Tải bản đầy đủ (.doc) (97 trang)

Giáo dục khoa cử nho học ở nghệ an từ thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XVIII

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (992.51 KB, 97 trang )


Trờng đại học vinh
Khoa lịch sử
Nguyễn thị lài

Khoá luận tốt nghiệp đại học

Giáo dục khoa cử nho học ở nghệ an từ
thế kỷ xvi đến cuối thế kỷ xviii
CHUYÊN NGàNH : LịCH Sử VIệT NAM

Giáo viên hớng dẫn: Th.S Hồ sỹ huỳ

VINH 2010

2


LỜI CẢM ƠN

Thực hiện đề tài này, tôi đã nhận được sự giúp đỡ tận tâm của thầy giáo
hướng dẫn - Thạc sĩ Hồ Sỹ Hùy và các thầy giáo, cô giáo trong khoa Lịch sử,
trường Đại học Vinh.
Nhân dịp này, tôi xin bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc tới thầy giáo hướng dẫn,
các thầy cô giáo và các bạn sinh viên đã tạo điều kiện thuận lợi cũng như đóng
góp nhiều ý kiến quý báu giúp tôi hoàn thành đề tài.
Dù bản thân đã có nhiều cố gắng và nhận được sự giúp đỡ tận tình nhưng
do năng lực và hiểu biết còn hạn chế nên không thể tránh khỏi những thiếu sót.
Kính mong các thầy cô giáo và bạn bè chỉ dẫn.
Tác giả
Nguyễn Thị Lài



3


Môc lôc

4


NHữNG CHữ VIếT TắT DùNG TRONG KHóA LUậN

1. Đệ nhất giáp Đệ nhất danh Tiến sĩ cập đệ viết tắt là Trạng nguyên
2. Đệ nhất giáp Đệ nhị danh Tiến sĩ cập đệ viết tắt là Bảng nhãn
3. Đệ nhất giáp Đệ tam danh Tiến sĩ cập đệ viết tắt là Thám hoa
4. Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân viết tắt là Hoàng giáp
5. Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân gọi là Tiến sĩ
6. Nhà xuất bản viết tắt là Nxb

1


Mở ĐầU
1. Lý do chọn đề tài :
Đến thời điểm này, nhân loại đã đi qua gần một thập kỷ của thế kỷ XXIthế kỉ mà kinh tế tri thức cùng với khoa học công nghệ đã chi phối mạnh mẽ đến
sự phát triển của xã hội loài ngời. Do đó yêu cầu đặt ra cho cả nhân loại nói
chung và mỗi quốc gia nói riêng là phải chiếm lĩnh tri thức, đem tri thức phục vụ
cuộc sống của mình. Vì vậy mà giáo dục và thi cử - đào tạo và tuyển lựa nhân tài
đóng một vai trò hết sức quan trọng trong đời sống xã hội.
Hiện nay ở nớc ta đang diễn ra nhiều vấn đề giáo dục khiến cả xã hội phải
quan tâm nh có hiện tợng tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo

dụcThêm vào đó l tình trạng thừa thầy thiếu thợ do tâm lí coi trọng bằng
cấp dẫn đến việc đào tạo mà không sử dụng hết. Trong những năm gần đây với
cuộc cải cách giáo dục lần thứ ba v đổi mới giáo dục, chất l ợng giáo dục, đào
tạo của nớc ta có đợc nâng lên song so với thế giới thì vẫn đang còn thấp. Hơn thế
nữa, hiểu biết của thế hệ trẻ nói chung, của học sinh, sinh viên nói riêng về lịch sử
dân tộc và lịch sử địa phơng là rất hạn chế. Điều đó làm cho kết quả thi Đại học,
Cao đẳng môn Lịch sử trong những năm gần đây trở thành một tâm điểm chú ý
của toàn xã hội. Do đó đặt ra một câu hỏi lớn là : phải làm thế nào để nâng cao
chất lợng giáo dục nói chung, giáo dục lịch sử nói riêng ?
Nghệ An là mảnh đất có truyền thống học hành thi cử từ lâu đời. Từ thế kỷ
XIII, mảnh đất này đã xuất hiện nhiều Nho sĩ làm việc và đóng góp sức mình cho
quốc gia Đại Việt. Sang thế kỷ XV, mặc dù ở xa kinh thành Thăng Long nhng
Nghệ An đã trở thành một trong những trung tâm văn hóa của cả nớc, nhất là ở
phía Nam quốc gia Đại Việt. Đến thế kỷ XIX, Nghệ An trở thành một trong
những trung tâm kinh tế, văn hóa hàng đầu cả nớc bên cạnh kinh đô Huế. Nơi đây
đã sản sinh ra nhiều Nho sĩ có những đóng góp to lớn cho lịch sử và văn hóa dân
tộc nh nhà sử học Hồ Tông Thốc, Hồ Sĩ Dơng ; nhà thơ Hồ Sĩ Đống, Phạm
Nguyễn Du, Hồ Xuân Hơng....; nhà yêu nớc Nguyễn Trờng Tộ, Phan Bội Châu,

2


Nguyễn i QuốcCác tên tuổi làm rạng danh quê hơng, đất nớc trên đều xuất
thân từ cửa Khổng sân Trình bởi nền giáo dục khoa cử Nho học ( trừ Nguyễn i
Quốc ).
Tinh thần hiếu học của cha ông từ thuở xa đã tạo nên cho Nghệ An một
truyền thống khoa bảng rạng rỡ v để lại nhiều bài học quý báu cho các thế hệ
sau về đức tính hiếu học, cần học cùng với một vốn tri thức phong phú.
Chính vì vậy mà tìm hiểu về tình hình giáo dục khoa cử Nho học ở Nghệ
An thời phong kiến là một việc làm cần thiết đối với thực tế hiện nay, nhất là giai

đoạn từ đầu thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XVIII - một khoảng thời gian dài chiến
tranh diễn ra liên miên, xã hội nhiễu nhơng nhng Nghệ An vẫn xuất hiện nhiều sĩ
tử nổi danh trong khoa bảng nớc nhà.
Là một ngời con xứ Nghệ, tác giả mong muốn có thể giúp cho mọi ngời có
một cái nhìn toàn diện và sâu sắc hơn về quá trình phát triển của giáo dục Nho
học Nghệ An trong giai đoạn thế kỉ XVI đến cuối thế kỉ XVIII. Từ đó thấy rõ hơn
vai trò, vị trí, ý nghĩa của giáo dục khoa cử Nghệ An trong sự nghiệp giáo dục
chung của cả nớc.
Là một sinh viên s phạm, tác giả đang chuẩn bị trở thành giáo viên giảng
dạy môn lịch sử. Vì vậy qua việc thực hiện đề tài này, tôi mong muốn sẽ giúp cho
mình hiểu rõ hơn về tình hình giáo dục khoa cử của tỉnh nhà. Từ đó có thể vận
dụng kinh nghiệm vào thực tiễn để giúp cho các em học sinh hiểu biết hơn và trân
trọng những giá trị tốt đẹp của quê hơng xứ Nghệ. Hơn thế nữa có thể giúp cho
các em ý thức đợc về vai trò, vị trí của mình, chăm chỉ học hành để tiếp tục tỏa
sáng truyền thống khoa bảng của cha ông.
Vì những lí do trên, tác giả mạnh dạn chọn đề tài Giáo dục khoa cử Nho
học ở Nghệ An từ thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XVIII làm đề tài khóa luận tốt
nghiệp cho mình.
2. Lịch sử vấn đề :
Dới thời phong kiến, các sĩ phu nớc ta rất có ý thức ghi chép về việc học
hành, thi cử và tiểu truyện của các nhà khoa bảng nh Đại Việt sử ký toàn th của
Ngô Sĩ Liên ; Thiên Nghệ văn chí trong Đại việt thông sử, Thiên Khoa cử
3


