Tải bản đầy đủ (.doc) (112 trang)

Cảm hứng chính sự trong truyền kỳ mạn lục luận văn thạc sĩ ngữ văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (603.78 KB, 112 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

PHAN THỊ TÌNH

CẢM HỨNG CHÍNH SỰ TRONG
TRUYỀN KỲ MẠN LỤC

CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM
MÃ SỐ: 60.22.34

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. PHẠM TUẤN VŨ

NGHỆ AN - 2012


2
MỤC LỤC


1
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
1.1. Truyền kỳ mạn lục là tập truyện chữ Hán gồm 20 truyện của
Nguyễn Dữ, nhà văn Việt Nam thế kỷ XVI. Tác phẩm có nhiều truyện đề


cập đến những vấn đề thuộc đời sống chính trị xã hội với những cách thức
khác nhau. Có lúc tác giả xây dựng hình tượng nho sĩ hành đạo, trực tiếp
tranh biện về chính sự (ví dụ Câu chuyện ở đền Hạng vương, Chuyện bữa
tiệc đêm ở Đà Giang...) hoặc xây dựng hình tượng ẩn sĩ, thể hiện thái độ
bất hợp tác (ví dụ Chuyện đối đáp của người tiều phu ở núi Na), hoặc phổ
biến hơn là xây dựng những tính cách và số phận trong mối quan hệ với đời
sống chính trị xã hội của quốc gia, dân tộc. Nghiên cứu cảm hứng chính sự
trong Truyền kỳ mạn lục là một hướng tiếp cận góp phần nhận thức giá trị
của tác phẩm đặc sắc này.
1.2. Truyền kỳ mạn lục tiếp thụ nhiều phương diện của Tiễn đăng tân
thoại của Cù Hựu (đời Minh). Nghiên cứu đề tài này góp phần làm rõ quan
hệ giữa hai tác phẩm và thêm cơ sở để xác định giá trị của Truyền kỳ mạn
lục.
1.3. Trong chương trình ngữ văn ở trường phổ thông hiện hành có
dạy học truyện truyền kỳ: Chuyện chức phán sự đền Tản Viên. Truyện này,
thể hiện cảm hứng chính sự sâu sắc. Nghiên cứu đề tài này sẽ góp phần dạy
học truyện này tốt hơn.
2. Lịch sử vấn đề
Tuy Truyền kỳ mạn lục đã được nghiên cứu khá nhiều nhưng chưa có
công trình nào tập trung đi sâu nghiên cứu cảm hứng chính sự của tác phẩm
này.
Nguyễn Phạm Hùng trong công trình Đoán định lại thân thế Nguyễn
Dữ và thời điểm sáng tác Truyền kỳ mạn lục có viết: “Chúng ta tin vào khả


2
năng Nguyễn Dữ đã cáo quan về ẩn cư dưới triều Lê. Nguyên nhân có thể
có nhiều, nhưng không thể không liên quan đến thái độ của ông đối với sự
đen tối của chế độ đương thời. Đó là những năm tháng con người chịu bao
lầm than dưới sự cai trị của những ông vua quỷ, vua lợn… Tác phẩm

Truyền kỳ mạn lục có thể được ông viết trong thời kỳ này, “để ngụ ý”, như
nhận xét của Hà Thiện Hán? Vì thế giọng văn hết sức đau xót và phẫn uất.
Và cũng từ đó, “trải mấy mươi sương, chân không bước đến chốn thị
thành”. Mấy năm không đến chốn thị thành, nhưng những chuyển biến
chính trị tích cực đương thời của mấy năm đầu triều Mạc ông không thể
không biết. Nhưng đó cũng chỉ là mấy năm đầu, rồi thì không thể khác
được, bánh xe phong kiến lại lăn theo con đường cũ. Trong nhãn quan cuả
ông, tất cả các triều đại phong kiến lúc này đều không tốt đẹp, đều xấu xa
[17, 131-132].
Trong So sánh văn học và văn hóa – Nguyễn Dữ và tiên thoại Trung
Quốc qua truyện Từ Thức lấy vợ tiên. Trần Đình Sử chỉ nghiên cứu một
truyện nhưng đã đưa ra những nhận xét xác đáng về cảm hứng chính sự của
toàn tác phẩm: “…Từ Thức làm tri huyện Tiên Du là do tập ấm, nhưng Từ
Thức xử thế như một danh sĩ, tức là người không chịu gập lưng hầu hạ kẻ
quyền quý, không hám công danh, thích tự do tự tại, ngao du sơn thủy. Bị
quan trên quở trách là chàng treo ấn từ quan liền. Khẩu khí, hành tích giống
hệt Đào Tiềm, đi đâu cũng mang theo quyển thơ Đào Tiềm để ngâm vịnh.
Có thể nói là Đào Tiềm tái thế. Việc ghi niên hiệu năm Quang Thái đời
Trần, tức đời vua Trần Nhuận Tông, vị vua cuối cùng trước khi bị Hồ Quý
Ly thoán đoạt là một tín hiệu có ý nghĩa phê phán chính sự thối nát, lòng
người ly tán. Từ Thức là hình bóng điển hình của kẻ sĩ bỏ quan quy ẩn,
không màng công danh, thích phóng khoáng, ghét chính sự ràng buộc…”
[49, 25].
Hoàng Hữu Yên đánh giá về Chuyện chức phán sự đền Tản Viên:
“Về mặt nội dung, câu chuyện đã thể hiện được cả hai chủ đề chính


3
của tác phẩm là phê phán hiện thực xã hội và đề cao phẩm chất kẻ sĩ,
đồng thời phản ánh khá rõ tinh thần dân tộc của tác giả” [74, 114].

