Tải bản đầy đủ (.doc) (71 trang)

Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng ở một số trường hợp cụ thể trong bộ luật dân sự 2005

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (442.97 KB, 71 trang )

Trờng đại học vinh
Khoa giáo dục chính trị

đặng thị phơng lê

bồi thờng thiệt hại ngoài hợp đồng ở một số trờng
hợp cụ thể trong bộ luật dân sự 2005
khoá luận tốt nghiệp đại học
ngành cử nhân chính trị - luật

Giảng viên hớng dẫn chuyên môn

Th.s Nguyễn Thị Tuyết

Vinh, 05/2010
PHN M U
1. Lớ do chn ti
Trong iu kin ng v Nh nc ta ch trng phỏt trin nn kinh t th
trng nh hng XHCN, vi nhng c im ca nn kinh t th trng l s
phc tp, a dng ca cỏc quan h xó hi. Do ú Nh nc phi m bo cho
i sng xó hi cú tớnh t chc cao, n nh, cụng bng xó hi bng vic bo
m trt t ca nhng quan h xó hi phc tp, hn ch v loi tr mi s tu
tin, cao trỏch nhim v k lut cho cỏc bờn tham gia quan h nhm to
1


môi trường pháp lí thuận lợi cho mọi quan hệ xã hội tồn tại và phát triển, bảo
đảm cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật. Để đáp ứng yêu cầu đó,
hàng loạt những văn bản pháp luật được ban hành như: Bộ luật lao động, Luật
doanh nghiệp..., đặc biệt là sự ra đời của Bộ luật dân sự 1999 và sau đó là Bộ
luật dân sự 2005 ngày 14/06/2005, có hiệu lực từ ngày 01/01/2006. Bộ luật dân


sự thể hiện tinh thần bảo vệ đúng đắn các lợi ích Nhà nước, tập thể và các quyền
dân sự của con người về các quyền nhân thân và tài sản. Điều 9 BLDS 2005 quy
định: "Tất cả các quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác được tôn
trọng và được pháp luật bảo vệ. Khi quyền dân sự của một chủ thể bị xâm phạm
thì chủ thể đó có quyền tự bảo vệ theo quy định của Bộ luật này hoặc yêu cầu cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền: Công nhận quyền dân sự của mình; buộc chấm dứt
hành vi vi phạm; buộc xin lỗi, cải chính công khai; buộc thực hiện nghĩa vụ dân
sự; buộc bồi thường thiệt hại."
Để bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích của tập thể, quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân khi có hành vi xâm phạm mà gây thiệt hại, pháp luật dân sự
nói chung và Bộ luật dân sự nói riêng quy định trách nhiệm về bồi thường thiệt
hại với mục đích để nhằm khôi phục lại những lợi ích đã bị xâm phạm và bù đắp
những thiệt hại xảy ra do hành vi vi phạm pháp luật gây ra. Việc quy định trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng như là một phương tiện pháp lý được
Nhà nước sử dụng để bảo vệ các quyền và lợi ích cho các chủ thể và nhằm giáo
dục người gây thiệt hại nói riêng và mọi công dân trong xã hội nói chung về ý
thức tuân theo pháp luật, tôn trọng lợi ích của người khác, của tập thể và lợi ích
công cộng. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có ý nghĩa rất quan
trọng cả về mặt lý luận và thực tiễn. Nó xuất phát từ yêu cầu thiết thực và cấp
bách nhất của xã hội là đòi hỏi phải đảm bảo sự bình đẳng công bằng, chính xác
và hợp lý.
Ở Việt Nam quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại do hành vi sai trái tuy đã
được luật hóa tại Bộ luật dân sự, tại chương “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại
2


ngoài hợp đồng” (từ Điều 604 đến 630 BLDS năm 2005) và một số văn bản
dưới luật khác. Nhưng hiện nay vẫn chưa có những công trình nghiên cứu nào đi
sâu nghiên cứu những trường hợp cụ thể của vấn đề trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng, do đó cũng đã phần nào gây ra sự hạn chế trong quá trình

tìm hiểu vấn đề pháp luật này. Trong những năm gần đây, ở nước ta lại thường
xuyên nảy sinh những vấn đề bất cấp trong một số lĩnh vực như gây ô nhiễm
môi trường, vi phạm quyền lợi người tiêu dùng... Đây là những vấn đề nổi cộm
và có tính chất phức tạp, cần có các chế tài hợp lý điều chỉnh để đảm bảo bảo vệ
được lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tập thể và cá nhân. Xuất phát từ đó tôi
chọn đề tài: “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng ở một số
trường hợp cụ thể trong Bộ luật dân sự 2005” để làm khoá luận tốt nghiệp đại
học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay trên các diễn đàn nghiên cứu luật pháp nước ta đã có khá nhiều
các bài viết, các công trình nghiên cứu về Trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng. Trong đó có những công trình tiêu biểu như:
- Nguyễn Văn Cương và Chu Thị Hoa, Bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Số 4/2005, tr. 61 - 66.
- Phạm Kim Anh, Trách nhiệm dân sự và chế định bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng trong bộ luật dân sự 2005 thực trạng và giải pháp hoàn thiện,
Tạp chí Khoa học pháp lý - Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, Số
6/2009, tr. 3-13.
- Lê Mai Anh (2002), Bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của
cơ quan tiến hành tố tụng gây ra - Luận án tiến sĩ luật học, Trường Đại học Luật
Hà Nội, Hà Nội.
- Định Thị Mai Phương, Pháp luật, áp dụng pháp luật về bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng ở Việt Nam - thực trạng và phương hướng hoàn thiện, Tạp
chí Luật học số 3/2002, tr. 53 - 59.
3


Nhìn chung các bài viết và các công trình nghiên cứu này còn tập trung
vào làm rõ cơ sở lý luận của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng,
chứ chưa thực sự có một công trình nào nghiên cứu về trách nhiệm bồi thường

thiệt hại trong một số trường hợp cụ thể, về thực tiễn bồi thường thiệt hại trong
những trường hợp đó và những vướng mắc trong quá trình áp dụng chế định bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng để từ đó đưa ra giải pháp hoàn thiện quy định
pháp luật về vấn đề này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Trong bài khoá luận này, nhiệm vụ chủ yếu là nghiên cứu những quy định
của pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, phân tích một số trường
hợp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cụ thể, đó là các vấn đề cấp thiết trong
thực tiễn nước ta hiện nay. Từ đó đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy
định của pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài nghiên cứu những quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng, so sánh đối chiếu với trách nhiệm bồi thường thiệt hại
theo hợp đồng , phân tích một vài trường hợp cụ thể và đưa ra giải pháp nhằm
hoàn thiện quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Trách nhiệm BTTHNHĐ rất đa dạng, trong khuôn khổ một bài khoá luận
tác giả chỉ tập trung nghiên cứu hai trường hợp cụ thể, đó là:
- Bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường (Điều 624 BLDS 2005);
- Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng (Điều 630
BLDS 2005).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Kết hợp giữa quan điểm
của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử. Quá trình
nghiên cứu đề tài tác giả đã sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu như:
4


Phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp chứng
minh.
6. Đóng góp của khoá luận

Khoá luận có thể được dùng làm tài liệu tham khảo trong hoạt động của
các cơ quan bảo vệ pháp luật và quá trình giảng dạy, học tập môn Luật dân sự,
phần Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của giảng viên, sinh viên chuyên
ngành Luật và tất cả những ai quan tâm.
7. Kết cấu của khoá luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phần nội
dung của bài khoá luận được chia thành 2 chương, 6 tiết.

