Tải bản đầy đủ (.doc) (137 trang)

Dạy đọc hiểu văn bản truyện ngắn hiện đại trong chương trình ngữ văn trugn học phổ thông theo đặc trưng thể loại luận văn thạc sỹ ngữ văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (556.94 KB, 137 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN THỊ LƯU

DẠY ĐỌC - HIỂU VĂN BẢN TRUYỆN NGẮN HIỆN ĐẠI
TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
THEO ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI

LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC

VINH - 2011


2

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN THỊ LƯU

DẠY ĐỌC - HIỂU VĂN BẢN TRUYỆN NGẮN HIỆN ĐẠI
TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
THEO ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI

Chuyên ngành: LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC BỘ MÔN VĂN VÀ TIẾNG VIỆT

Mã số: 60.14.10


LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học:
TS. LÊ THỊ HỒ QUANG

VINH - 2011


3
MỤC LỤC


4
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Nói đến thể loại là nói đến một cách nhìn, một cách tư duy, cách
cảm nhận đời sống và sáng tạo tác phẩm. Thể loại là yếu tố hình thức lớn, chi
phối các yếu tố hình thức khác, góp phần tạo nên một diện mạo cụ thể cho tác
phẩm văn học. Mỗi tác phẩm văn học đều tồn tại dưới hình thức một loại thể
nhất định, đòi hỏi một phương pháp, một cách thức phân tích, giảng dạy phù
hợp với nó. Thế nhưng, trong một thời gian dài trước đây, vấn đề dạy học tác
phẩm văn chương theo đặc trưng loại thể còn bị xem nhẹ. Đến nay, vẫn chưa
có tài liệu nào đi sâu vào hướng dẫn dạy một tác phẩm văn chương theo đặc
trưng loại thể thật tường tận, hiệu quả.
1.2. Văn bản truyện ngắn chiếm số lượng lớn trong chương trình Ngữ
văn THPT. Tổng số tiết của phần đọc - hiểu văn bản chương trình chuẩn là
167, chiếm 50,2% thời lượng môn Ngữ văn. Trong đó số tiết của giờ đọc hiểu
văn bản truyện ngắn trong chương trình chuẩn là 26 tiết, chiếm 22 %, chương
trình nâng cao là 27 tiết, chiếm 18 %. Truyện ngắn trong chương trình Ngữ
văn THPT được lựa chọn khá phong phú, thuộc nhiều trào lưu, khuynh

hướng, loại hình khác nhau. Các văn bản này có đặc thù riêng, không thể rập
khuôn cùng một phương pháp dạy - học như nhau. Vì vậy việc dạy đọc - hiểu
truyện ngắn được sự quan tâm của nhiều nhà giáo học pháp lẫn giáo viên trực
tiếp giảng dạy ở trường phổ thông.
1.3. Phần đông cả giáo viên và học sinh đều gặp những khó khăn nhất
định khi tìm hiểu các văn bản này. Khó khăn đó xuất phát từ nhiều nguyên
nhân, có thể kể đến như sự thiếu hụt tri thức về lí thuyết thể loại, tri thức về
phương pháp dạy đọc - hiểu văn bản truyện ngắn... Việc đưa ra những định
hướng về phương pháp dạy các văn bản truyện ngắn một cách hiệu quả thì
vẫn đang là một vấn đề đặt ra nhiều thách thức. Tìm hiểu phương pháp dạy


5
văn bản truyện ngắn sẽ giúp cho việc dạy đọc - hiểu loại văn bản này nói
riêng, giảng dạy Ngữ văn ở trường phổ thông nói chung, đạt hiệu quả tốt hơn.
Xuất phát từ những lí do trên chúng tôi quyết định lựa chọn vấn đề Dạy
đọc - hiểu văn bản truyện ngắn hiện đại trong chương trình Ngữ văn
THPT theo đặc trưng thể loại làm đề tài nghiên cứu của luận văn.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Qua sơ bộ tìm hiểu về lịch sử nghiên cứu vấn đề dạy học văn bản
truyện ngắn trong nhà trường phổ thông, chúng tôi thấy đã có một số công
trình, bài viết sau đây.
Công trình đầu tiên phải kể đến là cuốn Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn
học theo loại thể của nhóm tác giả Trần Thanh Đạm, Đàm Gia Cẩn, Huỳnh
Lý, Hoàng Như Mai. Công trình này đã giới thiệu một số kiến thức cơ bản
nhất về loại thể văn học chủ yếu có liên quan đến chương trình văn học ở bậc
THPT, nhất là phần văn học Việt Nam. Cụ thể hơn các tác giả còn giới thiệu
phương pháp vận dụng đặc trưng các loại thể vào việc giảng dạy các tác phẩm
trong chương trình văn học và kết hợp phân tích một số bài tiêu biểu thuộc
các loại thể khác nhau. Có thể nói, đây là công trình đầu tiên đi sâu nghiên

cứu về loại thể văn học và vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo loại thể. Ở
phần truyện và giảng dạy truyện, tác giả đã trình bày các đặc trưng cơ bản của
truyện (tình tiết, nhân vật, lời kể) và phân tích giảng dạy truyện. Theo tác giả,
với các tác phẩm thuộc thể truyện, điều phải quan tâm trước hết là cấu tạo
hình tượng tác phẩm : “Hình tượng nghệ thuật của truyện mang nội dung hiện
thực và nội dung tư tưởng, đồng thời được cấu tạo nhuần nhuyễn qua ba yếu
tố tình tiết, nhân vật và lời kể ” [13, 175]. Về cách phân tích một tác phẩm,
tác giả lưu ý: “Từ trước đến nay, quá trình giảng dạy một bài văn ở trường
phổ thông thường kinh qua hai chặng chính là: đọc và giảng. Đọc là giai đoạn
lĩnh hội chủ yếu bằng cảm tính, giảng là giai đoạn nhận thức được nâng lên
mức lí tính( trong phần giảng thường có chen thêm phần hỏi đáp nữa). Đó là
một trình tự tương đối hợp lí. Riêng trong phần giảng trình tự chung thường


6
là : Giới thiệu, chủ đề, bố cục, phân tích, tổng kết. Trình tự này phản ánh quá
trình thâm nhập để tìm hiểu tác phẩm. Ban đầu cần nắm vững nguồn gốc, lai
lịch, xuất xứ, hoàn cảnh của tác phẩm (giới thiệu), tiếp đó cần nắm được các ý
lớn, ý trung tâm chủ yếu của toàn bài làm nòng cốt, làm phương hướng chung
cho bài giảng (chủ đề), sau đó mới đi vào cấu tạo phức tạp của tác phẩm
(phân tích), cuối cùng sau khi nắm vững hình tượng tác phẩm, lại trrở về nắm
bao quát toàn bộ giá trị nội dung và nghệ thuật, phát huy tác dụng giáo dưỡng
và giáo dục của tác phẩm (tổng kết) ” [13, 175-176]. Đây là một trình tự hợp
lí, tuy nhiên cần có sự vận dụng linh hoạt vào từng bài giảng cụ thể. Cuối
cùng tác giả chốt lại vấn đề chính là muốn học sinh cảm thụ và nắm vững
hình tượng trong truyện, phải chú trọng ba yêu cầu: Làm cho học sinh nắm
vững được sự phát triển của tình tiết trong tác phẩm tức là nắm được cốt
truyện; Làm cho học sinh cảm thụ được sâu sắc, đánh giá được đúng đắn nhân
vật trong tác phẩm; Làm cho học sinh cảm và hiểu được cái ý vị trong lời kể
của tác giả. Đây chính là những nội dung chính của việc dạy tác phẩm truyện

