Tải bản đầy đủ (.doc) (102 trang)

Dạy học thơ đường luật ở trung học cơ sở hiện nay luận văn thạc sĩ ngữ văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (458.17 KB, 102 trang )

B GIO DC V O TO
TRNG I HC VINH

NGUYN TH THU

DạY HọC THƠ ĐƯờNG LUậT
ở TRUNG HọC CƠ Sở HIệN nAY

luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục

NGHệ aN - 2012


2

B GIO DC V O TO
TRNG I HC VINH

NGUYN TH THU

DạY HọC THƠ ĐƯờNG LUậT
ở TRUNG HọC CƠ Sở HIệN nAY
Chuyên ngành: lý luận và phơng pháp dạy học Bộ môn văn - tiếng
việt

Mã số: 60.14.15

luận văn thạc sĩ khoa họC giáo dục

Ngời hớng dẫn khoa học: TS. Phạm tuấn vũ


NGHệ aN - 2012


3
MỤC LỤC


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Trung Quốc là một nước có truyền thống về thơ. Từ Kinh Thi
đến thơ hiện đại, lịch sử thơ Trung Quốc có hơn ba ngàn năm. Ở mỗi thời
đại thơ nước này đều có những đặc sắc riêng, nhưng người Trung Quốc và
thế giới đếu công nhận thơ Đường là đỉnh cao của thơ Trung Quốc và là
một trong những đỉnh cao của thơ ca nhân loại. Đại bộ phận thơ đương thời
viết theo thể Đường luật. Thơ Đường luật là một sản phẩm đặc thù và là
niềm tự hào của thơ ca Trung Quốc.
1.2. Thơ Đường luật được du nhập vào Việt Nam từ rất sớm và đạt
được nhiều thành tựu rực rỡ. Trong nhà trường, loại văn bản này được đem
vào giảng dạy ở Trung học cơ sở và tiếp tục ở những bậc học cao hơn. Các
văn bản đó gồm những sáng tác của các tác giả Trung Quốc cổ - trung đại
và một số tác giả Việt Nam trung đại và hiện đại. Đây là những tác phẩm
tiêu biểu của những tác giả xuất sắc đại diện cho thơ Đường luật của hai
dân tộc.
1.3. Thơ Đường luật là loại văn bản khó dạy học vì rất nhiều lí do
thuộc bản thân đối tượng và thuộc người dạy, người học. Thể loại thơ này
có nhiều giá trị đặc thù. Để dạy và học tốt loại văn bản này cần kết hợp sự
hiểu biết về thể loại và áp dụng các thành tựu của khoa học giáo dục. Giải
quyết đề tài này nằm trong hướng đó.
Bên cạnh những thành quả tốt đẹp, việc dạy học thơ Đường luật ở

trung học cơ sở hiện nay cần có nhiều vấn đề cần điều chỉnh, cần đi sâu
thêm trên cơ sở nhận thức có hệ thống cả về phương pháp, cả về kiến thức
cụ thể. Bởi vậy chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Dạy học thơ Đường
luật ở trung học cơ sở hiện nay” hy vọng góp một phần nhỏ vào việc giải
quyết những vấn đề này.


2
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Thơ trung đại là một bộ phận quan trọng của thơ ca Việt Nam.Với
số lượng tác giả, tác phẩm lớn cùng với những giá trị đặc thù, thơ giai đoạn
này dành được rất nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu. Riêng với
thơ Đường luật - thể thơ mà “luật thơ nghiêm như luật hình” thì sự ưu ái đó
càng tăng lên gấp bội. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về thơ ca trung
đại nói chung, thơ Đường luật nói riêng, như: Mấy vấn đề thi pháp văn học
trung đại của Trần Đình Sử, Thơ Nôm Đường luật của Lã Nhâm Thìn; Văn
học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hoá của Trần Nho Thìn; Thi
pháp thơ Đường của Nguyễn Thị Bích Hải; Thi pháp thơ Đường của Quách
Tấn; Nghệ thuật ngôn ngữ thơ Đường của Cao Hữu Công, Mai Tổ Lân; Về
thi pháp thơ Đường của Nguyễn Khắc Phi, Trần Đình Sử... Trong những
công trình này, các tác giả đã nêu lên những đặc điểm cơ bản về mặt nội
dung và nghệ thuật cũng như những giá trị đặc thù của thơ Đường luật nói
riêng, văn học trung đại nói chung. Các công trình nghiên cứu đã giúp ích
nhiều cho việc dạy học thơ Đường luật trong nhà trường phổ thông.
2.2. Vấn đề dạy học thơ Đường luật đã được đề cập tới trong một số
công trình. Trong công trình Bình giảng thơ Đường (2005) Nguyễn Thị Bích
Hải đã “thử đề xuất một hướng tiếp cận thơ Đường luật”. Đó là “phân tích
các bài thơ Việt Nam làm theo thể Đường luật mà chia thành bốn phần đề,
thực, luận, kết là phù hợp... Có điều, dẫu rằng chia bốn nhưng vẫn phải tôn
trọng tính “nhất khí” của bài thơ, chú trọng xu hướng vận hành do sự “nhập

hứng” đối cảnh sinh tình và ba trọng tâm khi phân tích một bài thơ Đường
luật vẫn là “đề”, “mạch cảm xúc” và phần kết, nơi tập trung thể hiện chủ đề”
[22, 133]. Trong công trình này tác giả đã có một số gợi ý hết sức quan trọng
cho việc phân tích dạy học thơ Đường: “Vì đặc trưng của thơ Đường là tạo
lập các mối quan hệ nên người đọc thơ Đường cần phải phát hiện những quan
hệ ấy, mà để phát hiện được phải danh nhiều thời gian suy nghĩ và tưởng
tượng, liên tưởng” [22, 22].


3
Năm 2006, tác giả Lê Xuân Soan xuất bản sách Dạy - học các tác phẩm
thơ Đường ở trường trung học cơ sở và trung học phổ thông. Công trình
gồm hai chương và phần phụ lục, trong đó, chương hai (cũng là chương quan
trọng nhất) tác giả đã nêu lên 10 biện pháp nâng cao chất lượng dạy học thơ
Đường ở trường trung học. Đó là: Thường xuyên đối chiếu nguyên tác; vận
dụng thích hợp các yếu tố lịch sử, cái “tâm” cái “chí” của nhà thơ để cắt nghĩa
thơ Đường; chú ý khai thác ý tại ngôn ngoại; khai thác cách kết bài, mở bài;
phân tích phép đối, nghệ thuật chấm phá; phân tích giá trị tu từ của niêm luật;
phân tích chất nhạc, chất họa; giải thích điển cố, điển tích; tổ chức cho học
sinh hoạt động nhóm; và phân tích và dạy học thơ Đường theo bố cục và
mạch cảm xúc.
Tác giả Phạm Tuấn Vũ trong Văn học trung đại Việt Nam trong nhà
trường nêu lên vấn đề sử dụng bản dịch trong việc dạy học thơ Đường luật
ở trường phổ thông hiện nay. Theo tác giả, “khi dạy thơ chữ Hán Đường
Luật, nhiều giáo viên tiến hành đối chiếu bản dịch thơ sát hay không sát với
nguyên tác và bản dịch nghĩa, từ đó kết luận bản dịch thơ không sát, tương
xứng hay không tương xứng, thậm chí hay hơn nguyên tác. Đây là việc làm
cần thiết tuy nhiên chỉ có hiệu quả khi tiếp cận được thực chất của hoạt
động dịch thơ và xác định đúng vai trò của bản dịch thơ’’ [78, 108].
Tác giả Nguyễn Thị Thanh Hương, năm 2007 ra mắt bạn đọc cuốn Để

