Tải bản đầy đủ (.doc) (70 trang)

Chính sách đối ngoại và tác động của nó đối với sự phát triển kinh tế xã hội nhật bản trong thời kì mạc phủ tokugawa từ 1603 1867

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (338.48 KB, 70 trang )

Dẫn luận.
I. lý do chọn đề tài.

Tìm hiểu lịch sử Nhật Bản nói chung và chính sách đối ngoại của Nhật
Bản trong thời kỳ Tokugawa nói riêng là một trong những lĩnh vực giành đợc sự
quan tâm và có sức thu hút đối với những ngời làm công tác nghiên cứu lịch sử
trong và ngoài Nhật Bản từ trớc đến nay. ở Việt Nam trong thời gian gần đây,
việc nghiên cứu lịch sử Nhật Bản ngày càng đợc thúc đẩy mạnh mẽ và đứng trớc triển vọng phát triển tốt đẹp, phù hợp với xu hớng duy trì và mở rộng quan
hệ đoàn kết, hữu nghị giữa nhân dân hai nớc.
Nhng, càng đi sâu vào nghiên cứu lịch sử Nhật Bản ngời ta lại càng nhận
thấy một đặc tính nổi bật là: xã hội Nhật Bản hiện đại có mối liên hệ chặt chẽ
với những yếu tố truyền thống. Di sản từ quá khứ có sức mạnh tiềm ẩn. Đó
chính là động lực tác động trực tiếp đến đặc điểm và khuynh hớng phát triển
của Nhật Bản ngày nay.
Từ những khám phá rất có ý nghĩa này, những nhà nghiên cứu chú ý hơn
đến mối liên hệ có tính lịch đại giữa các giai đoạn trong tiến trình lịch sử. Điều
hiển nhiên là, trong trờng hợp Nhật Bản sẽ không thể lý giải đợc đầy đủ những
phát triển hiện tại nếu nh không có một thái độ nghiên cú, phân tích thực sự
khách quan những giá trị truyền thống. Với cách nhìn nhận đó, lịch sử Nhật
Bản, đặc biệt là thời kỳ Mạc phủ Tokugawa (hay còn gọi là thời kỳ Edo 16001868) cần phải đợc đi sâu nghiên cứu hơn nữa. Bởi vì, đây không chỉ là thời kỳ
phát triển cuối cùng và cao nhất của chế độ phong kiến Nhật Bản mà nó còn
đồng thời tạo ra những tiền đề kinh tế, xã hội hết sức quan trọng cho sự chuyển
mình mau chóng của Nhật Bản từ xã hội phong kiến sang xã hội t sản vào giữa
thế kỷ XIX.
Việt Nam và Nhật Bản vốn có mối quan hệ giao lu kinh tế, văn hoá từ lâu
trong lịch sử và mối quan hệ thuở xa đó vẫn còn để lại những dấu ấn đến ngày
nay. Trong bối cảnh đó thì việc tìm hiểu và nghiên cứu lịch sử Nhật Bản là điều
cần thiết,đặc biệt là đối với những sinh viên nghành sử- chuyên nghành Lịch sử
Thế giới. Nhật Bản thời kỳ Mạc phủ Tokugawa là bớc phát triển liên tục của
lịch sử Nhật Bản từ thời cổ đại. Trong đó chính sách đối ngoại của thời kỳ này
đã làm cho dân tộc Nhật Bản chuyển mình mạnh mẽ trên tất cả mọi phơng diện


Phạm Hồng Thắng 40E1- Sử. Khoá luận tốt nghiệp.

1


để nhanh chóng đuổi kịp và vợt Phơng Tây. Bởi vậy nếu làm rõ đợc thời kỳ
này đặc biệt là chính sách đối ngoại sẽ có ý nghĩa quan trọng khi thấy đợc
những điều kiện, tiền đề để Nhật Bản bớc vào giai đoạn lịch sử tiếp theo. Hơn
nữa, tìm hiểu nghiên cứu thời kỳ này không chỉ tăng thêm sự hiểu biết đơn
thuần về lịch sử của một quốc gia mà còn thực sự hữu ích đối với các sinh viên
nghành sử nó không chỉ góp một phần nhỏ bé của mình vào việc tìm hiểu
nghiên cứu lịch sử Nhật Bản mà còn là để mài sắc t duy lịch sử, nâng cao hiểu
biết của mình làm hành trang khi bớc vào đời.
II. lịch sử vấn đề .

Nhật Bản từ lâu đã là đối tợng thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên
cứu. Từ trớc đến nay việc nghiên cứu lịch sử Nhật Bản đã đợc một số nhà
nghiên cứu trong và ngoài nớc đề cập dới nhiều góc độ, mức độ khác nhau từ
nguồn gốc lịch sử cho đến kinh tế, xã hội, văn hoá từ truyền thống đến hiện đại.
Không kể những bộ sách về lịch sử Nhật Bản của các học giả nớc này đã đề cập
khá toàn diện từ khởi thuỷ đến nay, thì những công trình nghiên cứu của các
học giả ngoài Nhật Bản( trong đó có Việt Nam) đang hiện có tại Việt Nam cũng
khá đầy đủ. Có thể kể đến những công trình nghiên cứu tiêu biểu nh: Lịch sử
Nhật Bản gồm ba tập của George Sansom( NXBKHXH- Hà Nội. 1994), Lịch
sử Nhật Bản ĐHQG. Hà Nội ĐHSP(NXBVHTT- Hà Nội. 1995), Bách
khoa toàn th Nhật Bản của Richard Bowring và Peter Komicki( Trung tâm
nghiên cứu Nhật Bản. 1995). Ngoài những công trình nh trên còn có một số
công trình nghiên cứu khác ít nhiều liên quan đến khoá luận nh: Lịch sử văn
hoá Nhật Bản( 2 tập) G.B.Sansom( NXBKHXH- Hà Nội. 1989 và 1990),
Nhật Bản ngày nay( NXBTT- Lý luận. 1991) các bài báo, bài viết trên các

tạp chí Nghiên cứu lịch sử, Nghiên cứu Nhật Bản
Song viết về thời kỳ Mạc phủ Tokugawa thì các học giả trên mới chỉ nêu
lên những vấn đề mang tính chất thông sử cha đi sâu vào nghiên cứu cụ thể vấn
đề mà chúng ta cần tìm hiểu. Chính vì vậy chúng tôi quyết định chọn đề tài này
làm khoá luận tốt nghiệp của mình, với hy vọng góp thêm một phần sức mình
vào việc làm sáng tỏ vấn đề nêu trên một cách khoa học và có hệ thống giúp

Phạm Hồng Thắng 40E1- Sử. Khoá luận tốt nghiệp.

2


bạn đọc hiểu hơn về lịch sử Nhật Bản nói chung và thời kỳ Mạc phủ Tokugawa
nói riêng.
Tuy nhiên liên quan đến đề tài khoá luận, bên cạnh một số vấn đề đã đợc
đề cập khá đầy đủ thì cũng còn nhiều vấn đề mới chỉ là nét chấm phá hoặc chỉ
là những gợi ý có tính chất tham khảo mà thôi. Bởi đây là một công việc vô
cùng khó khăn nếu không muốn nói là một sự thách thức khó vợt qua đợc bởi
khả năng hạn chế về chuyên môn cũng nh về ngoại ngữ của chính bản thân tôi.