theo loại thể [13, 164- 169 - 174].
Công trình thứ hai là cuốn Phương pháp dạy học văn của nhóm tác giả
Phan Trọng Luận (chủ biên), Trương Dĩnh, Nguyễn Thanh Hùng, Trần Thế
Phiệt (1988). Công trình này được các trường Đại học Sư phạm sử dụng làm
giáo trình và nó cũng đóng vai trò mở đường cho các công trình nghiên cứu về
phương pháp dạy học văn. Trong cuốn sách, các tác giả đã trình bày những vấn
đề lí luận chung về bộ môn, khoa học về phương pháp dạy hoc văn và phương
pháp dạy học bộ môn. Có thể nói đây là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách
tổng thể, toàn diện về phương pháp dạy học văn. Tác giả đã dành một thời lượng
lớn, trình bày khá chi tiết về phương pháp dạy học bộ môn như dạy văn học sử,
dạy học làm văn, dạy học lí luận văn học… Tuy nhiên phần phương pháp dạy
học văn bản truyện ngắn tác giả chưa đề cập đến. Hơn nữa, cuốn sách ra đời
cách đây khá lâu, chương trình phổ thông đã trải qua nhiều lần cải cách, chỉnh lí,
do đó phần nào nó chưa bám sát được thực tế chương trình.


7
Năm 2005, trong công trình Phương pháp dạy học tác phẩm văn
chương (theo loại thể), tác giả Nguyễn Viết Chữ đã trình bày các phương
pháp, biện pháp, các cách thức chiến thuật để dạy các tác phẩm văn chương
theo loại thể. Ở chương I của phần II, phương pháp và biện pháp dạy học tác
phẩm văn chương theo loại thể, tác giả đã trình bày một số phương pháp dạy
học thể loại truyện ngắn. Theo tác giả: "Vấn đề cơ bản của truyện ngắn là tình
huống của nó. Dù là trữ tình hay tự sự thì cũng phải quan tâm tới tình huống
của nó… Với những truyện ngắn tự sự, biết được thi pháp tác giả có thể theo
bước tác giả, theo nhân vật… để tìm ra tư tưởng chủ đề… Những đoạn văn
trữ tình hay, nếu cần thiết phải thuộc bằng biện pháp tích cực qua đọc diễn
cảm kết hợp giảng với bình’’ [11, 125-126]. Ở công trình này tác giả đã đưa
ra những biện pháp cụ thể, phần nào định hướng cho người giáo viên các
bước tiến hành phân tích, khám phá một tác phẩm: ‘‘Tránh những quy trình

nhàm chán lặp đi, lặp lại như: giới thiệu, chủ đề, bố cục, phân tích, tổng kết.
Đây vẫn có thể là logic bên trong của một tiết dạy học tác phẩm văn chương
nói chung, nhưng không phải là công thức chung cho mọi giờ dạy học tác
phẩm, mà phải hết sức linh hoạt’’ [11, 126] . Những ý kiến đề xuất của tác giả
rất cần thiết đối với người giáo viên. Tuy nhiên nó đang dừng lại ở mức rất
khái quát, chưa đưa ra được phương pháp cụ thể mà mới chỉ là những định
hướng và phần nào đó còn mang tính phiến diện.
Năm 2006, tác giả Nguyễn Thị Dư Khánh trong cuốn Thi pháp học và
vấn đề giảng dạy văn học trong nhà trường đã chỉ ra một số yếu tố thi pháp
truyện và gợi dẫn phân tích văn bản truyện từ góc nhìn của thi pháp học. Thi
pháp truyện là nghệ thuật sáng tạo ra tác phẩm của nhà văn và đó cũng là toàn
bộ quá trình sáng tạo ra tác phẩm. Công trình này giúp chúng ta khai thác các
phương diện của một văn bản truyện ngắn như lời văn nghệ thuật, không gian
và thời gian nghệ thuật, mối liên kết của các yếu tố thi pháp. Theo tác giả, lời
văn có vai trò rất quan trọng, phân tích tác phẩm là phân tích lời văn của nó :
"Thưởng thức một áng văn hay, với người đọc là một khoái cảm, một hạnh


8
phúc, tự nó có giá trị nâng cao trí tuệ, bồi bổ tâm hồn. Đó là hình thức của văn
học, cũng là nội dung của văn học. Xét trong tư cách là công cụ, ngôn ngữ là
yếu tố thứ nhất của văn học nói chung’’ [23, 141]. Về thời gian, không gian
nghệ thuật, tác giả đã chỉ ra sự khác biệt giữa truyện truyền thống và truyện
hiện đại trong việc sử dụng yếu tố này: “Truyện truyền thống thường có một
cốt truyện được tổ chức chặt chẽ, có đầu có đuôi, thường diễn biến theo trình
tự thời gian, phát triển từ thấp đến cao, có thắt nút, cởi nút. Với loại truyện
này, cốt truyện nổi lên như một yếu tố hàng đầu. Không gian thời gian chỉ là
một bối cảnh có tính chất ước lệ… Các loại truyện mang màu sắc hiện đại có
sự thay đổi khá căn bản trong việc tổ chức không gian thời gian và kết cấu
của tác phẩm. Nguời đọc có vai trò chủ động hơn. Họ dường như được cùng

tham gia vào quá trình làm phim’’, cùng “nhà quay phim’’ đặt máy ở nhiều
nơi, hướng ống kính về nhiều phía, trên nhiều trục toạ độ không gian và thời
gian khác nhau’’ [23; 147, 149].
Đổi mới phương pháp dạy học văn được bắt đầu bằng việc thay đổi
chương trình SGK. Bộ SGK Ngữ văn chương trình chuẩn do tác giả Phan
Trọng Luận (tổng chủ biên) và bộ SGK Ngữ văn nâng cao do tác giả Trần
Đình Sử (tổng chủ biên) đã có những thay đổi so với bộ SGK chỉnh lí hợp
nhất năm 2000. Bộ SGK Ngữ văn đã định hướng cho giáo viên và học sinh
khám phá phân tích tác phẩm bằng hệ thống câu hỏi hướng dẫn học bài,
bằng yêu cầu cần đạt và ghi nhớ ở đầu và cuối mỗi bài học. Phần yêu cầu
cần đạt giúp giáo viên xác định được trọng tâm kiến thức của bài học,
giúp học sinh kiểm tra việc dạy của giáo viên và việc tiếp thu kiến thức
của mình. Phần hệ thống câu hỏi hướng dẫn học bài giúp HS từng bước
khám phá, tiếp cận văn bản và đồng thời nó cũng hướng dẫn GV tổ chức
giờ học.
Cùng với bộ SGK Ngữ văn mới, Bộ Giáo dục cũng cho xuất bản đồng
thời bộ SGV Ngữ văn. Đây là bộ sách công cụ, có tác dụng định hướng cho
GV tiếp cận, sử dụng bộ SGK mới. Trong bộ sách, ở phần 2 Phương pháp và