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG
THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG TRONG BỘ LUẬT DÂN SỰ 2005
1.1. Khái niệm, mục đích, ý nghĩa của trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng
1.1.1. Khái niệm
5


Xã hội luôn luôn là tổng hòa các mối quan hệ đa dạng và phức tạp cần đến
sự điều chỉnh của pháp luật. Trong một xã hội nhất định, với bất kì một quan hệ
xã hội nào thì bên cạnh các quyền xác định được đều gắn với trách nhiệm của
các bên tham gia quan hệ đó. Khi nói đến trách nhiệm bồi thường là đề cập đến
một tình thế buộc một người phải thực hiện một hành vi hoặc có trách nhiệm
gánh chịu những bất lợi về tài sản hoặc về nhân thân của người mang trách
nhiệm đó. Tuy nhiên theo tính chất của từng loại trách nhiệm thì trách nhiệm
được phân ra theo đối tượng điều chỉnh của từng ngành luật khác nhau hoặc tính
chất của từng loại quan hệ tài sản khác nhau để xác định. Tương ứng với các đối
tượng điều chỉnh của mỗi một ngành luật thì trách nhiệm pháp lí cũng được nhà
nước quy định trong một phạm vi và có những đặc điểm khác nhau như trách
nhiệm hình sự, trách nhiệm hành chính, trách nhiệm dân sự.
Trong Bộ luật dân sự, tuy không xây dựng một khái niệm riêng biệt về

trách nhiệm dân sự nhưng thông qua những quy định về trách nhiệm dân sự từ
điều 302 đến điều 308 Bộ luật dân sự 2005 có thể hiểu: "Trách nhiệm dân sự là
sự tác động đối với người vi phạm bằng những biện pháp chế tài dân sự, mà chủ
yếu là buộc người vi phạm phải gánh chịu những hậu quả bất lợi từ hành vi vi
phạm của mình gây ra, chẳng hạn như thanh toán giá trị, chi phí, khôi phục tình
trạng, bồi thường thiệt hại..." [9,8]
Các chủ thể khi tham gia vào quan hệ pháp luật phải gánh chịu những hậu
quả bất lợi, họ phải chịu trách nhiệm dân sự do chính những hành vi sai trái của
mình. Hành vi của các chủ thể có thể là vi phạm hợp đồng (không thực hiện,
thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết) hoặc do hành vi vi
phạm pháp luật. Như vậy, trách nhiệm dân sự có thể chia thành hai loại đó là
trách nhiệm dân sự theo hợp đồng và trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng.
Điều 604 Bộ luật dân sự 2005 đã quy định: “Người nào do lỗi cố ý hoặc
vô ý xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản,
quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản
6


của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường”. Điều
này có nghĩa là một người nào đó gây thiệt hại cho người khác thì phải có trách
nhiệm bồi thường thiệt hại. Khi một người gây thiệt hại cho người khác sẽ làm
phát sinh mối quan hệ bồi thường thiệt hại giữa họ và người bị thiệt hại. Quan
hệ bồi thường thiệt hại này phát sinh từ hành vi trái pháp luật của một bên chủ
thể nhưng giữa các bên không có mối quan hệ hợp đồng hoặc nếu có, thì vi
phạm này không phải là vi phạm nghĩa vụ đã cam kết trong hợp đồng, do đó
phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Qua những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng như sau: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng là trách nhiệm của người có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại
cho người khác về tài sản, sức khỏe, tính mạng, các quyền nhân thân mà trước

đó giữa người gây thiệt hại và người bị thiệt hại không có giao kết hợp đồng
hoặc giữa họ có giao kết hợp đồng nhưng hành vi gậy thiệt hại không thuộc
hành vi vi phạm hợp đồng. [24, 8]
1.1.2. Mục đích, ý nghĩa của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng
- Mục đích
Trong quan hệ dân sự, chỉ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng trong trường hợp phải có thiệt hại xảy ra và do hành vi trái pháp luật
gây nên thiệt hại đó cho các chủ thể khác. Do vậy việc bồi thường thiệt hại là
một thuộc tính, một chế định quan trọng của Luật dân sự, là cơ sở để bảo vệ
quyền và lợi ích chính đáng của các chủ thể.
Việc giải quyết trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, về bản
chất chính là việc áp dụng một biện pháp nhằm hướng tới hai mục đích. Trước
tiên nó là một hình thức trách nhiệm dân sự để buộc bên có hành vi gây thiệt hại
phải bù đắp những tổn thất về vật chất và tinh thần cho bên bị vi phạm. Mục
đích thứ hai là nó hướng đến việc giáo dục mọi người ý thức tuân thủ pháp luật,
7


tôn trọng quyền, lợi ích hợp pháp của người khác và của xã hội. Chính vì vậy,
không thể coi giải quyết việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là việc áp
dụng một biện pháp chế tài hình sự, lại càng không thể xem nhẹ coi nó như một
hình phạt phụ được.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng không phát sinh trên cơ
sở hợp đồng mà trên cơ sở do pháp luật quy định, nó là một dạng cụ thể của
trách nhiệm dân sự nói chung. Trong thực tế đời sống xã hội, một quan hệ pháp
luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng sẽ phát sinh khi một chủ
thể này, bằng hành vi của chính mình gây thiệt hại đối với một chủ thể khác mà
trước đó không có quan hệ hợp đồng với nhau, hoặc trước đó đã tồn tại một
quan hệ hợp đồng nhưng hành vi gây thiệt hại không liên quan gì đến việc thực