trong Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn ; đặc biệt là Thiên Văn tịch chí,
Nhân vật chí, Khoa mục chí trong Lịch triều hiến chơng loại chí của Phan
Huy Chú. Các tác phẩm trên đã ghi chép khá đầy đủ và tơng đối hệ thống về giáo
dục khoa cử Nho học ở nớc ta từ triều Lý cho đến trớc triều Nguyễn. Trong đó có
giai đoạn từ thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XVIII và có ghi chép về Nghệ An.

Trong những năm gần đây, đã xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu lịch
sử văn hóa và giáo dục của nớc nhà. Trong đó có các cuốn sách nh : Lợc truyện
các tác gia Việt Nam, Trần Văn Giáp (chủ biên), Nxb Văn học, Hà Nội, 2000 ;
Các nhà khoa bảng Việt Nam, Ngô Đức Thọ (chủ biên), Nxb Văn hóa, Hà Nội,
1993 ; Các vị Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa qua các triều đại phong kiến
Việt Nam, Trần Hồng Đức, Hội khoa học lịch sử Việt Nam, Nxb Văn hóa thông
tin, Hà Nội, 1999.
Hiện nay xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu khá toàn diện về giáo dục
khoa cử Nho học Việt Nam nh : Tìm hiểu nền giáo dục Việt Nam trớc 1945 của
Vũ Ngọc Khánh ( Nxb Giáo dục Hà Nội, 1985 ) ; Nho học ở Việt Nam giáo dục
và thi cử của Nguyễn Thế Long ( Nxb Giáo dục Hà Nội, 1995 ) ; Lịch sử giáo
dục Việt Nam trứơc Cách mạng tháng Tám 1945 ( Nguyễn Đăng Tiến chủ biên,
Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1996 ) ; Sự phát triển giáo dục và chế độ thi cử ở Việt
Nam thời phong kiến của Nguyễn Tiễn Cờng ( Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1998 ).
Các tác phẩm trên có đề cập tóm tắt ít nhiều tiểu sử và sự nghiệp của các
nhà khoa bảng Nghệ An. Tiểu sử, sự nghiệp của các Trạng nguyên, Bảng nhãn,
Thám hoa của Nghệ An từ thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XVIII đợc giới thiệu kỹ
trong các tác phẩm : Nghệ An ký của Bùi Dơng Lịch ( Nxb Khoa học xã hội,
1993) ; Đại Nam nhất thống chí, tập II của Quốc Sử Quán triều Nguyễn, (Nxb
Thuận Hóa, 2006 ) và các tác phẩm : Danh nhân Nghệ Tĩnh, Danh nhân
Nghệ An, Thanh Chơng huyện chí, Địa chí văn hóa huyện Quỳnh L u, Diễn
Châu 1380 năm lịch sử - văn hóa - nhân vật, Nghệ An lịch sử và văn hóa.
Nghiên cứu kĩ hơn về giáo dục thi cử ở Nghệ An có cuốn Khoa bảng
Nghệ An (1075-1919) của Đào Tam Tỉnh (Sở văn hóa thông tin Nghệ An, xuất

4


bản năm 2000). Tác phẩm đã đề cập nhiều mặt tình hình giáo dục, thi cử Nho học
ở Nghệ An từ 1075 1919 nh trờng thi hơng Nghệ An, văn miếu Nghệ An ; tinh

thần hiếu học, tôn s trọng đạo của sĩ tử xứ Nghệ, danh mục những vị đậu đại
khoa, những ông Nghè, ông Cống Nghệ An qua các thời kỳ lịch sử.
Gần đây có một số khóa luận tốt nghiệp Đại học chuyên ngành Lịch sử
Việt Nam và luận văn Thạc sĩ sử học của trờng Đại học Vinh viết về giáo dục
khoa cử Nho học ở Nghệ An nh :
Khoa cử làng Quỳnh Đôi 1449- 1919 của Hồ Thị Thanh Hờng, khóa luận
tốt nghiệp.
Giáo dục khoa cử Nho học Nghệ Tĩnh thời Nguyễn (1802 1919) của Hồ
Sỹ Hùy, luận văn Thạc sĩ khoa học Lịch sử.
Giáo dục và khoa cử Nam Đàn (Nghệ An) từ Lê sơ đến Nguyễn ( 1428
1919 ) của Nguyễn Văn Trung, luận văn Thạc sĩ khoa học Lịch sử.
Các công trình nghiên cứu và các tác phẩm kể trên đã giúp cho tác giả có
hớng nghiên cứu về đề tài của mình. Khóa luận có sự kế thừa các tài liệu ở trên
nhằm phục dựng lại bức tranh toàn cảnh về giáo dục thi cử Nho học ở Nghệ An từ
thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XVIII.
3. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu :
Từ thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XVIII, địa giới hành chính Nghệ An bao
gồm lãnh thổ của hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh ngày nay. Tuy nhiên trong đề tài
này, tác giả chỉ giới hạn nghiên cứu vấn đề trong phạm vi tỉnh Nghệ An ngày nay.
Tức là tìm hiểu tình hình học tập, thi cử Nho học ở Nghệ An từ hệ thống trờng
công đến các trờng t ở các địa phơng ; những gơng mặt Nho sĩ tiêu biểu ; một số
dòng họ khoa bảng ; đóng góp của kẻ sĩ Nghệ An và đặc điểm giáo dục, thi cử
Nho học và kẻ sĩ Nghệ An.
Về khung thời gian, đề tài có khảo sát truyền thống khoa bảng ở Nghệ An
từ 1266 ( khoa thi đầu tiên có ngời Nghệ An đậu đại khoa ) đến trớc thế kỷ XVI
nhng chủ yếu tập trung tìm hiểu giáo dục khoa cử Nho học ở Nghệ An từ thế kỷ
XVI đến cuối thế kỷ XVIII (từ khi nhà Mạc tổ chức khoa thi đầu tiên vào năm
1529 cho đến cuối thời Tây Sơn 1789).
5