9
tiến trình tổ chức dạy học các tác giả đã đưa ra những phương pháp cụ thể để
tiến hành 1 giờ dạy đọc - hiểu văn bản truyện ngắn. Những phương pháp này
rất cụ thể, thiết thực, phù hợp và giúp ích rất lớn cho người GV. Tuy nhiên,
đây mới chỉ là phương pháp cho từng tác phẩm cụ thể, chứ chưa phải là
phương pháp dạy học văn bản truyện ngắn nói chung.
Ngoài ra, chúng ta có thể kể đến các sách tham khảo, hướng dẫn
dạy học như : Thiết kế bài giảng Ngữ văn 10, 11, 12 của Nguyễn Văn
Đường; Để học tốt; Phân tích tác phẩm văn học trong nhà trường, Kĩ
năng đọc- hiểu văn bản Ngữ văn của Nguyễn Kim Phong. Trong công

trình Thiết kế bài giảng Ngữ văn, tác giả Nguyễn Văn Đường đã chỉ ra các
bước để khám phá, phân tích các tác phẩm. Tuy nhiên tất cả những công
trình này đều mới chỉ dừng lại ở việc khám phá, phân tích một tác phẩm
cụ thể chứ chưa đưa ra được phương pháp chung nhất cho loại văn bản
truyện ngắn nói chung.
Nhìn chung đã có nhiều công trình nghiên cứu về văn bản truyện
ngắn và những công trình này đều có những đóng góp vào việc dạy đọc
hiểu văn bản truyện ngắn. Tuy nhiên, nó mới chỉ dừng lại ở việc đưa ra
những phương pháp dạy một văn bản cụ thể. Việc đưa ra những định
hướng chung về mặt phương pháp để dạy học văn bản truyện ngắn vẫn
chưa được đề cập đến.
Như vậy, lịch sử nghiên cứu của đề tài Dạy đọc - hiểu văn bản truyện
ngắn hiện đại trong chương trình ngữ văn THPT theo đặc trưng thể loại còn
khá mới mẻ. Vì thế, đây vẫn đang là một vấn đề khoa học cần được tiếp tục
tìm hiểu, nghiên cứu thêm.
3. Đối tượng và phạm vi tài liệu khảo sát
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các nguyên tắc và phương pháp
dạy đọc - hiểu văn bản truyện ngắn hiện đại trong chương trình Ngữ văn
THPT theo đặc trưng thể loại


10
3.2. Phạm vi tư liệu khảo sát
Nghiên cứu đề tài này chúng tôi khảo sát các văn bản truyện ngắn
hiện đại trong chương trình Ngữ văn THPT (chương trình chuẩn, chương
trình nâng cao) và có sự so sánh đối chiếu với chương trình Ngữ văn THCS.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trong luận văn này, chúng tôi thực hiện những nhiệm vụ sau:
- Giới thuyết khái niệm truyện ngắn và đặc điểm của hệ thống văn bản

truyện ngắn hiện đại trong chương trình Ngữ văn THPT
- Đề xuất một số định hướng dạy đọc - hiểu văn bản truyện ngắn hiện
đại trong chương trình Ngữ văn THPT
- Thiết kế một số giáo án thử nghiệm
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp so sánh đối chiếu
- Phương pháp thống kê, phân loại
- Phương pháp phân tích tổng hợp
- Phương pháp thực nghiệm
6. Đóng góp của luận văn
Với mục đích tìm hiểu, đề xuất một số phương pháp dạy học văn bản
truyện ngắn trong chương trình Ngữ văn THPT, luận văn sẽ cung cấp cho
giáo viên những gợi ý thiết thực trong quá trình giảng dạy môn Ngữ văn nói
chung, dạy đọc - hiểu truyện ngắn hiện đại nói riêng.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận
văn được triển khai qua 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về truyện ngắn và dạy đọc - hiểu văn bản truyện
ngắn hiện đại trong chương trình Ngữ văn THPT
Chương 2: Hướng dẫn dạy đọc- hiểu văn bản truyện ngắn hiện đại trong
chương trình Ngữ văn THPT theo đặc trưng thể loại
Chương 3: Thiết kế giáo án thể nghiệm


11
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ TRUYỆN NGẮN
VÀ DẠY ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN TRUYỆN NGẮN HIỆN ĐẠI
TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN THPT

1.1. Giới thuyết về truyện ngắn
1.1.1. Khái niệm truyện ngắn
Khái niệm truyện ngắn (tiếng Anh: Short Story, tiếng Pháp: Nouvelle,
tiếng Nga: Hoberra) đã có mặt trong nhiều từ điển chuyên ngành cũng như
các công trình nghiên cứu lí luận văn học.
Để hiểu khái niệm truyện ngắn, trước hết chúng ta cần phân biệt các khái
niệm “chuyện”, “truyện” và “truyện ngắn”. “Chuyện” thường dùng trong
trường hợp câu chuyện hay kể chuyện hàm ý bằng lời, có tính chất truyền
khẩu, chuyện kể theo kí ức của trí nhớ, bỏ qua yếu tố trần thuật. “Truyện”
dùng để chỉ một thể loại văn học, có cốt truyện, người trần thuật, có hư cấu,
bịa đặt… Tuy nhiên hạn chế của khái niệm “truyện” là chưa chỉ ra được văn
bản đó ngắn hay dài, được viết bằng văn vần hay văn xuôi… Điều này đã dẫn
đến sự ra đời của các khái niệm truyện ngắn, truyện vừa, truyện thơ, truyện
nôm… “Truyện ngắn” là một thể loại văn học, ra đời tương đối muộn và xung
quanh khái niệm này đang còn có nhiều định nghĩa khác nhau. Sau đây,
chúng tôi sẽ trình bày một số định nghĩa về truyện ngắn tiêu biểu.
Từ điển thuật ngữ văn học đã định nghĩa về truyện ngắn như sau: “Tác
phẩm tự sự cỡ nhỏ. Nội dung của thể loại truyện ngắn bao trùm hầu hết các
phương diện của đời sống: đời tư, thế sự hay sử thi, nhưng cái độc đáo của nó
là ngắn. Truyện ngắn được viết ra để tiếp thu liền một mạch, đọc một hơi
không nghỉ… Cốt truyện của truyện ngắn thường diễn ra trong một thời gian,
không gian hạn chế, chức năng của nó nói chung là nhận ra một điều gì đó sâu
sắc về cuộc đời, tình người. Kết cấu của truyện ngắn không chia thành nhiều
tầng, nhiều tuyến mà thường được xây dựng theo nguyên tắc tương phản hoặc


12
liên tưởng. Bút pháp tường thuật của truyện ngắn thường là chấm phá. Yếu tố
quan trọng bậc nhất của truyện ngắn là những chi tiết cô đúc, có dung lượng
lớn và lối hành văn mang nhiều ẩn ý, tạo cho tác phẩm những chiều sâu chưa

nói hết” [17, 370]. Định nghĩa này đã nêu được tương đối đầy đủ các đặc
điểm của tác phẩm truyện ngắn cả về hình thức, nội dung lẫn việc tiếp nhận
của người đọc.
150 thuật ngữ văn học của tác giả Lại Nguyên Ân đã định nghĩa về
truyện ngắn như sau : “Truyện ngắn là một thể loại tự sự cỡ nhỏ, thường được
viết bằng văn xuôi, đề cập hầu hết các phương diện của đời sống con người và
xã hội. Nét nổi bật của truyện ngắn là giới hạn về dung lượng. Tác phẩm
truyện ngắn thích hợp với người tiếp nhận (độc giả), đọc nó liền một mạch
không nghỉ” [2, 359 - 360]. Định nghĩa này đã nhấn mạnh đến hình thức tự sự
cỡ nhỏ của truyện ngắn. Cỡ nhỏ ở đây được hiểu là ngắn gọn, cô đúc, tinh lọc
và hay. Nói đến truyện ngắn là phải nói đến sự ngắn gọn và hàm súc. Nhà văn
A.P Sêkhốp đã nói: “Nghệ thuật truyện ngắn là nghệ thuật cắt tỉa, tước bỏ cái
gì không cần thiết”, còn A. Tônxtôi thì khẳng định: “Truyện ngắn là một hình
thức nghệ thuật khó viết bậc nhất”.
Giáo trình Lí luận văn học của nhóm tác giả (do Phương Lựu chủ biên),
cũng nhấn mạnh đến tính chất ngắn của thể loại này. Theo các tác giả:
“Truyện ngắn là hình thức ngắn của tự sự. Khuôn khổ ngắn nhiều khi làm cho
truyện ngắn có vẻ gần gũi với các hình thức truyện kể dân gian như truyện cổ,
giai thoại, truyện cười, hoặc gần với những bài kí ngắn. Nhưng thực ra không
phải. Nó gần với tiểu thuyết hơn cả bởi là hình thức tự sự tái hiện cuộc sống
đương thời. Nội dung thể loại truyện ngắn có thể rất khác nhau: đời tư, thế sự
hay sử thi, nhưng cái độc đáo của nó lại là ngắn” [34, 397].
Từ những định nghĩa về truyện ngắn nêu trên, chúng tôi đi đến cách
hiểu về khái niệm “truyện ngắn” như sau: Truyện ngắn là hình thức tự sự cỡ
nhỏ, tập trung mô tả một mảnh của cuộc sống, một biến cố hay một vài biến
cố xảy ra trong một giai đoạn nào đó của đời sống nhân vật, biểu hiện một