dạy và học tốt tác phẩm văn học (phần Trung đại) ở trường phổ thông. Phần
đầu của cuốn sách tác giả dành để nói về những thuận lợi và khó khăn trong
dạy học Văn học trung đại. Phần sau (cũng là phần chính) của cuốn sách tác
giả đã thiết kế một số giáo án, trong số này có giáo án thơ Đường luật.
Cũng trong hướng đi ấy, tác giả Lã Nhâm Thìn, năm 2009 đã cho ra
mắt cuốn sách Phân tích tác phẩm Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn
thể loại. Nội dung sách là những bài phân tích tác phẩm theo đặc trưng thể
loại, trong đó có đặc trưng của thơ Đường luật. Trong phần phương pháp
phân tích thơ chữ Hán Đường luật, tác giả nêu lên bốn vấn đề, cũng là bốn
cách tiếp cận một bài thơ của thể loại thơ này. Theo đó, khi phân tích thơ


4
Đường luật, độc giả có thể lưu ý tới tính quy phạm thể loại, tới câu thơ kết;
tới kết cấu đề thực luận kết và đặc biệt là nghệ thuật đối. Tác giả viết “khi
phân tích thơ Đường luật cần đặc biệt lưu ý nghệ thuật đối. Đối xứng trở
thành đặc trưng thi pháp của thơ Đường luật” [69, 15]. Cũng trong cuốn
sách, tác giả nêu lên đặc điểm và phương pháp phân tích thơ Nôm Đường
luật. Theo Tác giả “đặc điểm của thơ Nôm Đường luật nói một cách ngắn
gọn nhất và bản chất nhất là sự kết hợp hài hòa yếu tố Nôm và yếu tố
Đường luật. Hai yếu tố này vừa tác động nhau, xuyên thấm vào nhau vừa
có tính độc lập tương đối, có thể tách ra để nhận diện đặc điểm của thể
loại” [69, 42]. “Những yếu tố Nôm hay yếu tố Đường luật đều có những
giá trị đặc trưng riêng. Người giảng văn thơ Nôm Đường luật cần thấy
được giá trị biểu đạt, biểu cảm, giá trị thẩm mĩ của từng yếu tố Nôm hoặc
yếu tố Đường luật đồng thời thấy được sự quyện hòa, xuyên thấm của hai
yếu tố này để làm nên giá trị chung của toàn bài thơ” [69,43].
Như vậy những nghiên cứu trên đã đưa ra nhiều hướng tiếp cận và các
cách dạy học văn bản thơ Đường luật. Tuy nhiên việc dạy học thể thơ này
vẫn còn rất nhiều vấn đề cần bàn luận. Đó không chỉ là những khó khăn

trong quá trình dạy học thể loại mà đó còn là những cách hiểu, những cách
giải thích khác nhau đối với một văn bản thơ Đường.
2.3. Nói đến thơ Đường luật, độc giả thường bị ám ảnh bởi ấn tượng “thơ
Đường khó”. Ngay từ việc đọc chính xác, trôi chảy và diễn cảm những bản
phiên âm chữ Hán, với nhiều người cũng là một việc rất khó khăn. Nhưng
cái việc đọc ấy cũng có thể xem là nhẹ nhàng so với việc đi vào tìm hiểu
các tầng nghĩa của tác phẩm. Hơn thế, thơ Đường luật thường sử dụng điển
tích, điển cố nên việc tìm hiểu tác phẩm càng khó khăn hơn. Chính vì văn
bản thuộc thể loại này khó cảm thụ nên có những tác phẩm được hiểu theo
những cách khác nhau. Tệ hại hơn là những cách hiểu ấy lại được thể hiện
trong các sách giáo khoa và các tài liệu tham khảo hiện hành. Về văn bản
Bạn đến chơi nhà của Nguyễn Khuyến trong Ngữ văn 7, tập 1, Phần Ghi
nhớ viết: “Bài thơ được lập ý bằng cách cố tình lập nên tình hướng khó xử


5
khi bạn đến chơi, để rồi hạ một câu kết: Bác đến chơi đây ta với ta, nhưng
trong đó là một giọng thơ hóm hỉnh chứa đựng tình bạn đậm đà thắm thiết”
[52, 16]. Trong Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kỹ năng môn ngữ
văn trung học cơ sở, tập 1, cũng nhấn mạnh là làm cho học sinh “hiểu
được tình bạn đậm đà thắm thiết của tác giả Nguyễn Khuyến”. Như vậy,
nội dung cơ bản nhất của bài thơ được “gói” trong ba từ “tình bạn đậm đà,
thắm thiết”. Vậy mà trong Thiết kế bài giảng Ngữ văn 7, tập 1, nhóm tác
giả viết: “Nguyễn khuyến và ông bạn già (có thể là Dương Khuê chăng?)
chung một tâm trạng mừng vui vì lâu mới gặp nhau, vì cả hai vẫn còn khỏe,
còn nhớ đến nhau, chung tâm sự u ẩn của những ông quan, những nhà nho
về ở ẩn trước cảnh nước sắp mất về tay kẻ khác mà mình thì bất lực, yếu
đuối, không đủ mạnh, đủ dũng để bước theo ngọn cờ Cần Vương đang
sôi sục khắp trong Nam ngoài Bắc. Cho nên vui đấy mà vẫn buồn, vẫn
cô đơn. Chỉ còn vui niềm vui hiếm hoi của bạn bè nghèo lâu lâu gặp gỡ

một lần mà thôi” [16, 186]. Các tác giả còn viết thêm: “Phải hiểu lắm,
yêu lắm cảnh làng quê mới có thể hạ những câu đơn giản cứ ngỡ như là
chẳng phải suy nghĩ gì mà khiến người đọc vừa vui, vừa cảm động đến nao
lòng” [16, 187]. Cách hiểu này e rằng đã đi quá xa với nội dung cơ bản của
bài thơ. Hơn thế sẽ làm xuất hiện trong học sinh ý nghĩ tác giả sáng tác bài
thơ này một cách rất dễ dàng.
Không giống với trường hợp của Bạn đến chơi nhà, văn bản Tĩnh dạ tứ
(Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh) của Lí Bạch lại có sự không thống nhất
trong việc xác định thể loại thơ. Sách giáo khoa Ngữ văn 7, tập 1 khẳng
định: “Bài thơ được viết theo hình thức cổ thể, một thể thơ trong đó mỗi
câu thường có 5 hoặc 7 chữ, song không bị những quy tắc chặt chẽ về niêm
luật và đối ràng buộc” [52, 124]. Thiết kế bài giảng Ngữ văn 7, tập 1 do
Nguyễn Văn Đường chủ biên đã ba lần khẳng định: “Tĩnh dạ tứ là: Thơ
ngũ ngôn tứ tuyệt Đường luật” [16, 216]. Tìm hiểu vấn đề này chúng tôi đã
tham khảo một số cuốn sách như Bình giảng thơ Đường của Nguyễn Thị
Bích Hải và Đường thi tam bách thủ do Ngô Văn Phú dịch. Cả hai cuốn