hiện hợp đồng đó. Trong trường hợp này việc bồi thường được đặt ra theo yêu
cầu của bên chủ thể bị thiệt hại trên cơ sở những quy định chung của pháp luật,
và một chế tài dân sự lúc này sẽ mang ý nghĩa là sự bổ sung nghĩa vụ mà chủ thể
gây thiệt hại phải gánh chịu do hành vi vi phạm pháp luật của mình. Và chính vì
vậy, trong quan hệ xã hội nói chung, những quy định về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại đã dần dần thay thế cho những phong tục tập quán lạc hậu như: trả thù
cá nhân, ăn miếng trả miếng...
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng chủ yếu phát sinh do bất
chợt, ngẫu nhiên, không được dự liệu trước, bởi hành vi vi phạm pháp luật nói
chung gây ra thiệt hại... Và như vậy, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng có mục đích nhằm khắc phục hậu quả, khắc phục thiệt hại, giúp cho việc
khôi phục lại quyền lợi về vật chất và tinh thần đã bị mất, đề cao nguyên tắc
pháp luật. Xuất phát từ tính chất của các quan hệ dân sự là hàng hóa - tiền tệ,
ngang giá và đền bù, nên người gây ra thiệt hại thì phải có nghĩa vụ bồi thường
thiệt hại là tất yếu. Trong hoàn cảnh hiện nay, chế định trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng càng phải được tăng cường xây dựng hơn vì nền kinh tế
thị trường nhiều thành phần phát sinh ngày càng nhiều những nguồn nguy hiểm
8


cao độ như chất thải, hóa chất của các nhà máy, xí nghiệp là ô nhiễm môi
trường, hoặc các phương tiện giao thông gây tai nạn... Việc bảo quản vũ khí,
chất cháy, chất nổ, chất phóng xạ, xây dựng các công trình lớn... Hoặc những
thiệt hại về vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, xúc phạm danh dự, uy tín trong
lĩnh vực sản xuất kinh doanh, xâm phạm đến sức khỏe, nhân phẩm của công
nhân. Nhiều quy định của pháp luật đã cho thấy Nhà nước ta rất quan tâm đến
việc đảm bảo sự an toàn của công dân, pháp nhân về tài sản, về nhân thân; đảm
bảo đời sống cộng đồng được ổn định, đảm bảo công bằng xã hội và quyền con
người về dân sự.
Mặt khác, trong thực tế hoạt động xã hội, hoạt động sản xuất xảy ra ngày

càng nhiều các hiện tượng xâm phạm đến quyền lợi của người khác, xúc phạm
đến uy tín của các cá nhân, tổ chức, nếu thiếu đi trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng thì Nhà nước không thể bảo vệ một cách thích đáng sự an toàn
pháp lí của công dân và tổ chức sinh hoạt cộng đồng. Do vậy, trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng là cơ sở pháp lí để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
lợi ích tập thể và lợi ích xã hội khỏi sự xâm phạm, bảo đảm cho các quan hệ xã
hội phát triển lành mạnh, ổn định. Nó cũng tạo cơ sở pháp lí cần thiết cho công
tác xét xử của Tòa án, bảo đảm giải quyết một cách nhanh chóng, công minh,
chính xác và khách quan các vụ án về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
- Ý nghĩa
Điều 3 Hiến pháp 1992 đã ghi nhận: "Nhà nước bảo đảm và không ngừng
phát huy quyền làm chủ mọi mặt của nhân dân, xây dựng đất nước giàu mạnh,
thực hiện công bằng xã hội". Do vậy, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng cần phải được xây dựng thực sự trên cơ sở công bằng, hợp lí, công bằng xã
hội là cái đích và thước đo trách nhiệm bồi thường thiệt hại đã thực sự hợp lí và
phù hợp hay chưa.

9


Trong nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, tồn tại nhiều hình thức sở
hữu đối với tư liệu sản xuất và nhiều lợi ích khác nhau, vấn đề đặt ra là phải làm
sao để đảm bảo được lợi ích cho các chủ thể và công bằng xã hội. Luật dân sự là
một phương tiện hữu hiệu, là công cụ để bảo vệ và thưc hiện công bằng xã hội.
Nhà nước không những đảm bảo về mặt pháp lí mà còn về mặt thực tế cho lợi
ích của các chủ thể. Chính vì vậy mà trong lưu thông dân sự, các chủ thể phải
thực hiện những hành vi của mình trong khuôn khổ pháp luật cho phép để không
gây thiệt hại đến lợi ích của chủ thể khác và không làm tổn hại đến lợi ích xã
hội. Do vậy, khi có hành vi trái pháp luật của một chủ thể nào đó gây thiệt hại

cho một chủ thể khác thì phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại đã gây ra,
trên cơ sở mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt đối xử như
tôn giáo, dân tộc, thành phần xã hội... trong những hoàn cảnh, điều kiện như
nhau, thì các chủ thể phải chịu trách nhiệm như nhau, sự bình đẳng cả về năng
lực pháp luật và trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Mặt khác trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng quyền về
nhân thân và tài sản được pháp luật ghi nhận và bảo vệ được quy định thành các
nguyên tắc pháp lí và đảm bảo về mặt thực tế. Những quyền đó được thực hiện
và được bảo vệ khi bị xâm hại; chủ thể bị xâm hại được quyền yêu cầu chủ thể
xâm hại hoặc Tòa án, cơ quan có thẩm quyền khác buộc người gây thiệt hại phải
bồi thường. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong Luật dân sự
là một nét đặc thù của pháp luật Việt Nam, nó là sự cụ thể hóa những nguyên tắc
chung trong những trường hợp cụ thể, là sự kết tinh giữa tinh hoa pháp luật dân
sự thế giới, và là sự kế thừa truyền thống pháp luật của cha ông. Do vậy nó đã
góp phần đảm bảo sự ổn định đời sống cộng đồng, hạn chế được những tranh
chấp tiêu cực và làm lành mạnh các quan hệ xã hội, hướng mọi người tuân thủ
pháp luật và phòng ngừa những hành vi vi phạm pháp luật.
1.1.3. Phân biệt trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và
trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng
10


Theo quy định của pháp luật dân sự thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại
được chia thành hai loại là trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và
trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng. Trách nhiệm bồi thường thiệt
hại theo hợp đồng là trách nhiệm phát sinh do một bên đã không thực hiện, thực
hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ mà các bên đã cam kết trong hợp đồng.
Điều cơ bản nhất để hình thành nên loại trách nhiệm này là giữa các bên phải có
quan hệ hợp đồng, hợp đồng đó phải có hiệu lực và thiệt hại xảy ra phải là do
hành vi không thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ của hợp