“Phê phán hiện thực xã hội qua hình tượng những nhân vật phản diện
hoặc qua lời nói của các nhân vật trong truyện là cách Nguyễn Dữ
thường làm” [74, 116].
Bùi Duy Tân trong bài “Truyền kỳ mạn lục một thành tựu của truyện
ký văn học viết bằng chữ Hán” đã viết: “Truyền kỳ mạn lục, vì vậy, tuy có
vẻ là những “truyện kỳ lạ” xảy ra hàng trăm năm về trước, nhưng về thực
chất thì lại phản ánh được những phần sâu sắc của hiện thực đương thời.
Và trên thực tế thì đằng sau thái độ đó có phần dè dặt, khiêm tốn, Nguyễn
Dữ rất tự hào về tác phẩm của mình, tác phẩm mà qua đó ông đã bộc lộ tâm
tư, thể hiện hoài bão, tác phẩm mà qua đó ông có thể phát biểu nhận thức,
bày tỏ quan điểm về những vấn đề lớn của xã hội, của con người trong khi
chế độ phong kiến đang suy thoái” [59, 368]. Và: “Nhìn chung thì qua
Truyền kỳ mạn lục, Nguyễn Dữ đã nghiêm khắc phê phán những tệ lậu của
chế độ phong kiến đang mục ruỗng, đã miêu tả rất thực diện mạo và tính
cách của giai cấp bóc lột. Và ít nhiều, tác phẩm cũng thể hiện được cảnh
ngộ cùng cực của nhân dân” [59, 377]. Theo tác giả, “Trong thế kỷ XVI,
đời sống dân tộc ta có những biến đổi quan trọng. Mâu thuẫn giai cấp trở
nên gay gắt, quan hệ xã hội bắt đầu phức tạp, các tầng lớp xã hội phân hóa
mạnh mẽ, trật tự phong kiến lung lay, chiến tranh phong kiến ác liệt kéo
dài, đất nước bị chia cắt một cách trái tự nhiên; cuộc sống không ổn định,
nhân dân điêu đứng cơ cực, v.v. Muốn phản ánh hiện thực đa dạng, phong
phú và phức tạp ấy, muốn lý giải những vấn đề đặt ra trong cuộc sống đầy
biến động và đang đổi mới ấy, thì không thể dừng lại ở chỗ chỉ ghi chép sự
tích đời trước. Nếu chỉ ghi chép sự tích cũ mà phóng tác thì có thể ít nhiều
đáp ứng nhu cầu phản ánh cuộc sống ấy. Truyền kỳ mạn lục, vì vậy, dường
như là truyện cũ mà thực ra là phản ánh xã hội thế kỷ XVI” [59, 386].
Trong Truyền kỳ mạn lục “những truyện có tính chất luận thuyết như Câu


4

chuyện ở đền Hạng Vương, Truyện đối đáp của người tiều phu núi Na,
Truyện bữa tiệc đêm ở Đà Giang, Truyện Phạm Tử Hư lên chơi thiên tào,
v.v. Nội dung của các truyện này là sự tranh biện về các vấn đề chính trị, xã
hội, đạo đức” [59, 387].
Trong công trình Trên hành trình văn học trung đại, Nguyễn Phạm
Hùng đánh giá về Truyền kỳ mạn lục: “giá trị lớn nhất của tác phẩm là ở
chỗ nó mang nội dung phê phán, tố cáo xã hội mạnh mẽ” [16, 491]. “Chưa
bao giờ trong văn học viết, cho tới lúc đó, vua chúa, quan lại, lại được thể
hiện một cách hèn kém, bất tài đến thế. Hồ Hán Thương chịu bất lực trước
ý chí và lý lẽ của một người ẩn sĩ (Chuyện người tiều phu núi Na); Hồ Quý
Ly là người “từng tranh luận với người Trung Hoa, người Chiêm, chưa hề
chịu khuất lý bao giờ”, lại đuối lý trước ẩn sĩ họ Hồ và tú tài họ Viên (Chuyện
bữa tiệc đêm ở Đà Giang)… Quan lại thì độc ác, dâm bạo, bất nhân, hoặc cụ
thể như trụ quốc họ Thân, tướng quân họ Lý hoặc cách điệu như thần Thuồng
luồng” [16, 492]. “Bên cạnh việc phê phán gay gắt những lực lượng thống trị
tàn bạo, Nguyễn Dữ nói lên niềm khao khát một xã hội phong kiến tốt đẹp,
trong đó quyền sống của con người được đảm bảo” [16, 493].
Như vậy, một số công trình nghiên cứu ít hay nhiều, trực tiếp hay
gián tiếp đã bàn đến cảm hứng chính sự trong Truyền kỳ mạn lục. Tuy
nhiên, những nhận định đó mới chỉ đề cập một cách chung chung,
chiếm một phần dung lượng rất nhỏ trong toàn bộ công trình nghiên
cứu, chưa có công trình nào đi sâu vào tập trung tìm hiểu cảm hứng
chính sự trong tác phẩm này.
Trên cơ sở tiếp thu thành tựu của những người đi trước, trong luận văn
này, chúng tôi sẽ nghiên cứu cảm hứng chính sự trong Truyền kỳ mạn lục
một cách hệ thống, toàn diện hơn. Bên cạnh đó, chúng tôi sẽ có sự đối sánh
với các truyện trong Tiễn đăng tân thoại mang cảm hứng chính sự để qua
đó thấy được sự cách tân của Nguyễn Dữ.



5
3. Mục đích nghiên cứu
3.1. Tìm hiểu cảm hứng từ đời sống chính trị thể hiện ở cốt truyện,
chủ đề, tính cách và số phận nhân vật trong Truyền kỳ mạn lục.
3.2. Đối sánh các phương diện này của Truyền kỳ mạn lục với Tiễn
đăng tân thoại.
3.3. Nhận thức được một số đặc điểm của truyện truyền kỳ khi thể
hiện đời sống chính trị xã hội.
4. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các truyện thể hiện cảm hứng chính
sự trong Truyền kỳ mạn lục được in trong Tiễn đăng tân thoại và Truyền kỳ
mạn lục do Phạm Tú Châu dịch và Trần Thị Băng Thanh giới thiệu và
chỉnh lý, Nxb Văn học Hà Nội – 1999. Chúng tôi nghiên cứu cảm hứng này
trong các truyện của Truyền kỳ mạn lục trong sự đối sánh với các truyện có
cảm hứng đó trong Tiễn đăng tân thoại.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp chủ yếu sau:
Phương pháp thống kê – phân loại nhằm chỉ ra một cách khách quan
các truyện của Nguyễn Dữ có đề cập tới đời sống chính trị. Từ đó phân các
truyện thành các loại để thấy được các sắc thái khác nhau khi cùng thể hiện
một cảm hứng.
Phương pháp phân tích – tổng hợp: Phương pháp này nhằm đưa ra
những nhận xét, đánh giá vừa cụ thể vừa khái quát để làm nổi rõ được cảm
hứng chính sự trong truyện của Truyền kỳ mạn lục.
Đặc biệt chú trọng phương pháp đối sánh: Chúng tôi tiến hành đối
sánh cách xây dựng cốt truyện, chủ đề, tính cách và số phận nhân vật trong
Truyền kỳ mạn lục và trong Tiễn đăng tân thoại (Cù Hựu) để thấy rõ được
sự khác biệt.



