận xét về thơ chữ Hán Nguyễn Trãi: Toàn bộ thi
phẩm của ông là tất cả suy nghiệm của một con ngời luôn băn khoăn trớc tạo vật, phát hiện những hiện tợng biến đổi khôn lờng và tìm kiếm
những chân lý cha mấy ai tìm ra trong cuộc sống. Nguyễn Trãi cơ hồ nh
đã dằn vặt, đau khổ nhiều trong quá trình cả một đời tìm tòi suy nghiệm
ấy [8;tr447]. Theo hớng nghiên cứu này ta bắt gặp ý kiến của Đức Mậu
trong Hồn thơ Nguyễn Trãi: Hình ảnh đậm nét đi đi lại lại trong ức
Trai thi tập và Quốc âm thi tập là một Nguyễn Trãi suy t thao thức vì
nhiều lẽ, ở nhiều cấp độ [8;tr471]. Cố thủ tớng Phạm Văn Đồng cũng
từng khẳng định trong bài viết của mình nhân dịp kỷ niệm lần thứ 520
ngày Nguyễn Trãi mất: Thơ của Nguyễn Trãi là tâm hồn của Nguyễn
Trãi, trong sáng và đầy sức sống [2;tr10].

Ngoài ra, chúng ta còn có thể tìm thấy một số nhận xét có liên
quan đến đề tài này trong các bài viết của các tác giả khác nh Một bài
thơ, một nhân cách, một tâm sự của Ngời lịch sử của Hoạ Bằng, Thơ
chữ Hán của Nguyễn Trãi của Tôn Quang Phiệt, Đọc lại mấy bài thơ
chữ Hán của Nguyễn Trãi của Bùi Hạnh Cẩn, Tính hàm súc trong thơ
ức Trai của Đỗ Văn Hỷ , Kỷ niệm 600 năm ngày sinh của Nguyễn Trãi
của UBKHXH Việt Nam, ...
-----------------------------------***----------------------------------4


Khoá luận tốt nghiệp

****

Trơng Thị Hơng

Nhìn chung các bài viết trên đã đi sâu nghiên cứu một số đặc
điểm nội dung và nghệ thuật của thơ chữ Hán Nguyễn Trãi, đã khái quát
đợc những đặc điểm cơ bản, nổi bật trong thơ chữ Hán của ông nh: Thơ
Nguyễn Trãi là tâm hồn Nguyễn Trãi, thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi
chính là con ngời của ông... Tuy nhiên ta cha thấy có một tác giả nào đi
vào nói rõ một cách cụ thể về hình tợng tác giả trong thơ chữ Hán
Nguyễn Trãi một cách sâu sắc và có hệ thống. Nhng đây cũng là những
ý kiến quý báu, tạo tiền đề và định hớng cho chúng tôi
đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu hình tợng tác giả một cách toàn diện, sâu
sắc, trực tiếp và có hệ thống về vấn đề tởng đã cũ nhng còn mới mẻ này.
IV. Phơng pháp nghiên cứu
Chúng tôi đã sử dụng kết hợp nhiều phơng pháp nghiên cứu: phơng pháp thống kê, phơng pháp tổng hợp, phơng pháp khái quát, phơng
pháp phân tích, phơng pháp so sánh.
V. Phạm vi và đối tợng nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu của chúng tôi trong công trình này là phần
thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi. Cụ thể là tập thơ ức Trai thi tập của dịch
giả Lê Cao Phan, NXB Văn học, năm 2000.
VI. Bố cục khoá luận
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận thì phần nội dung chính của
khoá luận gồm 3 chơng:
Chơng 1: Hình tợng một con ngời trầm ngâm suy nghiệm.
Chơng 2: Hình tợng một con ngời có lý tởng chính trị xã hội
cao đẹp luôn thờng trực nhất quán.
Chơng 3: Hình tợng ngời sáng tạo thâu thái nhiều giá trị văn
học cổ điển Trung Hoa.

-----------------------------------***----------------------------------5


Khoá luận tốt nghiệp

****

Trơng Thị Hơng

Phần nội dung chính
A. Giới thuyết chung
Trong văn học khi gặp các khái niệm tác giả văn học, hình tợng
tác giả chúng ta thờng dễ bị nhầm lẫn. Các khái niệm này mới nghe tởng
nh chúng chỉ là những cách diễn đạt khác nhau của một khái niệm nên
nhiều khi có sự lẫn lộn, đồng nhất các khái niệm trên. Song thực tế đó lại
là các khái niệm khác nhau. Thi pháp học đã phân biệt hình tợng tác giả
trong tác phẩm với tác giả văn học, ngời sáng tạo ra tác phẩm.
Trớc hết ta thấy, theo nghĩa bao quát chung thì tác giả văn học là

ngời sản xuất ra các tác phẩm của sáng tạo trí tuệ (khoa học, công nghệ,
văn hoá, nghệ thuật).Tác giả văn học nhìn bề ngoài là những ngời làm
ra văn bản ngôn từ: bài thơ, bài văn, bài báo, tác phẩm văn học. Về thực
chất, tác giả văn học là ngời làm ra cái mới, ngời sáng tạo ra các giá trị
văn học mới. Xét về mặt xã hội, tác giả văn học là ngời có ý kiến riêng
về đời sống và thời cuộc. Đó là ngời phát biểu một t tởng mới, quan
niệm mới, một cách hiểu mới về các hiện tợng của đời sống, bày tỏ một
lập trờng xã hội và công dân nhất định. Xét về đặc trng tác giả văn học
là ngời xây dựng thành công hình tợng nghệ thuật độc đáo, sống động có
khả năng tồn tại đợc trong sự cảm thụ thích thú của ngời đọc. Về mặt
nghề nghiệp, tác giả văn học là ngời xây dựng đợc một ngôn ngữ nghệ
thuật mới, có phong cách, có giọng điệu riêng, có bộ mặt riêng trong thể
loại, có hệ thống hình ảnh biểu tợng đặc trng riêng [3;tr 242].
Nói đến một tác giả văn học nào đó ta thờng nói đến một con ngời
cụ thể, có thực trong cuộc đời, con ngời có tiểu sử rõ ràng: năm sinh,
năm mất, có quê hơng , gia đình, có những thăng trầm trong cuộc sống...
Đó là con ngời có mối quan hệ với gia đình, với quê hơng, với xã hội, là
con ngời với những tâm t, tình cảm, tính cách những quan niệm và cách
-----------------------------------***----------------------------------6