4. Phơng pháp nghiên cứu :
Khóa luận này tác giả sử dụng hai phơng pháp nghiên cứu chủ yếu là phơng pháp lịch sử và phơng pháp logic.
Phơng pháp lịch sử dùng để trình bày sự kiện, tiểu sử nhân vật ; tình hình
học tập, giảng dạy và thi cử của thầy và trò Nghệ An theo trình tự thời gian.
Phơng pháp lôgíc dùng để rút ra đặc điểm, bản chất, nét riêng về giáo dục
thi cử ở Nghệ An để có cái nhìn toàn diện và khái quát khi nghiên cứu.
Ngoài hai phơng pháp trên, tác giả còn sử dụng phơng pháp so sánh, tổng
hợp, thống kê toán học khi nghiên cứu đề tài.
5. Đóng góp của khóa luận :
Khóa luận trình bày tình hình học tập, thi cử cũng nh đóng góp của sĩ tử
Nghệ An từ thế kỉ XVI đến cuối thế kỉ XVIII. Qua đó giúp ngời đọc nhìn nhận
một cách khá toàn diện về giáo dục, khoa cử Nho học ở Nghệ An trong một giai
đoạn có nhiều biến động về lịch sử xã hội. Tác giả cũng rút ra những đặc điểm
của giáo dục khoa cử và đặc điểm của kẻ sĩ Nghệ An. Từ đó thấy đợc nét khác
nhau giữa giáo dục khoa cử và sĩ tử Nghệ An trong giai đoạn này so với các giai
đoạn trớc và sau đó.
Tác giả có điểm qua tiểu sử và sự nghiệp của một số Nho sĩ tiêu biểu, có
đóng góp lớn cho lịch sử dân tộc và lịch sử địa phơng trong giai đoạn này. Vì thế
những ngời yêu thích lịch sử địa phơng có thể tìm hiểu, hiểu thêm về các Nho sĩ,
các tác gia tiêu biểu khi đọc khóa luận. Đồng thời, đây cũng là một nguồn t liệu
góp phần giáo dục truyền thống hiếu học, tôn s trọng đạo của quê hơng và phục
vụ cho việc giảng dạy lịch sử địa phơng ở trờng phổ thông.
6. Bố cục của khóa luận :
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phần phụ lục, phần nội
dung khóa luận gồm có 3 chơng :
Chơng 1: Khái quát về điều kiện tự nhiên, lịch sử văn hóa và truyền thống
khoa bảng Nghệ An trớc thế kỷ XVI.
Chơng 2: Tình hình học tập, thi cử Nho học và đóng góp của Nho sĩ Nghệ
An từ thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XVIII.

6


Chơng 3: Đặc điểm giáo dục khoa cử Nho học và kẻ sĩ Nghệ An từ thế kỷ
XVI đến cuối thế kỷ XVIII.

7


NộI DUNG
CHƯƠNG 1
KHáI QUáT ĐIềU KIệN Tự NHIÊN, LịCH Sử VĂN HóA Và TRUYềN
THốNG KHOA BảNG NGHệ AN TRƯớC THế Kỷ XVI
1.1. Điều kiện địa lý tự nhiên :
Nghệ An là tỉnh thuộc khu vực Bắc Trung Bộ, cùng với các tỉnh Thanh
Hóa, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị làm thành chiếc đòn gánh, gánh hai đầu
đất nớc. Lãnh thổ Nghệ An (phần đất liền) nằm trong tọa độ địa lý từ 18 o 3322
đến 19o 5958 độ vĩ Bắc và từ 103o5215 đến 105o 4817 độ kinh Đông. Phía
Bắc giáp tỉnh Thanh Hóa với đờng biên dài 196,13km; phía Nam giáp tỉnh Hà
Tĩnh với đờng biên dài 92,6km; phía Tây giáp ba tỉnh Xiêng Khoảng, Hủa Phăn
và Bôlikhămxây của Lào với đờng biên giới dài 419km; phía Đông tiếp giáp với
biển Đông và có đờng bờ biển dài 82km.
Toàn tỉnh có diện tích đất tự nhiên 16487,39 km2 và là một trong những
tỉnh có diện tích đất tự nhiên lớn nhất nớc ta. Địa hình Nghệ An tơng đối đa dạng,
phức tạp và bị chia cắt mạnh thành nhiều kiểu địa hình; vừa có núi cao và núi
trung bình, vừa có đồng bằng và vùng ven biển, trong đó phần đồi núi bao trùm
83% diện tích của tỉnh. Độ dốc địa hình của Nghệ An thoải dần từ Đông Bắc
xuống Tây Nam. Trong đó cao nhất là đỉnh núi Phuxailaileng (2711m) thuộc
huyện Kỳ Sơn và thấp nhất là vùng đồng bằng các huyện Diễn Châu, Yên Thành,
Quỳnh Lu.

Nghệ An nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa nên chịu ảnh hởng
mạnh của nhiều hệ thống thời tiết. Hàng năm từ tháng 4 đến tháng 8 dơng lịch,
Nghệ An chịu ảnh hởng mạnh của gió mùa Tây Nam khô và nóng; từ tháng 11
đến tháng 3 năm sau có gió mùa Đông Bắc lạnh và ẩm ớt. Khí hậu chia thành bốn
mùa rõ rệt : mùa Xuân thờng nghèo màu sắc, hiếm âm thanh; mùa Hè đến nắng
nóng làm đất đồi nứt nẻ, bụi tỏa mù trời; mùa Thu vào khoảng tháng 7, tháng 8
âm lịch hay có bão và lũ lụt; mùa Đông thì rả rích ma ngâu (ma phùn) làm cho
8


thời tiết lạnh lẽo, ủ dột. Thiên nhiên Nghệ An tạo nên một cảnh tởng đẹp song
cũng khắc nghiệt với con ngời nơi đây. Đó là khi hạn đến thì nắng cháy đồng
nung đá khiến ruộng nẻ, bàu khô, còn khi ma xuống thì lại thối đất, thối cát.
Có thể nói thiên tai không chỉ riêng Nghệ An nhng đi dọc chiều dài đất nớc
không có nơi nào mà thời tiết lại khắc nghiệt nh vùng đất phên dậu, viễn trấn
này.
Về tài nguyên, khi xa các nhà viết phong thổ ký cho rằng Nghệ An không
đợc tạo hóa cu mang nhng đó là một số mặt về nông nghiệp và là cách nhìn của
tiền nhân khi khoa học kỹ thuật cha phát triển. Đứng về nhiều mặt mà nói, thiên
nhiên đã không chỉ hoàn toàn bạc bẽo với Nghệ An. Nơi đây vẫn có nguồn tài
nguyên đất, rừng, biển, sông ngòi, khoáng sảncó giá trị phục vụ cho các hoạt
động sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, lâm nghiệp
Đánh giá chung về điều kiện tự nhiên Nghệ An, Phan Huy Chú cho rằng
Nghệ An là nơi có núi cao, sông sâu, cảnh vật tơi sáng. Gọi là đất có danh tiếng
hơn cả ở Nam Châu; còn Nghệ An ký chép : xứ Nghệ An gần núi giáp biển,
đất đai sỏi sạn, cằn cỗi lại không có mấy nơi bằng phẳng rộng rãi [20;219]. Có
thể nói thiên nhiên vừa khắc nghiệt vừa u đãi đã tạo nên nét riêng của con ngời xứ
Nghệ. Cuộc sống khó khăn, vất vả buộc họ phải vơn lên và điều đó cũng ảnh hởng lớn đến việc học hành, thi cử trên mảnh đất này.
1.2. Các đơn vị hành chính Nghệ An qua các thời kì lịch sử :
Cách ngày nay khoảng trên 20 vạn năm, trên mảnh đất Nghệ An đã có con