6
sách này đều khẳng định đây là một trong những kiệt tác của Lí Bạch nói
riêng và của thơ Đường Trung Quốc nói chung. Trong Đường thi tam bách
thủ, bài thơ Tĩnh dạ tứ được xếp vào loại Ngũ ngôn tuyệt cú [59, 587]. Tuy
nhiên, các tác giả cũng giải thích: “thực ra thơ tuyệt cú là một thể thơ bốn
câu, có thể là cổ phong hoặc thơ luật nhưng ý tứ, ý nghĩa phải trọn vẹn sâu
sắc. Cũng phải có mở, có kết, có thể hiện nội dung chủ đề mình định nói”
[59, 22]. Như vậy, thể loại của tác phẩm này, đến đây, vẫn còn chưa được
xác định rõ ràng. Sự không thống nhất này sẽ làm cho độc giả, đặc biệt là
giáo viên gặp nhiều khó khăn trong quá trình dạy học. Vì trên thực tế có
nhiều giáo viên không có sự chuẩn bị một cách kỹ lưỡng cho bài dạy của
mình. Bởi vậy, bên cạnh những bộ sách giáo khoa, Bộ Giáo dục cũng trang

bị thêm cho mỗi giáo viên những cuốn Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến
thức, kỹ năng. Trong cuốn Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kỹ năng
môn Ngữ văn trung học cơ sở, tập 1, khẳng định Tĩnh dạ tứ thuộc thể loại
cổ thể và giải thích: “Cổ thể: một thể thơ trong đó mỗi câu thường có 5
hoặc 7 chữ, song không bị những quy tắc chặt chẽ về niêm, luật, và đối
ràng buộc” [6, 146]. Với những định hướng đó, người giáo viên phải chuẩn
bị cho mình một vốn kiến thức thật vững vàng về hệ thống thể loại để có
thể đem đến cho học sinh những tri thức đúng nhất.
Hồi hương ngẫu thư (Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê) của Hạ
Tri Chương không gây tranh cãi về thể loại nhưng có những cách hiểu
khác nhau. Sách giáo khoa Ngữ văn 7, tập 1, khẳng định: “Bài thơ biểu
hiện một cách chân thực mà sâu sắc, hóm hỉnh mà ngậm ngùi tình yêu quê
hương thắm thiết của một người sống xa quê lâu ngày, trong khoảnh khắc
vừa mới đặt chân trở về quê cũ” [52, 128]. Tác giả Phạm Tuấn Vũ trong
cuốn Về một số vấn đề tác giả tác phẩm văn chương đã trình bày cách hiểu
của mình về văn bản này. Theo tác giả, “Ở sách giáo khoa, câu dịch nhan
đề bài thơ có thêm chữ mới (bản dịch nghĩa ở Thơ Đường, tập 1, Nxb Văn
học 1987 chỉ dịch là “ngẫu nhiên viết nhân buổi về làng”). Sự thêm vào này
xuất phát từ cách hiểu của soạn giả chứ nhan đề của nguyên tác không có ý


7
đó” [82, 75]. Cũng theo tác giả, “Bài thơ chỉ có bốn câu nhưng diễn tả
nhiều sự đối lập”. Và “một bài thơ ngắn mà có chừng ấy sự đối lập, xem ra
không biểu thị những giá trị tình cảm hồn nhiên, thuận lí… Điều mà Hạ Tri
Chương ngộ ra và muốn giãi bày với người đời, là một triết lí. Cốt lõi của
triết lí ấy là cuộc đời có những quy luật khách quan, nghiệt ngã mà dù
không muốn chúng ta cũng phải đối diện” [82, 77]. Phát hiện này của tác
giả được nhiều người tán thành, và vì thế, đặt ra việc tìm ra ý nghĩa đích
thực của những tác phẩm mà tính hàm súc, kín đáo luôn được đề cao.

Như vậy, các nhà nghiên cứu đã có những cách cảm nhận và kiến giải
riêng trong tiếp nhận thơ Đường luật. Điều này bên cạnh việc làm cho đời
sống văn học nước nhà phát triển, thì lại gây ra những khó khăn nhất định
trong việc dạy và học của giáo viên và học sinh ở các trường phổ thông
hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Như tên đề tài đã xác định, luận văn nghiên cứu việc dạy học thơ
Đường luật ở trung học cơ sở hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các yếu tố cơ bản tham gia vào việc dạy học thơ
Đường luật ở trung học cơ sở như: người dạy, người học, chương trình và sách
giáo khoa, chú trọng nhất là việc hướng dẫn dạy học các văn bản thơ Đường
luật.
4. Mục đích nghiên cứu
4.1. Nhận thức được những khó khăn và thuận lợi cơ bản của việc dạy
học thơ Đường luật ở trung học cơ sở, hướng phát huy những thuận lợi và
khắc phục những khó khăn đó.
4.2. Đánh giá các tài liệu hướng dẫn việc dạy học thơ Đường luật ở
trung học cơ sở hiện nay.
4.3. Đưa ra được một số giáo án dạy học thơ Đường luật có chất
lượng cao.


8
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn kết hợp các phương pháp nghiên cứu văn học như thống kê
- phân loại, tổng hợp - phân tích, đối sánh... và các phương pháp khoa học
giáo dục như: Phương pháp nghiên cứu lí luận, phương pháp nghiên cứu
thực tiễn và các phương pháp khác...