Khoá luận tốt nghiệp

****

Trơng Thị Hơng

sống riêng. Chẳng hạn khi nói tới tác giả Nguyễn Trãi thì trong tiểu sử
của ông sẽ có các mục năm sinh 1380, năm mất 1442, quê Chi Ngãi
Lạng Giang (nay là Chí Linh Hải Dơng). Thân sinh là cụ Nguyễn

ứng Long (tức Nguyễn Phi Khanh), và là cháu ngoại của quan T đồ Trần
Nguyên Đán.
Hình tợng tác giả nghe tởng nh quen nhng lại là một khái niệm
mà cho đến nay việc tìm hiểu, học tập và nghiên cứu còn cha đợc phổ
biến rộng rãi. Để xác định khái niệm hình tợng tác giả và những biểu
hiện của nó cũng đã có nhiều nhà nghiên cứu bàn đến.
Theo Từ điển thuật ngữ văn học thì hình tợng tác giả là phạm trù
thể hiện cách tự ý thức của tác giả về vai trò xã hội và vai trò văn học
của mình trong tác phẩm, một vai trò đợc ngời đọc chờ đợi. Chẳng hạn,
tác giả bài cáo, bài chiếu tự thể hiện mình nh một bậc đế vơng, nhng
tác giả bài biểu, bài tấu phải thể hiện mình nh một thần dân [3;
tr124,125].
Hình tợng tác giả trong tác phẩm văn học gắn với ý thức của tác
giả về vai trò xã hội, t thế văn học rất đa dạng của mình [3; tr125]. Khi
nói đến thơ Hồ Xuân Hơng ta nh thấy ở thơ bà toát lên một con ngời cợt
nhả, trêu chọc, ngang ngợc, lật tẩy, thể hiện một cái tôi rất độc đáo,
táo bạo. Đọc thơ Xuân Diệu ta thấy hình tợng một con ngời ham sống,
một con ngời khát khao giao cảm với đời...
Hình tợng tác giả trong tác phẩm là sự biểu hiện của cái tôi thứ
hai của tác giả một cách tổng hợp qua cái nhìn, giọng điệu, thể hiện tập
trung cho một quan niệm và hệ giá trị của nhà văn. Nguyễn Du không hề
tự miêu tả mình trong Truyện Kiều nhng qua từng chữ, từng dòng của tác
phẩm ngời đọc có thể cảm thấy có gơng mặt của Nguyễn Du. Ta không
trông thấy ông nhng nhận ra ông qua tiếng nói, hơi thở, tấm lòng, tính

-----------------------------------***----------------------------------7


Khoá luận tốt nghiệp


****

Trơng Thị Hơng

khí, trí tuệ toát ra từ lời kể, lời nói của nhân vật, qua cái nhìn, qua các
chi tiết, qua giọng điệu...
Hình tợng nghệ thuật trong văn học chính là sự thể hiện một cách
gián tiếp qua lời của ngời trần thuật, ngời kể chuyện, hoặc nhân vật trữ
tình. Nhà văn xây dựng một văn bản đồng thời với việc xây dựng ra hình
tợng ngời phát ngôn văn bản ấy với một giọng điệu nhất định. Phạm trù
hình tợng nghệ thuật chẳng những cho phép ta nhận ra phong cách cá
nhân, cá tính sáng tạo của cái tôi cá nhân mà còn giúp ta tìm hiểu tính
hệ thống của văn bản tác phẩm, mối quan hệ của nó với ý thức về vai trò
xã hội và văn học của bản thân văn học. Chức năng của ngời nghệ sỹ nh
một hình tợng tác giả là tạo ra cái nhìn nghệ thuật và tạo ra hình thức
nghệ thuật, đúng nh Bakhtin từng nói: Tôi tìm thấy mình trong hình
thức, tìm thấy tính tích cực tạo hình thức có giá trị sinh sản của mình
trong đó, tôi cảm thấy một cách sống động vấn đề sáng tạo khách thể
của mình không chỉ trong hành vi sáng tác, biểu diễn mà cả trong cảm
thụ tác phẩm nghệ thuật.
Theo GS.Trần Đình Sử: Hình tợng tác giả cũng là một hình tợng
đợc sáng tạo ra trong tác phẩm nh hình tợng nhân vật nhng theo một
nguyên tắc khác hẳn. Nếu hình tợng nhân vật đợc xây dựng theo nguyên
tắc h cấu, đợc miêu tả theo một quan niệm về con ngời và theo tính cách
nhân vật thì hình tợng tác giả đợc xây dựng theo nguyên tắc tự biểu hiện,
sự cảm nhận và thái độ thẩm mỹ đối với thế giới nhân vật [7; tr 20].
I.W.Gớt cũng cho rằng: Mỗi nhà văn dù muốn hay không đều
miêu tả mình trong tác phẩm của mình một cách đặc biệt. Có nghĩa là
nhà văn biểu hiện cảm nhận của mình về thế giới, cách suy nghĩ của
mình vào mỗi ngôn ngữ, cách diễn đạt của mình. Cảm nhận đó trở thành

trung tâm tổ chức tác phẩm, tạo thành sự thống nhất nội tại của tác phẩm
về mặt phong cách học [7;tr111].
-----------------------------------***----------------------------------8