đồng.
Tuy có những điểm giống nhau nhất định vì cùng là trách nhiệm dân sự
nhưng giữa hai loại trách nhiệm này cũng có những điểm khác nhau căn bản đó
là:
Về cơ sở phát sinh: trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng chỉ
phát sinh khi có sự hiện diện của một hợp đồng, loại trách nhiệm này phát sinh
do hành vi không thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ của
hợp đồng. Trong khi đó, trách nhiệm BTTHNHĐ phát sinh từ một hành vi cố ý
hoặc vô ý gây thiệt hại cho người khác và hành vi đó không liên quan đến bất kỳ
một hợp đồng nào có thể có giữa người gây thiệt hại và người bị thiệt hại.
Về mức độ bồi thường: khi thực hiện trách nhiệm BTTHNHĐ người gây
thiệt hại phải bồi thường toàn bộ thiệt hại cả thiệt hại trực tiếp và thiệt hại gián
tiếp (nếu có), còn trong trách nhiệm theo hợp đồng thì người gây thiệt hại chỉ
phải bồi thường những thiệt hại trực tiếp và những thiệt hại có thể tiên liệu trước
khi ký kết hợp đồng.
Yếu tố lỗi: trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng trách
nhiệm chỉ phát sinh do lỗi cố ý hoặc vô ý của người không thực hiện, thực hiện
không đúng hợp đồng trừ trường hợp pháp luật có quy định khác hoặc giữa các
bên có thỏa thuận khác, còn trong trách nhiệm BTTHNHĐ thì ngay cả trong

11


trường hợp không có lỗi thì vần phải bồi thường theo quy định của pháp luật
(Khoản 2 Điều 604 BLDS 2005).
Trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng, nghĩa vụ bồi
thường có thể phát sinh cả khi do lỗi của người khác (Điều 293 BLDS 2005 Thực hiện nghĩa vụ dân sự thông qua người thứ ba), còn trong trách nhiệm
BTTHNHĐ, người gây thiệt hại có thể phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt
hại cả khi họ không có lỗi (Khoản 3 Điều 623 - Bồi thường thiệt hại do nguồn
nguy hiểm cao độ gây ra) nhưng họ không bao giờ phải chịu trách nhiệm về lỗi

của người khác.
Về tính liên đới chịu trách nhiệm: những người gây thiệt hại ngoài hợp
đồng đa phần phải chịu trách nhiệm liên đới nếu có đủ các điều kiện mà luật
định, còn trong trách nhiệm theo hợp đồng trách nhiệm liên đới chỉ đặt ra nếu có
thỏa thuận trước.
Về thời điểm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Cần phải phân
biệt rõ về thời điểm phát sinh trách nhiệm giữa hai loại trách nhiệm này để xác
định rõ đâu là trường hợp bồi thường thiệt hại theo hợp đồng và đâu là bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng: trong bồi thường thiệt hại theo hợp đồng thì
trách nhiệm phát sinh kể từ thời điểm hợp đồng có hiệu lực và có bên vi phạm
nghĩa vụ hợp đồng, còn trong quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trách
nhiệm phát sinh kể từ thời điểm xảy ra hành vi gây thiệt hại.
Chủ thể phải bồi thường: thông thường trách nhiệm bồi thường thiệt hại
theo hợp đồng thì người tham gia hợp đồng phải chịu trách nhiệm còn trách
nhiệm BTTHNHĐ có thể do người đại diện, giám hộ chịu trách nhiệm.
Hậu quả pháp lý sau khi bồi thường: việc thực hiện nghĩa vụ BTTHNHĐ
sẽ làm chấm dứt nghĩa vụ giữa các bên, trong khi đó việc thực hiện nghĩa vụ bồi
thường thiệt hại theo hợp đồng thì nghĩa vụ của người gây thiệt hại chưa chắc đã
chấm dứt.

12


1.2. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng
Để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia vào quan
hệ pháp luật dân sự, việc quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây thiệt
hại cho người khác không thể xác định một cách tuỳ tiện và thiếu căn cứ. Pháp
luật dân sự quy định việc giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại căn cứ vào các
điều kiện nhất định. Điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại

ngoài hợp đồng chính là những yếu tố tạo nên cơ sở cho việc xác định trách
nhiệm bồi thường, người phải bồi thường, người được bồi thường và mức độ bồi
thường. Các điều kiện này phải được xem xét trong mối quan hệ biện chứng,
thống nhất và đầy đủ.
Trong Bộ luật dân sự 2005 của nước ta không có một quy định nào quy
định cụ thể về các điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng. Xuất phát từ những quy định, những nguyên tắc của pháp luật
nói chung và luật dân sự nói riêng, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng phát sinh khi có bốn điều kiện được quy định tại Nghị quyết số
03/2006/HĐTP-TANDTC ngày 08 tháng 07 năm 2006 hướng dẫn áp dụng một
số quy định của Bộ luật dân sự về bồi thường thiệt hại. [24, 34]
1.2.1. Có thiệt hại xảy ra
Thiệt hại xảy ra là tiền đề của trách nhiệm bồi thường thiệt hại bởi mục
đích của việc áp dụng trách nhiệm là khôi phục tình trạng tài sản cho người bị
thiệt hại, do đó không có thiệt hại thì không đặt vấn đề bồi thường cho dù có đầy
đủ các điều kiện khác.
Theo giáo trình Luật dân sự của Trường đại học Luật Hà Nội năm 2007
“Thiệt hại là những tổn thất thực tế được tính thành tiền do việc xâm phạm đến
tính mạng, sức khoẻ, danh dự, uy tín, tài sản của cá nhâ, tổ chức" [29, 262].
Tổn thất thực tế ở đây chính là sự giảm sút, mất mát về lợi ích vật chất, tinh thần
hay những chi phí bỏ ra để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại mà người bị
13


thiệt hại phải gánh chịu. Như vậy, xét từ bất kỳ góc độ nào thì hành vi trái pháp
luật và gây ra thiệt hại cũng đều xâm phạm đến các quan hệ xã hội được pháp
luật bảo vệ, cho nên, những quy định về bồi thường thiệt hại của pháp luật dân
sự đưa ra là hợp lý để kịp thời ngăn chặn những hành vi gây thiệt hại và buộc
những người đã thực hiện hành vi gây thiệt hại phải có trách nhiệm bồi thường.
- Thiệt hại về vật chất