13
mặt nào đó của tính cách nhân vật, thể hiện một khía cạnh của vấn đề xã hội.

Cốt truyện của truyện ngắn thường giới hạn trong một không gian, thời gian
nhất định. Nhân vật của truyện ngắn thường chỉ là hiện thân cho một trạng
thái quan hệ xã hội. Kết cấu truyện ngắn thường không nhiều tầng tuyến mà
xây dựng theo kiểu tương phản hoặc liên tưởng.
1.1.2. Đặc trưng thể loại của truyện ngắn
Đến nay, việc xác định đặc trưng của truyện ngắn vẫn đang còn nhiều ý
kiến khác nhau. Nhưng nhìn chung, nhiều tác giả đều khá thống nhất trong
việc chỉ ra các đặc trưng của truyện ngắn như: Cốt truyện, nhân vật, kết cấu,
chi tiết, bút pháp trần thuật, giọng điệu… Những yếu tố này sẽ tạo nên sự
khác biệt của truyện ngắn với tiểu thuyết. Nếu tiểu thuyết là thể loại chiếm
lĩnh đời sống trong toàn bộ sự đầy đặn và toàn vẹn của nó thì truyện ngắn
hướng tới khắc hoạ một hiện tượng, phát hiện một nét bản chất trong quan hệ
nhân sinh hay đời sống tâm hồn con người. Truyện ngắn có ít nhân vật, ít sự
kiện phức tạp. Và nếu mỗi nhân vật của tiểu thuyết là một thế giới thì nhân
vật của truyện ngắn là một mảnh nhỏ thế giới ấy. Truyện ngắn thường không
nhắm tới khắc hoạ những tính cách điển hình đầy đặn, nhiều mặt trong tương
quan với hoàn cảnh. Nhân vật của truyện ngắn thường là hiện thân cho một
trạng thái quan hệ xã hội, ý thức xã hội, hoặc trạng thái tồn tại của con người.
Trong Vấn đề giảng dạy tác phẩm theo loại thể, tác giả Trần Thanh
Đạm nhấn mạnh: “Đã là truyện thì phải có câu chuyện, tức là có tình tiết.
Tình tiết là dấu hiệu đặc trưng đầu tiên của truyện… đã là truyện thì phải
có nhân vật. Dù ở trạng thái này hay trạng thái khác, sự tồn tại và hoạt
động của nhân vật giữa hệ thống các sự việc, các biến cố cuẩ cốt truyện là
đặc trưng cơ bản thứ hai của truyện… đã là truyện thì phải có lời kể. Lời kể
của tác giả hay của người kể chuyện như là cái nền ngôn ngữ trên đố dệt
nên hình tượng của tác phẩm tự sự, đồng thời cũng là nơi bộc lộ tư tưởng,
tình cảm, cá tính,phong cách của nhà văn, đó là đặc trưng cơ bản thứ ba của
truyện” [13, 164-169-174]. Như vậy theo tác giả, truyện ngắn có 3 đặc trưng



14
cơ bản, đó là: tình tiết (cốt truyện), nhân vật và lời kể chuyện. Tác giả Bùi
Việt Thắng trong công trình Truyện ngắn những vấn đề lí thuyết và thể loại
đưa ra các đặc trưng của truyện ngắn như: dung lượng, cốt truyện, kết cấu,
tình huống, nhân vật.
Trên cơ sở tham khảo ý kiến của các nhà nghiên cứu đi trước, sau đây
chúng tôi sẽ trình bày một số đặc trưng cơ bản của truyện ngắn để bạn đọc
tiện theo dõi.
1.1.2.1. Cốt truyện
Cốt truyện là một phương diện của lĩnh vực hình thức nghệ thuật, nó
chỉ lớp biến cố của hình thức tác phẩm. Cốt truyện có chức năng quan trọng là
bộc lộ các mâu thuẫn của đời sống, tức là thể hiện xung đột. Cốt truyện gồm 5
phần: Trình bày, Thắt nút, Phát triển, Cao trào, Mở nút. Ngoài ra, một số
truyện còn có thêm phần vĩ thanh. Tuy nhiên ở những cốt truyện cụ thể không
phải bao giờ cũng cố đầy đủ các thành phần đã nêu. Có nhiều cách phân loại
cốt truyện như cốt truyện biên niên, cốt truyện đồng tâm hoặc cốt truyện đơn
tuyến, cốt truyện đa tuyến. Cốt truyện biên niên là cốt truyện mà trong đó các
mối liên hệ thời gian giữa các sự kiện trở thành nét nổi trội. Các cốt truyện mà
trong đó giữa các sự kiện, các mối liên hệ nhân quả chiếm ưu thế gọi là cốt
truyện đồng tâm. Cốt truyện thường diễn biến một chiều từ đầu đến cuối theo
một trật tự thời gian nhưng thường câu chuyện khi thì ở thời hiện tại, khi thì
ngược về quá khứ, thậm chí có khi cái xảy ra sau lại kể trước, cái xảy ra
trước lại kể sau. Cốt truyện truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài nói
chung có tính chất một chiều. Tác giả lần lượt kể về số phận của các nhân vật
trải qua hai giai đoạn: khi ở Hồng Ngài, Mỵ và A Phủ lần lượt bị rơi vào vòng
nô lệ của nhà thống lí Pá Tra, cùng bị áp bức, bóc lột, bạc đãi thậm tệ rồi do
cùng cảnh ngộ mà đi đến cứu nhau, đưa nhau chạy trốn sang Phiềng Sa. Ở
Phiềng Sa hai người thành vợ chồng, nhờ cán bộ giúp đỡ, giác ngộ hai người
trở thành chiến sĩ du kích, cán bộ cơ sở của cách mạng, của kháng chiến.
Còn ở truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao, cốt truyện lại không diễn biến