Khoá luận tốt nghiệp

****

Trơng Thị Hơng

Nh vậy khái niệm hình tợng tác giả tơng tự nh khái niệm tác giả
hàm ẩn trong lý thuyết tự sự học hiện đại. Hình tợng tác giả có liên quan
đến tác giả tiểu sử nhng đã đợc nghệ thuật hoá. Mỗi thể loại có một hình
tợng tác giả và một tác giả sáng tác các thể loại khác nhau sẽ tuân theo
các hình tợng khác nhau. Hình tợng tác giả đợc thể hiện trong tác phẩm
một cách đặc biệt, có nguyên tắc cấu tạo đặc biệt. Hình tợng tác giả
không hoàn toàn trùng khớp với con ngời, cá tính của nhà văn mà gắn
liền với cấu trúc nghệ thuật trong đó nó thể hiện. Tức là nó đợc thể hiện
qua sự tự biểu hiện, qua cái nhìn, giọng điệu, qua cách sử dụng ngôn
ngữ, hình ảnh... trong tác phẩm. Do đó không thể đồng nhất hình tợng
tác giả với tác giả tiểu sử, con ngời thật của tác giả đợc.
B . Hình tợng tác giả trong thơ chữ Hán Nguyễn Trãi
Nói về những thành tựu và đóng góp lớn của Nguyễn Trãi cho nền
văn học nghệ thuật nớc nhà, nhiều ngời nghĩ trớc hết phải kể đến thơ chữ
Nôm với 254 bài trong Quốc âm thi tập. Với tập thơ này Nguyễn Trãi đợc xem là nhà thơ lớn đầu tiên viết về thơ chữ Nôm, đồng thời cũng là
ngời sáng tác thơ Nôm đoản thiên có số lợng nhiều bậc nhất trong nền
thơ cổ điển dân tộc, là tập đại thành của Nguyễn Trãi có khả năng thể
hiện sâu sắc tâm hồn dân tộc, cảm quan về thiên nhiên, quê hơng đất nớc. Nhng để hình dung một cách sâu sắc và cụ thể về hình tợng tác giả
lại là thành tựu thơ chữ Hán của ông - tập thơ chữ Hán nhan đề ức Trai

thi tập với 105 bài thơ sáng tác chủ yếu theo thể Đờng luật.
Đặt trong tiến trình chung của thơ chữ Hán thời Trung đại Việt
Nam, rõ ràng ức Trai thi tập của Nguyễn Trãi bộc lộ sâu sắc tình cảm,
bản lĩnh và nhân cách nhà thơ. Có thể nói tập thơ chữ Hán của Nguyễn
Trãi thể hiện tập trung, trực tiếp, cô đọng nhất những suy nghĩ, tình cảm
của tác giả, cái nhìn của tác giả về cuộc đời, về con ngời, về chính bản
thân mình. Qua từng bài thơ ta không thấy tác giả tự miêu tả nhiều về
-----------------------------------***----------------------------------9


Khoá luận tốt nghiệp

****

Trơng Thị Hơng

mình nhng qua từng câu chữ, từng cách sử dụng từ ngữ, hình ảnh, giọng
điệu thơ ta thấy ở đó hiện lên hình tợng một con ngời vừa trầm ngâm suy
nghiệm trớc cuộc đời, một con ngời có lý tởng chính trị xã hội cao đẹp
luôn thờng trực nhất quán và ta còn thấy có hình tợng của một ngời sáng
tạo thâu thái nhiêù giá trị văn học cổ điển Trung Hoa.
Nhiều ngời gọi thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi là thơ tâm sự. Quả
đúng nh vậy vì qua 105 bài thơ của ông ta thấy hình bóng con ngời
Nguyễn Trãi, cảnh ngộ và niềm tâm sự sâu lắng của một con ngời có
trách nhiệm với cuộc đời, có cuộc đấu tranh giằng co giữa xuất và xử, có
sự thao thức, trằn trọc của một ngời luôn mang trong mình lý tởng chính
trị xã hội cao quý, t tởng trung quân và ớc mơ một xã hội có nền chính
trị vững mạnh, có vua sáng tôi hiền, một ngời có tâm hồn rộng mở chan
hoà với thiên nhiên, cảnh vật.


Chơng 1:
Hình tợng một con ngời trầm ngâm suy nghiệm
-----------------------------------***----------------------------------10


Khoá luận tốt nghiệp

****

Trơng Thị Hơng

Nói đến thơ trữ tình bất luận thơ cổ điển hay thơ hiện đại đều phải
bắt đầu từ cái tôi trữ tình (khác với nhân vật trữ tình). Thơ là tiếng
lòng, là nhu cầu bộc lộc cảm xúc, tâm trạng, nỗi lòng của con ngời.
Theo quan niệm của ngời Trung Hoa: Tác thi bất khả dĩ vô ngã (làm
thơ không thể không có cái tôi). Thơ Nguyễn Trãi cũng vậy. Khi
nghiên cứu 105 bài thơ chữ Hán của ức Trai, theo cách nhìn của thi pháp
học ta bắt gặp ở đó hình tợng tác giả - biểu hiện của cái tôi trữ tình mà
trớc hết đó là hình tợng một con ngời trầm ngâm suy nghiệm. Đây là
một đặc điểm dễ nhận thấy nhất trong hình tợng tác giả của ức Trai thi
tập và cũng là phơng diện đợc nhiều nhà nghiên cứu chú ý tới. Đi theo
chiều hớng này Miễn Trai đã từng tìm hiểu Hai cảnh ngộ một tâm tình
của Nguyễn Trãi, Trơng Chính khám phá Những vần thơ nặng chất suy
t, Nguyễn Huệ Chi từng xác định chiều sâu Niềm thao thức lớn, Đức
Mậu mở rộng tầm suy tởng trong Hồn thơ Nguyễn Trãi...
Chúng ta thấy hình tợng một con ngời trầm ngâm suy nghiệm là
một đặc điểm nổi bật trong hình tợng tác giả thơ chữ Hán Nguyễn Trãi.
Tuy vấn đề này đã đợc nhiều nhà nghiên cứu đề cập đến nhng mỗi tác
giả chỉ dừng lại nghiên cứu, khám phá một khía cạnh nhỏ của vấn đề chứ
cha bao quát toàn bộ vấn đề đó. Do đó chúng tôi đã tập trung khái quát

lên thành một đặc điểm lớn, đầy đủ hơn, toàn diện hơn về những tâm sự
của Nguyễn Trãi qua ức Trai thi tập - Hình tợng một con ngời trầm
ngâm suy nghiệm.
Trong 105 bài thơ chữ Hán của ức Trai, hình tợng con ngời trầm
ngâm suy nghiệm đợc biểu hiện qua sự suy t thao thức, niềm lo âu trằn
trọc trớc cuộc đời, sự băn khoăn day dứt với thực tại và nối tiếc với quá
khứ đã qua. Qua đó thể hiện lòng yêu nớc, thơng dân sâu sắc, nỗi niềm
tâm sự trớc thời cuộc của một trí thức vĩ đại.
1. Hình tợng một con ngời suy t thao thức
-----------------------------------***----------------------------------11