6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung của việc dạy học thơ Đường luật ở trung
học cơ sở hiện nay
Chương 2: Đặc điểm của việc dạy học thơ Đường luật ở trung học cơ
sở
Chương 3: Thiết kế một số giáo án thể nghiệm dạy học thơ Đường luật
ở trung học cơ sở


9
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG CỦA VIỆC DẠY HỌC
THƠ ĐƯỜNG LUẬT Ở TRUNG HỌC CƠ SỞ HIỆN NAY
1.1. Thơ Đường luật
1.1.1. Khái niệm
Thơ Đường luật là khái niệm dùng để chỉ tất cả các bài thơ làm
theo luật thơ được hoàn thiện ở đời Đường (Trung Quốc), bất kể được sáng
tác vào lúc nào, ở Trung Quốc hay ở Việt Nam. Thơ Đường luật còn được
gọi là cận thể thi hay kim thể thi (thể thơ mới ra đời). Đây là tên gọi mà
người Trung Quốc từ sau đời Đường sử dụng để phân biệt với thơ cổ thể
(còn gọi là cổ thi hoặc cổ phong).
Theo tác giả Nguyễn Thị Bích Hải trong Thi pháp thơ Đường, Nxb
Thuận Hóa, Huế, 1995 thì ở đời Đường Trung Quốc, các nhà thơ sử dụng
hai thể thơ chính là cổ thể (cổ phong) và kim thể (luật thi). Thơ cổ phong
không có luật lệ quy định, không hạn định số câu trong bài và số chữ trong
câu cũng tương đối tự do. Cách gieo vần cũng linh hoạt. Có thể dùng độc
vận, liên vận, có thể không hiệp vận ở từng bộ phận, có thể dùng vận chính,
vận thông hay vận chuyển. Thể này cũng không quy định niêm luật và cũng
không cần đối ngẫu.

Ngược lại với thể cổ phong, luật thi (thể Đường luật) buộc phải theo
những quy tắc nhất định của âm thanh, bố cục, tình ý. Một bài thơ phải
đảm bảo sáu yêu cầu về niêm, luật, vận, đối, tiết tấu, bố cục.
1.1.2. Những đặc điểm cơ bản
1.1.2.1. Hình thức thể loại
- Về bố cục: bài thất ngôn bát cú được chia thành bốn phần : đề, thực,
luận, kết. Trong đề câu thứ nhất là phá đề, câu thứ hai là thừa đề. Phá đề
mở ý của bài thơ, thừa đề tiếp ý của phá đề để chuyển vào thân bài. Thực
gồm câu thứ ba và thứ tư, còn gọi là thích thực hay cập trạng, giải thích rõ


10
ý của đề tài. Luận gồm câu thứ năm và thứ sáu, phát triển rộng ý của đề
bài. Kết gồm hai câu cuối, kết thúc ý toàn bài.
- Về luật bằng trắc: Thơ Đường luật buộc phải theo sự quy định về
thanh bằng, thanh trắc trong từng câu và trong cả bài. Hệ thống thanh bằng,
thanh trắc được tính từ chữ thứ hai của câu thứ nhất. Nếu chữ này thanh
bằng thì bài thơ thuộc loại luật bằng ( và ngược lại). Sự sắp xếp thành bằng
trắc trong thơ Đường chẳng qua chỉ làm cho điệu thơ không đơn điệu.
Muốn vậy, trong mỗi câu xu hướng chung là các cặp bằng trắc lần lượt thay
nhau. Trong mỗi cặp câu, tức trong mỗi liên, các chữ tương ứng của câu số
lẻ, số chẵn phải có thanh ngược nhau (trừ chữ thứ năm và thứ bảy trong
liên đầu). Trong hai cặp câu kề nhau, nhịp đi của “liên” trên phải khác nhịp
đi của “liên” dưới. Muốn vậy, chữ thứ hai của câu chẵn thuộc “liên” trên
phải cùng thanh với chữ thứ hai của câu lẻ thuộc “liên” dưới. Sự giống
nhau gọi là “niêm” vì đã làm cho hai câu thơ thuộc hai liên “dính” vào
nhau.
- Về cách đối: Đối ở phần thực và phần luận. Tuy nhiên cũng có bài
chỉ đối ở một phần. Ngược lại cũng có bài đối ở cả ba liên hoặc bốn liên.
Về nguyên tắc, các từ đối nhau phải cùng từ loại, song, một mặt do quan

niệm về từ loại của người xưa chưa thật rõ ràng, mặt khác, do các nhà thơ
có tài thường thích dùng các kiểu đối khác nhau như đối lưu thủy, tức đối
tẩu mã hay hoạt đối (hơi thơ cũng như ý của câu thứ hai là do câu thứ nhất
trượt xuống, không thể đứng một mình), tả đối (mượn âm hoặc nghĩa của
một từ khác để đối), điệu đối (chủ yếu là đối về âm điệu), tự đối hay “tiểu
đối” “đương cú đối” (đối trong nội bộ một câu là chính), khoan đối (đối
không thật chỉnh)… nên không thể dùng máy móc công thức trên để phân
tích thơ Đường luật.
- Về cách gieo vần: Thơ Đường luật chỉ gieo một vần và chỉ gieo vần
bằng (vần nằm ở các câu 1, 2, 4, 6, 8). Riêng chữ cuối của câu thứ nhất, đặc
biệt ở câu ngũ ngôn, có thể gieo vần hoặc không.


11
1.1.2.2. Thuộc tính thể loại
Thuộc tính rất được đề cao ở thơ Đường luật là sự hàm súc, kín đáo.
Hàm súc là nhiều ý nghĩa, nhiều loại ý nghĩa trong một lượng ngôn từ tối
thiểu. Người xưa đề cao những bài thơ “ngôn tuyệt ý bất tuyệt” để mỗi lần
cảm thụ lại có thêm những ý nghĩa và cảm xúc mới. Để bài thơ hàm súc
phải có tài năng đích thực cùng với khổ công lao động nghệ thuật. Có
người gọi mỗi chữ trong bài thơ luật là một ông hiền, không thay thế được.
Việc làm thơ xưa kia gọi là việc “thôi, xao” xuất phát từ việc nhà thơ Giả
Đảo đời Đường tập trung tâm trí để cân nhắc chọn một trong hai chữ đến
mức va phải quan trên. Có không ít thi nhân tài năng nói về việc “nhất cú
liên niên” ( một câu thơ nghĩ năm này sang năm khác).
Hàm súc và kín đáo có quan hệ mật thiết. Phải có cơ chế nghệ thuật
mới tạo nên được các giá trị đó.
Những bài thơ Đường luật xuất sắc đều giải quyết tốt mối quan hệ
giữa tả và gợi. Thơ Đường luật có lượng ngôn từ nhỏ, bởi vậy nếu đặt trọng
tâm vào việc tả, tức là trực tiếp biểu thị đối tượng, sẽ bất cập. Người xưa

coi trọng các thủ pháp “họa vân hiển nguyệt” (vẽ mây làm hiện trăng), “tá
khách trình chủ” (mượn khách để trình bày chủ) vì giải quyết mối quan hệ
giữa tả và gợi.
Sự hàm súc, kín đáo còn được tạo nên bởi các câu thơ đối nhau.
Từng cấu trúc ngôn ngữ tạo nên ý nghĩa nội tại, khi đặt chúng với sự đăng
đối, còn có những ý nghĩa được tạo ra do quan hệ. Xét về ý nghĩa, người
xưa chia thành “chính đối” (nghĩa của hai câu tương hợp) và “phản đối”
(nghĩa của hai câu tương phản).
Nhiều bài thơ Đường luật sử dụng điển cố. Điển cố là những câu thơ
văn cổ liên quan đến một câu chuyện. Sử dụng điển cố sẽ tăng thêm giá trị
chân lý và đạo lý của thơ vì đó là những điều đã được thời gian dài kiểm
nghiệm và chứng tỏ hậu thế biết noi theo cổ nhân. Sử dụng điển cố còn là
biện pháp tối ưu để dùng lượng ngôn từ tối thiểu tạo ra ý nghĩa tối đa: chỉ