15
theo một chiều mà từ hiện tại quay về quá khứ rồi từ quá khứ quay trở về
hiện tại. Vào đầu truyện Nam Cao xây dựng hình ảnh Chí Phèo say rượu,
vừa đi, vừa chửi. Sau khi ra tù Chí Phèo suốt ngày chìm đắm trong cơn say,
chửi bới, cướp bóc, rạch mặt ăn vạ… Từ đó tác giả ngược dòng thời gian
đưa người đọc trở về quá khứ tìm hiểu cuộc đời trước đây của Chí. Quá
khứ của hắn là một đứa trẻ bất hạnh bị bỏ rơi trong cái lò gạch cũ bỏ
không, sau đó nhờ người làng nuôi, hắn lớn lên trở thành người canh điền
khỏe mạnh, chăm chỉ, lương thiện. Nhưng chính Bá Kiến cùng nhà tù thực
dân đã biến hắn thành một con người hoàn toàn khác. Tiếp đó tác giả lại
tiếp tục kể về cuộc đời hiện tại của Chí - làm tay sai cho Bá Kiến, con quỷ
dữ của làng Vũ Đại.
Cốt truyện có vai trò rất quan trọng trong sáng tạo truyện ngắn. Nhà
văn Anh Môôm khẳng định: “Nhà văn sống bằng cốt truyện y như hoạ sĩ
sống bằng màu và bút vẽ vậy”. Trong cuốn Tìm hiểu truyện ngắn, Trần
Thanh Địch đã viết: “Còn gì quan trọng hơn cốt truyện và nếu thiếu nó thì
cả nền lí luận nghệ thuật sẽ còn ra gì nữa? Nếu cốt truyện không dùng được
thì tài năng ta cũng sẽ lãng phí vô ích. Và chính vì nghệ sĩ hiện nay không
có những cốt truyện xứng đáng nên tình hình nghệ thuật hiện đại mới bi đát
như thế” [14, 16].
Trong cốt truyện, đoạn kết đóng vai trò quan trọng. Nó được coi như là “cú
đấm nghệ thuật” tạo ấn tượng duy nhất và mạnh mẽ đến người đọc. Quan sát
truyện ngắn hiện đại chúng ta thấy có một số kiểu kết thúc như bằng cái chết của
nhân vật chính trong sáng tác của Nam Cao, bằng tiếng cười trong truyện ngắn
của Nguyễn Công Hoan, kết thúc bỏ lửng trong truyện ngắn của Nguyễn Minh
Châu… Truyện ngắn Tinh thần thể dục kết thúc bằng cảnh săn lùng, áp giải
người đi xem bóng đá và những câu nói văng tục của Lí trưởng: “ Đoạn ông lo
lắng, đi cuối cùng, mắt nhanh nhẹn để coi cẩn thận như coi tù binh.

- Mẹ bố chúng nó, cho đi xem đá bóng chứ ai giết chết mà trốn như trốn
giặc!”.


16
Nếu truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan thường kết thúc bằng tiếng
cười thì truyện của Nam Cao lại hay kết thúc bằng cái chết của nhân vật chính
như Lão Hạc, Chí Phèo, thể hiện tấn bi kịch của đời người. Qua đó, Nam Cao
một mặt phê phán, tố cáo xã hội, mặt khác thể hiện tinh thần nhân đạo của
ông. Đằng sau những câu văn có vẻ lạnh lùng, khách quan là nỗi đau, là nước
mắt của Nam Cao đối với thân phận con người trong xã hội cũ.
Dù có kết thúc truyện như thế nào thì cũng nhằm khám phá nghệ thuật
đời sống. Tác phẩm có thể dừng lại ở dấu chấm cuối cùng nhưng dòng đời
vẫn tiếp tục chảy. Mỗi cách kết thúc là một giả định nghệ thuật về đời sống
vốn luôn phức tạp và bí ẩn ngoài sức tưởng tượng của con người. Điều quan
trọng là sau mỗi cách kết thúc, tác giả phải gieo vào lòng người đọc những
nhận thức sâu sắc về quy luật đời sống và những dự cảm về tương lai, về cái
đẹp tất yếu chiến thắng. Cốt truyện và đặc biệt là cách kết thúc hay là một
cách giúp người đọc thấu thị được chân lí đời sống.
Tóm lại, đã là truyện thì phải có cốt truyện. Cốt truyện tập trung thể
hiện rõ toàn bộ nội dung của truyện. Chính yếu tố này làm nên đặc trưng
riêng của truyện ngắn, phân biệt nó với các thể loại khác.
1.1.2.2 Tình huống
Cốt truyện là yếu tố tất nhiên của truyện nhưng không phải là yếu tố quan
trọng nhất. Từ lâu nhiệm vụ quan trọng của nghệ thuật là tìm những tình huống
thú vị cho phép bộc lộ những hứng thú quan trọng và sâu sắc cũng như cái nội
dung chân thực của tâm hồn. Nhà văn Nguyễn Minh Châu trong Trang giấy
trước đèn đã nói về tình huống: “Hình như đó là những người cầm bút có cái
biệt tài có thể chọn ra trong cái dòng đời xuôi chảy một khoảnh khắc thời gian
mà ở đó cuộc sống đậm đặc nhất, chứa đựng nhiều ý nghĩa nhất, một khoảnh

khắc cuộc sống với một vài sự việc diễn biến sơ sài và cũng bình thường thôi,
nhưng bắt buộc con người ở vào một tình hoặc có thể dồn dập thế phải bộc lộ ra
cái phần tâm can nhất, cái phần ẩn náu sâu kín nhất, thậm chí có khi đó là cái
khoảnh khắc chứa cả một đời người, một đời nhân loại” [10, 258-260].


17
Cũng bàn về tình huống, nhà văn Nguyên Ngọc cho rằng: “ Truyện
ngắn dẫu sao cũng phải ngắn, do đó thủ thuật chủ yếu của truyện ngắn là thủ
thuật điểm huyệt. Trên cơ thể con người, cũng như trên cơ thể cuộc đời, có
những huyệt điểm nào đó, có thể làm rung động tất cả. Truyện ngắn nhằm vào
đó. Truyện ngắn điểm huyệt thể hiện bằng cách nắm bắt trúng những tình
huống cho phép phơi bày cái chủ yếu nhưng lại bị che giấu trong muôn mặt
cuộc sống hàng ngày. Nhìn chung, mỗi truyện ngắn bao giờ cũng được xây
dựng trên một tình huống, khai thác tình huống ấy” [Dẫn theo 47,114].
Trong thể loại truyện ngắn, dựa trên những tiêu chí khác nhau người ta
có thể chia ra nhiều loại tình huống khác nhau. Nhà văn Nguyên Ngọc chia
tình huống ra làm hai loại: tình huống lớn và tình huống nhỏ. Tác giả Bùi Việt
Thắng trong Truyện ngắn, những vấn đề lí thuyết và thực tiễn thể loại chia
tình huống thành ba kiểu: tình huống kịch, tình huống tâm trạng và tình huống
tượng trưng. Tình huống kịch là những tình huống bao hàm các xung đột đời
sống mang tính kịch cao, trong đó sự va chạm giữa các nhân vật trở nên gay
gắt và dồn nến trong một thời gian, không gian và hành động theo quy tắc tam
nhất của kịch. Nhà văn Nguyễn Công Hoan tỏ ra sắc sảo nhạy bén khi phát
hiện ra những tình huống hài hước trớ trêu trong cuộc sống. Truyện ngắn
Tinh thần thể dục của ông rất thành công ở việc xây dựng tình huống kịch.
Mở đầu câu chuyện là sự việc đầy hài hước, đó là tờ trát của quan trên yêu
cầu Lí trưởng làng Ngũ Vọng phải dẫn đủ 100 người đi xem bóng đá. Từ sự
việc này dẫn đến những cảnh đối phó dở khóc, dở cười của người dân, mỗi
người một cách nhưng đều cùng một mục đích là không phải đi xem bóng đá.