III. nguồn tài liệu.

Để đề tài này đợc hoàn thành chúng tôi đã dựa vào các nguồn tài liệu
chính nh:
1. Lịch sử Thế giới trung đại - Nguyễn Gia Phu. Nguyễn Văn ánh
NXBGD. 2000.
2. Lịch sử Nhật Bản - Phan Ngọc Liên( chủ biên)- NXBVHTT- Hà Nội.
1997.
3. Lịch sử Nhật Bản( tập 2, 3) G.B. Sansom- NXBXH. 1995.
4. Bách khoa th Nhật Bản Richaro Bowring and Feter Koernicki- Trung

tâm KHXHNVQG. 1995.
5. Nhật Bản quá khứ và hiện tại- Edwino. Reischauer- NXBKHXH. 1994.
Các bài báo, bài viết trên các tạp chí nghiên cứu nh: Tạp chí nghiên cứu
lịch sử chuyên san do Viện sử học thực hiện; Tạp chí nghiên cứu Nhật Bản
chuyên san của Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản thuộc TTKHXH và Nhân
văn Quốc Gia
IV. phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
IV.1. Phạm vi nghiên cứu:
Về không gian: Tìm hiểu lịch sử Nhật Bản trong quan hệ với các nớc Phơng Tây và các nớc trong khu vực.
Về thời gian: Từ thế kỷ XVII- giữa thế kỷ XIX.
IV.2. Nhiệm vụ của đề tài:

Phạm Hồng Thắng 40E1- Sử. Khoá luận tốt nghiệp.

3


Tìm hiểu chính sách đối ngoại của Nhật Bản thời kỳ Tokugawa đối với
các nớc Phơng Tây và các nớc trong khu vực Qua các giai đoạn lịch sử cụ thể
(1600- 1868).
V. bố cục của đề tài.

Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và th mục tham khảo, đề tài gồm: 3
chơng
Chơng1. Khái quát tình hình kinh tế, chính trị, xã hội Nhật Bản thời
kỳ Tokugawa.
1.1. Đặc điểm địa lí tự nhiên.
1.2. Quá trình thống nhất đất nớc dới thời Mạc phủ Tokugawa.
1.3. Tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của Nhật Bản thời kỳ
Tokugawa.

1.3.1. Tình hình chính trị.
1.3.2.Tìmh hình kinh tế, xã hội.
1.3.3. Tình hình văn hoá.
Chơng 2: Chính sách đối ngoại của Nhật Bản thời kỳ Tokugawa
2.1. Những nguyên nhân dẫn đến chính sách đóng cửa của
Nhật Bản.
2.1.1. Thiên chúa giáo và vấn đề an ninh của Nhật Bản.
2.1.2. Kinh tế Nhật Bản với những đoàn thuyền buôn
đến và đi.
2.1.3. Thời kỳ Mạc phủ Tokugawa với chính sách
trung lập hoá.
2.1.4. Mạc phủ với mục tiêu chính trị trong nớc.
2.2. Chính sách mở cửa trong thời kỳ Tokugawa.
Chơng 3: Những chuyễn biến kinh tế xã hội ở Nhật Bản thời kỳ
Tokugawa
3.1. Bakuhan Taisei và tác động của nó đối với sự phát triển
kinh tế xã hội.
3.2. Những chuyển biến về kinh tế nông - công - thơng
nghiệp thời kỳ Tokugawa.
Phạm Hồng Thắng 40E1- Sử. Khoá luận tốt nghiệp.

4


3.2.1. Những chuyển biến về kinh tế nông nghiệp.
3.2.2. Những chuyển biến về kinh tế công - thơng nghiệp.
3.2.3. Những chuyển biến trong cơ cấu và quan hệ xã hội.
VI. phơng pháp nghiên cứu.

Phơng pháp nghiên cứu đợc sử dụng chủ yếu trong đề tài này là phơng

pháp logic- lịch sử, kết hợp với phân tích, tổng hợp, so sánh để làm rõ các vấn
đề mà đề tài đặt ra.

Phạm Hồng Thắng 40E1- Sử. Khoá luận tốt nghiệp.

5


Nội dung:

Chơng1: Khái quát tình hình kinh tế - chính trị - xã hội Nhật
Bản Thời kỳ Tokugawa.

1.1. Đặc điểm địa lý tự nhiên.
Điều kiện địa tự nhiên có ảnh hởng nhất định đến sự phát triển xã hội. Vì
vậy chúng ta cần tìm hiểu để nhận thức sâu sắc hơn lịch sử, xã hội, văn hoá của
Nhật Bản. Nhiều ngời gọi Nhật Bản là xứ sở của hoa anh đào. Quả cũng
không sai. Trên khắp đất nớc Nhật Bản, hoa anh đào nở rộ theo mùa. Miền Nam
hoa nở vào khoảng cuối tháng ba. Tiết trời càng ấm lên thì hoa lần lần nở ở các
miền trên và đến khoảng giữa tháng năm thì nở rộ ở Nhật Bản. Vì thế cây hoa
anh đào đợc xem là quốc hoa của Nhật Bản. Tuy nó thiếu vẻ hùng vĩ của cây
thông, cái rực rỡ của cây mận, cái duyên dáng của cây liễu, nhng lại mộc mạc
và bình dị. Đối với ngời Nhật Bản, anh đào nở rộ là điều lành báo mùa lúa tốt.
Màu lá hoa anh đào mùa thu và màu hoa mùa xuân tạo nên cảnh thanh bình,
thịnh vợng và ấm cúng, khác với những mùa đông lạnh lẽo kéo dài. Ngắm hoa
anh đào là một phong tục dân gian của Nhật Bản, bắt nguồn từ thời kỳ Hâyan và
phổ biến vào khoảng thế kỷ X. Đây cũng là dịp xuất hành du xuân của ngời
Nhật Bản trong tuần lễ hoa anh đào nở vào mùa xuân, ngời ta ngắm hoa, uống
rợu SaKê và ca múa. Các em gái Nhật Bản cũng có hội hoa anh đào hay hội
búp bê của riêng mình, đợc tổ chức vào ngày 03 tháng 03 hàng năm. Vào ngày

hội này, các em đem bày búp bê cùng hoa anh đào vừa thể hiện tài nữ công, vừa
để cầu may. Hoa anh đào là một tợng trng để đuổi tà khí, làm cho con gái sẽ
xinh đẹp nh hoa.
Ngời Nhật Bản còn gọi đất nớc mình là Nihon hay Nipon tức là xứ sở
của mặt trời theo cách nói của thái tử Shôtôka trong th gửi vua Trung Quốc, tự
xng là ngời đứng đầu của đất nớc mặt trời mọc. Tên nớc còn bắt nguồn từ
truyền thuyết đầy chất trữ tình về cặp anh em- vợ chồng izana và izanani. Tên
Nhật Bản đợc MarCo Polo(nhà du lịch ngời Italia thế kỉ XIII) phiên âm là
Cipango (Xipango). Do ngời Nhật Bản đọc chệch âm Quảng Đông Nhật Bản
quốcthành Gipen quốc nên chuyển sang tiênga Anh và Đức là Japan và tiếng
Pháp là Japon. Truyêng thuyết chỉ là truyền thuyết, dù phản phần nào hiện thực.
Nhiều tài liệu khoa học xác nhận thực tế trớc đây nhiều triệu năm, từ đáy đại dPhạm Hồng Thắng 40E1- Sử. Khoá luận tốt nghiệp.