12
một câu, thậm chí chỉ mấy chữ mà gợi đến một câu chuyện và làm cho nó
tham gia vào tác phẩm. Điển cố được sử dụng một cách nghệ thuật cũng
tạo nên sự kín đáo tế nhị do biểu thị gián tiếp. Câu thơ của Nguyễn
Khuyến: Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào là một mẫu mực về phương diện
này. Nhà thơ nhắc đến Đào Tiềm đời Tấn để ngợi ca một cách xử thế đẹp
đẽ. Nguyễn Khuyến thẹn vì không được như người xưa sống theo mình
thích. Vậy là thái độ Nguyễn Khuyến trong cảnh ngộ đương thời đã rõ, mặc
dù không có từ ngữ biểu thị trực tiếp.
Sự hàm súc kín đáo cũng được tạo nên khi tác giả khéo khai thác các
phạm trù đối lập như hữu/ vô, quá khứ/ hiện tại… hay các phạm trù hữu
quan như không gian/ thời gian, vật chất/ tinh thần….Ví dụ trong Hoàng
Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng, Lý Bạch viết:
Cô phàm viễn ảnh bích không tận,
Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu.

Tác giả đã dùng hữu (sông Trường Giang chảy tới chân trời) để biểu
thị vô ( hình bóng bạn không thấy nữa).
Thơ Đường luật coi trọng sự nhất quán nhất khí. Có người cho rằng
với bài thơ hay, “ngôn như hợp bích, ý nhược quán châu” (lời như cái hộp
đựng ngọc, ý như sợi dây xâu chuỗi những hạt ngọc). Theo cổ nhân, bài thơ
có thể miêu tả nhiều nhân vật và sự việc, biểu thị nhiều loại cảm xúc,
nhưng bao giờ cũng phải nhất quán. Không đạt được điều này sẽ bị xem là
“đầu Ngô mình Sở”. Nhất quán nhất khí cũng trở thành một nguyên tắc khi
khai thác bài thơ Đường luật.
1.2. Những thuận lợi và khó khăn chủ yếu của việc dạy học thơ
Đường luật ở trung học cơ sở hiện nay
Những năm gần đây, việc đổi mới phương pháp dạy học đã và đang
trở thành yêu cầu của dạy học văn trong nhà trường. Bên cạnh việc đổi
mới ấy là những thay đổi đáng kể trong việc biên soạn chương trình sách
giáo khoa. Trong môn Ngữ văn, thơ Đường luật nói riêng và thơ trung đại


13
nói chung luôn là một bộ phận quan trọng. Để quá trình dạy học của giáo
viên và học sinh đạt được kết quả tốt trước hết cần phải xác định rõ những
thuận lợi và khó khăn của công việc ấy.
1.2.1. Những thuận lợi chủ yếu
Môn Ngữ văn là một trong những môn học chính trong nhà trường,
được học ở mọi cấp học, với thời lượng lớn. Trong chương trình Ngữ văn,
phần văn học Việt Nam trung đại là một trọng tâm. Hơn thế, phần văn học
này lại được dạy học một cách hệ thống theo hướng đi chung hiện nay là
dạy tác phẩm văn học theo nội dung thể loại. Thơ Đường luật là một thể
thơ có nhiều văn bản được dạy học.
Có mặt trong chương trình là những tác giả, tác phẩm ưu tú có đóng
góp lớn cho văn học Trung Quốc: Lý Bạch, Hạ Tri Chương, Đỗ Phủ,

Trương Kế, Thôi Hiệu...; và văn học Việt Nam: Nguyễn Khuyến, Hồ Xuân
Hương, Bà Huyện Thanh Quan, Tản Đà, Phan Bội Châu, Hồ Chí Minh...
Những sáng tác của các tác giả ấy có giá trị văn đặc sắc, đã được thử thách
trong thời gian dài và được lựa chọn phù hợp với tình hình mới.
Thực hiện luận văn này chúng tôi đã tiến hành những cuộc điều tra
trắc nghiệm với 25 giáo viên dạy Ngữ văn Trung học cơ sở ở các trường:
Trung học cơ sở Nhân Thành, Trung học cơ sở Công Thành, Trung học cơ
sở Phú Thành ( Yên Thành - Nghệ An). Với câu hỏi: “Theo anh (chị), dạy
học thơ Đường luật ở trung học cơ sở hiện nay có những thuận lợi gì?”, đã
có 100% người được hỏi đồng ý với đáp án: “Những văn bản thơ Đường
luật trong chương trình là những tác phẩm có tính nhân văn và giá trị thẩm
mĩ, có tác dụng bồi đắp và nuôi dưỡng tư tưởng tình cảm cho học sinh, nên
tạo điều kiện cho giáo viên dạy tốt, học sinh có hứng thú học”. Sự thống
nhất trong quan điểm của những người đang trực tiếp giảng dạy đó càng
khẳng định giá trị đặc thù của thơ Đường luật. Đây là một thuận lợi chủ
yếu của việc dạy học thơ Đường luật trong nhà trường hiện nay.


14
Hiện nay, nhà trường các cấp đang thực hiện đổi mới phương pháp
giảng dạy trong đó có đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn. Phương
pháp ấy lấy tích hợp làm nòng cốt. Tích hợp được thực hiện trên cả trục
ngang và trục dọc. Ở đó vừa có sự thống nhất giữa ba phân môn trong môn
Ngữ văn và đồng thời có sự liên kết giữa các bộ môn trong nhà trường.
Ngay từ khi thuật ngữ đổi mới xuất hiện, một việc làm mà được
xem là tiên phong để hưởng ứng, đó chính là soạn giáo án điện tử. Đây là
một việc làm tích cực, vì nó không chỉ khuyến khích giáo viên tích cực tìm
hiểu về công nghệ thông tin, tìm tòi tài liệu trên mạng mà còn tạo cho học
sinh tâm trạng hứng thú trong khi tiếp nhận. Làm quen với phương pháp
dạy học mới cùng với những hình ảnh trực quan sinh động sẽ làm cho học