6
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn có 3
chương:
Chương 1. Một số giới thuyết tạo cơ sở nghiên cứu đề tài
Chương 2. Cảm hứng chính sự với việc xây dựng cốt truyện của
Truyền kỳ mạn lục
Chương 3. Cảm hứng chính sự với việc xây dựng nhân vật của
Truyền kỳ mạn lục


7
Chương 1
MỘT SỐ GIỚI THUYẾT TẠO CƠ SỞ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Để việc nghiên cứu có kết quả tốt, cần phải làm rõ một số nội dung
làm cơ sở.
1.1. Truyện truyền kỳ
Văn học Việt Nam trung đại được cho là nền văn học trẻ tuổi so với
văn học Trung Hoa cổ trung đại. Xét về mặt không gian, hai nền văn học
gần nhau, lại có quá trình giao lưu nên ảnh hưởng của văn học Trung Quốc
với văn học Việt Nam rất lớn. Ảnh hưởng có thể bằng con đường cưỡng ép,
văn học theo chân của những kẻ xâm lược, bên cạnh đó còn do có cả sự
tiếp thu có ý thức của người Việt chủ động tiếp thụ những giá trị văn hóa
của Trung Hoa để từ đó làm giàu cho văn hóa Việt.
Truyện truyền kỳ cũng không nằm ngoài quĩ đạo đó. Truyện truyền
kỳ là thể loại du nhập từ Trung Quốc. Tên gọi thể loại truyền kỳ mãi đến
giai đoạn Vãn Đường mới chính thức khai sinh từ tên một tập truyện của
Bùi Hình, tuy nhiên, thể loại truyền kỳ đã được xác lập từ thời Sơ Đường
và phát triển phồn thịnh chưa từng có ở giai đoạn Trung Đường. Hai chữ
“truyền kỳ” bao hàm một số ý nghĩa: Một là, có ý chuộng lạ (hiếu kỳ), kể

những việc khác thường, kế thừa truyền thống truyện chí quái từ đời Ngụy
Tấn. Hai là, truyện truyền kỳ chứa đựng nhiều thể, qua đó có thể nhận thấy
các tác giả có tài viết sử, tài làm thơ, tài nghị luận. Về phong cách, truyện
truyền kỳ dùng văn xuôi để kể, tả cảnh, tả người thì dùng văn biền ngẫu,
khi nhân vật bộc lộ cảm xúc thì thường làm thơ. Truyền kỳ chủ yếu viết về
tình yêu nam nữ và thế giới thần linh ma quỉ. Truyện truyền kỳ Trung Quốc
kế thừa một số yếu tố của tiểu thuyết chí quái Lục triều nhưng đã được
nâng lên về nhiều mặt nên có thể nói đây là sản phẩm của một thời đại mới
– triều đại nhà Đường (618 – 907). Chí quái chủ yếu ghi chép, nhân vật


8
chính là thần linh ma quái, còn truyện truyền kỳ hư cấu, tưởng tượng là chủ
yếu và nhân vật chính là con người.
Ở Việt Nam truyện truyền kỳ được hiểu khác nhau. Có nhiều nhà
nghiên cứu xếp tất cả những tác phẩm văn xuôi có yếu tố thần linh ma quái
hoặc kỳ dị vào truyện truyền kỳ, nhưng cũng có người nêu thêm tiêu chí hư
cấu của nhà văn và chỉ xếp vào truyện truyền kỳ những truyện trong đó con
người là nhân vật chính chứ không phải thần linh ma quỷ.
Theo Từ điển văn học (bộ mới) truyện truyền kỳ là “Một hình thức
văn xuôi tự sự cổ điển Trung Quốc, vốn bắt nguồn từ truyện kể dân gian,
sau được các nhà văn nâng lên thành văn chương bác học, sử dụng những
môtíp kỳ quái hoang đường, lồng trong một cốt truyện có ý nghĩa trần thế,
nhằm gợi hứng thú cho người đọc…” [13, 1730].
Nhà nghiên cứu Trần Xuân Đề cho rằng: “Truyền có nghĩa là truyền
thuyết, đồng nghĩa với chữ chí (ghi chép); Kỳ là kỳ quái, kinh dị. Truyền
kỳ là truyền bá những câu chuyện kỳ quái…” [8, 29].
Theo Từ điển thuật ngữ văn học, truyện truyền kỳ là: “thể loại tự sự
ngắn cổ điển của văn học Trung Quốc thịnh hành ở thời Đường. Tên gọi
này đến cuối thời Đường mới có. “Kì” nghĩa là không có thực, nhấn mạnh

tính chất hư cấu. Thoạt đầu truyện truyền kỳ mô phỏng truyện chí quái thời
Lục triều, sau phát triển độc lập” [12, 286].
Theo Trần Đình Sử hai chữ “truyền kỳ” có nghĩa là chuộng lạ, trong
đó chứa đựng nhiều thể, có thể nhận thấy có tài viết sử, tài làm thơ, tài nghị
luận [48, 349].
Về mặt dung lượng, truyện truyền kỳ có dung lượng nhỏ, nhân vật ít,
sự kiện tập trung, mỗi truyện thường xoay quanh một vài sự kiện chính.
Truyện truyền kỳ chú trọng vào việc, lấy việc mà biểu hiện người, khuyên
răn con người.
Truyện truyền kỳ có sự hỗn dung thể loại, xen vào văn xuôi là những
bài thơ, từ, phú, văn tế, làm cho độc giả không bị căng thẳng, làm cho câu


9
chuyện lôi cuốn người đọc hơn, qua đó tính cách, nội tâm của nhân vật
cũng được bộc lộ tự nhiên, góp phần thể hiện rõ phong cách và tư tưởng
của nhà văn.
Cuối một số truyện truyền kỳcó lời bình của tác giả, điều đó cho thấy
ảnh hưởng của bút pháp viết sử và sử bình vào văn học. Những lời bình này
cũng đã cho thấy quan điểm của người kể chuyện đối với những diễn biến
xảy ra trong truyện, đồng thời khuyên răn người đọc.
Hầu hết cốt truyện truyền kỳ sẵn có nhưng phần lớn các truyện truyền
kỳ đặc biệt là Truyền kỳ mạn lục không đơn thuần là sưu tầm mà nó là tập
truyện phóng tác nên phần hư cấu, sáng tạo trong đó rất đáng kể. Truyện
truyền kỳ không yêu cầu phải kể hết cuộc đời nhân vật. Nhiều truyện chỉ là
một giấc mơ, một cuộc kỳ ngộ, một cuộc trò chuyện. Môtip đối thoại, biện
bác được sử dụng khá nhiều. Về mặt này, truyện truyền kỳ gần với truyện
ngắn hiện đại.
Yếu tố kỳ ảo đóng vai trò quan trọng trong truyện truyền kỳ. Các tác
giả đã đưa vào trong truyện truyền kỳ nhiều yếu tố hoang đường, kỳ ảo.

Độc giả như được cùng với nhân vật phiêu du đến cõi tiên, thủy cung, âm
phủ… Con người có thể quay về với quá khứ, lại trở về với thực tại, thậm
chí còn biết cả tương lai. Trong truyện truyền kỳ, con người được tiếp xúc
với những nhân vật mà từ trước tới nay ta thấy cao sang và xa vời vốn chỉ
có trong trí tưởng tượng như Nam Tào, Bắc Đẩu, thần, tiên, tinh của các
loài động vật, thực vật hiện hữu thành người, các loài ma quỷ, tướng Dạ
Xoa… Những điều người đọc được tiếp xúc trong truyện truyền kỳ vừa
linh thiêng nhưng cũng có những điều rất gần gũi, giản dị đó là cuộc sống
sinh hoạt hàng ngày của con người với đầy đủ những cung bậc; có sự ghen
ghét, đố kỵ, lọc lừa lẫn nhau, có cả những cuộc ái ân đam mê trong sắc
dục… Nhờ có yếu tố hoang đường, kỳ ảo tác phẩm không chỉ lôi cuốn
người đọc bởi tính giải trí mà còn giúp độc giả có được cái nhìn sâu sắc và
am hiểu hơn về cuộc sống.