Thiệt hại về vật chất là thiệt hại có thể tính toán, định lượng ra tiền được.
Cụ thể: tài sản bị mất; tài sản bị huỷ hoại hoặc bị hư hỏng; lợi ích gắn
liền với việc sử dụng, khai thác tài sản; chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế và
khắc phục thiệt hại. Các thiệt hại này muốn được bồi thường thì phải thoả mãn
một số điều kiện: sự thiệt hại phải chắc chắn, thực tế và chưa được bồi thường.
- Thiệt hại về tinh thần
Không có một khái niệm nào đựơc đưa ra giải thích thế nào là “thiệt hại về
tinh thần”, chúng ta chỉ có thể hiểu một cách khái quát thiệt hại tinh thần là sự
xâm phạm vào các giá trị tinh thần, tình cảm như là sự mất danh dự, uy tín, nhân
phẩm, tạo nên những đau thương… Pháp luật dân sự không có một quy định nào
cụ thể về vấn đề này. Khoản 3 Điều 307 BLDS 2005 quy định một cách khái
quát: “Người gây thiệt hại về tính thần cho người khác do xâm phạm đến tính
mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người đó thì ngoài việc phải
chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai còn phải bồi thường một
khoản tiền để bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại”.
Bồi thường thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm là vấn đề
nhạy cảm và phức tạp, bởi vì những thiệt hại về tinh thần là những thiệt hại phi
vật chất không thể cân, đo, đong, đếm được, cũng không có một công thức
chung để quy ra tiền áp dụng cho các trường hợp. Suy đến cùng những bù đắp
về tình thần chỉ mang tính chất an ủi, động viên đến người bị thiệt hại mà thôi.
Có thể nói đây là một vấn đề khó, cho đến nay về cơ bản các nhà làm luật vẫn
chưa ban hành được văn bản hướng dẫn cụ thể về vấn đề này.
14


1.2.2. Hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật
Theo quy định chung của pháp luật, mọi công dân, tổ chức có quyền được
bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, tài sản, danh dự... Mọi người đều phải tôn trọng
những quyền đó của chủ thể khác và không được thực hiện bất cứ một hành vi
nào xâm phạm đến các quyền đó. Một người có hành vi xâm phạm đến các

quyền tuyệt đối này đều bị coi là hành vi trái pháp luật dù cho họ có lỗi cố ý hay
vô ý. Như vậy, hành vi gây thiệt hại về tài sản, sức khoẻ, tính mạng, danh dự,
nhân phẩm của người khác được xác định là hành vi trái pháp luật, người có
hành vi đó phải chịu trách nhiệm dân sự. Hành vi trái pháp luật là hành vi của
một người được tiến hành gây ra những thiệt hại về vật chất hoặc tinh thần của
cá nhân, của tổ chức, của Nhà nước... mà những lợi ích đó được pháp luật quy
định bảo vệ.
Trong luật dân sự, người ta không liệt kê cụ thể hành vi nào bị coi là trái
pháp luật. Việc bồi thường căn cứ vào lỗi và hậu quả xảy ra. Người gây thiệt hại
muốn miễn giảm bồi thường thì phải chứng minh hành vi của mình không trái
pháp luật hoặc không thuộc trường hợp pháp luật quy định mình có trách nhiệm
phải bồi thường.
Hành vi trái pháp luật có thể là hành vi xâm phạm đến các quyền tài sản
hoặc các quyền nhân thân. Khi xâm phạm đến các quyền về tài sản có nghĩa là
xâm phạm đến các quyền về sở hữu, còn xâm phạm đến các quyền nhân thân có
nhiều biểu hiện khác nhau như xâm phạm đến đời tư, gây thiệt hại về tính mạng,
sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín…
Trên thực tế có nhiều trường hợp chủ thể đã gây ra thiệt hại nhưng hành vi
gây ra thiệt hại không phải là vi phạm pháp luật mà là hành vi hợp pháp nếu
hành vi đó được thực hiện theo nghĩa vụ mà pháp luật quy định hoặc nghề
nghiệp buộc họ phải làm như vậy. Trong các trường hợp này, trách nhiệm bồi
thường không được đặt ra đối với người gây thiệt hại. Ngoài ra, người gây thiệt
hại không phải bồi thường trong trường hợp phòng vệ chính đáng, tình thế cấp
15


thiết hoặc theo yêu cầu của người bị hại. Tuy nhiên, nếu vượt quá giới hạn nêu
trên thì người gây ra thiệt hại vẫn phải bồi thường.
1.2.3. Người gây thiệt hại có lỗi
Lỗi là một trong bốn điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt

hại ngoài hợp đồng nói riêng và trách nhiệm dân sự nói chung. Xét về hình thức,
lỗi là trạng thái tâm lý của người có hành vi gây thiệt hại, phản ánh nhận thức
của người đó đối với hành vi và hậu quả của hành vi mà họ đã thực hiện.
Lỗi trong trách nhiệm dân sự, theo quy định tại Khoản 1 Điều 308 BLDS
2005 thì "Người không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự thì
phải chịu trách nhiệm dân sự khi có lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý, trừ trường hợp có
thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác."
Cố ý gây thiệt hại là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của mình
sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc tuy không
mong muốn nhưng để mặc cho thiệt hại xảy ra.
Vô ý gây thiệt hại là trường hợp một người không thấy trước hành vi của
mình có khả năng gây thiệt hại mặc dù phải biết hoặc có thể thấy trước thiệt hại
sẽ xảy ra hoặc thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại nhưng lại
cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được.
Khi đi nghiên cứu “lỗi” trong mối quan hệ là một trong bốn điều kiện của
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì một vấn đề quan trọng được
đặt ra là việc xác định đúng mức độ lỗi của các bên trong quan hệ này để đưa ra
một quyết định bồi thường chính xác và thỏa đáng. Bởi lẽ trong rất nhiều trường
hợp việc xác định lỗi là rất phức tạp và gây không ít khó khăn như trong các
trường hợp lỗi hỗn hợp hoặc lỗi lại là của người bị thiệt hại.
Thứ nhất là trường hợp lỗi hỗn hợp nghĩa là cả người gây thiệt hại và
người bị thiệt hại đều có lỗi trong việc để thiệt hại xảy ra. Điều 617 BLDS 2005
có quy định về trường hợp bồi thường thiệt hại trong trường hợp người bị thiệt
hại có lỗi: “Khi người bị thiệt hại cũng có lỗi trong việc gây thiệt hại thì người
16


gây thiệt hại chỉ phải bồi thường phần thiệt hại tương ứng với mức độ lỗi của
mình”, trong điều luật này có nhắc đến “mức độ” lỗi do vậy việc xác định trách
nhiệm bồi thường trong trường cả hai bên đều có lỗi thì mỗi bên phải chịu trách