Khoá luận tốt nghiệp

Trơng Thị Hơng

****

Bakhtine cho rằng: Thơ là tiếng nói độc bạch, chẳng hạn một bài
thơ diễn đạt một nỗi oán than, một niềm vui, một nỗi nhớ, một suy tởng
[4;tr14]. Còn Bêlinxki thì cho rằng thơ bao giờ cũng là tiếng hót cô đơn,
lẻ loi của con chim hoạ my. Ai đã từng đọc thơ chữ Hán của Nguyễn
Trãi hẳn sẽ bắt gặp ngay trong các bài thơ một hình ảnh, hình ảnh một
con ngời cô độc giữa quán trọ đêm ma, hay trên một con thuyền trong
đêm vắng. Con ngời trong ức Trai thi tập hiện lên với một niềm thao
thức, trằn trọc, một con ngời dờng nh rất ít ngủ. Lúc nào ta cũng bắt gặp
con ngời ấy nh đang trầm ngâm độc thoại với chính mình. Đọc thơ ức
Trai, ta thấy đợc nỗi băn khoăn lo lắng của chính tác giả trớc cuộc đời,
trớc một cuộc sống sự kham thế lệ phi ngôn thuyết. Vì việc đời đáng rơi
nớc mắt không thể nói thành lời nên ông nằm suốt đêm nghe ma rơi, trằn

trọc không ngủ đợc cho đến sáng. Tâm sự đó đợc Nguyễn Trãi thể hiện
qua việc sử dụng nhiều từ ngữ, hình ảnh và giọng điệu độc thoại đợc lặp
đi, lặp lại nhiều lần qua các bài thơ để thể hiện tâm trạng, suy t của
mình. Đó là sự trở đi, trở lại 6 lần các từ bất miên, bất mị, vô mị.
Ngay từ đầu tập thơ ta đã bắt gặp ngay hình ảnh ấy một cách rõ nét:
Tịch mịch u trai lý
Chung tiêu thính vũ thanh
Tiêu tao kinh khách chẩm
Điểm trích sổ tàn canh
Cách trúc xao song mật
Hoà chung nhập mộng thanh
Ngâm du hồn mất mị
Đoạn tục đáo thiên minh
(Thính vũ)
(Trong phòng tối tăm tĩnh mịch
Suốt đêm nghe tiếng ma rơi
-----------------------------------***----------------------------------12


Khoá luận tốt nghiệp

****

Trơng Thị Hơng

Khiến gối khách giao động nhẹ
Giọt nớc điểm mấy tàn canh
Cành trúc bên ngoài khua vào cửa sổ đóng kín
Tiếng chuông đi vào giấc mơ nhẹ nhàng
Ngâm thơ rồi mà vẫn không ngủ đợc

Chập chờn mãi đến lúc sáng trời).
Cũng có khi ta lại bắt gặp một con ngời ngồi ôm chăn lạnh thức
suốt đêm trong một chiếc thuyền nơi cửa biển, giữa không gian mênh
mang, cô quạnh vì Quốc âm vị báo lão kham liên (Tự thơng xót mình đã
già mà ơn nớc cha đền), vì cha đạt đợc chí bình sinh Tiên u, hậu đáo
(Lo trớc thiên hạ, vui sau thiên hạ):
Bình sinh độc bão tiên u niệm
Toạ ủng hàn khâm dạ bất miên.
(Hải khẩu dạ bạc hữu cảm Kỳ Nhị)
(Bình sinh một mình ôm cái chí lo trớc, hởng sau Ngồi
cuốn chăn lạnh một mình thức suốt đêm).
Khách dạ bất miên thiên cảm tập
Thanh thời thuỳ liệu thốn trung cô
(Đồ trung ký hữu)
(Đêm nơi đất khách không ngủ dồn dập nghìn mối cảm
Thời bình ai dè tấc dạ phải cô đơn).
Thao thức, không ngủ đợc - đó là một trạng thái chỉ có ở những
ngời biết suy t, biết lo lắng, một con ngời có nhân cách, có ý thức về bản
thân, về cuộc sống, về con ngời. Thao thức cũng là một biểu hiện của
tình cảm, cảm xúc. Phải có sự xúc cảm, rung động trong lòng một cách
mãnh liệt thì mới không ngủ đợc. Nguyễn Trãi là một nhân cách lớn,
một con ngời biết yêu nớc, thơng dân, trung quân ái quốc, một con ngời
sống đầy trách nhiệm, đầy nhiệt huyết với cuộc đời, với con ngời. Thêm
-----------------------------------***----------------------------------13


Khoá luận tốt nghiệp

Trơng Thị Hơng


****

vào đó ông lại là một con ngời mang nặng nỗi u t, một con ngời gặp
nhiều sóng gió trớc cuộc đời. Vì thế hình tợng tác giả trong thơ chữ Hán
Nguyễn Trãi luôn thao thức không ngủ đợc. Hơn thế hình ảnh một con
ngời bất miên, vô mị còn xuất hiện thờng xuyên trong thơ ức Trai.
Thờng thì hình ảnh ấy xuất hiện một cách cô độc:
Lão ngã thế đồ gian hiểm thục
Trung tiêu bất mị độc thơng tình
(Tầm Châu)
(Ta đã già, đờng đời khó đã thấm nhuần
Giữa đêm không ngủ, một mình riêng thơng xót).
Không ngủ đợc lại thêm tâm trạng thơng xót càng tô đậm thêm
hình ảnh một con ngời với tâm hồn cao cả, một nỗi niềm suy t sâu nặng,
luôn trầm ngâm, suy nghiệm trớc cuộc đời. Cũng có lúc tác giả đã cố tìm
đến giấc ngủ bằng cách đọc sách, đánh đàn, làm thơ... nhng nỗi niềm
tâm sự sâu nặng vẫn khiến con ngời không chợp mắt:
Cao trai độc toạ hồn vô mị
Hảo bả tần chi hớng chí luân
(Thu dạ dữ Hoàng Giang Nguyễn
Nhợc Thuỷ đồng phú)
(Ngồi một mình trong phòng cao chẳng ngủ đợc
Hãy làm bài thơ nói chí hớng của mình).
Ngọ song thuỵ tỉnh hồn vô mị
ẩn kỷ phần hơng lý ngọc cầm

(Tức hứng)

(Bên cửa sổ ban tra tỉnh dậy rồi không ngủ đợc
Dựa ghế đốt trầm đánh đàn ngọc).