10
Truyền kỳ mạn lục đã có sự kế thừa nhiều truyện dân gian và tiếp thụ
từ nhiều nguồn khác như Tiễn đăng tân thoại, những sự kiện mắt thấy tai
nghe.
1.2. Nguyễn Dữ và Truyền kỳ mạn lục
1.2.1. Nguyễn Dữ
Thân thế của Nguyễn Dữ, cho đến nay vẫn còn có nhiều nghi vấn.
Ngay tên gọi Nguyễn Dữ, gần đây cũng có ý kiến xem xét lại, là Nguyễn
Dữ hay Nguyễn Dư, Nguyễn Dụ hay Nguyễn Dự? Mới đây đã tìm được
bản Truyền kỳ mạn lục in năm 1712. Bản này in bài tựa của Hà Thiện Hán
viết năm 1547. Các ý kiến hiện nay về thân thế của Nguyễn Dữ chủ yếu
dựa vào ghi chép của các tác giả xưa như Hà Thiện Hán, Lê Quý Đôn, Vũ
Khâm Lân, Vũ Phương Đề, Phan Huy Chú…
Nguyễn Dữ là người xã Đỗ Tùng, huyện Trường Tân (Hải Dương),
nay là thôn Đỗ Lâm, xã Phạm Kha, huyện Thanh Miện tỉnh Hải Dương.

Năm sinh và năm mất của ông đến nay vẫn chưa rõ.
Nguyễn Dữ là con trưởng vị Tiến sĩ triều trước – Nguyễn Tường
Phiếu. Cha ông là Tiến sĩ khoa Bính Thìn niên hiệu Hồng Đức, làm quan
đến Thượng thư Bộ Hộ. Từ nhỏ Nguyễn Dữ vốn ham học hỏi, học rộng
nhớ nhiều, học vấn hơn người. Nguyễn Dữ đỗ Hương tiến, thi Hội trúng
Tam trường, từng được bổ làm Tri huyện Thanh Tuyền, nay là huyện Bình
Xuyên tỉnh Vĩnh Phúc. Ông làm quan mới được một năm thì từ chức, lấy
cớ xa xôi, xin được về phụng dưỡng mẹ già; sau vì ngụy Mạc thoán đoạt
ông thề không ra làm quan nữa, từ đó “trải mấy mươi sương, chân không
bước đến thị thành”. Còn theo Vũ Khâm Lân người biên soạn Bạch Vân
am cư sĩ phả ký và Ân Quang hầu, người biên tập thơ văn chữ Hán của
Nguyễn Bỉnh Khiêm thì Nguyễn Dữ không ra làm quan, ẩn cư ở núi rừng
Thanh Hóa.
Theo Phan Huy Chú, Nguyễn Dữ là học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm:
“Bấy giờ học trò ông (Nguyễn Bỉnh Khiêm) thành đạt rất nhiều, chỉ có


11
Phùng Khắc Khoan, Lương Hữu Khánh, Nguyễn Dữ, Trương Thì Cừ là có
tiếng nhất…” [14, 124].
Bùi Văn Nguyên có viết: “Nguyễn Dữ là một trong những người học
trò giỏi của Nguyễn Bỉnh Khiêm, ông sống vào khoảng các triều vua Uy
Mục, Tương Dực, Chiêu Tông, Cung Hoàng, tức là thời kỳ suy đồi của nhà
Lê. Chịu ảnh hưởng của thầy học, ông chán ghét đời sống quan trường điên
đảo, bỏ đi ở ẩn và ca tụng cảnh nhàn tản…” [37, 247].
Các tác giả Hà Thiện Hán, Lê Quý Đôn không đề cập đến việc
Nguyễn Dữ có quan hệ mật thiết hay là học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Học giả Đài Loan Trần Ích Nguyên trích lại ý kiến của Trần Khánh
Hạo trong lời thuyết minh về việc xuất bản tập Truyền kỳ mạn lục trong
Việt Nam Hán văn tiểu thuyết tùng san ở Đài Loan, cho rằng “Nguyễn Dữ

không phải là học trò mà là người đồng niên, thậm chí thuộc thế hệ trước
Nguyễn Bỉnh Khiêm” [14, 127].
Trần Thị Băng Thanh cho rằng: “Giữa Nguyễn Dữ và Nguyễn Bỉnh
Khiêm tin chắc có những ảnh hưởng qua lại về tư tưởng, học thuật…
nhưng e rằng Nguyễn Dữ không thể là học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm
như Vũ Phương Đề đã ghi” [4, 201].
Tác giả Bùi Duy Tân dựa trên các cứ liệu hiện còn cho rằng: “Nguyễn
Dữ thuộc dòng dõi khoa hoạn, từng dùi mài kinh sử, ôm ấp lý tưởng hành
đạo, đã đi thi và có thể đã xuất sĩ. Về sau, có lẽ vì “đại thế bất an”, vì bất
mãn với kẻ đương quyền, hơn là vì phải “nuôi mẹ già cho tròn đạo hiếu”,
Nguyễn Dữ lui về ẩn dật” [59, 366].
Dầu cho các tác giả đang có những ý kiến chưa thống nhất về thân thế
của Nguyễn Dữ nhưng có một điều chắc chắn là ông sống vào thế kỷ XVI,
thời kỳ mà chế độ phong kiến đang trên đà mục ruỗng, mọi chuẩn mực, trật
tự đều bị đảo lộn, cuộc sống của người dân phải chịu biết bao cơ cực, tủi
nhục khi ở dưới sự trị vì của những tên “vua quỷ”, “vua lợn”…


12
Nguyễn Dữ mặc dù đã rời xa chốn quan trường hiểm ác, xấu xa để
“lánh đục về trong” nhưng không vì thế mà “mũ ni che tai” không để
tâm đến thời cuộc, ngược lại ông luôn dõi theo từng diễn tiến của lịch
sử. Ông đã bộc bạch nỗi niềm, ước vọng của mình vào trong kiệt tác
Truyền kỳ mạn lục.
1.2.2. Truyền kỳ mạn lục
Truyền kỳ mạn lục ra đời lúc nào cũng chưa rõ, còn nhiều mơ hồ như
chính cuộc đời tác giả của nó. Bùi Duy Tân cho rằng: “Theo Ôn Đình hầu
Vũ Khâm Lân, người biên soạn Bạch Vân am cư sĩ phả ký và Ân Quang
hầu, người biên tập thơ văn chữ Hán của Nguyễn Bỉnh Khiêm, thì Nguyễn
Dữ không ra làm quan, ẩn cư ở núi rừng Thanh Hóa và làm ra sách Truyền