ngời sinh sống. Đó là ngời vợn đang ở trong quá trình tiến hóa cuối cùng để trở
thành ngời hiện đại. Dấu vết ngời vợn tìm thấy ở hang Thẩm ồm (xã Châu Thuận
huyện Quỳ Châu) là một bằng chứng chứng minh cho sự tồn tại của cái nôi
loài ngời trên mảnh đất xứ Nghệ nói riêng và Việt Nam nói chung.
Tiếp đó là sự tồn tại của c dân các bộ lạc Quỳnh Văn ven biển Quỳnh Lu
vào thời kỳ đồ đá mới. Vào cuối thời kỳ đá mới, với nền văn hóa Bàu Tró, khảo
cổ học cũng đã tìm thấy dấu vết của văn hóa Bàu Tró tại nhiều nơi trên đất Nghệ
An nh Trại ổi (Quỳnh Hồng - Quỳnh Lu), Rú Ta (Diễn Thọ - Diễn Châu),

9


Nghệ An cũng là mảnh đất có nhiều di tích của văn hóa Đông Sơn nh Đồng
Mỏm (Diễn Thọ - Diễn Châu), Làng Vạc (Nghĩa Tiến - Nghĩa Đàn). C dân văn
hóa Đông Sơn trên mảnh đất Nghệ An đã tạo dựng đợc cho mình một đời sống
vật chất và tinh thần phong phú, góp phần tạo dựng nên nền văn minh Văn Lang Âu Lạc.
Sau khi Triệu Đà chiếm đợc nớc ta ( năm 179 trớc công nguyên ), Nghệ An
đã có nhiều thay đổi về mặt tên gọi cũng nh địa giới hành chính. Nghệ An và Hà
Tĩnh ngày nay là hai tỉnh nhng trớc đây có khi là một châu, một quận, một trấn,
môt tỉnh; có khi lại là hai châu, hai quận, hai trấn, hai tỉnh.
Chiếm đợc Âu Lạc, Triệu Đà chia nớc ta thành hai quận là Giao Chỉ và Cửu
Chân sáp nhập vào nớc Nam Việt. Giao Chỉ là Bắc Bộ ngày nay còn Cửu Chân
nay là vùng Thanh - Nghệ - Tĩnh.
Nhà Hán chia nớc ta thành 3 quận là Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam.
Quận Cửu Chân có 7 huyện trong đó huyện lớn nhất là Hàm Hoan tơng ứng với
Nghệ An và Hà Tĩnh ngày nay.
Nhà Ngô tách hẳn phía Nam quận Cửu Chân tơng đơng với Hàm Hoan cũ
đặt thành quận Cửu Đức gồm 6 huyện. Trong đó huyện Hàm Hoan, đa số huyện
Cửu Đức và một phần huyện Dơng Thành ngày nay là đất Nghệ An; phần các
huyện còn lại nay thuộc tỉnh Hà Tĩnh.

Đầu thế kỉ thứ VI, Giao Châu thuộc nhà Lơng. Lơng Vũ Đế đã chia Giao
Châu cũ thành nhiều châu huyện mới, đổi Cửu Chân thành ái Châu và Cửu Đức
thành Đức Châu. Nhà Tùy lên thay lại đổi Đức Châu làm Hoan Châu. Đến Tùy Dỡng Đế thì Giao Châu đợc chia thành 7 quận, trong đó Nhật Nam gồm 8 huyện thì
huyện Cửu Đức tơng ứng với phần đất Nghệ An cũ ( tức là Đức Châu).
Năm 618 nhà Đờng đổi các quận thành Châu nh cũ. Năm 622 đổi Giao
Châu thành An Nam tổng quản phủ lĩnh 10 châu. Nhật Nam đổi thành châu Nam
Đức lãnh 6 huyện. Năm 628 đổi Nam Đức thành Đức Châu rồi lại trở về tên gọi
Hoan Châu. Năm 679, nhà Đờng đặt An Nam đô hộ phủ. Vùng Nghệ Tĩnh lúc đó
gồm 2 châu là Diễn Châu và Hoan Châu; Diễn Châu nằm trọn trong phần đất
Nghệ An hiện nay, còn phía Bắc Hoan Châu ngày nay là phía Nam Nghệ An. Dới
10


thời Lý nớc ta đợc chia thành lộ, phủ, huyện, hơng, giáp. Nghệ An và Thanh Hóa
đợc gọi là trại với ý chỉ đó là những vùng xa xôi cha đợc khai hóa bao nhiêu.
Năm 1010, nhà Lý chia nớc ta thành 24 lộ thì Diễn Châu và Hoan Châu là hai lộ.
Năm Thiên Thành thứ ba (1030) Lý Thái Tông cho đổi Hoan Châu thành Châu
Nghệ An và tên gọi Nghệ An bắt đầu từ đó. Đến năm 1101, Lý Nhân Tông nâng
châu Nghệ An lên thành phủ Nghệ An.
Nửa sau thế kỷ XIV, nhà Trần đã đổi Nghệ An làm trấn Nghệ An. Sau cải
cách của Hồ Quý Ly, trấn Nghệ An đợc đổi thành trấn Lâm An, còn phủ Nghệ
An đợc đổi thành trấn Vọng Giang, một thời gian sau lại đổi là phủ Linh Nguyên.
Thời Lê, năm 1428 Lê Lợi chia cả nớc thành 5 đạo. Nghệ An lúc đó thuộc
đạo Hải Tây. Năm 1466 , Lê Thánh Tông định lại bản đồ cả nớc để thông thuộc
các huyện vào các thừa tuyên, Châu Hoan (phía Nam Nghệ An và Hà Tĩnh ngày
nay) và Châu Diễn hợp thành thừa tuyên Nghệ An gồm 9 phủ, 25 huyện và 2
châu; năm 1490 đổi làm xứ; đời Hồng Thuận (1509 1516) đổi làm trấn.
Thời Tây Sơn, Quang Trung đặt Nghệ An làm Trung Đô, lại gọi là trấn
Nghĩa An. Nhà Nguyễn vẫn gọi cả xứ Nghệ là trấn Nghệ An. Năm Minh Mệnh
thứ 12 (1831) cuộc cải cách hành chính đựoc tiến hành đã đặt hai tỉnh là Nghệ An

và Hà Tĩnh.
Năm 1976, công cuộc thống nhất nớc nhà đợc hoàn thành đã sáp nhập
Nghệ An và Hà Tĩnh thành tỉnh Nghệ Tĩnh. Đến năm 1991, lại tách Nghệ Tĩnh
thành 2 tỉnh với tên gọi và địa giới hành chính nh ngày nay.
Hiện tại (tính đến tháng 5 - 2010) Nghệ An gồm có 20 đơn vị hành chính
gồm: thành phố Vinh; thị xã Cửa Lò và thị xã Thái Hòa; 10 huyện miền núi là
Thanh Chơng, Kỳ Sơn, Tơng Dơng, Con Cuông, Anh Sơn, Tân Kỳ, Quế Phong,
Quỳ Hợp, Quỳ Châu, Nghĩa Đàn và 7 huyện đồng bằng là Đô Lơng, Nam Đàn,
Hng Nguyên, Nghi Lộc, Diễn Châu, Yên Thành, Quỳnh Lu.
1.3 Điều kiện lịch sử - văn hóa :
1.3.1 Điều kiện lịch sử :
Nghệ An là mảnh đất có truyền thống lịch sử, văn hóa lâu đời song song
với chiều dài lịch sử đất nớc. Thiên nhiên khắc nghiệt, không thực sự u đãi đã rèn