sinh hứng thú hơn trong học tập. Tuy nhiên, cũng cần tránh việc lạm dụng
khoa học kỹ thuật vào dạy học Ngữ văn vì về bản chất, văn chương là nghệ
thuật ngôn từ.
Một thuận lợi nữa của việc dạy học thơ Đường luật nói riêng, thơ
văn trung đại nói chung, là: học sinh phổ thông hiện nay đang được sống
trong thời đại công nghệ thông tin với kinh tế tri thức là chủ đạo. Bên cạnh
đó, học sinh phổ thông đang ở giai đoạn mà học tập là công việc quan trọng
nhất nên được tạo mọi điều kiện. Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng
nói: “Lứa tuổi từ 7 đến 17 là rất nhạy cảm, thông minh lạ lùng lắm!”. Đây
chính là thời kì mà nhu cầu học tập và khám phá phát triển cao độ để các
em hình thành và phát triển nhân cách, chuẩn bị hành trang cho tương lai.
Vì thế, việc dạy học các môn học trong nhà trường càng thuận lợi hơn nữa.
Đội ngũ giáo viên dạy Ngữ văn trong các nhà trường phổ thông hiện
nay được trang bị kiến thức hiện đại, toàn diện và có phương pháp dạy học
mới. Hàng năm giáo viên được bồi dưỡng kiến thức lí luận văn học, lí luận
dạy học cũng như kiến thức về văn học. Đây là những thuận lợi của dạy
học văn nói chung và dạy học thơ Đường luật nói riêng.


15
Bên cạnh những nhu cầu xuất phát từ đời sống xã hội, việc dạy học
thơ Đường luật trong nhà trường trung học cơ sở còn có thuận lợi xuất phát
từ sự gần gũi giữa tiếng Hán, từ Hán Việt với tiếng Việt. Trong vốn từ
Tiếng Việt hiện đại, theo nhiều nhà nghiên cứu, có 60% đến 70% từ Hán
Việt. Bởi vậy, không phải mọi câu thơ phiên âm Hán Việt đều gợi cảm giác
hoàn toàn xa lạ. Xưa nay, người Việt Nam tâm đắc với những bài thơ hay
của các thi nhân Trung Hoa cổ vì đời sống tinh thần của con người hai dân
tộc có nhiều điểm gần gũi. Người Trung Hoa và người Việt Nam đều sống
trong nền văn minh nông nghiệp, đều rất coi trọng tình cảm, vị tha và tinh
tế. Ngôn ngữ Hán và Việt đều đơn tiết, không biến hình, tuyến tính và giàu

thanh điệu. Trên thế giới có lẽ ít có thể thơ được bản địa hoá cao độ như
thơ Đường luật ở Việt Nam. Thơ Đường luật không chỉ được viết bằng chữ
Hán mà còn được viết bằng chữ Nôm và chữ Quốc ngữ. Chính việc được
viết bằng hai loại ngôn ngữ sau khiến cho thơ Đường luật được cải biến
mạnh mẽ theo hướng dân tộc hoá. Sự bắt rễ sâu rộng vào mọi phạm vi của
đời sống của thể thơ này các thể thơ khác du nhập từ Trung Quốc không
thể sánh được. Bài thơ được coi là tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước
Nam, đại bộ phận thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Cao Bá
Quát... viết bằng thể thơ Đường luật, Ngục trung nhật kí của Hồ Chí Minh
cũng sử dụng thể loại này. Và cho đến hôm nay, các nhà thơ và những
người làm thơ nghiệp dư còn sử dụng thể Đường luật. Những thuận lợi khi
dạy học thơ chữ Hán Đường luật sẽ thấy rõ hơn khi chúng ta so sánh với
một số thể thơ nước ngoài cũng được dạy học trong nhà trường, ví dụ thể
tanka hay haicư của Nhật Bản.Tác giả Ngô Văn Phú trong Thơ Đường Ở
Việt Nam cho rằng: “Đối với thơ Đường, người Việt Nam có một lợi thế:
Chữ Hán Việt cho đến ngày nay vẫn phát triển, vẫn phát âm theo chữ
Hán đời Đường. Do đó, khi đọc hay ngâm thơ Đường, tự nhiên ta theo
đúng bằng trắc, thanh diệu đời Đường. Trong khi đó, qua nghìn năm, âm
chữ Hán thay đổi trên đất Trung Quốc, một chữ Hán đời Đường âm


16
Bằng ngày nay có thể đọc bằng âm trắc và ngược lại...”[58, 148]. Và
“Thơ Nôm Đường luật, nói như ngày nay, đã được “chuyển giao kĩ
thuật” một cách hoàn hảo, nhờ các tài thơ lớn của Việt Nam. Và hình
thức của nó chỉ còn là hình thức xa xôi chứ bản thân thơ Đường luật, cả
chữ Hán và Nôm, đã trở thành tài sản tinh thần của người Việt, mang
tâm hồn Việt, giọng điệu Việt” [58, 89].
Việc dạy học phần thơ Đường luật còn có thuận lợi là cả giáo
viên và học sinh được tiếp xúc với nhiều loại văn bản hướng dẫn. Với

giáo viên, sách giáo viên có những định hướng cụ thể, xác thực cho
từng bài dạy. Bên cạnh đó còn có những cuốn sách hướng dẫn chuẩn
kiến thức, sách tư liệu giảng dạy, và những thế bản. Đó là những sách
tham khảo mà hiện nay đang tràn ngập trên thị trường. Giáo viên và
học sinh có một nguồn tư liệu phong phú, là trợ thủ đắc lực giúp họ
trong việc tiếp nhận những giá trị văn học trung đại nói chung, thơ
Đường luật nói riêng. Tuy nhiên bên cạnh những thuận lợi ấy thì
những thế bản cũng gây “nhiễu” trong tiếp nhận văn học với quá nhiều
cách hiểu khác nhau. Vì thế, năng lực và bản lĩnh sư phạm của người
giáo viên là rất quan trọng bởi không có một sách thiết kế bài giảng,
một giáo án nào có thể thay thế được bài dạy học của từng giáo viên.
1.2.2. Những khó khăn chủ yếu
Việc dạy học thơ Đường luật ở trường trung học cơ sở hiên nay còn
gặp phải rất nhiều khó khăn xuất phát từ đặc điểm của chính bản thân đối
tượng.
Thơ Đường luật nói riêng, thơ văn trung đại nói chung ra đời cách
đây nhiều thế kỉ trong những điều kiện lịch sử có nhiều khác biệt so với
ngày nay. Điều đó khiến việc tiếp nhận gặp nhiều khó khăn. Trong thời
trung đại, con người sống với tư cách là thần dân thì ở thời hiện đại, con
người có tư cách công dân. Sự khác biệt đến đối lập này cũng chính là sự
khác biệt trong tư duy của con người hai thời đại. Trong thời phong kiến,