nhiệm tương ứng với mức độ lỗi của mình. Tuy nhiên, trong BLDS 2005 của
nước ta lại không có quy định về mức độ lỗi, vậy đâu là căn cứ để xác định mức
độ lỗi cho từng bên? Việc xác định mức độ lỗi cũng được đặt ra trong trường
hợp bồi thường thiệt hại do nhiều người cùng gây ra, nhưng trong trường hợp
này có phần đơn giản hơn vì theo quy định của luật nếu không xác định được
mức độ lỗi thì bồi thường thiệt hại theo phần bằng nhau.
Thứ hai là trường hợp lỗi hoàn toàn thuộc về người bị thiệt hại. Điều 617
của BLDS quy định rất rõ ràng: “Nếu thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của
người bị thiệt hại thì người gây thiệt hại không phải bồi thường”.
Việc pháp luật quy định vấn đề lỗi thuộc về người bị thiệt hại đã loại trừ
trách nhiệm của người gây thiệt hại. Do đó, người gây thiệt hại muốn giải thoát
trách nhiệm thì phải chứng minh mình không có lỗi hoặc thiệt hại xảy ra hoàn
toàn là do lỗi của người bị thiệt hại (Điều 606 BLDS 2005).
Bàn về vấn đề lỗi ta thấy việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại
không chỉ đặt ra với chủ thể có lỗi trực tiếp gây ra thiệt hại mà còn đặt ra việc
xác định trách nhiệm của người không trực tiếp gây ra thiệt hại để quy trách
nhiệm bồi thường cho chính họ. Đó là trường hợp lỗi của người giám hộ, người
đỡ đầu, người quản lý và lỗi của pháp nhân trước hành vi trái pháp luật do người
của pháp nhân gây ra.
1.2.4. Có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi trái pháp luật
Thiệt hại xảy ra phải đúng là kết quả tất yếu của hành vi trái pháp luật hay
ngược lại hành vi trái pháp luật thực sự là nguyên nhân trực tiếp đối với thiệt hại
xảy ra. Đây chính là mối quan hệ của sự vận động nội tại, trực tiếp và về nguyên
tắc nguyên nhân phải xảy ra trước kết quả trong khoảng thời gian xác định. Theo

17


Điều 604 của BLDS thì có thể thấy hành vi “xâm phạm” đến tính mạng, tài sản,
sức khoẻ…là nguyên nhân và “thiệt hại” là hậu quả của hành vi đó.

Hành vi trái pháp luật là nguyên nhân làm phát sinh thiệt hại cho nên hành
vi đó bao giờ cũng xuất hiện trước thiệt hại. Mối quan hệ nhân quả là một vấn
đề phức tạp bởi lẽ một thiệt hại xảy ra có thể là do tác động của một hoặc của
nhiều hành vi trái pháp luật và một hành vi trái pháp luật cũng có thể gây ra
nhiều thiệt hại.
Trong trường hợp thiệt hại do nhiều nguyên nhân gây ra thì xác định đâu là
nguyên nhân chính hay tất cả đều là nguyên nhân dẫn đến thiệt hại quả thật là
phức tạp. ở đây phải xác định xem hành vi nào là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến
thiệt hại. Cũng có nhiều trường hợp thiệt hại xảy ra lại là do một hành vi trái
pháp luật khác xen vào chứ không phải do hành vi có chứa đựng khả năng thực
tế làm phát sinh gây thiệt hại.
Trường hợp một nguyên nhân có thể gây ra nhiều thiệt hại thì cần phải xác
định rõ xem kết qủa nào là hậu quả trực tiếp do nguyên nhân là hành vi trái pháp
luật gây ra. Trong trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng chúng ta biết rằng
chủ thể chỉ phải bồi thường về những khoản được coi là hậu quả trực tiếp của sự
vi phạm. Nguyên tắc này cũng được áp dụng trong trách nhiệm dân sự ngoài
hợp đồng, tuy nhiên, thiệt hại trực tiếp ở đây không nhất thiết phải là hậu quả
ngay lập tức của nguyên nhân gây thiệt hại mà chỉ cần là hậu quả tất nhiên của
hành vi gây thiệt hại.
Tóm lại việc xác định mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả giữa hành
vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra trong nhiều trường hợp rất phức tạp và dễ dẫn
đến những sai lầm vì vậy khi xem xét mối quan hệ này cần hết sức thận trọng,
phải thu thập đầy đủ các tài liệu và chứng cứ, đánh giá một cách toàn diện đối
với vấn đề đang giải quyết để có thể đưa ra một kết luận chính xác, xác định
đúng người có trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
1.3. Năng lực bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
18


Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại được xác định trên cơ sở

năng lực hành vi dân sự và khả năng kinh tế. Vì vậy, về nguyên tắc pháp nhân
luôn luôn có khả năng và có trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Pháp luật chỉ quy
định năng lực chịu trách nhiệm bồi thường của cá nhân. Xuất phát từ năng lực
chủ thể của cá nhân khi tham gia vào quan hệ dân sự, BLDS quy định năng lực
chịu trách nhiệm của cá nhân phụ thuộc vào mức độ năng lực hành vi, tình trạng
tài sản và khả năng bồi thường của cá nhân.
1.3.1. Năng lực bồi thường thiệt hại của người từ đủ 18 tuổi
Khoản 1 Điều 606 BLDS 2005 quy định: “Người từ đủ 18 tuổi trở lên gây
thiệt hại thì phải tự bồi thường”. Người từ đủ 18 tuổi trở lên, không bị mất năng
lực hành vi dân sự theo Điều 22 BLDS 2005, phải chịu trách nhiệm bồi thường
thiệt hại về những thiệt hại mà mình đã gây ra cho người khác, bất kể họ có khả
năng kinh tế hay không.
Việc quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người từ đủ 18 tuổi gây
ra là trách nhiệm của họ là hoàn toàn hợp lý và phù hợp với các quy định hiện
hành của pháp luật. Người từ đủ 18 tuổi là người đã thành niên và có đủ điều kiện
tham gia vào các quan hệ pháp luật do vậy, họ hoàn toàn đủ năng lực để tham gia
và trở thành chủ thể của quan hệ bồi thường thiệt hại và nếu là người gây ra thiệt
hại thì họ hoàn toàn có đủ năng lực để thực hiện trách nhiệm bồi thường. ở độ
tuổi này họ đã có đầy đủ năng lực tham gia vào các quan hệ lao động nên xét trên
một bình diện chung nhất thì những người này đã có thu nhập và cũng có khả
năng tạo ra thu nhập để thực hiện nghĩa vụ của mình.
Tuy nhiên cũng có nhiều trường hợp sau khi gây ra thiệt hại và phải thực
hiện nghĩa vụ bồi thường thì người gây ra thiệt hại lại không có tài sản để thực
hiện nghĩa vụ của mình, nhưng đây là trách nhiệm của họ nên không thể chuyển
giao cho người khác và người khác cũng không có nghĩa vụ phải thực hiện thay
cho họ (trừ trường hợp người nhà của họ hoặc có người khác tự nguyện thay họ
thực hiện trách nhiệm bồi thường thiệt hại). Khi quyết định trách nhiệm bồi
19