11


luyện cho con ngời xứ Nghệ đức tính bền bỉ, gan góc, sức chịu đựng với nghị lực
cao, sự cần kiệm trong cuộc sống, không thích xa hoa, thơng yêu đùm bọc lẫn
nhau khi khó khăn, hoạn nạn. Các tác giả Đại nam nhất thống chí nhận xét
dân nghèo, tập tục cần kiệm, nhà nông chăm chỉ ruộng n ơng, học trò a chuộng
học hành [26;168].
Cuộc sống nhiều khó khăn, thử thách đã góp phần tạo nên tính cách và nghị
lực của con ngời xứ Nghệ. Thiên nhiên xinh đẹp nhng dữ dằn đã tạo nên ở con
ngời Nghệ An sự kiên cờng trong cuộc sống mu sinh và bảo vệ đất nớc nơi mảnh
đất viễn trấn này. Sách Lịch triều hiến chơng loại chí chép: Nơi đây
phong tục trọng hậu, cảnh tợng tơi sáng gọi là đất có danh tiếng hơn cả ở Nam
Châu. Ngời thì hiền hòa mà chăm học, sản vật thì nhiều thức quý của lạNhững
vị thần ở núi, ở biển có tiếng linh thiêng. Đợc khí tốt của sông núi nên sinh ra
nhiều bậc danh hiền, thực là nơi hiểm yếu nh thành đồng ao nóng của nớc

nhà và là then khóa của các triều đại [6;63].
Trên lãnh thổ Nghệ An từ ngời vợn ghè đá ở hang Thẩm ồm, ngời Quỳnh
Văn sống bằng sò điệp và biết làm đồ gốm rồi ngời Làng Vạc biết chế tạo đồ
đồng, ngời Nho Lâm rèn sắt, hơn 20 vạn năm đã trôi qua. Khoảng thời gian đó tổ
tiên ta trên đất Nghệ An đã bền bỉ, gian khổ vật lộn với thiên nhiên để tồn tại và
bản thân con ngời cũng phát triển, trí tuệ đợc mở mang, tổ tiên ta đã xây dựng
một nền văn hóa đa dạng, rất đỗi tự hào.
Mảnh đất Nghệ An từ thời Bắc thuộc đến nay cũng đã chứng kiến bao đổi
thay, thăng trầm của lịch sử.
Dới thời Bắc thuộc và chống Bắc thuộc, ở Nghệ An đã bùng nổ cuộc khởi
nghĩa do Mai Thúc Loan lãnh đạo (713 - 722) làm rung chuyển cả An Nam đô hộ
phủ của nhà Đờng.
Trong 10 thế kỷ độc lập tự chủ tiếp theo, Nghệ An là nơi diễn ra nhiều trận
đánh tiêu biểu trong lịch sử dân tộc :

12


Trong cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ hai (1285) khi đại
quân và triều đình phải rút khỏi Thăng Long, vua Trần Nhân Tông đã đặt cả niềm
tin vào đội quân hậu bị hùng hậu của Nghệ An khi viết lên thuyền hai câu thơ :
Cối Kê cựu sự quân tu ký
Hoan Diễn do tồn thập vạn binh.
(Chuyện cũ Cối Kê ngời hẵng nhớ
Hoan Diễn còn kia mời vạn quân).
Đầu thế kỷ XV, Nghệ An là căn cứ địa trong khởi nghĩa của Trần Ngỗi
(1407 - 1427), Trần Quý Khoáng (1409 - 1413) và là đất đứng chân của khởi
nghĩa Lam Sơn (1418 - 1427).
Vào thế kỷ XIX, các tác giả sách Đại Nam nhất thống chí có nhận xét về
Nghệ An Địa thế rộng rãi, chính là đất xung yếu giữa Nam và Bắc [26;144].

Nửa sau thế kỷ XIX, nhân dân Nghệ An liên tục nổi dậy chống triều đình
đầu hàng và thực dân Pháp xâm lợc dới ngọn cờ của Trần Tấn, Đặng Nh Mai,
Nguyễn Xuân Ônvà giơng cao khẩu hiệu: phen này quyết đánh cả triều lẫn
Tây.
Trong phong trào vận động giải phóng dân tộc (1930 1945) nhân dân
Nghệ An và Hà Tĩnh đã làm nên một Nghệ Tĩnh đỏ trong trang sử vàng của
dân tộc.
Từ 1945 đến nay, nhân dân Nghệ An đã có những đóng góp to lớn về sức
ngời, sức của đối với sự nghiệp cách mạng chung của cả dân tộc.
1.3.2 Điều kiện văn hóa:
ở phần trớc chúng ta đã biết Nghệ An là vùng đất cổ, vùng đất sớm có sự
giao lu văn hóa Bắc Nam. C dân Nghệ An là c dân bản địa đã từng tồn tại và
phát triển qua một thời gian dài hàng chục vạn năm. Địa bàn c trú ban đầu của
ngời Nghệ cổ xa là ở miền núi (hang Thẩm ồm)Dần dần cùng với sự phát triển
của công cụ sản xuất và quá trình chinh phục tự nhiên mà họ đã mở rộng địa bàn
sinh sống xuống các vùng trung du, đồng bằng, miền biển.

13


Trong quá trình phát triển của mình, ngoài c dân bản địa, Nghệ An còn có
sự nhập c của nhiều nơi khác nh từ Bắc vào, từ Nam ra, từ Trung Quốc sang.
Chính điều đó đã làm cho Nghệ An trở thành nơi hội tụ của nhiều dòng họ và văn
hóa dòng họ khác nhau. Theo tài liệu Dân c và xã hội Nghệ An thì năm 1990,
Nghệ An có 341 họ kể cả các họ của các dân tộc ít ngời ở miền núi [16;17].
Nghệ An có các dòng họ lâu đời nh họ Hồ, họ Ngô, họ Trần, họ NguyễnCác
dòng họ đã cùng nhau chung lng đấu cật trong cuộc đấu tranh chống chọi lại với
thiên tai cũng nh giặc giã ngoài mặt trận, viết lên những trang sử đẹp cho Nghệ
An nói riêng và đất nớc Việt Nam nói chung.
Môi trờng tự nhiên và xã hội Nghệ An vừa u đãi vừa thử thách,đã hun đúc