6


ơng sâu thẳm, những vụ nổ núi lửa ghê gớm đã naqang lên khỏi mặt biển một
dãy quần đảo hình cánh cung ôm lấy lục địa châu á từ vĩ tuyến 30 40 độ
Bắc. Đó là quần đảo Nhật Bản, gồm bốn đảo lớn: Hokkaido, Honshu, Kyushu,
Sikoku và khoảng gần 4000 đảo nhỏ rải ra theo hình cánh cung dài khoảng
3.800 Km. Nh vậy, xa kia quần đảo Nhật Bản nối liền với đại lục địa châu á.
Về vị trí địa lý, Nhật Bản ở góc Đông Bắc của Thái Bình Dơng và thuộc miền
cực đông của lục địa châu á. Quần đảo Nippon giữ mối liên lạc với lục địa châu
á qua ba con đờng: đờng phía Bắc từ Đông Xibiađến Hokkaido qua Sakhalin,
đờng phía Đông từ bán đảo Triều Tiên đến Honshu và dờng phía Nam từ đất
Trung Hoa đến đảo Kyushu qua Đài Loan và quần đảo Ryukyu. Từ ba con đờng
này, Nhật Bản có mối giao lu văn hoá, kinh tế từ lâu với thế giới. Dù sao, tính
chất đảo tạo nên một hoàn cảnh địa lý đặc biệt của Nhật Bản, làm cho việc
giao lu trở nên khó khăn nhng lại thuận lợi cho việc giữ gìn độc lập và đặc biệt
cho tính thống nhất và thuần nhất của nền văn minh dân tộc. Có nhà xã hội học

cho rằng tính chất đảo khiến cho tâm lý ngời Nhật có khuynh hớng hớng
nội.
Nhìn toàn bộ, địa hình Nhật Bản tạo nên những phong cảnh thật hùng vĩ:
núi rừng trùng trùng, điệp điệp sờn đá cheo leo, khe lũng hiểm trở, hồ trong veo
đẩy nớc của tuyết núi tan đổ xuống, thác chảy rào rào. Nhng đằng sau những
cảnh ngoạn mục đó là những nét khắc nghiệt và dữ dội của một vùng đất đầy
núi lửa, động đất, sóng thần, bão lụt và hạn hán. ở Nhật Bản hiện nay có hơn ba
chục ngọn núi lửa vẫn hoạt động trong tổng số 196 núi lửa. Mỗi năm có tới
hàng ngàn những rung chuyển địa chấn và thỉnh thoảng lại có những trận động
đất lớn, có khi thiêu huỷ cả một thành phố.
Không phải ngẫu nhiên mà ngời Nhật Bản lại lấy ngọn núi lửa Fuji (có
nghĩa là núi rợu trờng sinh) làm hình ảnh tợng trng cho đất nớc mình. Đó là
hình ảnh tợng trng cho cảnh quan thiên nhiên Nhật Bản: thật là hùng vĩ và
ngoạn mục, nhng cũng thật dữ dội và đầy biến động. Ngày nay hằng năm có
đến 2 triệu ngời Nhật, không kể ngời nớc ngoài trèo lên núi Fuji ít nhất cũng
đến lng chừng để ngắm cảnh, uống tràVì đợc xem là núi thiêng, nên trớc
đây phụ nữ bị cấm không đợc trèo lên đỉnh núi.
Thiên nhiên Nhật Bản đẹp, nhng quả thật khắc nghiệt đối với con ngời.
Những hòn đảo nghèo nàn này không đợc hởng thiên thời và địa lợi. Vây mà
Phạm Hồng Thắng 40E1- Sử. Khoá luận tốt nghiệp.

7


những con ngời Nhật Bản nh càng đợc tôi luyện thêm trong thiên nhiên nghiệt
ngã, họ đã vơn lên một cách độc đáo, trở thành một trong những dân tộc đứng
hàng đầu thế giới về sự phát triển kinh tế, kĩ thuật. Sự thành công đó chứng tỏ
một thắng lợi của con ngời đối với thiên nhiên.
1.2. Quá trình thống nhất đất nớc dới thời Mạc phủ Tokugawa.
Từ những c dân đầu tiên đến cuối thế kỷ XII, lịch sử Nhật Bản trải qua

nhiều giai đoạn phát triển và nền văn hoá khác nhau: Văn hoá thời đồ đá, tiêu
biểu là văn hoá Jomon, văn hoá của các quốc gia cổ đại, nổi bật là các vơng
quốc Yamoto, các triều đại Nara và HâyanTuy chịu sự ảnh h ởng của văn hoá
bên ngoài chủ yếu là Trung Quốc, song Nhật Bản đã xây dựng cho mình một
nền văn hoá độc lập, truyền thống độc đáo của mình.
Những thay đổi trong xã hội cuối thế kỷ XII đã dẫn tới những sự kiện lớn
trong đời sống chính trị thời kỳ Mạc phủ. Đây là thời kỳ tồn tại khá dài trong
lịch sử Nhật Bản với nhiều biến động lớn và cũng đợc xem là giai đoạn phát
triển cuối cùng cao nhất của chế độ phong kiến Nhật Bản. Nh: Mạc phủ
Kamakura, Mạc phủ Murômachi, đặc biệt là Mạc phủ Tokugawa.
Tokugawa Ieyasu (1542 1616) là ngời sáng lập ra triều đại Nhật Bản ở
thời kì tốt đẹp nhất trong khoảng 300 năm. Tokugawa Ieyasu đợc Thiên Hoàng
phong làm Chinh di đại tớng quân (Shogun) vào năm 1603. Đây là giai đoạn
phát triển cuối cùng và cao nhất của chế độ phong kiến Nhật Bản. Đây cũng là
thời kì có nhiều diễn biến phức tạp về mặt kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội
Đây là triều đại trởng thành trong hoàn cảnh đất nớc bị dày xéo bởi nội chiến,
một đất nớc mà quyền lực trung ơng không xứng đáng với cái tên của nó.
Quyền lực bị chia rẽ và thờng xuyên bị tranh dành bởi các lãnh chúa quân sự,
liên minh nông dân và các tổ chức của nhà thờ Thiên chúa giáo. Đi lại khi đó vừ
khó khăn vừa nguy hiểm, phơng tiện liên lạc thì lúc có lúc không, thơng nghiệp
thì trong tình trạng bếp bênh bị ngăn chặn ở mọi ngả bởi rào chắn trạm kiểm
soát và thuế quan t nhân.
Tình trạng đất nớc thời kì Chiến quốc không những là cho nhân dân thêm
đói khổ mà còn gây trở ngại lớn cho sự phát triển xã hội. Vì vậy, xuất phát từ
những lợi ích khác nhau các tầng lớp nhân dân Nhật Bản đều mong muốn hoà
bình và thống nhất. Quần chúng mong muốn hoà bình để đợc yên ổn làm ăn,
Phạm Hồng Thắng 40E1- Sử. Khoá luận tốt nghiệp.