Vì không ngủ đợc lại thêm nỗi niềm thơng xót khôn xiết nên
hình tợng tác giả mới nghe đợc tiếng tù và thổi lúc nửa đêm khi đậu
thuyền ở bến Bình Nam. Cũng vì thao thức, trằn trọc suốt đêm nên con
-----------------------------------***----------------------------------14


Khoá luận tốt nghiệp

****

Trơng Thị Hơng

ngời ấy mới cảm nhận đợc đêm dài nh cả một năm, mới thấu đợc cái
lạnh lùng của quán khách đêm buồn: Khách xá thê lơng dạ tự miên
(Quán khách lạnh lùng đêm dài nh cả một năm), mới nghe đợc tiếng ve
lạnh kêu quanh bốn vách suốt đêm.
Trong thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi, có lúc ta thấy hình tợng con
ngời thao thức ít ngủ do Bệnh đa cốt xấu miên ng thiểu (Bệnh nhiều xơng gầy nên mất ngủ). Tuy nhiên, đó không phải là lý do chính mà hơn
hết ở đây tác giả mất ngủ là do nghìn mối suy t Nhất niệm tức lại thiên
niệm tức. Nếu nh có thể dứt đợc một niềm suy t, hẳn nghìn mối suy t
khác trong lòng một con ngời có nhiều mối suy t cũng vơi bớt. Thế nhng
cuộc đời lại không bao giờ hết vòng luẩn quẩn Kê trùng đắc thất vô liễu
thời (Đỗ Phủ). Vì thế hình tợng tác giả trong thơ chữ Hán của ức Trai cứ
mãi thao thức, suy t.
Chính vì con ngời ở đây luôn không ngủ nên trong thơ chữ Hán
của Nguyễn Trãi, từ dạ (đêm) đợc xuất hiện với tần số lớn. Có thao
thức mới cảm nhận đợc cái gọi là đêm với tất cả chiều sâu, vẻ đẹp và
cái buồn của nó:
- Tĩnh dạ bích tiêu lơng tự thuỷ
- Tạc dạ nguyệt minh thiên tự thuỷ

- Dạ nguyệt thiên kinh cửu khách tình
- Khách dạ bất miên thiên cảm tập
- Dạ bán thú lâu suy hoạ giác
- Cô trai phong vũ dạ tam canh
- Khách xá thê lơng dạ tự miên
- Thanh dạ bằng h quan vũ trụ
- Dạ vũ thanh đăng khách mộng hồn
- Thần Phù hải khẩu dạ trung qua
- Thuyền song khách dạ tam canh vũ
-----------------------------------***----------------------------------15


Khoá luận tốt nghiệp

Trơng Thị Hơng

****

- Toạ ủng hàn khâm dạ bất miên.
- ...
Ngay ở tên các bài thơ mà tác giả đặt cũng xuất hiện rất nhiều từ
dạ: Bình nam dạ bạc, Thu dạ khách cảm Kỳ Nhất, Thu dạ khách
cảm Kỳ Nhị, Thu dạ dữ Hoàng Giang Nguyễn Nhợc Thuỷ đồng phú,
Hải khẩu dạ bạc hữu cảm Kỳ Nhất, Hải khẩu dạ bạc hữu cảm Kỳ
Nhị. Phải chăng dạ (đêm) thờng gợi cho ta nhiều vẻ đẹp của mây nớc,
trăng sao và đêm cũng đem lại cho con ngời nhiều xúc cảm, tâm trạng,
gợi cho lòng ngời một nỗi buồn, niềm thao thức.
Cũng chính vì luôn thao thức, mất ngủ mà tiếng ma cũng xuất
hiện rất nhiều trong 105 bài thơ ức Trai thi tập của Nguyễn Trãi. Tiếng
ma rơi cũng đem đến cho lòng ngời một nỗi buồn vô tận. Trong thơ chữ

Hán Nguyễn Trãi, ta thấy có hình thợng một con ngời không ngủ đợc,
nằm nghe ma rơi suốt đêm khiến lòng ngời tê tái. Tiếng ma rơi nh nhỏ
giọt vào lòng ngời, xuyên thấm nỗi lòng, thấm đẫm nỗi niềm suy t, tâm
sự chất chứa của tác giả. Hình ảnh một con ngời suốt đêm thao thức
không ngủ để đón nhận mọi tiếng động của vũ trụ, trời đất, cảnh vật
trong đêm ma đồng thời cũng là sự thao thức lắng nghe những vang
động của lòng mình về cuộc đời về lẽ hng vong của đất nớc, về hoài bão
lập công danh của chính mình:
Tịch mịch u trai lý
Chung tiêu thính vũ thanh
Tiêu tao kinh khách chẩm
Điểm trích sổ tàn canh
(Thính vũ)
(Trong phòng tối tăm tĩnh mịch
Suốt đêm nghe tiếng ma rơi
Giọt nớc điểm mấy canh tàn
-----------------------------------***----------------------------------16


Khoá luận tốt nghiệp

****

Trơng Thị Hơng

Cành trúc bên ngoài xua vào cửa sổ đóng kín)
Thu phong lạc diệp ky tình tứ
Dạ vũ thanh đăng khách mộng hồn
(Thu dạ khách cảm Kỳ Nhất)
(Lá rụng trong gió thu gợi tình tứ

Đêm ma ánh đèn leo lét khiến khách thả hồn vào mộng)
Đó là cảm giác xa vắng mênh mông của một đêm thu trong quán
lạnh, nghe gió thổi ma rơi, lá rụng khiến lòng ngời buồn man mác.
Ma thờng đem đến cho con ngời cảm giác buồn, sự cô đơn, trống
trải. Thơ Nguyễn Trãi thấm đẫm màu sắc tâm trạng ông, là sự bộc lộ tâm
trạng của một cái tôi trữ tình. Ông hay mợn tiếng ma để nói nỗi lòng
mình. Vì thế những câu thơ tả tiếng ma thờng mang một âm điệu buồn,
da diết, thê lơng. Khi thì tiếng ma trong quán trọ đêm thâu, khi thì tiếng
ma chập chờn trong hồn lữ khách trớc ngọn đèn xanh trong đêm thao
thức:
Tây phong hám thụ hởng tranh tranh
Diêu lạc thanh bi cửu khách tình
Hoàng diệp mãn đình thu quá bán
Thanh đăng hoà vũ dạ tam canh
(Thu dạ khách cảm Kỳ Nhị)
(Gió tây lay động cây cối nghe rì rào
Tiếng buồn khiến đau lòng khách tha phơng lâu ngày
Lá vàng rụng đầy sân, quá nửa mùa thu đã sang
ánh đèn xanh hoà trong tiếng ma đã ba canh)
Cơn ma đêm nh nỗi đau thơng và uất ức cứ từng giọt, từng giọt rơi
xuống và đọng lại dới đáy lòng và tan thành những vần thơ não ruột, cay
đắng muôn phần:

-----------------------------------***----------------------------------17


Khoá luận tốt nghiệp

****


Trơng Thị Hơng

Dục vấn tơng t sầu biệt xứ
Cô trai phong vũ dạ tam canh
(Ký cữu Dị Trai Trần Công)
(Muốn tự hỏi lại mối sầu t của mình
Trong phòng cô quạnh, (bên ngoài) ma gió suốt ba canh)
Sạ tình thiên khí mô lăng vũ
Quá bán xuân quang tê cú hoa
(Thanh minh)
(Chợt khi tạnh ráo vào buổi ma rào
Đã quá nửa xuân, hoa đã tàn tạ)
Thuyền song khách dạ tam canh vũ
(Lâm cảng dạ bạc)
(Bên cửa thuyền khách ma rơi suốt ba canh)
Nh vậy, ta thấy trong ức Trai thi tập của Nguyễn Trãi có hình tợng một con ngời thao thức trằn trọc về nhiều lẽ một con ngời không
ngủ suốt hơn 600 năm nay. Hình tợng một con ngời thao thức trầm
ngâm, suy nghiệm về cuộc sống, thế sự hiện lên đơn độc trong đêm thâu,
dới cơn ma đêm với một con mắt mở to, nhìn xuyên thấu việc đời, một
tấm lòng trải ra với cuộc sống. Mấy thế kỷ sau Hồ Chí Minh cũng đã có
niềm thao thức lớn nh thế:
Cảnh khuya nh vẽ ngời cha ngủ
Cha ngủ vì lo nỗi nớc nhà
(Cảnh khuya)
2. Hình tợng một con ngời khắc khoải lo âu
Hình tợng một con ngời trầm ngâm, suy nghiệm trong thơ chữ
Hán Nguyễn Trãi còn hiện lên với một tâm trạng khắc khoải lo âu. Đây
là một tâm trạng giày vò, trăn trở, lo lắng khiến con ngời bất an. Lo âu
-----------------------------------***----------------------------------18



Khoá luận tốt nghiệp

****

Trơng Thị Hơng

cũng là một trong những nguyên nhân khiến tác giả luôn trong trạng thái
thao thức không ngủ đợc. Từ suy t, con ngời trong thơ luôn lo lắng. Vậy
hình tợng tác giả trong thơ chữ Hán Nguyễn Trãi đã xuất hiện cùng với
những lo lắng nh thế nào ?
Đọc 105 bài trong ức Trai thi tập ta bắt gặp một con ngời lo âu
lo âu bởi nhiều nguyên nhân. Cuộc sống có nhiều cái phải lo, con ngời có ý thức, có trách nhiệm với bản thân, với cuộc sống thì sẽ bị cuốn
trong vòng những lo toan ấy. Và con ngời ý thức gặp phải nhiều mối lo:
lo đói nghèo, bệnh tật, lo già yếu,... cao hơn nữa là lo cho thế sự, lo thế
thái nhân tình, lo loạn lạc,... Từ trạng thái đó dẫn đến nhiều tâm trạng:
có khi con ngời trở nên hoảng loạn, mất phơng hớng, mất niềm tin vào
cuộc sống, vào con ngời, họ không tìm thấy chỗ dựa vững chắc trong
cuộc sống và trở nên lạc lõng bơ vơ giữa xã hội; có ngời thì vì lo âu mà
suốt đời đi tìm kiếm một cuộc sống tốt đẹp, hoặc một mình cô độc giữa
một thế giới đầy bí ẩn; có ngời trở nên bế tắc, bất mãn với cuộc sống, với
xã hội... trớc tất cả các hiện tợng của cuộc sống, con ngời ý thức trở
thành con ngời lo âu, luôn trăn trở về kiếp sống suốt đời ngời nhất là với
những ngời nghèo khổ bất hạnh thì hiện thực cuộc sống càng trở nên
khắc nghiệt. Nguyễn Trãi không nằm ngoài số đó. Là một ngời có ý thức
ông cũng bị cuốn vào guồng quay của những lo toan về cuộc sống. Với
tầm nhận thức rộng lớn và tâm hồn đầy nhân nghĩa, ta bắt gặp ở thơ ông
hình tợng một con ngời luôn khắc khoải, lo âu không chỉ cho cuộc sống
đói nghèo của bản thân mà ông lo lắng hơn cả là cho nhân tình thế thái.
ông không chỉ biết lo cho mình mà còn mang nặng nỗi lo đời, lo cho

thiên hạ, lo cho nhân dân, lo cho đất nớc. Xứ mệnh của ngời trí thức đợc
Nguyễn Trãi ý thức rất rõ qua việc tán đồng lời Phạm Trọng Yêm (đời
Tống): Nhân sinh thức tự đa u hoạn, Pha lão tằng vân ngã diệc vân (ở
-----------------------------------***----------------------------------19


Khoá luận tốt nghiệp

Trơng Thị Hơng

****

đời ngời viết chữ thờng nhiều lo nghĩ. Ông già Tô (Tô Đông Pha) nói thế
ta cũng nói thế).
Tuy từng làm quan, từng giữ những trọng trách trong triều, song
đọc thơ ông ta vẫn thấy xuất hiện những từ bần, hàn để nói về cuộc
sống của mình:
Thốn thiệt đản tồn không tự tín
Nhất hàn nh cố diệc kham liên
(Ký hữu)
(Tấc lỡi hãy còn tởng cũng tự tin đợc
Cứ một cảnh nghèo nh cũ thật đáng thơng)
Cái nghèo có khi là do cái nghiệp đèn sách nho gia mà tạo nên:
Thập tải độc th bần đáo cốt
Bàn duy mục túc toạ vô chiên
(Ký hữu)
(Mời năm đọc sách mà nghèo đến tận xơng.
Trên mâm cơm chỉ có rau mục túc, chỗ ngồi chẳng có chiếu)
Qua bài thơ Gửi bạn ta thấy đợc cuộc sống đói khổ, bần hàn, cơ
cực của tác giả. Hiện thực cuộc sống đã giành sự khắc nghiệt đó cho con

ngời có ý thức, con ngời trong sạch giữa cuộc sống bụi trần. Nỗi lo sợ về
sự đói nghèo, lo sợ về cuộc sống của bản thân đã trở thành nỗi ám
ảnh:Tục cảnh kinh tâm suyễn nguyệt ngu (nhìn cảnh tục lòng sợ nh trâu
sợ trăng thở phì phò). Tặng hữu nhân là bài thơ mang hình tợng một con
ngời lo lắng cho đói nghèo và bệnh tật nhng ta thấy gián tiếp nói về cuộc
sống của tác giả:
Bần bệnh d lân nhữ
Sơ cuồng nhữ tự d
(Ta thơng bạn nghèo và bệnh tật
Bạn ngông cuồng giống ta)
-----------------------------------***----------------------------------20