cho truyền thống cần cù, chăm chỉ, hiếu học và đức tính thông minh,sáng tạo của
con ngời xứ Nghệ. C dân Nghệ An, Hà Tĩnh là chủ nhân của nền văn hóa dân
gian phát triển rực rỡ với nhiều thể loại nh ca dao, tục ngữ, hát ví, hát dặm, truyện
cời, truyện cổ tích
Nghệ An cũng là đất văn vật. Con ngời nơi đây đã bao đời nổi tiếng thông
minh, hiếu học và khổ học, có trí tuệ trong sáng, trọng đạo lý làm ngời, gần gũi
với nhân dân, dám chống lại những điều sai trái chốn quan trờng. Đó là tính cách
của nhà Nho xứ Nghệ mà nhiều bà con xứ khác phải khâm phục. Sách Đại Nam
nhất thống chí nhận định: học trò Nghệ An chuộng khí tiết, nhiều ngời hào mại,
có chí chăm học, văn chơng thì dùng lời lẽ cứng cáp, không cần đẹp lời.
Chính những điều kiện tự nhiên, điều kiện lịch sử văn hóa trên đã tạo nên nét
riêng của con ngời xứ Nghệ. Điều đó cũng góp phần giúp cho học trò và Nho sĩ
Nghệ An tạo dựng cho mình truyền thống khoa bảng rục rỡ, vẻ vang.
1.4 Truyền thống khoa bảng :
Năm 1070, Lý Thánh Tông đã cho lập văn miếu; đắp tợng Khổng Tử, Chu
Công và 72 vị tiên hiền để thờ. Năm 1075, Lý Nhân Tông mở khoa thi Tam Trờng
đầu tiên gọi là Minh kinh bác học để tuyển chọn nhân tài cho hệ thống quan lại.
Với những việc làm nh vậy, nhà Lý đã khẳng định sự lựa chọn Nho giáo trong
việc giáo dục và tuyển lựa nhân tài cho quốc gia. Trong thời gian sau đó, học trò

14


và kẻ sĩ Nghệ An đã có những đóng góp to lớn cho đất nớc với những tên tuổi nh
Bạch Liêu, Hồ Tống Thốc, Tống Tất Thắng, Đinh Bạt Tụy, Ngô Trí Tri, Ngô Trí
Hòa, Hồ Sĩ Dơng, Hồ Phi Tích, Hồ Sĩ ĐốngNgời xa thờng nói : Nghệ An là đất
địa linh nên nhân kiệt cũng là vì vậy.
Dới thời Lý - Trần, Nghệ An còn là vùng đất trại xa kinh thành Thăng
Long nên việc học hành, thi cử cha theo kịp với các lộ phủ ngoài Bắc. Sử cũ chép
lại năm 1256, nhà Trần đã đặt lệ lấy hai Trạng nguyên: một Kinh Trạng nguyên

cho các lộ phủ phía Bắc( dành cho 4 trấn: Sơn Nam, Kinh Bắc, Hải Dơng, Sơn
Tây) và một Trại Trạng nguyên (cho vùng Thanh Hóa, Nghệ An) nhằm khuyến
khích việc học hành, thi cử của sĩ tử ở những vùng xa kinh đô. Đến năm 1275, do
thật sự không cần thiết nên lệ này bị bãi bỏ, chỉ lấy một Trạng nguyên cho cả nớc.
Khoa thi năm Bính Dần (1266), Bạch Liêu ở huyện Đông Thành đã đậu Trại
Trạng nguyên, trở thành ngời khai khoa cho đất Nghệ An.
Đến thế kỉ XV, khi triều đình Lê sơ lập trờng thi Hơng ở Nghệ An thì các sĩ
tử ở Nghệ An mới có điều kiện học tập và thi cử nhiều hơn nên có nhiều thành
tích hơn trong sự nghiệp giáo dục thi cử nớc nhà. Tuy vậy suốt thời Lê sơ (1428 1527), giáo dục khoa cử thịnh đạt, xứ Nghệ (cả Nghệ An và Hà Tĩnh ngày nay)
mặc dù đã có Bảng nhãn Lê Quảng Chí (đậu năm 1478), Bảng nhãn Trần Bảo Tín
(đậu năm 1511), Thám Hoa Cao Quýnh (đậu năm 1475) nhng chỉ có 50 Tiến sĩ
trong tổng số 988 Tiến sĩ của cả nớc (tỉ lệ hơn 5 %). Mặc dù tỉ lệ còn thấp song
điều đó cũng cho thấy rằng khoa cử Nghệ An đã bớc đầu xác lập đợc vị trí của
mình trong nền giáo dục khoa cử nớc nhà.
Nói về truyền thống khoa bảng Nghệ An, nhà văn Đặng Thai Mai nhận xét :
khi mà chế độ khoa cử còn thịnh, cơ hồ mỗi làng đều nhìn thấy trong núi của
mình một cái bảng, một cái quản bút, một cái án th Chúng ta cũng thấy rằng
Nghệ An có rất nhiều địa danh gắn liền với việc học hành, thi cử nh Nho Lâm,
Bút Điền, Bút Trận, Văn Hiến, Th Phủ (Diễn Châu); Bút Luyện, Văn Khai, Tam
Khôi (Quỳnh Lu); Văn Khuê, Văn Trờng (Đô Lơng); Khoa Cử, Khoa Trờng
(Nam Đàn)

15


Có thể thấy rõ mỗi tơng quan giữa tình hình khoa bảng Nghệ An trớc khi
nhà Mạc đợc thành lập (1527) với khoa cử cả nớc thông qua bảng thống kê sau
đây :
Bảng 1: Tình hình khoa bảng ở Nghệ An (1075 - 1527)
Số

khoa Số ngời đậu Trạng
Triều đại

Bảng nhãn

Thám hoa

thi
nguyên
Tổng Tổng Nghệ Tổng Nghệ Tổng Nghệ Tổng Nghệ
số

số

An

số

An

số

An

số

An

_


11

_

0

0

0

0

0

0

_

50

_

9

2

5

0


7

0

_

14

_

0

0

0

0

0

0

31

1006

_

21


0

21

0

21

1

Cộng

31

1081

_

30

2

26

0

28

1


Tỉ lệ (%)

100

100

_

100

6,7

100

0

100

3,6


(1075-1225)
Trần
(1226-1400)
Hồ
(1400-1407)
Lê sơ
(1428-1527)

Bảng thống kê trên đây đợc lập căn cứ vào cuốn sách Các nhà khoa bảng

Việt Nam (1075 1919) của Ngô Đức Thọ và cuốn Khoa bảng Nghệ An của
Đào Tam Tỉnh và chỉ tính các vị đậu Tam khôi ở Nghệ An (không tính danh mục,
số lợng các Tiến sĩ đợc chép trong trong phần Bổ di của sách Khoa bảng Nghệ
An).
1.5 Một số Nho sĩ tiêu biểu ở Nghệ An trớc thế kỷ XVI.