kỳ mạn lục” [59, 365]. “Nguyễn Dữ lui về ẩn dật, viết Truyền kỳ mạn lục để
ký thác tâm sự, thể hiện hoài bão của mình” [59, 366].
Trong công trình Đoán định lại thân thế Nguyễn Dữ và thời điểm sáng
tác Truyền kỳ mạn lục, Nguyễn Phạm Hùng cho rằng: “Lê Quý Đôn trong
Kiến văn tiểu lục cũng có một thiên tiểu truyện về ông (…). Sau vì ngụy
Mạc thoán đoạt, thề không đi làm quan nữa, ở làng dạy học, không đặt
chân đến chốn thị thành, viết Truyền kỳ mạn lục 4 quyển, văn từ thanh lệ,
người đương thời rất khen (…). Trần văn Giáp viết (…) làm tri huyện
Thanh Toàn rồi xin nghỉ về nhà nuôi mẹ. Trong khi nghỉ, ông soạn ra bộ
Truyền kỳ mạn lục” [17, 124 - 125].
Truyền kỳ mạn lục được viết ra dưới nhiều sự tác động của xã hội
nhiễu loạn, cuộc sống nhân dân luôn đắm chìm trong cảnh lầm than, cực
khổ chịu sự thống trị của những nhà vua mất nhân tính – “vua quỷ, vua
lợn”. Vì thế, qua những câu chuyện được kể trong tác phẩm mình, ông đã
bộc lộ tâm trạng không bằng lòng với cuộc sống đương thời đồng thời phản
ánh được cái thối nát, đen tối của xã hội thế kỷ XVI. Toàn bộ tác phẩm như
một bức tranh thu nhỏ về xã hội thời bấy giờ.


13
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng Nguyễn Dữ sáng tác Truyền kỳ mạn
lục sau khi đã cáo quan. Khi xã hội suy tàn không gì có thể cứu vãn, đa số
nhà Nho, trong đó có Nguyễn Dữ đã rời xa chính trường nơi mà mọi giá trị
đã lộn sòng để giữ mình trong sạch. Ông đã gửi gắm trong tác phẩm những
tinh túy ấp ủ để tạo nên áng “thiên cổ kỳ bút” cho muôn đời.
Truyền kỳ mạn lục là tác phẩm gồm 20 truyện, trong đó một số
truyện xen lẫn một ít văn biền ngẫu và thơ ca. Ở cuối mỗi truyện đều có
lời bình của tác giả (trừ truyện thứ 19 – Cuộc nói chuyện thơ ở Kim
Hoa). Lời bình chủ yếu bàn về nội dung ý nghĩa của truyện chứ không
bàn đến nghệ thuật văn chương.

Quan điểm chính thống của các nhà Nho thời phong kiến vốn xem
thường truyện truyền kỳ. Nguyễn Dữ lồng vào truyện những yếu tố siêu
nhiên, thần linh, ma quái nhằm mục đích phục vụ cho nội dung tư
tưởng của tác phẩm. Nguyễn Dữ đã mượn truyện quái dị để nói việc
thực hiện hữu. Vì vậy, Truyền kỳ mạn lục phản ánh sâu sắc tình hình
thế cuộc.
Truyền kỳ mạn lục đã khác xa truyện ký lịch sử vốn ít chú trọng
đến tính cách và cuộc sống riêng tư của con người, đồng thời cũng khác
truyện cổ dân gian ít đi sâu vào nội tâm nhân vật. Truyền kỳ mạn lục đã
kết hợp tự nhiên giữa tự sự và trữ tình, giữa ngôn ngữ nhân vật và ngôn
ngữ tác giả; lời văn cô đọng, súc tích, chặt chẽ. Truyền kỳ mạn lục
không chỉ là kiệt tác của truyện truyền kỳ mà còn là kiệt tác của văn
học trung đại Việt Nam.
1.3. Văn chương nhà Nho thế kỷ XVI với đời sống chính trị
quốc gia
Trí thức Việt Nam trước đây chủ yếu theo học đạo Nho, với thế giới
quan phong kiến. Văn chương của nhà Nho có chức năng xã hội cao cả.
Khi chế độ phong kiến mục nát không còn cách gì cứu vãn được nữa, các
nhà nho một mặt lo lắng cho tương lai của đất nước, phê phán, đả kích bọn


14
tham quan ô lại. Họ bất lực với chính sự đen tối, lui về ẩn cư nơi rừng sâu núi
thẳm. Nhà Nho có nhiều cách riêng để bày tỏ trách nhiệm và tình cảm của
mình đối với quốc gia.
Từ thế kỷ XVI đến nửa đầu thế kỷ XVIII chế độ phong kiến nước ta
dần dần đi đến chỗ suy yếu và suy thoái. Xã hội phong kiến bước vào các
cuộc khủng hoảng chính trị liên miên, các đời vua thay đổi chóng vánh
khiến tình hình luôn đảo lộn. Sau cái chết của vua Lê Thánh Tông, ý thức
hệ Nho giáo ở Việt Nam lung lay, không còn là chỗ dựa tinh thần vững

chắc, tâm lý hoang mang bắt đầu xuất hiện trong bộ phận các nhà nho.Thời
kỳ này, kỷ cương đất nước bị đảo tung, đại diện là tầng lớp thống trị nhà Lê
ngày càng xa hoa đồi trụy, chỉ biết hưởng thụ cuộc sống, xâu xé lẫn nhau,
luôn xuất hiện sự tranh giành, thoán đoạt trong nội bộ hoàng tộc, giữa
hoàng tộc với ngoại thích và triều thần, giữa triều thần với nhau…Những
tên “vua quỷ” – Lê Uy Mục là một tên vua chỉ ngày đêm rượu chè, cờ bạc,
đàn hát, thích chém giết, cuối cùng bị bắt uống thuốc độc tự tử. “Vua lợn”
– Lê Tương Dực kế tiếp Uy Mục, lại còn xa xỉ và dâm dục gấp bội, sau
cũng bị giết. Chỉ trong 23 năm (1504 – 1527) có tới sáu đời vua, có người
được lập làm vua khi tám tuổi và ở ngôi vua được ba ngày. Mạc Đăng
Dung thâu tóm được quyền lực về tay mình một cách dễ dàng. Mạc Đăng
Dung là người đã thiết lập lại trật tự xã hội bởi ông đã trấn áp các cuộc bạo
loạn, dẹp yên các thế lực cát cứ, nắm lấy toàn quyền, thu đất nước về một
mối. Nhưng dần về sau, ngay trong bản thân của chế độ quân chủ quan liêu
đã bộc lộ những mâu thuẫn gay gắt. Chính trường đã cho thấy sự bất ổn lên
đến cực đỉnh. Các tập đoàn phong kiến mâu thuẫn gay gắt rồi phát triển đến
quy mô lớn những cuộc nội chiến Lê – Mạc, nhất là cuộc phân tranh Trịnh
– Nguyễn kéo dài hàng trăm năm. Tình trạng cát cứ, nội chiến liên miên,
đất nước lâm vào cảnh huynh đệ tương tàn, nồi da nấu thịt. Giai cấp phong
kiến lúc này đã đi ngược với quyền lợi của nhân dân, không còn đại diện
cho dân tộc. Cay đắng hơn, người dân phải sống trong cảnh đất nước bị