8



cuộc sống đỡ cực khổ. Chính trong giai cấp phong kiến cũng nảy sinh nhu cầu
kết thúc nội chiến, chấm dứt tình trạng phân liệt, khôi phục lại chính quyền
thopóng nhất và vững mạnh, một phần để cứu vãn nền kinh tế bị đình đốn, một
phần để đối phó có hiệu quả với các phong trào của quần chúng, bảo vệ quyền
lợi của giai cấp mình.
Năm 1560 là bớc ngoặt trong lịch sử chính trị Nhật Bản, mở đầu vận hội
thiết lập tái thống nhất. Trong khoảng 40 năm tiếp theo, ba nhà lãnh đạo quân
sự là Oda Nobunaga (1534 1582), Toyomi Hideyosi (1536-1598) và
Tokugawa Ieyasu (1542 1616) đã kế tiếp nhau hoàn thành sự nghiệp thống
nhất đất nớc.
Nobunaga là một đaimiô loại nhỏ ở vùng Oda, gần Nagoya, thuộc trung
bộ đảo Honshu. Từ trẻ, ông đã nổi tiếng là một nhà chiến lợc táo bạo.Ông đã
biết tổ chức một đạo bộ binh mạnh và áp dụng kĩ thuật mới (súng đạn) nên đã
nhanh chóng đánh bại quân đội của thủ hộ các tỉnh lân cận và đến năm 1568 thì
chiếm đợc kinh đô. Năm 1537, Nobunaga lật đổ Mạc phủ Murômachi rồi nắm
lấy chính quyền trung ơng, nhng bề ngoài vẫn tỏ ra trung thành với Thiên
hoàng, nên không xng Tớng quân. Tuy nhiên cho đến năm 1582, khi Nobunaga
mới thu phục đợc 30 trong số 36 tỉnh của Nhật Bản thì bị một viên tớng sát hại.
Công việc thống nhất đất nớc do ông tiến hành cha thật hoàn thành. Tuy nhiên,
Nobunaga cũng xây dựng đợc những khu thơng - thủ công nghiệp tự do ở nhiều
nơi trong nớc, gọi là chế độ nhạc thị(Rakuichi), nhạc toạ (Raku-za). Ông
bảo hộ Thiên chúa giáo song bản thân không phải là tín đồ của tôn giáo nào.
Ông mở rộng buôn bán với nớc ngoài và tiếp nhận nhiều thành tựu khoa học
của châu Âu.
Ngời kế tục công việc của Nobunaga là một bộ tớng khác của ông
Toyotomi Hideyoshi. Xuất thân từ nông dân lớp dới ở Oda, Hideyoshi nhờ tài
thao lợc của mình đã liên tiếp tiến lên từ cấp này đến cấp khác. sau khi đánh bại
các bộ tớng khác của Nobunaga, Hidenaga, Hideyoshi đã tiến hành 4 cuộc
chiến tranh lớn, lần lợt chiếm đợc các đảo và đến năm 1590 về cơ bản đã thống

nhất đợc đất nớc, chấm dứt tình trạng phân liệt hỗn chiến trên 100 năm. Sau đó
ông chỉ nhận làm chức Quan bạch (nh tể tớng) của triều đình nhng thực tế nắm
hết mọi quyền bính trong tay.

Phạm Hồng Thắng 40E1- Sử. Khoá luận tốt nghiệp.

9


Trong mời lăm năm cầm quyền, Hideyoshi vừa hoàn thành việc chinh
phục các đaimiô cát cứ, vừa tiến hành những biện pháp nhằm cũng cố chính
quyền và chế độ phong kiến Nhật Bản. Ông cho mở mang thành phố Osaka trở
thành trung tâm chính trị và kinh tế của cả nớc. Nhà nớc cho đo đạc lại ruộng
đất, gắn chặt nông dân với phần ruộng của họ đợc lĩnh canh, nh tiến hành kiểm
tra lại ruộng đất, mức thu hoạch, lập điền bạ, chế độ thuế khoá.
Về mặt đối ngoại, Hideyoshi đã hai lần mang quân sang đánh Triều Tiên
vào các năm 1592 và 1597. Cái chết đột ngột (1598) đã làm cho mộng xâm
lăng bành trớng thế lực ra bên ngoài của ông không thực hiện đợc.
Hideyoshi chết, để lại con trai là Hideyori, nhờ Tokugawa Ieyasu (15421616) và bốn đaimiô phò tá. Yeyasu là ngời có thế lực cao nhất, từ lâu đã xây
thành, đắp luỹ ở vùng Edo ( nay là Tôkyô) để chờ thời cơ. Lấy danh nghĩa phò
tá con trai Hideyoshi còn nhỏ tuổi Yeyasu đã khống chế chính quyền. Ngợc lại,
dới khẩu hiệu bảo vệ địa vị hợp pháp của Hideyoshi, các chúa phong kiến khác
cũng liên minh với nhau để chống lại Yeyasu. Năm 1600, Yeyasu đã đánh bại
liên quân của hơn 40 đaimiô trong trận Sekigahara, rồi tự xng là Tớng quân
lập Mạc phủ Edo, gọi là Mạc phủ Tokugawa cùng các đaimiô cai quản hơn
250 lãnh địa. Năm 1603, Yeyasu đợc Thiên hoàng phong chinh di đại tớng
quân(Shogun). Từ đó nội chiến hoàn toàn chấm dứt, Nhật Bản bớc vào thời kì
hoà bình.
Lên làm tớng quân, Tokugawa đã thi hành nhiều biện pháp nhằm củng cố
Mạc phủ và chế độ phong kiến Nhật Bản. Một mặt ông tiếp tục xây dựng cơ sở

chế độ phong kiến bằng cách dựa vào các đaimiô, cho họ có quyền rất lớn ở
lãnh địa nh quyền đợc có tổ chức hành chính, t pháp và quân đội riêng. Đồng
thời, Tớng quân lại ra sức khống chế và nắm chắc các lãnh chúa, bắt họ phải
tuyệt đối phục tùng Mạc phủ. Ông cấm mọi hành động gây hấn, xung đột lẫn
nhau hoặc chống lại Mạc phủ. Dựa trên tiêu chuẩn ai đứng về phía mình trớc
khi trận Sekigahara kết thúc Tokugawa chia các đaimiô làm ba loại: thứ nhất
là Shimpan(thân phiên) là các lãnh chúa có họ hàng với gia tộc Tokugawa; Thứ
hai là Fuđai - Đaimiô(phổ đại) gồm có 145 lãnh chúa, vốn là đồng minh của
Tokugawa trớc năm 1600; Thứ ba là Tozanma đaimiô(ngoại phiên) gồm 97
lãnh chúa, là những ngời chỉ chịu thần phục Tokugawa sau khi bị đánh bại.

Phạm Hồng Thắng 40E1- Sử. Khoá luận tốt nghiệp.