16


Trớc thế kỷ XVI, ở Nghệ An đã có nhiều Nho sĩ học rộng, tài cao, có nhiều
đóng góp cho lịch sử và văn hóa dân tộc. Sau đây là tóm tắt tiểu sử và sự nghiệp
của một số Nho sĩ tiêu biểu.
Trớc hết là tiểu sử và sự nghiệp của các vị Tam khôi :
1.Trạng nguyên Bạch Liêu (1236-1315).
Ngời làng Nguyễn Xá - huyện Đông Thành (nay là huyện Yên Thành).
Năm Thiệu Long thứ 9 (1226) ông đỗ Trại Trạng nguyên, là ngời đầu tiên khai
khoa cho cả xứ Nghệ và đợc ghi tên ở đầu bảng vàng. Trong khẩu truyền dân gian
cũng nh văn tự chính thống nói về các nhà khoa bảng của Nghệ Tĩnh đều tôn
Bạch Liêu là vị thủy tổ khai khoa cho cả xứ mình :
Trạng nguyên đệ nhất Tam Khôi
Nhất danh nhất giáp, đầu ngôi bảng vàng
Mũ rồng áo tía vua ban
Lọng xanh đi trớc, lọng vàng đi sau[2;5]
Sách Đại Việt sử ký tiền biênchép về sự kiện Bạch Liêu đỗ đạt nh sau :
Tháng ba, mở khoa thi chọn học trò, cho Trần Cố đỗ Kinh Trạng nguyên, Bạch
Liêu đỗ Trại Trạng nguyên,47 ngời đỗ Thái học sĩ, cho xuất thân thứ bậc khác
nhau. Liêu ngời Nghệ An, trí thông minh, nhớ lâu, đọc sách liếc mắt là đợc 10
dòng [17;26]. Nghệ An ký của Bùi Dơng Lịch cũng khen ông là ngời minh
mẫn, có trí nhớ tốt, chăm chỉ học hành.
Theo thờng lệ thì các sĩ tử sau ngày vinh quy bái tổ đều có chiếu chỉ triều

đình do nhà vua ban mời vào triều nhận chức nhng Bạch Liêu thì không mong
muốn nh vậy. Ông đã bái tạ chiếu chỉ nhà vua bằng một sự khớc từ rất chân thực:
xin bệ hạ rủ lòng thơng cho thần đợc ở lại quê nhà để báo hiếu song thân, thần
xin đem tài lợc lo giúp việc công ngay trong bản xứ [17;7]. ý nguyện của Bạch
Liêu đợc vua Trần chấp nhận và ông đã nhận lời làm môn khách đặc biệt cho
Chiêu Minh Vơng Trần Quang Khải khi làm quản hạt Nghệ An. Ông đã giúp
Trần Quang Khải kế sách lâu dài trong việc chống xâm lợc Nguyên Mông. Kế
sách đó đợc gọi là Biến pháp tam chơng, nay vẫn còn đợc lu truyền trong dòng

17


họ Bạch và một số tài liệu địa phơng. Về tuyển quân ông hiến kế : vừa có quân thờng trực, vừa có hơng quân ; về lơng thực ông đề nghị tăng dần niên liệm, quyên
góp khoản phụ thu để cứu nớc, tích trữ từ ít đến nhiều, từ thiếu đến đủ; về sách lợc đối phó với Cham pa, ông đề nghị trần Quang Khải xây dựng, củng cố các
đoàn binh ở biên giới phía nam Nghệ An, đồng thời cho nông dân đi khai khẩn
những vùng đất bỏ hoang của ngời Chiêm Thành, đi tới đâu, lập làng tới đó. Trần
Quang Khải đã thực hiện chính sách của Bạch Liêu, góp phần to lớn vào chiến
thắng quân Nguyên Mông vào năm 1288.
Sau đại thắng Nguyên Mông, Bạch Liêu đợc cử đi sứ nhà Nguyên. Đi sứ
về ông sống và làm nghề dạy học ở xã Nghĩa L, huyện Thanh Lâm, tỉnh Hải Dơng. Học trò của ông có nhiều ngời thành dạt. Tuổi già Bạch Liêu về quê sống
một thời gian thì mất. Nhân dân địa phơng đã tôn thờ ông là Phúc thần : Đền thờ
ông ở núi Động Sơn có lu câu đối.
Sinh tiền bất sỉ Đông A đế
Mật hậu năng vi, Nguyễn Xá thần.
Có nghĩa là :
Sống không nhận quan tớc của vua Đông A
Chết đợc làm phúc thần của nhân dân Nguyễn Xá.
2. Trạng nguyên Hồ Tông Thốc (thế kỷ XIV) :
Ngời xã Quỳ Trạch - huyện Đông Thành (nay là xã Thọ Thành - huyện Yên
Thành). Ông đậu Trạng nguyên đời Trần Nghệ Tông (1370 1 372). Sách Nghệ

An ký của Bùi Dơng Lịch chép : Ông là ngời xã Thổ Thành, tuổi trẻ đã đỗ, khá
nổi tiếng là có tài. Lúc ban đầu cha có tiếng tăm, ngày nọ, vào tiết Nguyên tiêu,
có đạo nhân là pháp quan họ Lê treo đèn, mở tiệc, mời khách làng văn đến chơi.
Ông nhận giấy mời xin ra đầu đề rồi làm luôn một trăm bài thơ ngay trong bữa
tiệc. Mọi ngời xúm xem than phục. Từ đó mà tên tuổi vang dậy kinh kỳ.
[20;230].
Năm 1372, Hồ Tông Thốc đợc trao chức Hàn lâm viện đại học sĩ. Ông
cũng từng giữ chức An phủ sứ, Thẩm hình viện sứ, Trung th lệnh. Trong thời kì

18


làm An phủ sứ, Hồ Tông Thốc đã gặp phải sai lầm. Các sách Đại Việt sử ký toàn
th, Nghệ An ký, Danh nhân Nghệ Tĩnh có nói đến vấn đề này. Nghệ An ký
chép : Lúc trớc khi làm An phủ sứ, ông có lấy tiền của dân, việc bị phát giác.
Vua Trần Nghệ Tông ngạc nhiên hỏi, ông lạy tạ tâu rằng: Một con chịu ơn vua
thì cả nhà đợc ăn lộc trời, vua tha tội cho ông [20;230].
Hồ Tông Thốc có tài thơ văn và đối đáp nên vua Trần đã nhiều lần sai ông
đi sứ phơng Bắc. Tác phẩm của ông có tập thơ Thảo nhàn hiệu tần, Việt Nam
thế chí (2 tập), Việt sử cơng mục, Phú học chỉ nam, Hình thế địa mạnh ca.
Hồ Tông Thốc đã viết bộ Việt sử cơng mục và đợc sử thần Ngô Sĩ Liên đánh giá
là : sách ấy viết thận trọng, có phơng pháp, bình luận sự việc thì thiết đáng mà
không thừa [20;230]. Gia phả nhà ông có chép rằng tổ tiên Hồ Tông Thốc là ngời Chiết Giang, vốn dòng dõi Hồ Hng Dật, làm Thái thú Diễn Châu đời Ngũ Quý
Hậu Hán. Con ông là Hồ Đốn và cháu là Hồ Thành đều là Tiến sĩ. Về sau họ Hồ
ở xã Bình Lãng, huyện Thiên Lộc có ông thị lang Hồ Bỉnh Quốc ; họ Hồ ở xã
Hoàn Hậu huyện Quỳnh Lu có các ông Hồ Sĩ Dơng, Hồ Sĩ Đống, Hồ Phi Tích,
Hồ Sĩ Tân, đều thuộc dòng dõi Hồ Tông Thốc.
Hồ Tông Thốc cùng với di duệ ông đã để lại cho dòng họ Hồ nói riêng và
đất Nghệ An nói chung một tấm gơng học vấn, một văn hóa dòng họ và một niềm
tự hào hiếm có từ xa đến nay.