15
chia cắt, rơi vào những cuộc chém giết đau thương và thảm khốc, lầm than
cực khổ, nền kinh tế kiệt quệ, đạo đức băng hoại không cách nào cứu vãn
nổi, cộng thêm thiên tai: hạn hán, lụt lội liên tiếp xẩy ra, dịch bệnh cũng
làm cho đời sống hết sức điêu đứng. Các cuộc nội chiến làm hao tiền tốn
của khiến giai cấp thống trị ra sức bóc lột nhân dân bằng sưu cao, thuế
nặng. Dưới ách áp bức của chế độ phong kiến, sống trong cảnh chiến

tranh loạn lạc, mất múa đói kém, trước sự điên đảo của cương thường…
đời sống nhân dân vô cùng cực khổ, dẫn đến liên tiếp xẩy ra nhiều cuộc
khởi nghĩa trong thời kỳ này. Nhưng Nho giáo đã dần mất vai trò tích
cực trong việc tổ chức xã hội và định hướng tư tưởng con người, giáo
dục thi cử ngày càng sút kém, dần “theo lối phù hoa chắp nhặt…, tập tục
kẻ sĩ ngày một kém” [21, 361]. Phép thi cử không nghiêm túc, tệ gian
lậu được dịp nổi lên về sau còn có lệ nộp tiền thông kinh, ở chốn trường
ốc, khiến số đông nho sĩ thoái hóa. “Tập tục sĩ phu thối nát…tệ hại…
không sao kể xiết” (Kiến văn tiểu lục – Lê Quý Đôn). Trong bối cảnh đó,
tầng lớp trí thức có sự phân hóa rõ rệt: có người xuất thân khoa cử nhà
Mạc hoặc bất hợp tác như Nguyễn Bỉnh Khiêm hoặc chạy sang hàng ngũ
đối địch như Phùng Khắc Khoan… Thuyết chính danh của Nho giáo bị
vi phạm nghiêm trọng. Mạc Đăng Dung tiếm ngôi vua Lê, chúa Trịnh
chuyên quyền lấn át ngôi vua, triều thần lũng đoạn, anh em của vua chúa
bức hại lẫn nhau. Cả một xã hội nháo nhào lộn xộn, đúng như lời nhà
nho Phạm Công Thế trả lời chúa Trịnh: “Bấy lâu nay danh phận không
rõ biết lấy gì để phân thuận nghịch”.
Khi một hệ tư tưởng bị suy thoái, những người theo ý thức hệ đó
bao giờ cũng nảy sinh tư tưởng hoài nghi thậm chí hoang mang mất
phương hướng. Khi không còn tin vào ý thức hệ Nho giáo, các trí
thức phong kiến lúc bấy giờ bắt đầu đi tìm niềm tin ở tư tưởng phi
nho như: Phật giáo, Đạo giáo và đặc biệt tư tưởng trong quan niệm
dân gian.


16
Do bối cảnh xã hội phức tạp nên các xu hướng thời này cũng phức tạp.
Nhiều nhà nho không tìm thấy chỗ dựa tinh thần trong giai cấp thống trị
cầm quyền, trong ý thức hệ Nho giáo nên đã tìm đến con đường ẩn dật,
nhàn tản, mong giữ được tấm lòng trong sạch. Thời này có những tác giả

tiêu biểu như Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Dữ, Nguyễn Hàng, Đào Duy
Từ và Phùng Khắc Khoan.
Nguyễn Hàng đỗ Hương Cống khoảng niên hiệu Hồng Thuận đời vua
Lê Tương Dực. Lúc họ Mạc chiếm ngôi vua Lê, ông bỏ thi Hội, sống trọn
đời trong cảnh rừng sâu núi thẳm với tư tưởng thoát ly đậm màu sắc Đạo
giáo. Khác với những kẻ sĩ xuất rồi lại xử hoặc xử rồi lại xuất, Nguyễn
Hàng sống trọn đời trung thành với tư tưởng làm một nhà nho ẩn dật, chưa
có lấy một ngày ra làm quan cho triều đại hoặc một tập đoàn phong kiến
nào. Là người học hành đỗ đạt, Nguyễn Hàng cũng ấp ủ hoài bão lớn lao,
ra hành đạo giúp đời, phụng sự triều đại chính thống. Sinh ra không gặp
thời nên ông phải chọn con đường ẩn dật để giữ tròn khí tiết của nhà nho
chân chính trong thời loạn. Nguyễn Hàng sáng tác văn chương để “thể hiện
niềm tự hào của kẻ sĩ ẩn dật trong cảnh an bần lạc đạo, là niềm mến yêu tha
thiết thiên nhiên, đất nước hùng vĩ, tươi đẹp, là nghệ thuật sử dụng khả
năng to lớn của ngôn ngữ dân tộc để miêu tả đất nước Việt, con người
Việt” [21, 528].
Ngoài Nguyễn Hàng còn phải kể đến Ngô Thì Ức, Phùng Khắc
Khoan, Đào Duy Từ. Ngô Thì Ức đỗ Hương Cống. Ông không chỉ để chí
hướng vào con đường khoa hoạn mà còn thích sống nhàn tản với tư tưởng
phóng khoáng. Ngô Thì Ức để lại trong gia tài của mình phần nhiều là thơ
tả cảnh, qua đó thấy được phong thái ung dung của người yêu mến, gắn bó
với thiên nhiên, luôn muốn tránh xa chính trường bon chen danh lợi.Phùng
Khắc Khoan và Đào Duy Từ là những nho sĩ hành đạo tích cực nhập thế
nhưng rồi trước sau đều đã có lúc trở thành một ẩn sĩ. Trong những tháng
ngày ẩn chí đợi thời cũng như những ngày bị đi đày ở Thành Nam, đã có


17
lúc Phùng Khắc Khoan say sưa với cỏ cây, muông thú, có tâm trạng như
người ẩn sĩ trong Lâm tuyền vãn. Đào Duy Từ cũng đã có lúc phải nương