10


Với từng loại đaimiô, Mạc phủ có cách đối xử khác nhau không chỉ trong
việc ban cấp lãnh địa của cải mà còn cả trong vấn đề hành chính, luật pháp, tớc
vị, nghĩa vụ đối với chính quyền trung ơng. Bên cạnh một một chính sách u ái,
nâng đỡ đối với hai loại đaimiô trên. Mạc phủ luôn có thái độ mềm dẻo, những
nguyên tắc với các lãnh chúa vốn là kẻ thù của mình. Bản thân Tokugawa
chiếm giữ vùng đất rộng lớn (đồng bằng Kantô, khu vực phụ cận Kyôtô, kéo dài
đến miền duyên hải phía Nam và các thành phố quan trọng nh : Edo, Kyoto,
Osaka, Nagasaki), còn các vùng khác chia cho các lãnh chúa tuỳ quan hệ thân
sơ.
Những chính sách Tokugawa thực hiện ở trên đặc biệt là với Togama
Daimio (ngoại phiên) với 97 lãnh chúa ở phía Bắc hoặc phía Tây Nhật Bản, vốn
là những dòng họ lớn, có nhiều thế lực về chính trị và kinh tế nh Satsuma
Choshu, KagaHọ bị đối xử lạnh nhạt và chỉ chịu thuần phục Tokugawa sau
khi bị đánh bại. Đây là nguyên nhân sâu xa mà các lãnh chúa này nôỉ lên chống

Tokugawa, đòi trả lại quyền lực cho Thiên hoàng.
Nh vậy cuối thế kỉ XVI một nhóm nhỏ những ngời lãnh đạo của các
chiến binh, trongđó Tokugawa Ieyasu đã làm thay đổi toàn bộ xã hội Nhật Bản.
Mỗi ngời trong số họ đều nhằm vào mục tiêu dành quyền kiểm soát đất nớc,
xây dựng lực lợng cho mình thông qua công cuộc chinh phục và ngoại giao,
củng cố sự kiểm soát tài chính và thơng nghiệp đối với các khu vực đang ngày
một mở rộng. Bên cạnh đó, các tổ chức tôn giáo lớn dần dần buộc phải chịu sự
kiểm soát. Đất đai của các tổ chức này bị tịch thu, còn lực lợng quân sự thì bị
tiêu diệt. Các cuộc nổi dậy của nông dân bị dập tắt và sự ổn định đợc xác lập ở
một số vùng nông thôn. Điều quan trọng hơn cả là những thủ lĩnh chiến binh,
những ngời tranh dành quyền lợi trong tình hình bất ổn cũng nh do khát khao
quyền lực đã kéo Nhật Bản từ cuộc khủng hoảng này sang cuộc khủng hoảng
khác đã bị đặt dới quyền kiểm soát hợp nhất thông qua việc kết hợp giữa dùng
ngoại giao và vũ lực. Quá trình này đợc kết thúc bằng cuộc chiến đấu ở
Sekigahara năm 1600, khi Tokugawa Ieyasu dẫn đầu 70.000 quân đánh bại liên
minh đối thủ thậm chí còn lớn hơn nhiều so với lực lợng của Ieyasu.
Nhận tớc hiệu Sei-itaiShogun, hay còn gọi là tổng t lệnh của cuộc bình
định, Tokugawa Ieyasu bắt đầu đặt nền móng cho một chính thể có kỷ cơng và
hiệu quả hơn bất cứ những gì mà Nhật Bản đã có. Những gì mà Ieyasu và những
Phạm Hồng Thắng 40E1- Sử. Khoá luận tốt nghiệp.

11


ngời kế nhiệm của ông làm đợc đã thay thế tình trạng bất ổn của thế kỷ XVI
bằng sự tập trung quyền lực cha từng thấy trớc đó ở Nhật Bản. Thông qua cơ
quan chính quyền đợc biết dới cái tên Bakufu, chính quyền Tokugawa nhanh
chóng đảm đơng chức năng của một chính phủ: kiểm soát công việc đối ngoại,
tiền tệ, các tổ chức tôn giáo, các tiêu chí đo đếm Với tốc độ phát triển cao nh
vậy, nó quản lí một phần lớn tài nguyên thiên nhiên của Nhật Bản. Sở hửu đất

đai của triều đình chiếm 47 trong số 68 tỉnh của Nhật Bản, trong đó có một số
vùng đất đai màu mỡ vào bậc nhất của đất nớc nh đồng bằng Kanto rộng lớn.
Ngoài ra triều đình còn có quyền sở hữu những mỏ vàng, bạc lớn nhất ở Nhật
Bản. Cùng với quyền sở hữu nguồn tài nguyên trên, triều đình Tokugawa còn
nắm các thành phố lớn ở Nhật Bản nh là Edo nơi đặt cơ quan chính quyền
Shogun Kyoto, nơi của Hoàng đế; Osaka- trung tâm thơng nghiệp của đất nớc
và Nagasaki- nơi tiến hành các mối quan hệ ngoại thơng và ngoại giao của Nhật
Bản.
1.3. Tình hình chính trị - kinh tế - xã hội của Nhật Bản thời kì Tokugawa.
1.3.1. Tình hình chính trị.
Để cũng cố quyền lực năm 1615, Tokugawa cho ban hành bộ luật Buke
Shohatto(bộ luật Vũ gia) để kiểm soát các đaimiô. Bộ luật này quy định :
1.Cấm các đaimiô xây dựng thêm thành quách,nếu cần tu sửa phải có sự
đồng ý của Mạc phủ.
2. Cấm các đaimiô trở thành thông gia hay kết nghĩa đồng minh với nhau.
3.Luật lệ hoá chế độ Sankin Kotai, tức là bắt buộc các Daimiô phải để
vợ con ở Edo làm con tin và cứ sau mỗi năm ở han(tỉnh) của mình phải lên Edo
túc trực một năm.
4. Cấm đóng tàu lớn.
Bộ luật này đã củng cố quyền lực của chính quyền trung ơng Tokugawa và ràng
buộc hơn nữa các ch hầu(bắt buộc phải thực hiện chế độ Sankin Kotai).
Bộ luật Vũ Gia do Tokugawa Ieyasu ban hành một năm trớc khi mất,
hai mơi năm sau(1635) Tokugawa Ieyasu, Shogun thứ ba, chỉnh lí hoàn chỉnh
hơn.
Đối với triều đình Thiên hoàng ở Kyoto, chính quyền Tokugawa tiếp tục
thi hành chính sách của những đời Shogun trớc, một mặt nâng cao uy tín của
Phạm Hồng Thắng 40E1- Sử. Khoá luận tốt nghiệp.

12



Thiên hoàng, một mặt tìm cách kiểm soát và tách rời Thiên hoàng với các
Daimio nhằm phòng ngừa các Daimio có thể nhờ thế lực Thiên hoàng để chống
lại mình.
Để làm chỗ dựa vững chắc cho Mạc phủ và chế độ phong kiến
Tokugawa, đặc biệt chú ý tổ chức và xây dựng quân đội chuyên nghiệp. Trên
cùng là các võ sĩ đặc biệt gọi là hatamoto, với khoảng 5.000 ngời, làm nhiệm vụ
cấm binh và chỉ huy quân đội. Hatamoto do Tớng quân trực tiếp chỉ huy họ đợc
phép vào chầu Tớng quân, đợc phong nhiều ruộng đất và bản thân họ cũng có
võ sĩ dới quyền. Nó đứng hàng thứ hai trong đẳng cấp phong kiến sau Daimio.
Dới hatamôtô là tầng lớp võ sĩ nói chung, cả nớc có khoảng 40 vạn ngời,
phần lớn phụ thuộc các Daimio. Khác với thời trớc, võ sĩ sống ở thành thị, đợc
hởng bổng lộc bằng gạo, chuyên nghề võ và đợc đeo gơm thờng xuyên(hai
thanh một dài, một ngắn). Hai thanh kiếm này dần dần trở thành biểu tợng của
linh hồn ngời võ sĩ. Tuy là tầng lớp thấp nhất trong đẳng cấp phong kiến nhng
võ sĩ vẫn là tầng lớp có đặc quyền. Họ tự cho mình là cao quý với tinh thần võ
sĩ đạo, có thể xử phạt hay chém tại chỗ những thờng dân nào mà họ coi là vô lễ.
Tầng lớp thứ hai, sau võ sĩ là nông dân, chiếm khoảng 80% dân số. Tuy
đợc coi trọng hơn tầng lớp công và thơng gia, trên thực tế nông dân là nhữn ngời bị áp bức bóc lột nặng nề nhất. Tuy mức độ tô quy định là một nữa số hoa lợi
thu hoạch, nhng họ còn phải chịu rất nhiều loại thuế phụ nặng nề. Tình cảnh bị
bóc lột khốn khổ của nông dân đợc thể hiện qua câu nói truyền miệng thời đó
là: Nông dân nh hạt vừng càng ép càng ra dầu.
Để phân biệt địa vị xã hội, chính quyền còn quy định một cách tỉ mỉ,
khắc nghiệt bắt nông dân phải theo, nh không đợc ăn gạo ngon, mặc áo lụa, ở
nhà rộng hoặc diễn kịch vui chơi Thực hiện chế độ quản lí chặt chẽ và ngăn
ngừa sự nổi dậy của nông dân, Mạc phủ tổ chức ngũ liên gia, bắt họ quản lí,
giám sát và chịu trách nhiệm lẫn nhau. Với thiết chế chính trị kết hợp chặt chẽ
với quân sự và hành chính, Tokugawa vừa là lãnh chúa lớn nhất, vừa là ngời cai
trị thực tế đất nớc làm cho Thiên hoàng chỉ là tợng trng của quyền uy cao nhất,
mà chẳng có quyền gì. Đây là nguồn gốc mâu thuẫn giữa Shogunvới Thiên