thường đối với trường hợp này có thể động viên người thân của những người
này thay họ đứng ra thực hiện trách nhiệm bồi thường và sự bồi thường này phải
dựa trên tinh thần tự nguyện của họ, cơ quan có thẩm quyền không được ép
buộc người thân của người gây thiệt hại phải bồi thường vì đây không phải là
trách nhiệm của họ.
1.3.2. Năng lực bồi thường thiệt hại của người chưa thành niên
Người chưa thành niên là người chưa đủ 18 tuổi theo quy định của pháp
luật thì đây là những người hoặc chưa có năng lực hành vi dân sự (người dưới 6
tuổi) hoặc chưa có năng lực hành vi dân sự đầy đủ hay nói cách khác là chỉ có
năng lực hành vi dân sự một phần (người từ đủ 6 đến dưới 18 tuổi).. Do vậy, nếu
những người này gây ra thiệt hại thì phải có người đứng ra đại diện cho họ để
thực hiện nghĩa vụ bồi thường.
Mặc dù cùng nằm trong nhóm tuổi người chưa thành niên nhưng việc quy
định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người dưới 18 tuổi gây ra lại không
giống nhau trong mọi trường hợp. Trong nhóm tuổi này việc quy định trách
nhiệm bồi thường thiệt hại có sự phân biệt giữa hai độ tuổi khác nhau là người
chưa thành niên dưới 15 tuổi và người chưa thành niên từ đủ 15 tuổi đến chưa
đủ 18 tuổi.
- Năng lực bồi thường thiệt hại của người dưới 15 tuổi
Về nguyên tắc thì những người chưa thành niên dưới 15 tuổi gây ra thiệt
hại và người chưa thành niên đó còn cha mẹ thì cha mẹ buộc phải bồi thường
toàn bộ thiệt hại và tham gia tố tụng dân sự với tư cách là bị đơn. Việc quy định
trách nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về cha, mẹ của người gây ra thiệt hại
được quy định rõ tại khoản 2 Điều 606 BLDS 2005: “Người chưa thành niên
dưới 15 tuổi gây thiệt hại mà còn cha mẹ thì cha mẹ phải bồi thường toàn bộ
thiệt hại”.
Khoản 2 Điều 606 Bộ luật Dân sự 2005 cũng quy định “nếu tài sản của
cha, mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên có tài sản riêng thì lấy
20



tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu”. Việc pháp luật quy định cho phép
cha, mẹ có thể dùng tài sản của con chưa thành niên để bồi thường phần còn
thiếu là nhằm mục đích thực hiện nguyên tắc bồi thường thiệt hại phải “toàn bộ
và kịp thời” để đảm bảo quyền lợi cho người bị thiệt hại, bởi trong nhiều trường
hợp người chưa thành niên tuy chưa tự làm được ra tài sản nhưng lại được thừa
kế, được tặng cho tài sản.
Việc người chưa thành niên dưới 15 tuổi gây thiệt hại thì không phải trong
mọi trường hợp cha, mẹ của người gây ra thiệt hại đều phải chịu trách nhiệm bồi
thường, đó là trường hợp “người dưới 15 tuổi trong thời gian học tại trường mà
gây thiệt hại thì trường học phải bồi thường thiệt hại xảy ra” (khoản 1 Điều
621). Thời gian mà ngươi dưới 15 tuổi học tại trường học chính là thời gian mà
theo quy định của nghề nghiệp trường học phải có trách nhiệm quản lý, giáo dục
người chưa thành niên dưới 15 tuổi, do vậy trong thời gian người người dưới 15
tuổi học tại trường học mà gây ra thiệt hại thì nhà trường sẽ phải chịu trách
nhiệm bồi thường vì nhà trường đã không hoàn thành nhiệm vụ của mình trong
việc quản lý và giáo dục học sinh. Tuy nhiên, nếu trường học chứng minh được
mình không có lỗi trong việc quản lý và trong việc để thiệt hại xảy ra thì trường
học sẽ không phải bồi thường và trong trường hợp này thì cha, mẹ hoặc người
giám hộ của người chưa thành niên sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt
hại. Việc chứng minh không có lỗi để giải trừ trách nhiệm bồi thường là nghĩa
vụ của nhà trường và việc chứng minh này không dễ chút nào vì thông thường
lỗi trong các trường hợp này là lỗi suy đoán. Trong thời gian học tại trường mà
người dưới 15 tuổi gây thiệt hại thì suy đoán là nhà trường đã không thực hiện
tốt chức năng quan lý của họ.
- Năng lực bồi thường thiệt hại của người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18
tuổi
Người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi cũng là người trong độ tuổi chưa
thành niên, nhưng khi quyết định trách nhiệm bồi thường thiệt hại thì đây lại là
21



một trường hợp đặc biệt đối với người chưa thành niên. Người từ đủ 15 tuổi đến
chưa đủ 18 tuổi mà gây thiệt hại thì pháp luật quy định “...phải bồi thường bằng
tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi
thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình”(Khoản 2 Điều 606 BLDS 2005) .
Như vậy, trong trường hợp này trách nhiệm chính lại thuộc về người gây thiệt
hại mà không phải cha, mẹ của họ. Chỉ khi nào người gây thiệt hại không đủ tài
sản để bồi thường thì mới làm phát sinh trách nhiệm của cha, mẹ họ.
Mặc dù quy định trách nhiệm chính thuộc về người gây thiệt hại, nhưng
xét về mặt năng lực hành vi dân sự đầy đủ thì họ chưa có, nên họ cần phải có
người đại diện cho mình trong việc xác lập và thực hiện các giao dịch dân sự.
Do vậy, cha mẹ của người gây thiệt hại vẫn không thể loại trừ hoàn toàn trách
nhiệm của mình. Họ có nghĩa vụ phải bồi thường thiệt hại cho con mình khi nó
gây ra thiệt hại cho người khác mà không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi
thường.
1.3.3. Năng lực bồi thường thiệt hại của người được giám hộ
Trong trường hợp người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân
sự gây thiệt hại mà có người giám hộ, thì người giám hộ được lấy tài sản của
người được giám hộ để bồi thường kể cả khi người chưa thành niên đó chưa đủ
15 tuổi (không áp dụng khoản 2 Điều 606 BLDS 2005) bởi vì nghĩa vụ của
người giám hộ không giống như nghĩa vụ của cha, mẹ. Nếu người được giám hộ
không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường, thì người giám hộ phải
bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình, trừ khi họ chứng minh được
mình không có lỗi trong việc giám hộ. Trong trường hợp người chưa thành niên,
người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại thì cá nhân, tổ chức giám hộ là
bị đơn dân sự.
Theo khoản 2 Điều 58 BLDS 2005 thì người chưa thành niên được giám
hộ trong các trường hợp sau:
- Không còn cha, mẹ;