Cuối cùng là một cuộc áp giải và săn lùng ráo riết của Lí Trưởng để kiếm đủ
100 người. Truyện ngắn như một vở bi hài kịch, những người dân hiền lành
đau khổ vì trốn phu, trốn lính nay lại khổ vì phải trốn đi xem bóng đá. Cái
phong trào ấy không có ích lợi cho ai, trái lại thành tai hoạ cho người dân.
Tình huống tâm trạng là đặt nhân vật vào trong những va chạm hàng ngày, từ
đó miêu tả những biến đổi tinh tế trong tâm trạng nhân vật. Tình huống tượng


18
trưng là kiểu tình huống trong đó cái ý nghĩa của hình tượng, sự bộc lộ chủ đề
rất kín đáo, thậm chí có khi bị phủ một lớp sương mờ huyễn hoặc.
Tình huống truyện là một kiểu quan hệ đặc biệt giữa nhân vật này với
nhân vật khác hoặc giữa nhân vật với hoàn cảnh của nó qua đó nhà văn bộc lộ
đậm nét tính cách, tâm trạng hay thân phận của mình góp phần thể hiện nổi
bbật tư tưởng của tác phẩm. Truyện ngắn thường chỉ xoay quanh một tình
huống, tuy nhiên vẫn có những truyện ngắn nhiều tình huống. Vi hành của
Nguyễn Ái Quốc là một truyện ngắn tiêu biểu cho sự thành công của nghệ
thuật xây dựng tình huống. Ở truyện ngắn này, tác giả đã sáng tạo được một
tình huống độc đáo, tạo được hiệu quả đả kích sâu cay nhưng kín đáo. Đó là
sự nhầm lẫn của đôi thanh niên Pháp trên tàu điện ngầm tưởng nhân vật “tôi”
là hoàng đế An Nam, vẫn cái mũi tẹt ấy, vẫn đôi mắt xếch ấy, vẫn cái mặt
bủng như vỏ chanh ấy. Qua cuộc trò chuyện thì thầm tinh quái của họ, nhân
vật “tôi” nghe được người dân Pa ri nghĩ về hoàng đế Khải Định nực cười, lố
bịch ra sao: đầu quấn khăn, đội nón, ngón tay đeo đầy nhẫn, trên người đầy
lụa là, hạt cườm… Trong con mắt của người Pháp, ông vua xứ bảo hộ như
một sinh vật lạ, hiếm hoi đến từ một xứ sở xa xôi và mông muội. Thành ra
chân dung của vị hoàng đế nọ trong câu chuyện có vẻ rất hồn nhiên, vui vẻ
của hai người Pháp cứ dần lộ ra hết sức ngộ nghĩnh, lố bịch. Dường như nhân
vật “tôi” nghe và kể lại cho cô em họ những gì mình nghe được mà thôi, một
cách hoàn toàn khách quan về vị hoàng đế An Nam trên đất Pháp “ mẫu

quốc”. Cái giá và chân dung vị hoàng đế cứ thấp dần, kém dần trong câu
chuyện của hai người Pháp ấy: họ được nhìn hoàng đế mà không phải mất
tiền như xem vợ lẽ nàng hầu vua Cao Miên, trò leo trèo nhào lộn của sư thánh
xứ Công gô; hơn thế Khải Định còn giống một con rối trên sân khấu nhà hát
của họ. Sáng tạo tình huống truyện là mối quan tâm hàng đầu của những nhà
văn viết truyện ngắn. Dụng ý tạo tình huống nhầm lẫn oái ăm, buồn cười mà
vẫn rất có lí lại đạt hiệu quả châm biếm sâu cay, kín đáo là thành công xuất
sắc của Vi hành.


19
Có thể nói, trong truyện ngắn hiện đại tình huống truyện giữ vai trò hết
sức quan trọng. Những truyện ngắn hay, đặc sắc thường có tình huống độc
đáo, hấp dẫn. Truyện ngắn Việt Nam đạt được thành công về nội dung và
nghệ thuật một cách rực rỡ trước hết là vì các nhà văn đã sáng tạo ra nhiều
kiểu tình huống tiêu biểu.
1.1.2.3. Nhân vật
Cốt truyện, tình huống làm nên đặc trưng của truyện ngắn nhưng trung
tâm của nó lại là con người, là nhân vật. Nhân vật là con người được miêu tả
trong tác phẩm thông qua các biến cố, xung đột, mâu thuẫn và chi tiết. Đó là
mâu thuẫn nội tâm của nhân vật, mâu thuẫn giữa nhân vật này với nhân vật
kia. Cho nên nhân vật luôn luôn gắn lền với cốt truyện. Nhờ được miêu tả qua
xung đột, mâu thuẫn nên khác với hình tượng hội hoạ, điêu khắc, nhân vật
văn học là một chỉnh thể vận động có tính cách, được bộc lộ dần trong không
gian, thời gian mang tính quá trình. Nhân vật văn học còn thể hiện quan niệm
nghệ thuật và lí tưởng thẩm mĩ của nhà văn về con người. Vì thế nhân vật
luôn gắn chặt với chủ đề tác phẩm.
Nếu mỗi nhân vật trong tiểu thuyết là một thế giới thì nhân vật trong
truyện ngắn là một mảnh nhỏ của thế giới ấy. Truyện ngắn thường không
nhắm tới khắc hoạ những tính cách điển hình đầy đặn, nhiều mặt trong tương

quan với hoàn cảnh. Nhân vật trong truyện ngắn thường là hiện thân của một
trạng thái quan hệ xã hội, ý thức xã hội hoặc trạng thái tồn tại của con người.
Truyện ngắn thường chọn những thời điểm, những khoảnh khắc có ý nghĩa
điển hình. Lỗ Tấn từng đánh giá về truyện ngắn: “Truyện ngắn miêu tả một
khoảng lông mà biết được một con báo, miêu tả một đôi mắt mà biết được cả
con người”. Qua đánh giá đó, ta thấy được nét riêng, nổi bật của nhân vật
trong truyện ngắn. Đó là tác giả chú trọng vào chiều sâu, chộp lấy những
khoảnh khắc tiêu biểu của xã hội.
Nhân vật văn học không được xem xét trong cả quá trình vận động,
phát triển của tính cách mà chỉ chú trọng vào những thời điểm, những khoảnh


20
khắc có ý nghĩa điển hình. Khi phân tích nhân vật cần đặt nó trong quan hệ
với trào lưu văn học vì mỗi trào lưu văn học có một kiểu xây dựng nhân vật
riêng. Trào lưu hiện thực chủ nghĩa thường xây dựng nhân vật tính cách, nhân
vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Nhân vật thường được đặt trong
những quan hệ, xung đột với xã hội, từ đó bộc lộ rõ tính cách. Chẳng hạn khi
phân tích nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn Chí phèo của Nam Cao cần
cho học sinh nắm những ý như: Chí Phèo tiêu biểu cho số phận đau khổ tột
cùng của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Chị Dậu,
anh Pha khổ nhưng mới chỉ dừng lai ở khổ vật chất, họ vẫn được coi là con
người. Chí Phèo không những khổ vật chất, tứ cố vô thân, không mảnh đất
cắm dùi mà còn đau đớn hơn là nỗi khổ tinh thần. Chí Phèo bị cự tuyệt quyền
làm người, bị gạt ra ngoài xã hội và làm con quỷ dữ. Chí Phèo điển hình cho
một bi kịch tha hoá của con người muốn hoàn lương mà không được. Ở tù về,
để có miếng ăn hắn đã đành “nhắm mắt đưa chân” vào cái nghề cướp bóc rạch
mặt ăn vạ. Đến khi gặp Thị Nở, cảm nhận được sự ấm áp của tình người, hắn
khao khát được hoàn lương. Hắn tiếp tục nung nấu ước mơ: “Một gia đình
nho nhỏ, chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải. Nhưng xã hội phong kiến với

bao hủ tục lạc hậu đã đóng cánh cửa trở về của Chí. Tia hi vọng vừa loé lên
đã vụt tắt, hắn lại phải tiếp tục sống cuộc đời quỷ dữ. Nhưng khi ý thức đã trở
về không cho phép sống như thế nữa, hắn đành phải tìm đến cái chết. Từ số
phận, cuộc đời của Chí Phèo, Nam Cao đặt ra một dự cảm về con đường giải
phóng cho người nông dân. Chi tiết kết thúc truyện, Thị Nở nhìn nhanh xuống
bụng và nhìn ra cái lò gạch bỏ không đã để lại cho người đọc nhiều suy nghĩ.
Phải chăng lại có một chí Phèo con nữa sắp ra đời. Qua đó Nam Cao lên tiếng
đòi phải thay đổi xã hội, nếu không cái vòng luẩn quẩn từ Năm Thọ, Binh
Chức, Chí Phèo, Chí Phèo con sẽ không bao giờ chấm dứt. Tiếng kêu đòi
hướng thiện của Chí Phèo trước lúc chết: “ Tao muốn làm người lương thiện.
Ai cho tao làm người lương thiện. Không, làm thế nào cho mất dược vết