hoàng và những công quốc ủng hộ Thiên hoàng.
Chính sách cai trị này của Tokugawa là nguyên nhân của những cuộc
khởi nghĩa nông dân. Cho nên, bằng những biện pháp độc đoán mà chính quyền
Phạm Hồng Thắng 40E1- Sử. Khoá luận tốt nghiệp.

13


vẫn không thể ngăn cản đợc tinh thần đấu tranh của nông dân. Năm 1637 cuộc
khởi nghĩa lớn Simabara đã nổ ra ở Kyushu, thu hút đến 3 vạn ngời tham gia.
Mạc phủ đã đàn áp hết sức dã man và càng tăng cờng hơn sự kiểm soát đối với
nông dân. Song những chính sách ấy làm cho mâu thuẫn xã hội dới chính quyền
Mạc phủ càng tỏ ra ngày một khủng hoảng trầm trọng.
Trong tình hình đó, Mạc phủ Tokugawa lại phải đơng đầu với một sự
kiện quan trọng khác; đó là sự xâm nhập của Chủ nghĩa t bản phơng Tây. Nhật
Bản có nhiều quan hệ từ lâu với các nớc phơng Tây. Ngời châu Âu đến Nhật
Bản sớm nhất là ngời Bồ Đào Nha. Năm 1543, trên một thuyền buôn Trung
Quốc có ba ngời châu Âu đã chính thức cập bến Tanegasima, phía nam
Kyushu. Sáu năm sau(1549) giáo sĩ dòng Tên Sait Francis Xavier, từ Goa đến
truyền đạo ở Nhật Bản. Đến cuối thế kỉ XVI, ngời Hà Lan và ngời Anh đã đến
Nhật Bản. Lái buôn châu Âu không những chở súng đạn đến bán ở Nhật Bản
mà còn đóng vai trò trung gian trong việc mậu dịch giữa Nhật Bản với nhiều nớc châu á nh Trung Quốc, Việt Nam, Philippin Theo gót chân lái buôn, các
giáo sĩ đạo Thiên chúa đến Nhật Bản nhiều hơn. Trong khi truyền giáo, thành
lập giáo hội, họ còn mở trờng học, nhà thơng, nên đã có sức thu hút lớn đối với
quần chúng nghèo khổ. Theo báo cáo cuả các giáo sỹ, năm 1579 số tín đồ đạo
Thiên chúa ở Nhật Bản đã lên đến 150.000 ngời.
Lúc đầu do mong muốn mua đợc nhiều vũ khí tối tân để tăng cờng lực lợng quân sự, các Daimiô đều hoan nghênh ngời châu Âu đến lãnh địa của mình
để buôn bán. Chính quyền Nhật Bản cũng thi hành chính sánh khuyến khích
buôn bán nên các lái buôn nớc ngoài đợc hởng nhiều đặc quyền. Vì thế có thời
gian việc buôn bán giữa Nhật Bản với các nớc Tây Âu khá phát triển.

Song đến thời Hideyoshi, các giáo sỹ phơng Tây dần dần để lộ âm mu
của kẻ dọn đờng cho sự xâm lợc của chủ nghĩa thực dân nớc họ. Hơn nữa, một
số Daimiô lại cấu kết chặt chẽ với giáo hội Thiên chúa để chống lại công cuộc
thống nhất. Vì vậy, năm 1587 Hideyoshi đã lệnh cấm đạo.
Dới thời Mạc phủ Tokugawa tiếp theo, do yêu cầu của chính sách phát
triển quan hệ buôn bán với bên ngoài, nên đối với việc truyền đạo, Mạc phủ
cũng làm ngơ. Về sau trong liên minh các đaimiô chống lại Tokugawa có kẻ là
tín đồ đạo Thiên chúa. Mặt khác, Mạc phủ lại sợ các Daimiô ở miền Tây Nam
lại sẽ trở nên lớn mạnh nhờ phát triển qua hệ mậu dịch với các nớc phơng Tây
Phạm Hồng Thắng 40E1- Sử. Khoá luận tốt nghiệp.

14


và do đó sẽ đe doạ nền thống trị của mình. Vì vậy Tokugawa lại thi hành chính
sách cấm đạo. Năm 1624, Mạc phủ xử thiêu 50 tín đồ đạo Thiên chúa. Riêng ở
Kyushu lúc bấy giờ có hơn 100.000 tín đồ. Về sau số tín đồ bị xử tử ngày càng
nhiều. Sau cuộc khởi nghĩa của nông dân theo đạo Thiên chúa và võ sĩ thất
nghiệp ở Simabara ở đảo Kyushu năm 1637, Mạc phủ lại càng cấm đạo ráo riết
và đến năm 1639 thì chính thức ra lệnh đóng cửa, cấm chỉ việc buôn bán với nớc ngoài, lái buôn và giáo sĩ nớc ngoài phải rời khỏi Nhật Bản, chỉ trừ lái buôn
Trung quốc và Hà lan còn đợc buôn bán ở Nagasaki mà thôi. Chính sách bế
quan toả cảng đó duy trì đợc hơn 200 năm đã làm cho các tầng lớp nhân dân
trong nớc thêm bất bình với Mạc phủ.
Sau khi đóng cửa, mọi quan hệ buôn bán giữa Nhật Bản với các nớc
châu Âu bị đình chỉ. Một vài trờng hợp đặc biệt còn giữ đợc quan hệ nh Hà
Lan, do Hà Lan giúp đỡ Shogun đàn áp những cuộc khởi nghĩa của nông dân ở
Simabara. Do vậy, thơng nhân Hà Lan đợc cập thuyền có chở hàng hoá vào một
cảng đợc quy định trên đảo Dexima ( ở vịnh Nagasaki).
Tuy nhiên chính sách đóng cửa không thể làm cho Nhật Bản hoàn toàn
tách khỏi các nớc bên ngoài. Bên cạnh những quan hệ ít ỏi với châu Âu, Nhật