Khoá luận tốt nghiệp

Trơng Thị Hơng

****

Thế đấy, lo cho mình cha hết, tác giả còn lo cho ngời. Trong thơ
ta thấy tác giả không chỉ nhấn mạnh, không chỉ nói đến nỗi lo cho cuộc
sống nghèo nàn, cơ cực của mình mà trớc hết, trên hết là sự trăn trở, lo
lắng cho nhân dân, sự xót thơng cho những ngời xung quanh, lo cho
nhân tình thế thái và cao nhất là nỗi lo cho dân, cho nớc.
Bình sinh tác giả là một ngời biết lo trớc thiên hạ, vui sau thiên
hạ. Bởi thế trong thơ Nguyễn Trãi ta thấy có hình tợng một con ngời
luôn mang nặng nỗi tiên u:
Bình sinh độc bão tiên u niệm
Toạ ủng hàn khâm dạ bất miên
(Hải khẩu dạ bạc hữu cảm Kỳ Nhị)

(Bình sinh một mình ôm cái chí lo trớc hởng sau
Ngồi quấn chăn lạnh thức suốt đêm)
Tiên u là một tâm trạng mang đậm tính nhân văn của một con
ngời có tấm lòng thơng dân, thơng đời. Bản thân cuộc sống nghèo khổ
của tác giả đã là một nỗi lo lớn, nhng với một tấm lòng tiên u của ức
Trai thì nỗi lo cho bản thân trở nên nhỏ bé, không đáng nói trớc nỗi lo
cho những ngời dân đen, những cảnh lầm than, cơ cực trong xã hội:
Nuỵ ốc thê thân kham độ lão
Thơng sinh tại niệm độc tiên u
(Mạn hứng Kỳ Tam)
(Mái nhà nhỏ có thể nơng mình qua nổi tuổi già
Vì thơng dân đen luôn để dạ lo trớc cho họ).
Tâm hồn tác giả đã không thể yên khi nghĩ đến dân đen, đến
cảnh nghèo khổ, loạn lạc, ly tan của họ. Ông lo lắng trớc tình trạng của
ngời dân trong cảnh nớc mất nhà tan:
Thần Châu nhật tự khởi can qua
Vạn tánh ngao ngao khả nại hà
-----------------------------------***----------------------------------21


Khoá luận tốt nghiệp

****

Trơng Thị Hơng

(Loạn hậu cảm tác)
(Từ khi xảy ra chiến tranh trên đất tổ
Muôn dân rên xiết chẳng biết làm sao đợc)
Từ lo lắng ta thấy một nỗi xót thơng cứ cào xé tâm can tác giả,

trở thành niềm thao thức đau đáu khiến nhà thơ không thể chợp mắt đợc
Trung tiêu bất mị độc thơng tình (Tầm Châu) và Muốn đem nớc thang
lan ra chia khắp bốn bể rửa cái nhục muôn đời cho dân đen.
Sự trăn trở lo âu đó ngoài biểu hiện qua hình ảnh một con ngời
trằn trọc, lo lắng không ngủ đợc còn đợc Nguyễn Trãi thể hiện qua việc
dùng hàng loạt các hình ảnh tóc bạc. Tóc bạc là hậu quả tất yếu của
niềm lo âu, thao thức, suy ngẫm. Hình ảnh mái tóc bạc trở đi, trở lại
nhiều lần (15 lần) trong tập thơ. Ngoài biểu hiện của sự già nua, của tuổi
già đang đến, là sự phôi pha, tàn úa của đời ngời, hình ảnh mái tóc bạc
còn biểu hiện cho sự trôi chảy của thời gian, của cuộc sống con ngời hết
sức ngắn ngủi. Đặc biệt với con ngời ý thức, biết lo âu thì cuộc sống dờng nh càng ngắn ngủi hơn. Con ngời trong thơ Nguyễn Trãi thấy mình
cha làm đợc gì mà thời gian đã hết, mái đầu đã bạc. Nợ nớc, ơn vua cha
trả xong mà tuổi đã hết rồi:
Tuế nguyệt vô tình song mấn bạch
Quân thân tại niệm thốn tâm đan
(Hải khẩu dạ bạc hữu cảm)
(Năm tháng qua không ngờ mái tóc đã bạc
Vẫn để dạ một lòng với vua và cha)
Thế sự hồi đầu tâm hớng bạch
(Hoạ Hơng tiên sinh vận giản ch đồng chí)
(Cuộc đời khiến lòng ngời nguội lạnh nh tro tàn, tóc bạc dần)
Kính trung bạch phát giai niên lão
Thân ngoại phù danh mãn nhĩ lao
-----------------------------------***----------------------------------22