21
mảnh chai trên mặt này…” sẽ còn ám ảnh mãi trong lòng người đọc, đặt ra
yêu cầu cần phải thay đổi.
Nếu trào lưu hiện thực chủ yếu khắc hoạ tính cách nhân vật thì trào lưu
lãng mạn thường đi vào thế giới nội tâm, khám phá những xúc cảm, những
rung động tinh tế trong tâm hồn con người. Ta có thể thấy rõ điều đó qua
truyện ngắn Thạch Lam. Trong truyện ngắn Thạch Lam, người đọc không
thấy hình bóng “nghệ sĩ đao phủ” khua đường dao ngọt như chặt một khúc
chuối xuất hiện trong sáng tác của Nguyễn Tuân và cũng không thấy kiểu
nhân vật “nửa tây nửa ta” trong sáng tác Vũ Trọng Phụng. Nhân vật của
Thạch Lam nhẹ nhàng, sâu lắng nhưng hơn cả đó là “những nhân vật thật và
hoạt động, ngoài những tính cách và đặc điểm địa vị xã hội, tìm đến những bí
mật không tả nổi ở trong mỗi con người” (Văn Giá). Nhân vật của ông được
sản sinh từ giọt nước mắt mủi lòng của một cậu bé chứng kiến những đứa bạn
cùng lứa đang từng khắc chống lại cái đói, cái rét mà động lòng sẻ áo trong
Gió lạnh đầu mùa; hay là những xót thương của người nghèo đối với kẻ
nghèo trong Hai đứa trẻ. Một trong những điều làm nên thành công của

Thạch Lam trong truyện ngắn Hai đứa trẻ là tài miêu tả diễn biến tâm trạng
nhân vật Liên. Xây dựng nhân vật này, Thạch Lam không chú ý nhiều đến
ngoại hình, nhân vật rất ít nói và hành dộng cũng đơn giản, chủ yếu khắc hoạ
nội tâm, những suy nghĩ sâu kín trong lòng. Phân tích nhân vật này cần khắc
sâu những ý: Liên là người có tâm hồn nhảy cảm tinh tế, có tấm lòng hiếu
thảo, giàu tình thương và lòng nhân ái; có ước mơ, khao khát về tương lai, về
một cuộc sống tốt đẹp hơn; Qua Liên, Thạch Lam thể hiện sự đồng cảm, xót
thương với những con người nghèo khổ, đồng thời nâng niu những ước mơ,
khát vọng của họ.
Tóm lại, đã là truyện thì phải có nhân vật. Dù ở trạng thái này hay
trạng thái khác, sự tồn tại và hoạt động của nhân vật giữa hệ thống các sự
việc, các biến cố của cốt truyện là đặc trưng cơ bản thứ ba của thể loại
truyện ngắn.


22
1.1.2.4. Ngôn ngữ trần thuật
Ngôn ngữ trần thuật (lời kể chuyện) là một yếu tố rất quan trọng của
truyện. Cốt truyện, nhân vật, toàn bộ hình tượng của truyện được dệt nên qua
lời kể đó. Lời kể một mặt là phương tiện để phản ánh cuộc sống thành hình
tượng trong truyện ngắn, mặt khác cũng lại là phương tiện để biểu hiện thái độ,
tình cảm, tâm tư, sự đánh giá của tác giả đối với cuộc sống. Lời kể đóng vai trò
quan trọng trong truyện ngắn, nhiều khi từ những sự việc bình thường nhưng
nhờ có lời kể hay mà truyện thành lí thú, hấp dẫn... Lời kể trong truyện thường
khắc họa lên hình tượng một nhân vật thường khi là vô hình mà lại vô cùng
quan trọng. Đó là hình tượng tác giả, hình tượng người kể chuyện. Lời kể trong
chuyện là nơi bộc lộ phong cách, cá tính của nhà văn, đồng thời cũng là nguồn
hấp dẫn thẩm mỹ và nghệ thuật đối với người đọc. Lời kể chính là ngôn ngữ
nghệ thuật của truyện. Ngôn ngữ nghệ thuật bao giờ cũng nhằm khêu gợi được
sự sống và truyền đạt được cảm xúc. Cái hay của lời kể trong truyện thường là

ở chỗ tự nhiên, nhuần nhị, sinh động và truyền cảm.
Truyện Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài là một tác phẩm trong đó lời kể
của tác giả đạt đến trình độ nghệ thuật cao. Tô Hoài kể tự nhiên, giản dị, sinh
động, thấm thía, nhiều chỗ thấm đượm chất thơ. Ngay đoạn văn mở đầu tác
giả đã giới thiệu được hoàn cảnh và nhân vật: "Ai ở xa về có dịp vào nhà
thống lí Pa Tra, sẽ trông thấy một cô gái ngồi bên tảng đá cạnh tàu ngựa…”.
Những lời kể nặng trĩu chất sống, kết tinh những nhận xét, suy nghĩ, cảm xúc
của nhà văn, không có vốn sống dồi dào không thể viết được. Nghệ thuật kể
chuyện là ở chỗ biết chọn lọc và sắp xếp. Người kể chuyện khéo thì biết dừng
lại ở chỗ nào, lướt qua chỗ nào, cái nào nói trước, cái gì nói sau sao cho nói rõ
được ỹ nghĩa của sự việc. Các nhà văn hiện thực thường sử dụng giọng điệu
trần thuật khách quan. Giọng văn Nam Cao trong Chí phèo lạnh lùng, suồng
sã, đay nghiến, ông cố gắng đóng cũi sắt tình cảm của mình: "Hắn vừa đi vừa
chửi, bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Ban đầu hắn chửi trời. Có
hề gì? Trời có của riêng nhà nào ? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao, đời
là tất cả nhưng chẳng là a”.