Bản vẫn tiếp tục buôn bán ở các nớc châu á. Thơng nhân và kiều dân Nhật Bản
đến và c trú ở Việt nam (Hội an Quảng nam - Đà nẵng ngày nay). Thơng
nhân Trung quốc cũng đợc phép đến buôn bán ở Nagasaki.
1.3.2. Tình hình kinh tế, xã hội Nhật Bản dới thời Mạc phủ Tokugawa
Mặc dù dòng họ Tokugawa đã nỗ lực hết sức để ngăn ngừa mọi sự thay
đổi có thể làm lung lay cái chính thể đã đợc cô lập hoá một cách an toàn của
họ, song điều hiển nhiên là họ không thể chặn đứng đợc tất cả những quá trình
diến biến và phát triẻn tự nhiên ở bên trong xã hội Nhật Bản. Duy trì những
hình thức chính trị bên ngoài có thể dễ dàng, nhng kìm hãm hoạt động bên
trong của xã hội và của nền kinh tế trong những khuôn khổ và mô hình cứng
ngắc không thay đổi là điều không thể thực hiện đợc. Trong suốt thế kỉ XVI, sự
phát triển xã hội và kinh tế của Nhật Bản đã vợt ra ngoài những gò bó của một
chế độ phong kiến thuần tuý. Dù có hà khắc và tàn bạo đến nh chế độ Edo cũng
không thể nào buộc nớc Nhật quay trở về với những mẫu mực phong kiến giản
đơn đợc nữa
Phạm Hồng Thắng 40E1- Sử. Khoá luận tốt nghiệp.

15


Về kinh tế : Trên thực tế, sự thống nhất đất nớc và sự yên tĩnh kéo dài dới
triều đại Tokugawa đã làm cho việc duy trì nền kinh tế phong kiến càng không
thể có đợc. Khi sự thống nhất đất nớc đã đợc thực hiện, nhiều sự hạn chế và gò
bó nhỏ trong lĩnh vực kinh tế tồn tại trong thời Askikaga đã bị xoá bỏ. Thơng
mại đã có thể hoạt động trên một quy mô lớn cha từng thấy từ trớc đến nay, và
mặc dù có sự phân chia đất nớc trở thành nhiều lãnh địa Daimiô, Nhật Bản cũng
đã trở thành một đơn vị kinh tế duy nhất. Đợc giải thoát khỏi su thuế của chế độ
phong kiến và hạn chế của các thời đại trớc, các thơng gia không còn cần tới sự
bảo trợ của các tổ chức chặt chẽ của các phờng hội nữa. Các phờng hội đã dần
dần biến mất, các thơng gia độc lập và các công ty thơng nghiệp và thủ công

nghiệp độc lập đã thay thế các phờng hội này trong một trật tự kinh tế tự do
hơn.
Thời đại thái bình hoàn toàn và kéo dài của dòng họ Tokugawa đã đem
lại cho Nhật Bản những năm tháng thịnh vợng cha từng thấy. Sản xuất kĩ nghệ
và thơng mại đã gia tăng một cách nhanh chóng. Mặc dù dòng họ Tokugawa,
các Daimiô và toàn bộ giai cấp Samurai vẫn cơng quyết bám và quan niệm cho
rằng nông nghiệp là nguồn của cải duy nhất đích thực, và tiếp tục tính lợi tức
của họ bằng thóc đong bằng thùng. Tại các thị trấn và các thành phố của Nhật
Bản, một giai cấp thơng gia đang phát triển mạnh mẽ và bắt đầu hình thành một
nền kinh tế thơng mại mà ngời ta không thể chờ đợi trong một đất nớc theo
chỉnh thể phong kiến. Các tín chỉ thuộc đủ loại đợc phát triển và sử dụng một
cách rộng rãi trong các cuộc sang nhợng thông thờng và những vụ buôn bán lúa
gạo lớn với giá cả lên xuống từng ngày đợc thực hiện tại hai thủ phủ kinh tế là
Osaca và Edo.
Giai cấp thống trị đã đặt các thơng gia ở bậc thấp nhất của tôn ti xã hội,
nhng các thơng gia lại kiểm soát thị trờng lúa gạo của cả nớc, cho nên họ dần
dần đi tới chỗ chế ngự cuộc sống kinh tế. Trong một nền kinh tế tiền tệ đang đợc mở rộng, các Daimiô và các Samurai ngày càng cần có tiền, và trong thời kì
Tokugawa niều ngời trong số họ đã trở thành những con nợ vô hi vọng của các
thơng gia giàu có ở các thành thị. Các Daimiô và Samurai, mặc dù về phơng
diện xã hội vốn khinh miệt giai cấp thơng gia, đôi khi cũng đã gả con gái của
họ cho những thơng gia giàu có để cải thiện tình trạng kinh tế của chính mình.

Phạm Hồng Thắng 40E1- Sử. Khoá luận tốt nghiệp.

16


Vào đầu thế kỉ XIX, nhiều gia đình thơng gia đã có đợc những gia tài
kếch xù. Gia đình Mitsui, thời gian gần đây đã xây dựng đợc một quyền lực
kinh tế lớn nhất tại Nhật Bản vào thời đó, đã là một nhân tố quan trọng trong

đời sống kinh tế của một quốc gia. Một giai cấp t bản chính hiệu đã xuất hiện
cùng với tập đoàn đông đảo các nhà doanh nghiệp có kinh nghiệm. Khung cảnh
đã sẵn sàng cho công cuộc hiện đại hoá kỳ diệu của nền kinh tế Nhật Bản sẽ
diễn ra khi đất nớc mở rộng cửa để buôn bán và trao đổi với thế giới bên ngoài.
Các thơng gia, chứ không phải là các võ sĩ - quan chức đã làm chủ Nhật
Bản về mặt kinh tế, nhng u thế đích thực của các thơng gia này trong thời
Tokugawa có lẽ lộ rõ hơn cả trong lĩnh vực văn hoá, bởi vì nghệ thuật và văn
chơng của thời kỳ này là sự biểu hiện của một tầng lớp t sản thành thị hơn là
một giai cấp võ sĩ phong kiến. Rõ ràng là các thành thị đã chế ngự nền văn hoá
Tokugawa và tại các thành thị những khu phố ăn chơi vui vẻ chính là những
trung tâm của đời sống xã hội. Tại đây, các geisha(nghệ gia) tức những nữ
chiêu đãi viên nhà nghề đợc đào tạo một cách kỹ lỡng về các nghệ thuật hát,
múa, nói chuyện vui, chiếm địa vị tối cao. Các nhà doanh nghiệp trong những
lúc mỏi mệt tìm đến với họ, trong khi các võ sĩ quý tộc đi tìm sự tiếp xúc xã hội
tự do với phụ nữ, một điều mà trớc kia những khuôn phép quá khắt khe của xã
hội không cho phép họ. Chính những khuôn phép ấy đã giam cầm ngời phụ nữ
gia giáo trong bốn bức tờng của ngôi nhà.
Nh vậy, có thể nói sau khi đất nớc đợc thống nhất dới quyền Mạc phủ
Tokugawa, tình hình kinh tế có những bớc tiến nhất định. Sản lợng nông nghiệp
tăng gấp đôi. Từ giữa năm 1600 và năm 1720, dân số tăng khoảng gấp 2,5
lần(tỷ lệ tăng hàng năm là 0,77%). Có nghĩa là sản lợng nông nghiệp phải tăng
để nuôi số ngời đông thêm. Chắc chắn là đúng nh vậy và đất đai trồng trọt đã đợc tăng lên theo. Nguyên nhân của dân số gia tăng là do môi trờng sống và chế
độ dinh dỡng đợc cải thiện cũng nh tỷ lệ trẻ em (từ 10 tuổi trở lên, chết yểu đã
giảm mạnh mẽ từ 40% còn 10% vào cuối thời kỳ Edo).
Cùng với sự phát triển của nông nghiệp, càng về cuối thời kỳ Tokugawa
quan hệ kinh tế hàng hoá xâm nhập nhiều vào nông dân. Nông dân càng lệ
thuộc hơn vào địa chủ, phong kiến, phải nộp tô từ 60 - 80% hoa lợi. Nông dân
giàu có thâm canh tăng năng suất, kết hợp hay chuyển sang sản xuất thủ công
nghiệp hay chế biến sản phẩm bán cho thị trờng và một số thành địa chủ mới.
Phạm Hồng Thắng 40E1- Sử. Khoá luận tốt nghiệp.