mình ở chốn rừng sâu núi thẳm. Sau đó, ông đã có đất để thi thố tài năng ở
Đằng Trong. Tác phẩm Ngọa Long cương vãn phản ánh tâm trạng của tác
giả trong những tháng ngày ẩn dật.
Thời kỳ này trong bộ phận văn chương nhà nho không thể không
nhắc đến Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nguyễn Bỉnh Khiêm lớn lên trong thời
kỳ chế độ phong kiến suy thoái không thể cứu vãn, đất nước rơi vào cảnh
loạn lạc dai dẳng, cuộc sống của con người bị xáo trộn khôn lường trong
xã hội vốn đã ẩn chứa nhiều mâu thuẫn. Nên dù học giỏi ông không ra
ứng thí, sống cuộc đời của một ẩn sĩ. Sau nhiều năm quy ẩn, Nguyễn
Bỉnh Khiêm quyết định nhập thế. Thi đỗ Trạng nguyên và ra làm quan
dưới triều nhà Mạc mong có thể “xoay lại càn khôn”, con đường thăng
quan tiến chức rộng thênh thang, những tưởng ông sẽ gắn bó cuộc đời
mình ở chốn quan trường để thực hiện lý tưởng của nhà nho hành đạo
giúp đời. Nguyễn Bỉnh Khiêm dâng sớ xin xử chém mười tám lộng thần
không được vua chấp nhận. Ông nhận ra mối họa tiềm tàng đối với quốc
gia dân tộc nằm ngay trong chính triều đình, chính sự đã trở nên đổ nát,
hủ bại. Nguyễn Bỉnh Khiêm cáo quan về quê vui thú với điền viên, dựng
am Bạch Vân, lấy hiệu là Bạch Vân cư sĩ.
Từ thế kỷ XVI văn học đã viết về các cuộc nội chiến giữa những tập
đoàn phong kiến, khắc đậm sự phi lí của chiến tranh với những cảnh chết
chóc tang thương, cuộc sống hỗn loạn. Phùng Khắc Khoan viết về cảnh
khói lửa liên miên, bùi ngùi đau xót cho nhân dân trong cảnh:
Can qua đầy rẫy, dân khổ vì lưu lạc, li tán,
Làm cho đám anh hùng phải lo nghĩ nhiều.
Gió mưa tăm tối, kể đã mấy năm rồi,
Non sông tan nát, đã bao lần nguyệt đổi sao dời…
(Thơ chữ Hán: Thương loạn)


18

Nhiều truyện trong Truyền kỳ mạn lục phản ánh số phận, cảnh ngộ của
nhân dân ở buổi loạn lạc. Trong Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu, chỉ
với vài nét phác họa, thảm cảnh chiến tranh đã hiện lên rõ mồn một: “Bấy giờ
binh lửa rối ren, đường sá hiểm trở, phải lận đận hàng tuần mới vào đến Nghệ
An”. Tương tự Nguyễn Dữ, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã đứng về phía nhân dân
lao động để bộc lộ thái độ phản đối nội chiến:
Lạc lạc can qua mãn mục tiền,
Nhân dân bôn thoán dục cầu tuyền.
Điên liên huề bão ta vô địa,
Ái hộ căng linh bản hữu thiên.
(Giáo và mộc tua tủa bày ra trước mắt,
Nhân dân trốn chạy muốn tìm nơi an toàn.
Khốn đốn dắt dìu nhau, thở than không có đất
Thương xót che chở cho, may thay còn có trời).
(Thơ chữ Hán: Cảm hứng, bài 4)
Nguyễn Bỉnh Khiêm đã vạch ra thủ phạm của thảm cảnh “chỗ nào
cũng máu chảy thành sông, xương chất như núi” (Ngụ ý) là kết quả của
việc tranh giành quyền lợi giữa các tập đoàn phong kiến.Trong thơ Nguyễn
Bỉnh Khiêm ta thấy thực tế được chứng kiến cũng như trải nghiệm làm tâm
hồn nhà thơ xao động nhiều nhất chính là cảnh loạn lạc, chia ly, chiến tranh
tàn phá khiến đâu đâu cũng thấy hoang tàn đổ nát:
Cư ốc chiết vi tân,
Canh ngưu đồ nhi thực.
Nhương đoạt phi kỷ hóa,
Hiếp dụ phi kỷ sắc.
Kiến hãm trọng đồ thán,
Sở quá sinh kinh cức.
Tiều tụy tư vi thậm
(Nhà ở đem bẻ làm củi,



19
Trâu cày đem mổ thịt ăn.
Cướp của người,
Hiếp đáp và dụ dỗ vợ người.
Chỉ trông thấy cảnh lầm than,
Nơi nào qua là gai bụi.
Tiều tụy đến thế là cùng).
(Thương loạn)
Trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ có những cách thể hiện khá
độc đáo. Tác giả mượn chuyện xưa để nói chuyện nay, dùng chuyện cõi
trời, cõi âm, thủy cung để thể hiện chuyện trần thế, dùng chuyện thần linh
ma quái để nói con người. Với ưu thế của văn xuôi, Nguyễn Dữ đã xây
dựng thành công bức tranh vẹn toàn về hiện thực xã hội đương thời.
Nguyễn Dữ cũng bày tỏ thái độ của mình trước thực trạng thối nát, đả kích
tầng lớp thống trị từ vua quan đến bọn cường hào ác bá.
Mọi nhà nho đều mơ ước xã hội lý tưởng “vua Nghiêu Thuấn, dân
Nghiêu Thuấn”. Tuy nhiên, mô hình xã hội Nghiêu Thuấn chỉ là không
tưởng là sản phẩm của trí tưởng tượng. Nhiều người chán nản với thực tế,
cáo quan về ở ẩn. Lý do khiến nhà nho tìm đến đời sống ẩn dật là nước
loạn, hay bị ngoại xâm, triều đại đang cầm quyền bị coi là không chính
thống và đôi khi vì những lý do cá nhân.
Ẩn dật, bất mãn với hiện thực là cách hành xử tất yếu của nhiều
nhà Nho khi mà chế độ phong kiến đang đứng trên bờ vực của sự sụp
đổ: chính trị đình đốn và rối loạn, cơ sở ý thức hệ Nho giáo suy đồi,
mất địa vị độc tôn. Nhà nho ẩn dật thời nào cũng có, ngay cả thời thịnh
trị như thời Nghiêu Thuấn nhưng đến những thế kỷ này nhà nho ẩn dật
trở thành một khuynh hướng xã hội thực sự. Có người chọn con đường
ở ẩn sau một thời gian dài làm quan như Nguyễn Bỉnh Khiêm, có người
đỗ đạt rồi đi ở ẩn ngay sau khi đỗ đạt hoặc sau một thời gian làm quan