22


- Hoặc không xác định cha, mẹ là ai;
- Hoặc cả cha, mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng
lực hành vi dân sự;
- Hoặc cả cha, mẹ đều bị toà án hạn chế quyền của cha, mẹ;
- Hoặc còn cha, mẹ nhưng cha, mẹ không có điều kiện chăm sóc, giáo dục
người chưa thành niên và có yêu cầu người khác giám hộ cho con mình.
Theo tinh thần của khoản 2 Điều 606 BLDS 2005 thì trong trường hợp còn
cha, mẹ thì cha, mẹ có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho con mình gây ra, do
vậy người giám hộ chỉ chịu trách nhiệm bồi thường nếu người được giám hộ là
người chưa thành niên không còn cha, mẹ hoặc không xác định được cha, mẹ là
ai. Còn trong trường hợp người chưa thành niên còn cha, mẹ thì người giám hộ
không có trách nhiệm bồi thường mà tuỳ trường hợp mà sử dụng tài sản của
người chưa thành niên hoặc của cha, mẹ để bồi thường.
1.3.4. Một số trường hợp riêng biệt về năng lực bồi thường thiệt hại
- Năng lực bồi thường thiệt hại của cá nhân là người của pháp nhân gây
ra
Theo Điều 618 BLDS 2005: “Pháp nhân phải bồi thường thiệt hại do
người của mình gây ra trong khi thực hiện nhiệm vụ được pháp nhân giao”,
theo điều luật này thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại của pháp nhân chỉ phát
sinh khi thiệt hại xảy ra là do người của pháp nhân thực hiện công việc mà pháp
nhân giao cho họ. Như vậy nếu thiệt hại xảy ra khi người của pháp nhân thực
hiên công việc không phải do pháp nhân giao thì trách nhiệm bồi thường không
thuộc về pháp nhân mặc dù đó là người của pháp nhân. Vậy trách nhiệm sẽ
thuộc về ai? Để trở thành người của pháp nhân và tham gia quan hệ hợp đồng
lao động với pháp nhân thì yêu cầu cá nhân tham gia quan hệ hợp đồng phải có
đầy đủ năng lực chủ thể. Do vậy mà người của pháp nhân hoàn toàn có đầy đủ
năng lực để tham gia vào quan hệ pháp luật trong đó có quan hệ bồi thường thiệt

hại ngoài hợp đồng. Điều này có nghĩa là nếu người của pháp nhân gây thiệt hại
23


nhưng không phải là do thực hiện công việc mà pháp nhân giao cho hay vượt
quá phạm vi của nhiêm vụ được giao thì trách nhiệm bồi thường sẽ thuộc về
chính cá nhân - người đã gây ra thiệt hại.
- Năng lực bồi thường của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự
Theo quy định tại khoản 2 Điều 23 của BLDS 2005 thì người bị hạn chế
năng lực hành vi dân sự cũng cần có người đại diện theo pháp luật và các giao
dịch dân sự liên quan đến tài sản của người này phải được người đại diện theo
pháp luật thông qua. Như vậy, nếu người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự mà
gây thiệt hại phải bồi thường bằng tài sản thì việc lấy tài sản để bồi thường cần
phải có sự giám sát của người đại diện theo pháp luật. Mặc dù người gây thiệt
hại không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ do bị hạn chế nhưng trách nhiệm
bồi thường thiệt hại do họ gây ra là thuộc về họ mà không phải là trách nhiệm
của người đại diện theo pháp luật như trường hợp đối với người có năng lực
hành vi dân sự một phần là người chưa thành niên. Do vậy, nếu người bị hạn chế
năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại mà không đủ tài sản để bồi thường thì
người đại diện theo pháp luật cho họ cũng không có nghĩa vụ phải lấy tài sản
của mình để bồi thường thay cho người gây ra thiệt hại vì đây không phải là
trách nhiệm của họ. Nếu hiện tại người gây thiệt hại không có đủ tài sản để bồi
thường thì sẽ phải tiếp tục thực hiện trách nhiệm sau khi có tài sản mà không thể
bắt người khác thay họ thực hiện trách nhiệm bồi thường.
1.4. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại và vấn đề xác định thiệt hại
1.4.1.Nguyên tắc bồi thường thiệt hại
Khi giải quyết tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, cần phải
thực hiện đúng nguyên tắc bồi thường thiệt hại quy định tại Điều 605 BLDS
2005. Cần phải tôn trọng thỏa thuận của các bên về mức bồi thường, hình thức
bồi thường và phương thức bồi thường, nếu thỏa thuận đó không trái pháp luật,

đạo đức xã hội.

24


Theo quy định tại Điều 605 việc thực hiện bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng được xác định thành những nguyên tắc cụ thể đó là:
- Nguyên tắc bồi thường toàn bộ và kịp thời
Khoản 1 Điều 605 BLDS 2005 quy định: "Thiệt hại phải được bồi thường
toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể thoả thuận về mức bồi thường, hình thức bồi
thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi
thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác".
Xuất phát từ mục đích của chế định này là nhằm khôi phục tình trạng tài
sản của người bị thiệt hại, do vậy về nguyên tắc thiệt hại phải được bồi thường
toàn bộ và kịp thời. Thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ, nghĩa là khi có yêu
cầu giải quyết bồi thường thiệt hại do tài sản, sức khoẻ, tính mạng, danh dự,
nhân phẩm, uy tín bị xâm hại phải căn cứ vào các điều luật tương ứng của BLDS
2005 quy định trong trường hợp cụ thể đó thiệt hại bao gồm những khoản nào và
thiệt hại đã xảy ra là bao nhiêu, mức độ lỗi của các bên để buộc người gây thiệt
hại phải bồi thường các khoản thiệt hại tương xứng đó. Để thiệt hại có thể được
bồi thường kịp thời, Toà án phải giải quyết nhanh chóng yêu cầu đòi bồi thường
thiệt hại trong thời hạn luật định. Trong trường hợp cần thiết có thể áp dụng một
hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định của pháp luật tố tụng để
giải quyết yêu cầu cấp bách của đương sự.
Khoản 1 Điều 605 BLDS 2005 có thể được xác định trong nhiều trường
hợp khác nhau:
- Ấn định bồi thường toàn bộ thiệt hại khi người gây thiệt hại có hành vi cố
ý. Đây là trường hợp người gây thiệt hại có chủ ý gây ra thiệt hại, tức là đã chủ
động thực hiện hành vi gây thiệt hại và mong muốn thiệt hại đó xảy ra. Do đó
người có hành vi gây thiệt hại phải chịu hoàn toàn trách nhiệm đối với hành vi

đó.
- Ấn định bồi thường toàn bộ thiệt hại khi người gây thiệt hại có lỗi vô ý
mà thiệt hại không quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của họ.
25


×