17
con người phải gò mình theo “tam cương”, “ngũ thường”. Còn thời nay, vai
trò của cá nhân được đề cao và “tất cả mọi người đều sinh ra có quyền
bình đẳng”. Con người thời nay được tự do phát biểu và bảo vệ ý kiến của
mình. Sự khác nhau đó sẽ là trở ngại lớn đối với việc tiếp nhận những giá
trị của văn học trung đại. Tác giả Quách Tấn trong Thi pháp thơ Đường
(1998), Nxb trẻ TP Hồ Chí Minh đã nhận xét: “Thể thơ Đường luật, về

hình thức, các nhà thi học phần đông đều công nhận là toàn hảo. Nhưng nó
chỉ thích hợp với những tình cảm đã được tiết chế, với những tâm hồn trầm
tĩnh, với những người nặng về đời sống nội tâm. Nó không còn thích hợp
với người hiện đại, bởi lòng luôn luôn bị ngoại cảnh chi phối, rất ít khi
được yên tĩnh, ung dung, nhịp lòng và nhịp thơ không thể hài hoà với nhau
được thoả đáng” [65, 5].
Tâm lí thực dụng trong dạy học thơ Đường luật đang làm cho chất
lượng dạy học hiện nay đang ngày một giảm sút. Thơ Đường luật ở trung
học cơ sở hiện nay được dạy học ở lớp 7 và lớp 8 không nằm trong nội
dung thi tốt nghiệp. Vì thế, học sinh chỉ học để đối phó tạm thời, sọan bài
và trả lời câu hỏi dựa vào sách Để học tốt văn, thi kiểm tra để đủ điểm lên
lớp, khi làm bài hoặc là sao chép tài liệu hoặc là suy diễn tùy tiện, và chép
thơ sai. Đây chính là tâm lí “học gì thi nấy”. Theo giáo sư Nguyễn Đăng
Mạnh thì “nguyên nhân chính nằm ngoài ngành giáo dục”. Hiện nay, con
người sống trong thời đại công nghiệp hoá, hiện đại hoá với cơ chế thị
trường phát triển, những ngành khoa học tự nhiên được chú trong đầu tư.
Những ngành này thường có mức thu nhập cao và ổn định. Vì thế, những
năm gần đây, số lượng học sinh chọn ban cơ bản rất lớn. Theo http:
phapluat.vn thì năm 2011 có đến 83,8 % số học sinh tuyển vào lớp 10 chọn
ban Cơ bản, 14,2% chọn ban Tự nhiên và chỉ có 1,9% chọn ban Khoa học –
Xã hội và nhân văn. Tỉ lệ này cho thấy đa số học sinh chọn ban Cơ bản để
học và đến lúc làm hồ sơ thi đại học thì dựa vào ban học của mình mà có
những hướng đi khác nhau. Một thực tế mà những năm gần đây chúng ta


18
thường được chứng kiến việc trong kì thi tuyển đại học, có nhiều trường
không đủ hồ sơ đăng kí thi vào các ngành khoa học xã hội, và hồ sơ đăng kí
vào các ngành công nghệ thông tin thì lại tăng đột biến. Kết quả này cho
thấy một điểm tích cực, đó là trình độ khoa học tự nhiên cũng như đời sống

xã hội được nâng cao hơn. Trên thực tế, không có nhiều ngành để cho
những học sinh theo khối C lựa chọn. Và những ngành này khi ra trường
cũng rất khó khăn khi xin việc mà mức thu nhập lại rất thấp. Một viễn cảnh
không mấy sáng sủa ấy khiến cho học sinh không còn có sự hứng thú đối
với môn học Ngữ văn.
Học sinh đã vậy, giáo viên còn gặp phải những khó khăn nan giải
hơn. Theo Huệ Nguyễn – tác giả bài báo Dạy học Ngữ văn ở trường phổ
thông hiện nay thì một nguyên nhân khiến chất lượng dạy – học môn học
này ngày càng sụt giảm vì thu nhập của người giáo viên thấp, đa số không
có điều kiện để học tiếp hoặc tự học vì điều kiện vật chất và thời gian
không cho phép. Cuộc sống hiện đại bên ngoài xã hội ít nhiều cũng tác
động đến tâm lí người dạy. Nhịp sống bận rộn hàng ngày cùng với nhiều lí
do khác nhau khiến giáo viên ít có hứng thú và điều kiện để tìm hiểu thêm
thơ Đường luật. Để cảm thụ thơ Đường luật, không thể chỉ dựa vào sách
giáo khoa, sách giáo viên mà còn phải mất rất nhiều thời gian, công sức
nghiên cứu tài liệu tham khảo. Thế nhưng thời gian dành cho việc này
không nhiều. Bên cạnh đó, việc đánh giá chất lượng dạy – học của các
chuyên viên giáo dục cũng chỉ mới dừng lại ở mặt hình thức nên không
giúp làm nâng cao được chất lượng dạy học Ngữ văn ở trường phổ thông.
Trong chương trình Ngữ văn hiện nay các tác phẩm thơ Đường luật
chủ yếu được viết bằng chữ Hán. Đây là thứ chữ mà hiện nay đã trở thành
tử ngữ, phải dạy học qua bản dịch nên có sự khúc xạ nhất định. Ngay cả
những văn bản viết bằng tiếng Việt cũng xa cách đáng kể với người dạy
học văn chương hiện nay. Việc dạy và học tác phẩm văn học viết trung đại
trên văn bản gốc ( nhất là văn bản chữ Hán) hiếm khi xảy ra. Cả giáo viên


19
và học sinh hầu như chỉ tiếp nhận chúng thông qua bản dịch nghĩa và dịch
thơ. Rất ít giáo viên có đủ trình độ tiếng Hán cổ hay chữ Nôm để có thể

giúp học sinh tiếp nhận tác phẩm trên văn bản gốc. Học sinh cũng thường
chỉ chú ý đến văn bản dịch. Do vậy, việc hiểu sai hoặc chưa đầy đủ các lớp
nội dung ý nghĩa cũng như vẻ đẹp hình thức nghệ thuật của các tác phẩm
hay xảy ra.
Có một số nội dung của nhiều bài thơ Đường luật đã trở nên cũ hoặc
xa lạ với tâm lí tiếp nhận của học sinh ngày nay. Bởi vậy, để tiếp nhận
được nhiều giá trị nội dung và hình thức của bài thơ Đường luật, người dạy
và người học không chỉ cần phải có sự hiểu biết thấu đáo về nội dung nghệ
thuật của văn học trung đại mà còn phải nắm được những tri thức về Phật
giáo, Đạo giáo, Nho giáo – là những tư tưởng có ảnh hưởng lớn đến việc ra
đời và tồn tại của các tác phẩm đó. Nhiều chuẩn mực đạo đức của những
học thuyết ấy hiện nay không còn phù hợp nữa. Vì thế, việc dạy và học của
giáo viên và học sinh gặp rất nhiều lúng túng.
Hiện nay, trong các nhà trường phổ thông đang thực hiện đổi mới
phương pháp dạy học. Tuy nhiên có nhiều giáo viên vẫn đang dạy theo lối
cũ, thầy nói trò nghe, không phát huy được vai trò chủ động sáng tạo của
học sinh. Giáo viên chưa hình thành hoặc chưa xác lập được những phương
pháp, biện pháp cụ thể khi dạy học phần văn học trung đại nói chung, thơ
Đường luật nói riêng.
Trong một cuộc điều tra với phạm vi nhỏ, chung tôi nhận thấy hầu
hết giáo viên đồng tình với những khó khăn trong dạy học thơ Đường luật
mà chúng tôi nêu ra. Họ cho rằng dạy học thơ Đường luật ở trung học cơ sở
hiện nay có rất nhiều khó khăn chứ không chỉ là một khó khăn cụ thể nào
đó. Tuy nhiên, việc học sinh ngày càng giảm hứng thú với môn học Ngữ
văn, nhất là với văn học trung đại được xem là khó khăn lớn nhất. Hơn nữa,
thời lượng dành cho một tiết học ít, trong khi đó cả giáo viên và học sinh
phải làm việc trên cả ba loại văn bản; cho nên rất khó để có thể tránh được