Khoá luận tốt nghiệp

Trơng Thị Hơng


****

(Thu nhật ngẫu thành)
(Xem gơng thấy tóc bạc cũng già nh thiên hạ
Danh hão ở ngoài cái thân chỉ đa đến sự nhọc nhằn mà thôi)
Lỡng nhãn hôn hoa, đầu cánh bạch
Quyên ai hà dĩ đáp quân ân
(Thứ Cúc Pha tặng thi)
(Hai mắt đã hoa, đầu tóc đã bạc
Lấy gì đền đáp mảy may ơn vua)
Còn nhớ trong bài thơ Cảm hoài, Đặng Dung cũng đã từng ngậm
ngùi hạ bút:
Quốc thù vị báo đầu tiên bạch
Kỷ độ long tuyền đái nguyệt ma
Phải chăng hình ảnh mái tóc bạc là sự biểu hiện của ý thức về thời
gian, là sự lo âu trớc vòng quay nghiệt ngã của cuộc sống. Mái tóc bạc
đã trở thành biểu hiện của nỗi đau, niềm tâm sự của Đặng Dung trong
bài thơ Cảm hoài và cũng là của Nguyễn Trãi. Những con ngời luôn
mang trong mình nỗi lo trớc, luôn mang trong mình gánh nặng với
non sông thì việc xuất hiện hình ảnh mái tóc bạc luôn gắn với tâm trạng
ngậm ngùi, xót xa khi cha làm đợc việc gì cho dân, cho nớc; gắn với
niềm trăn trở, day dứt khôn nguôi khi lý tởng, hoài bão lớn cha thành mà
đã gần qua hết một đời ngời. Trong thơ chữ Hán Nguyễn Trãi, hình ảnh
này còn đợc nâng lên một tầm phổ quát hơn bởi nó là một biểu tợng đầy
ám ảnh về tính chất phôi pha hữu hạn của nhân sinh:
Dữ thế tiệm sơ đầu hớng bạch
Đông Sơn nhật nhật phú quy d
(Mạn thành Kỳ Tam)
(Dần bớt thân thiện với cuộc đời đầu tóc đã đốm bạc
Ngày ngày đã nuôi ý về núi Đông Sơn chăng ?)

-----------------------------------***----------------------------------23


Khoá luận tốt nghiệp

****

Trơng Thị Hơng

Tục cảnh đê hội phát bán hoa
(Hoạ hữu nhân yên hà ngụ hứng Kỳ Nhất)
(Nhìn trở lại cảnh tục thì tóc đã bạc nửa phần)
Hình ảnh tóc bạc là biểu hiện của thời gian, là cảm thức về sự
trôi chảy của thời gian, sự ngắn ngủi của cuộc đời, trong thơ chữ Hán
của Nguyễn Trãi còn là biểu hiện của hình tợng một con ngời lo âu, trăn
trở trớc cuộc đời. Một niềm lo âu lớn, của một tâm hồn lớn, một nhân
cách lớn. Đó là kết quả tất yếu của một ngời luôn thao thức, trăn trở với
cuộc đời, một ngời luôn canh cánh bên lòng một nỗi vì chí nguyện trớc
với núi sông giờ đã bị vi phạm, vì thẹn với núi rừng vì đã sai lời
nguyện xa.
Tóm lại, trong thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi ta thấy xuất hiện
hình tợng một con ngời trầm ngâm, suy nghiệm. Chúng ta có thể tiếp
xúc với hình tợng đó qua sự xuất hiện những câu chữ, hình ảnh mà tác
giả đã sử dụng. Con ngời trầm ngâm, suy nghiệm đó đợc biểu hiện rõ
qua sự thao thức, suy t, lo âu, khắc khoải trớc nghìn mối cảm của cuộc
đời. Qua hình tợng con ngời trầm ngâm, suy nghiệm đó ta thấy một
Nguyễn Trãi đầy tình cảm, đầy trách nhiệm và một Nguyễn Trãi với một
nhân cách lớn lao, vĩ đại.

Chơng 2

Hình tợng một con ngời có lý tởng chính trị xã
hội cao đẹp luôn thờng trực nhất quán
Nguyễn Trãi là một nhân vật vĩ đại của lịch sử Việt Nam thế kỷ
XV. Nhắc đến Nguyễn Trãi chúng ta không chỉ nhắc đến một nhà văn
-----------------------------------***----------------------------------24


Khoá luận tốt nghiệp

****

Trơng Thị Hơng

lớn đã có nhiều đóng góp xuất sắc cho nền văn học dân tộc mà nhắc đến
một nhà quân sự lỗi lạc, một nhà chính trị thiên tài. Cố thủ tớng Phạm
Văn Đồng trong bài viết trên báo Nhân Dân số 3099,19/9/1962 đã
nhận định: Nguyễn Trãi, ngời anh hùng của dân tộc, văn võ song toàn,
văn là chính trị, chính trị cứu nớc, nội trị ngoại giao mở nền thái bình,
rửa nỗi thẹn nghìn thu(Bình Ngô đại cáo), võ là quân sự, chiến lợc và
chiến thuật yếu đánh mạnh, ít địch nhiều, thắng hung tàn bằng đại
nghĩa (Bình Ngô đại cáo), văn và võ đều là võ khí, mạnh nh vũ bão,
sắc nh gơm dao viết th thảo hịch giỏi hơn hết mọi thời (Lê Quý Đôn)
văn chơng mu lợc gắn liền với sự nghiệp kinh bang tế thế (Phan Huy
Chú). Thật là một con ngời vĩ đại về nhiều mặt trong lịch sử nớc ta.
Nguyễn Trãi luôn canh cánh bên lòng gánh nặng non sông đất nớc, luôn lo nỗi lo muôn dân và mang trong mình lý tởng hoài bão xây
dựng nền thái bình thịnh trị, vua sáng tôi hiền, muôn dân no đủ hạnh
phúc, không lo đói rách, không lo chiến tranh loạn lạc.Lý tuởng chính trị
xã hội lớn lao, cao cả của Nguyễn Trãi luôn ám ảnh ông và luôn theo
ông trong suốt cuộc đời. Hơn thế, lý tởng chính trị xã hội của Nguyễn
Trãi còn đi vào thơ ca của ông nh một nguồn thi hứng, một nỗi trằn trọc,

day dứt. Vì thế ta bắt gặp trong thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi hình tợng
một con ngời mà lý tởng chính trị xã hội cao đẹp luôn thờng trực nhất
quán. Điều này thể hiện rõ trong nội dung t tởng, qua giọng điệu thơ,
qua nỗi băn khoăn day dứt giữa xuất và xử , sự nuối tiếc quá khứ và day
dứt với thực tại của một con ngời luôn trầm ngâm suy nghiệm trớc cuộc
đời.
1. Hình tợng một con ngời mang lý tởng chính trị nhân nghĩa
Nguyễn Trãi tuy có một cuộc đời đầy sóng gío: lúc thì đợc trọng
dụng, lúc thì không, có khi đợc đem tài năng trí lực của mình ra giúp
vua, giúp dân nhng có khi phải sống lánh mình ẩn dật. Nhng dù trong
-----------------------------------***----------------------------------25


×