ngắn ngủi như Nguyễn Dữ. Các nhà nho ẩn dật đã tự xác định cho mình


20
chỗ đứng bên lề cuộc đời không bị công danh lợi lộc luôn bủa vây lôi
kéo để có con mắt sáng suốt và tấm lòng thanh thản mà nhìn nhận và
phán xét cuộc đời.
Sáng tác văn chương của họ đều phản ánh tư tưởng, tình cảm của tầng
lớp trí thức tiến bộ phải sống trong cảnh nhiễu nhương của chế độ phong
kiến. Họ phê phán những tệ lậu của xã hội phong kiến, phản đối chiến tranh
phi nghĩa đồng thời tố cáo sự tham tàn, bạo ngược, đồi trụy của vua quan,
nho sĩ. Họ dùng văn chương để truyền thụ đạo lý, giáo huấn người đời, cải
thiện nhân tâm thế đạo trước sự suy vi của đạo đức, bởi theo nhà Nho, sự
thối nát của xã hội bắt nguồn từ sự suy đồi của đạo lý, của nhân phẩm. Mặc
dù, lên án gay gắt nhưng trước sau họ vẫn là những người theo ý thức hệ
Nho giáo. Sự phê phán không nhằm để phủ định chế độ phong kiến.
Thời kỳ chế độ phong kiến bước vào con đường suy thoái thì văn
chương của các nhà nho cũng có sự phân hóa mạnh mẽ, phức tạp như tình
hình chính trị xã hội đương thời. Bộ phận được chú ý nhất là những sáng
tác của các nhà nho đã phản ánh trung thực tình hình của chế độ phong
kiến.
Tùy theo tình hình lịch sử xã hội mà xuất hiện những loại hình nhà
nho khác nhau. Giai đoạn thịnh trị nhà nho hành đạo chiếm ưu thế, sang
giai đoạn phong kiến suy thoái nhà nho ẩn dật nhiều đóng góp hơn do bất
mãn với thời cuộc. Giai đoạn phong kiến mạt vận ngoài cả hai loại hình
nhà nho trên có thêm loại hình nhà nho tài tử. Thời kỳ này những mâu
thuẫn tiềm tàng trước đây giờ có dịp bùng lên dữ dội với những căng thẳng
được đẩy lên đến gay gắt; chế độ phong kiến lâm vào khủng hoảng, bế tắc
trầm trọng, rơi vào vòng luẩn quẩn không tìm thấy lối thoát. Đến lúc này,
đất nước cũng chỉ như cái thùng rỗng không còn gì để hưởng đặc quyền

đặc lợi. Các tập đoàn phong kiến xâu xé, tranh giành quyền lực, giai cấp
phong kiến lúc này đã ở vào tình trạng tổng khủng hoảng toàn diện, phản
động, cản trở bước tiến của dân tộc. Trong hoàn cảnh như vậy nhân dân là


21
tầng lớp chịu nhiều khổ sở, áp bức bóc lột mà càng bị áp bức lại càng phải
đấu tranh nên họ đã quyết vùng lên. Do vậy, có nhiều cuộc khởi nghĩa nông
dân đã diễn ra rầm rộ, liên tục, rộng khắp. Mặc dù triều đình đã dùng nhiều
cách để trấn áp nhưng các phong trào không vì thế mà lắng xuống, ngược
lại càng phát triển mạnh mẽ hơn.
Thời kỳ mục nát của chế độ phong kiến đã nảy sinh mâu thuẫn gay gắt
giữa nông dân và giai cấp thống trị. Giai cấp phong kiến lúc này đã không
vì lợi ích của nhân dân. Các nhà nho đến lúc này đã sử dụng ngòi bút của
mình như một thứ vũ khí sắc sảo.
1.4. Khái niệm cảm hứng chính sự
Theo Từ điển tiếng Việt của giáo sư Hoàng Phê, cảm hứng là “Trạng
thái tâm lí đặc biệt khi sức chú ý được tập trung cao độ, kết hợp với cảm
xúc mãnh liệt, tạo điều kiện để óc tưởng tượng, sáng tạo hoạt động có hiệu
quả” cảm hứng sáng tạo của Nguyễn Dữ [39, 103].
Biêlinxki người Nga thế kỷ XIX gọi cảm hứng là sự say mê với tư
tưởng.
Cảm hứng chính sự thường thấy trong văn chương nhà Nho vì họ quan
niệm văn chương phải trực tiếp phục vụ đời sống. Tùy thuộc vào mỗi thời
kỳ mà cảm hứng chính sự bộc lộ theo những cách thức và sắc thái khác
nhau. Thời chế độ phong kiến thịnh trị, các nhà Nho thể hiện cảm hứng đó
bằng việc ca ngợi triều đình phong kiến hết lòng lo cho xã tắc. Khi xã hội
rơi vào tình cảnh loạn lạc, các nhà Nho đã thể hiện cảm hứng này bằng việc
phê phán vua quan hủ bại. Các nhà nho có lương tri là những người dùng
ngòi bút của mình góp sức tham gia vào công cuộc chiến đấu chống lại sự

mục nát của triều đình. Nhiều khi họ vừa chống quân xâm lược lại vừa phải
chống lại cả triều đình thối nát.
Cảm hứng chính sự trong các tác phẩm đã đem đến cho người đọc
một cái nhìn trung thực hơn về thực trạng của đất nước bằng những hình


22
tượng nghệ thuật sinh động chứ không phải dưới con mắt của một người
làm sử.
Cảm hứng chính sự là một bộ phận của cảm hứng thế sự, một nội
dung quan trọng trong sáng tác của nhiều nhà nho thời trung đại. Đặc biệt
trong giai đoạn từ thế kỷ XVI – XVIII, xã hội có nhiều biến động, đó là khi
các tác giả thể hiện tâm sự và nhận thức của mình về cuộc sống của con
người. Với Truyền kỳ mạn lục và tác phẩm tự sự nói chung, cảm hứng
chính sự được thể hiện qua việc tác giả tái hiện bức tranh đời sống.


23
Chương 2
CẢM HỨNG CHÍNH SỰ VỚI VIỆC XÂY DỰNG CỐT TRUYỆN
CỦA TRUYỀN KỲ MẠN LỤC
2.1. Khái niệm cốt truyện
Cốt truyện như cái khung của một tác phẩm, không có nó tác phẩm
không thể đến tay người đọc một cách hệ thống. Trong 150 thuật ngữ văn
học, Lại Nguyên Ân cho rằng thuật ngữ cốt truyện được áp dụng lần đầu
tiên vào thế kỷ XVII với các nhà văn cổ điển chủ nghĩa P. Corneille và N.
Boileau.
“Cốt truyện là một hệ thống các sự kiện phản ánh những diễn biến của
cuộc sống và nhất là các xung đột xã hội một cách nghệ thuật, qua đó các
tính cách hình thành và phát triển trong những mối quan hệ qua lại của

chúng nhằm làm sáng tỏ chủ đề và tư tưởng tác phẩm” [10, 137].
Cốt truyện là “hệ thống sự kiện cụ thể, được tổ chức theo yêu cầu
tư tưởng và nghệ thuật nhất định, tạo thành một bộ phận cơ bản, quan
trọng nhất trong hình thức động của tác phẩm văn học thuộc các loại tự
sự và kịch” [12, 88]. “Cốt truyện như là toàn bộ các biến cố, sự kiện
được nhà văn kể ra, là cái mà người đọc có thể đem kể lại” [12, 90].
Cốt truyện là phương tiện để nhà văn phản ánh chân thực các xung đột
xã hội.
Cốt truyện cũng hình thành nên bởi các thành phần: mở đầu (thắt
nút), phát triển, cao trào và kết thúc (mở nút). Nhưng không phải cốt
truyện nào cũng nhất thiết phải có đủ tất cả các thành phần, cho nên,
cần tránh sự máy móc khi phân tích các thành phần mà điều nên làm là
đi sâu vào nội dung cụ thể của tác phẩm, tìm hiểu biến cố với số phận
của nhân vật. Có làm được như vậy, mới hiểu sâu sắc những gì tác giả
gửi gắm vào trong đó.


×