20

tình trạng “cháy giáo án” chứ chưa kể đến việc khơi dậy trong học sinh
những không khí thẩm mĩ.
Với rất nhiều thuận lợi cũng như khó khăn như vậy, việc dạy học thơ
Đường luật nói riêng, thơ văn trung đại nói chung cần được quan tâm nhiều
hơn nữa, đòi hỏi sự nỗ lực của học sinh và giáo viên phải tìm ra những
phương pháp, biện pháp cụ thể để tích cực hóa hoạt động của học sinh.
1.3. Mục tiêu hình thành tri thức thể loại từ dạy học thơ Đường luật
Theo cố thủ tướng Phạm Văn Đồng, để phù hợp với sự hiểu biết luôn
luôn thay đổi của mình con người phải thay đổi dần cách suy nghĩ, cách
học tập. Sự thay đổi đó, trong quá trình dạy học, là để giải quyết mâu thuẫn
giữa một bên là lượng tri thức của nhân loại ngày một tăng lên với một bên
là thời gian học tập văn hoá của học sinh không đủ đáp ứng. Mâu thuẫn đó
đòi hỏi phương pháp dạy học phải có mối quan hệ với sự định hướng mục
đích và tính chất xác định của mục đích, có liên quan đến nội dung. Trong
dạy học Ngữ văn nói chung, dạy học thơ Đường lật nói riêng cả người dạy
và người học đều phải xác định cho mình những mục tiêu về thể loại. Đó
chính là việc hình thành tri thức thể loại từ dạy học thơ Đường luật.
Từ năm 2000 trở về trước, trong chương trình văn học các cấp (đặc
biệt là ở bậc trung học phổ thông) các nhà biên soạn sách đều bố trí một số
bài về lí luận văn học. Tất nhiên là những tiết học này thường khô khan và
khó tiếp nhận nên học sinh cũng không hứng thú lắm. Cũng vì thế, khi tìm
hiểu tác phẩm, học sinh thường không để ý đến những biểu hiện của lí luận
văn học ở trong đó. Và kết quả là không thể phân tích những tác phẩm khác
có cùng hình thức thể loại bởi các em chỉ hiểu từng tác phẩm mà mình đã
được học.
Từ sau khi chương trình Ngữ văn mới ra đời và được dạy học trên
phạm vi cả nước, những tri thức về lí luận văn học được lồng một cách
khéo léo vào trong mỗi đơn vị bài học. Học sinh vì thế không cảm thấy khô
khan mà ngược lại lại biết thêm được một cách khám phá tác phẩm mới và



21
hiệu quả. Đây chính là một xu hướng mới, phù hợp với sự phát triển của
giáo dục thế giới.
Trong dạy học thơ Đường luật, mục tiêu hình thành tri thức thể loại
càng cần chú trọng. Bởi vì thơ Đường luật là một thể loại “khó tiếp nhận”.
Như đã biết, thơ Đường luật là một thể loại du nhập từ Trung Quốc vào
nước ta. Mặc dù thơ Nôm Đường luật đã được bản địa hoá cao độ nhưng
trong chương trình Ngữ văn trung học cơ sở, số luợng bài thơ Đường
Trung Quốc cũng khá lớn. Hơn nữa, đối tượng tìm hiểu tác phẩm lại là học
sinh còn nhỏ tuổi, sinh ra trong thời đại công nghệ cho nên cho dù những
tác phảm ấy có nổi tiếng, có xuất sắc và phù hợp với lứa tuổi đến đâu thì
cũng rất khó tiếp nhận đối với học sinh. Tuy vậy, đó không phải là khó
khăn lớn nhất khiến cho việc phải xác định mục tiêu hình thành tri thức thể
loại thơ này được đặt ra trước tiên. Nguyên nhân xuất phát từ thuộc tính
của thể loại.
Mỗi một thể loại văn học có những đặc điểm về hình thức và về nội
dung. Hiếm có thể loại nào mà đạt đến sự hàm súc, kín đáo như thơ Đường
luật. Bên cạnh việc học sinh phải tiếp xúc với nhiều loại văn bản trong
cùng một đơn vị bài học thì việc thường xuyên sử dụng điển tích, điển cố
làm tăng thêm tính hàm súc, cũng có nghĩa là tăng thêm sự khó hiểu đối
với học sinh trung học cơ sở. Vì vậy trong quá trình dạy học, những tri thức
về thơ Đường luật đưa đến cho học sinh hiểu thêm về văn bản. Tuy nhiên,
bao giờ cũng vậy, “học đi đôi với hành”. Trong và sau khi phân tích, tìm
hiểu thơ Đường luật, học sinh đã có được những tri thức tối thiểu về thể
loại thơ đặc biệt này. Đây vẫn không phải là mục đích cuối cùng của quá
trình dạy học. Cái đích mà các nhà sư phạm hướng tới là việc sau khi học
xong tác phẩm ấy, thể loại ấy, học sinh có thể vận dụng những tri thức đã
học vào việc tìm hiểu những tác phẩm khác hay không. Có như thế học
sinh mới có thể chủ động, tích cực trong công việc học tập và trong cuộc

sống sau này.


22
Tóm lại, thơ Đường luật là một thể loại khó dạy học. Trong thời đại
ngày nay cái khó đó lại càng nhiều hơn khi mà thời gian trôi qua làm
khoảng cách về thời gian cũng như không gian văn hoá giữa người tiếp
nhận và các tác phẩm càng xa. Nhưng quá trình dạy học thể loại thơ này
cũng có rất nhiều thuận lợi. Đó chính là mặc dù ra đời cách chúng ta nhiều
thế kỉ nhưng nhiều bài thơ Đường luật có giá trị thẩm mĩ và nhân văn sâu
sắc. Một khi người giáo viên có cách truyền thụ hiệu quả thì những tri thức
về thể loại sẽ in sâu trong trí nhớ của học sinh và các em sẽ có được cái vốn
cơ bản nhất làm hành trang cho việc học Ngữ văn ở những cấp học tiếp
theo.


×