23
Văn học lãng mạn thường mang giọng trữ tình. Giọng văn Thạch Lam
là những lời tâm sự thủ thỉ, nhẹ nhàng, man mác: "Chiều, chiều rồi. Một
chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài ruộng theo gió
nhẹ đưa vào” Hay "Trời đã bắt đầu đêm, một đêm mùa hạ êm như nhung và
thoảng qua gió mát. Đường phố và các ngõ con dần chứa đầy bóng tối" [25,
94 - 96]. Lời kể của truyện là sợi tơ dệt nên tình tiết và nhân vật, dệt nên toàn
bộ hình tượng. Sự phân tích lời kể do đó gắn chặt với việc phân tích tình tiết
và nhân vật, cùng làm nên cái sức sống của truyện ngắn như là tác phẩm có
một phương thức kết cấu đặc biệt theo loại thể. Nói tóm lại, đã là truyện thì
phải có lời kể. Lời kể của tác giả hay người kể chuyện như là cái nền ngôn
ngữ trên đó dệt nên hình tượng của tác phẩm tự sự đồng thời cũng là nơi bộc

lộ tâm tư, tình cảm, cá tính, phong cách của nhà văn.
Trên đây là một số đặc trưng cơ bản của thể loại truyện ngắn làm nên
giá trị và vị trí của thể loại này trong đời sống văn hóa dân tộc.
1.1.3. Phân loại truyện ngắn
Truyện ngắn là thể loại năng động, ít bị những quy tắc có tính quy
phạm gò bó, chi phối. Việc phân chia truyện ngắn thành các kiểu, loại chỉ
mang tính chất tương đối vì ranh giới giữa các thể loại văn học không phải là
bức thành bất khả xâm phạm. Trên thực tế có nhiều tiêu chí để phân loại
truyện ngắn. Mỗi tiêu chí phân loại kèm theo một hệ thống các loại truyện
ngắn. Căn cứ vào ranh giới quốc gia, có thể chia truyện ngắn thành hai loại:
truyện ngắn Việt Nam, truyện ngắn nước ngoài. Căn cứ vào nội dung phản
ánh, người ta chia truyện ngắn thành truyện ngắn hiện thực, truyện ngắn trào
phúng, truyện ngắn phong tục, truyện ngắn trữ tình… Một tiêu chí quan trọng
để phân loại truyện ngắn đó là căn cứ vào loại hình lịch sử văn học. Dựa vào
đặc điểm loại hình - lịch sử, người ta chia truyện ngắn làm bốn loại: truyện
dân gian, truyện ngắn trung đại, truyện ngắn hiện đại, truyện ngắn hậu hiện
đại. Thuật ngữ truyện ngắn hậu hiện đại xuất hiện mới đây, và trong phạm vi
luận văn này chúng tôi không bàn đến. Thuật ngữ truyện ngắn trung đại cũng


24
đang có nhiều ý kiến khác nhau. Một quan điểm cho rằng, truyện ngắn Việt
Nam với tư cách là một thể loại độc lập thì chỉ có ở thời hiện đại. Đại diện
cho quan điểm này là nhà văn Nguyễn Công Hoan, ông cho rằng: “Loại
truyện viết bằng văn xuôi theo nghệ thuật Âu Tây là loại mới có trong văn
học Việt Nam, từ ngày ta chịu ảnh hưởng của văn học Pháp”. Quan điểm của
các nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ, Bùi Duy Tân, Nguyễn Đăng Na cho rằng
truyện ngắn có từ trong văn học trung đại. Tác giả Nguyễn Đăng Na trong
cuốn Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại viết: “Đặc điểm của giai đoạn
này -XV và XVI -là tự sự văn xuôi đã thoát khỏi mối ràng buộc của văn học

dân gian và văn học chức năng, tự sáng tạo ra truyện mới vừa mang đậm sắc
thái dân tộc, vừa phản ánh được hiện thực đương thời. Thành tựu nổi bật ở
thời kì này phải kể đến hai tác phẩm, một của Lê Thánh Tông do người đời
sau sưu tầm: Thánh Tông di thảo, một của Nguyễn Dữ - tác phẩm được mệnh
danh là “thiên cổ kì bút”: Truyền kì mạn lục. [35, 24]. Hình thức ban sơ của
truyện ngắn chính là “truyền kì”. Truyền kì là một thứ “truyện thần thoại có
tác giả”, cốt truyện của nó có thể lưu truyền trong dân gian được các nhà văn
sử dụng, gọt giũa, nâng cao thành tác phẩm văn học. Truyện ngắn trung đại
Việt Nam mang nội dung và ảnh hưởng của lối kể chuyện dân gian. Thời kì
đầu chịu ảnh hưởng của lối văn tự sự trong các bộ sử. Truyện ngắn trung đại
có lối kể chuyện chính xác, khách quan, không bình luận, lời văn ngắn gọn,
tinh giản. Lối văn chép sử cũng như lối kể chuyện dân gian chưa cho phép tác
giả dừng lại, đi sâu vận dụng miêu tả tinh tế tâm trạng con người hoặc lối độc
thoại nội tâm phức tạp như trong văn xuôi hiện đại. Do kế thừa văn học dân
gian nên truyện đang nhiều yếu tố ước lệ tượng trưng…
Trong loại hình truyện ngắn hiện đại, căn cứ vào thái độ chính trị và
khuynh hướng thẩm mĩ người ta chia truyện ngắn thành ba loại: truyện
ngắn lãng mạn, truyện ngắn hiện thực, truyện ngắn cách mạng. Mỗi loại
hình có những đặc điểm riêng về đề tài, cách xây dựng nhân vật… Chúng
tôi sẽ nói kĩ hơn vấn đề này ở chương 2.


25
1.2. Đặc điểm hệ thống văn bản truyện ngắn hiện đại trong chương
trình Ngữ văn THPT
1.2.1. Khái lược đặc điểm chương trình Ngữ văn THPT
Chương trình Ngữ văn THPT gồm có hai bộ sách: chương trình chuẩn
hay cơ bản dành cho ban khoa học tự nhiên và các lớp không chuyên; chương
trình nâng cao dành cho học sinh có khuynh hướng đi vào khoa học xã hộinhân văn. Song về cơ bản cả hai chương trình này đều thống nhất với nhau,
dựa vào nhau. Sách giáo khoa Ngữ văn được biên soạn theo hướng tích hợp

ba phân môn: Đọc văn, Làm văn, Tiếng Việt. Trong đó, văn bản truyện ngắn
chiếm một vị trí quan trọng trong phân môn Đọc văn.
Về tiêu chí lựa chọn, để chọn văn bản nào được đưa vào dạy trong chương
trình là cả một vấn đề rất khó khăn. Số lượng tác giả, tác phẩm nhiều, trong khi
khung chương trình có hạn, vậy nên các nhà soạn sách phải đưa ra các tiêu chí lựa
chọn. Các văn bản đưa vào học phải thoả mãn tiêu chí: tinh hoa, tiêu biểu, toàn
diện. Thứ nhất là tinh hoa, nghĩa là các tác phẩm đó phải là những tác phẩm có giá
trị của văn học Việt Nam và thế giới. Chẳng hạn, truyện ngắn Người trong bao
của A. P Sê Khốp, Thuốc của Lỗ Tấn. Thứ hai các tác phẩm được chọn phải tiêu
biểu cho sự nghiệp của nhà văn, cũng như nhà văn đó phải tiêu biểu cho nền văn
học, cho thời đại mà họ sống. Chẳng hạn với nhà văn Nguyễn Tuân, trước Cách
mạng tháng Tám, ông viết theo phong cách lãng mạn, là người suốt đời đi tìm cái
đẹp. Đề tài chính của Nguyễn Tuân thời kì này là những cái đẹp, những giá trị văn
hoá của quá khứ nay chỉ còn vang bóng. Vì thế khi học về Nguyễn Tuân giai đoạn
trước cách mạng không thể không cung cấp cho học sinh đôi nét về đề tài “Vang
bóng một thời”. Có thể nói trong tập truyện Vang bóng một thời thì truyện ngắn
Chữ người tử tù là tiêu biểu, có giá trị giáo dục và phù hợp với tâm lí tiếp nhận,
lứa tuổi của học sinh nhất. Vì thế các nhà soạn sách đã đưa tác phẩm này vào học
trong cả hai bộ sách nâng cao và chuẩn của lớp 11.
Thứ ba, các văn bản được chọn phải có sự toàn diện. Phần văn học
nước ngoài phải chọn tác phẩm văn học của các nền văn hoá lớn trên thế giới


×