3. Thám hoa Cao Quýnh (1439 - ?).
Là danh thần đời Lê Thánh Tông ngời thôn Phú Trơng - xã Cao Xá - huyện
Đông Thành (nay là xã Diễn Thành - huyện Diễn Châu). Ông thi Hơng đỗ Giải
nguyên, thi Hội đỗ Hội nguyên, thi Đình đỗ Thám hoa, khoa thi năm ất Mùi
1475, niên hiệu Hồng Đức 6 đời Lê Thánh Tông. Khoa thi này triều đình lấy đợc
3 Tiến sĩ : Đệ nhất giáp là Trạng nguyên Vũ Duệ Chiếu, Bảng nhãn ông Nghĩa
Đạt và Thám hoa Cao Quýnh. Trớc kia ông tên là Lỗ nhng sau khi đỗ đợc Lê
Thánh Tông đổi tên là Quýnh. Ông làm quan đến chức Đông các đại học sĩ.
Cao Quýnh làm quan rất công minh, chính trực, ông giỏi văn học mà cũng
giỏi thuật số. Khi ông mất tên tuổi vẫn còn đợc nhắc nhở. Về sau, các triều đại

19


phong kiến đều phong ông tới hạng Thợng đẳng thần. Sắc phong thần cho
Thám hoa Cao Quýnh thời Thành Thái có viết : Thành Thái thập lục niên, thập
nhất nguyệt, nhị thập ngũ nhật. Sắc Nghệ An tỉnh, Đông Thành huyện, Hạnh Lâm
xã, Tú Mỹ thôn phụng sự. Thám hoa Đông các đại học sĩ Cao tớng công tôn thần
hộ quốc, tý dân dân nậm trớc linh ứng hớng lai vị mông ban cấp sắc văn tứ kim
phi thừa, cảnh mệnh diện niệm thần phủ trớc phong vi trác vĩ dực bảo trung hng
Thợng đẳng thần, đặc chuẩn nhng cựu phụng sự thần kì tớng hữu bảo ngã lê dân,
khâm tai [17;62].
Nhà thờ đại tôn họ Cao ở làng Nho Lâm, nay thuộc xã Diễn Thọ, huyện
Diễn Châu là nơi thờ các vị tổ tiên họ Cao nh Cao Lỗ (Cao Quýnh), Cao Nh
Hoàn, Cao Cự Hòa, Cao Trọng Sính, Cao Xuân Dục, Cao Xuân Huy,Tại nhà
thờ còn lu đôi câu đối :
Ngọc diệp phi lai quy đại địa
Thiết kim khai xứ tiến họ Cao
Nghĩa là : phả ngọc (phả nhà vua chứng) báo về nơi đất lớn, sắt vàng khai
xứ tiến họ Cao [17;62].

Ngoài ba vị đại khoa nổi danh khắp cả nớc trên đây thì cho đến trớc triều
Mạc (1527), Nghệ An còn có 10 vị đại khoa khác. Đó là :
1.Chu Tất Thắng (1488 - ?).
Có sách ghi là Tống Tất Thắng. Ông ngời xã Nam Hoa, nay là xã Nam
Trung, huyện Nam Đàn. Năm 18 tuổi, ông đỗ Đệ tam giáp Tiến sĩ, khoa ất Sửu
Đoan Khánh 1 (1505) đời Lê Uy Mục. Ông làm quan đến chức Lại bộ Thợng th,
Nhập nội hành khiển, Tớc nghĩa quận công. Chu Tất Thắng chết khi đánh giặc
Man, đợc phong Phúc Thần. Đền thờ ông ở xã Lơng Trờng (gọi là đền Thống
Chinh).
2. Đặng Minh Bích (1453 - ?).
Ngời xã Bạch Đờng, nay là xã Lam Sơn, huyện Đô Lơng. Năm 32 tuổi, đậu
Đệ tam giáp Tiến sĩ, khoa Giáp Thìn - Hồng Đức 15 (1484), đời Lê Thánh Tông,
làm quan đến Thợng th.

20


3. Hoàng Nhạc (1478 - ?).
Ngời xã Hoàng Xá, nay là Diễn Lợi, huyện Diễn Châu. Ông đậu Đệ tam
giáp Tiến sĩ khoa thi năm Nhâm Tuất Cảnh Thống 5 (1502) đời Lê Hiến Tông.
Ông làm quan : Giám sát ngự sử, Hữu thị lang, từng đi sứ Chiêm Thành và nhà
Minh.
4. Lê Giám (1452 - ?).
Ngời xã Phù Long, nay là xã Hng Long, huyện Hng Nguyên. Năm 27 tuổi,
đậu Đệ tam giáp Tiến sĩ khoa Mậu Tuất Hồng Đức 9 (1478) đời Lê Thánh
Tông. Ông làm quan : Lại bộ Hữu thị lang, Nhập thị kinh diên.
5. Lê Văn Học (1470 - ?).
Ngời xã Lỗi Truyền, nay là xã Diễn Hồng, huyện Diễn Châu. Năm 33 tuổi
ông đậu Hoàng giáp, khoa Nhâm Tuất - Cảnh Thống 5 (1502) đời Lê Hiến Tông,
làm quan đến Tự khanh.

6. Ngô Quang Tổ (1475 - ?).
Ngời xã Hơng Cái, nay là xã Hng Tây, huyện Hng Nguyên. Năm 33 tuổi,
đậu Đệ tam giáp Tiến sĩ khoa Mậu Thìn Đoan Khánh 4 (1508) đời Lê Uy
Mục, làm quan đến Hiến sát sứ.
7. Nguyễn Thiện Chơng (1452 - ?).
Ngời xã Nam Hoa, nay là xã Nam Trung, huyện Nam Đàn. Năm 18 tuổi
đậu Đệ tam giáp Tiến sĩ khoa Kỷ Sửu Quang Thuận 10 (1469) đời Lê Thánh
Tông. Ông làm quan đến chức Hữu thị lang, vì can gián thẳng thắn mà vua không
nghe nên xin về lúc mới 33 tuổi.
`8. Nguyễn Văn Bính (1439 - ?).
Ngời xã Công Trung, nay là xã Hợp Thành, huyện Yên Thành. Năm 31
tuổi, đậu Đệ tam giáp Tiến sĩ khoa Kỷ Sửu Quang Thuận 10 (1469) đời Lê
Thánh Tông. Ông làm quan đến chức Hàn lâm.
9. Phạ Huy (1470 - ?).
Ngời làng Đông Hải, nay là xã Nghi Xuân, huyện Nghi Lộc. Năm 24 tuổi
đậu Đệ tam giáp Tiến sĩ khoa Quý Sửu - Hồng Đức 24 (1493) đời Lê Thánh
Tông. Ông làm quan đến Công bộ Đô cấp sự trung, từng đi sứ nhà Minh.

21


×