17


Một hiện tợng mới dới thời Tokugawa là sự phát triển nhanh chóng của
các thành phố và thơng nghiệp. Vào thời Tokugawa có trên 200 thành phố, thị
trấn. Có những thành phố trên 100.000 dân. Thành phố là trung tâm của sản
xuất thủ công nghiệp, cung cấp cho thị trờng. Thợ thủ công tập trung trong các
phờng hội, độc quyền sản xuất một vài loại hàng hoá .Các phờng có những quy
tắc sản xuất chặt chẽ và diễn ra một sự phân hoá giai cấp khá sâu sắc. Chủ phờng hội bóc lột tàn tệ những thành viên khác (thợ ban, thợ học việc)
Vai trò của ngời cho vay lãi thơng nhân ngày càng lớn, chi phối việc
sản xuất, buôn bán . Vào thế kỷ XVII bắt đầu xuất hiện một số công trờng thủ
công trong việc khai mỏ, luyện kim, thơng mại, ngân hàng, những chủ kinh
doanh lớn nh Metsui,Yamanaga.
Các thơng nhân có thế lực lớn ở các thành phố, tuy về mặt xã hội hội
thuộc đẳng cấp thấp. Họ tập hợp trong các thơng hội càng phát triển, khi
Tokugawa đóng cửa với thơng nhân châu á. Những thơng nhân nắm giữ địa
vị chủ yếu trong thơng hội có thế lực lớn, có ảnh hởng lớn đến đời sống chính
trị Nhật Bản lúc bấy giờ (họ quyết định giá cả, tỷ giá hối đoái trong cả nớc).
Sản xuất và quan hệ hàng hoá - tiền tệ phát triển đã tác động to lớn đến
xã hội thời Tokugawa. Nó củng cố thêm chế độ phong kiến và mối liên hệ chặt
chẽ, phụ thuộc lẫn nhau giữa những nhà sản xuất, thơng nhân, cho vay lãi. Quan
hệ sản xuất t bản chủ nghĩa thâm nhập vào xã hôị phong kiến song không phá
vỡ xã hội này. Đặc điểm này sẽ chi phối đến tiến trình sau đây diễn ra trong
việc lật đổ Tokugawa, phục hồi quyền lực Thiên hoàng và đa Nhật Bản tiến theo
con đờng t bản chủ nghĩa, trong khuôn khổ chế độ phong kiến.
Về xã hội: ở thời kỳ Tokugawa thì chế độ đẳng cấp cũng đợc củng cố.
Xã hội Nhật Bản ở thời kỳ này vẫn chia thành 4 đẳng cấp đó là: Võ sĩ, Nông
dân, Thợ thủ công, Thơng nhân.
Nét nổi bật trong hệ thống chính quyền Tokugawa là có sự phân chia giai

cấp rõ ràng. Về nguyên tắc, không có ngời nào thoát ly đợc giai cấp xuất thân
của mình. Các nhà cầm quyền đơng thời trong thâm tâm đều không muốn có
những sự biến động xã hội dẫn tới sự phân hoá giai cấp làm đất nớc mất ổn
định.
Bốn giai cấp hình thành rõ ràng theo vị trí xã hội từ trên xuống. Tầng lớp
võ sĩ chiếm không đến 1/10 hay đúng hơn không quá 1/12 tổng dân số, còn
Phạm Hồng Thắng 40E1- Sử. Khoá luận tốt nghiệp.

18


nông dân chiếm khoảng 8/10. Thời chiến tranh trung cổ ở Nhật Bản, đơng nhiên
là quần chúng đông đảo chỉ chia làm 2 tầng lớp là quân nhân và những ngời sản
xuất. Song sự phân chia giai cấp trở nên phức tạp hơn theo các bộ luật Yòrò và
Taihò vào thế kỷ XVIII, rập khuôn theo cách phân chia giai cấp của Trung hoa.
Nhân dân Nhật Bản rất có ý thức về đẳng cấp và tình trạng giai cấp của mình
trong lịch sử.
Trong từng giai cấp tự phát có sự phân hoá vì nảy sinh các phong trào
mới trong xã hội, mặc dầu việc phân chia giai cấp xuất thân không dễ gì xoá bỏ.
Chẳng hạn tầng lớp quân nhân bao gồm tất cả những gia đình có dính dáng tới
binh nghiệp, từ các thủ lĩnh quân sự có thế lực đến ngời lính chiến nghèo khổ
nhất.
Liền dới tầng lớp quân nhân là tầng lớp dân cày cũng bao gồm từ ngời
bần nông đến những ông chủ trang trại khá giả. Trong thời bình, sau chiến
thắng ở Osaka ngời nông dân an phận ở nơi c trú của mình nhng cuộc sống khó
khăn luôn bị giới địa chủ áp bức. Một vị đại thần là Doitoshikatsu, liền ngay
sau đại nguyên soái, cũng phải nhận xét thái độ của tầng lớp cầm quyền là tham
lam tàn bạo.
Trong thời trung cổ nền kinh tế của Nhật Bản chủ yếu dựa vào nông
nghiệp. Nông dân chiếm số đông trong dân c và họ có vai trò quan trọng nhất.

Không thể hiểu đợc lịch sử của Nhật Bản nếu không hiểu rõ vai trò của các
cộng đồng sống ở nông thôn, trong đó có những ngời dân cày là những thành
viên chính.
Chính sách của giới quân sự nói chung trớc kia là muốn cột chặt ngời
nông dân trên mảnh đất của họ không cho họ đi nơi khác. Luật pháp của chính
quyền Tokugawa từ đầu không có gì khắc nghiệt, chẳng những thế còn có phần
bảo vệ quyền nông dân khỏi bị giới điền chủ áp bức. Một đạo luật của chính
quyền Edo năm 1603 cho phép ngời nông dân có thể rời bỏ ruộng đất mình
đang cày cấy đi nơi khác, nếu nh bị ngời quản lý ruộng đất đối xử tàn tệ, dầu đó
là ruộng đất của họ Tokugawa hay ruộng đất riêng của các đại điền chủ. Chỉ có
một điều kiện là trớc khi rời đi nơi khác, nông dân phải trang trải xong mọi
khoản thuế. Sau đó anh ta muốn sống nơi nào cũng đợc. Một chơng khác trong
bộ luật nghiêm cấm việc dùng bạo lực chống lại nông dân và nêu rõ rằng mọi

Phạm Hồng Thắng 40E1- Sử. Khoá luận tốt nghiệp.

19


sự tranh chấp về thuế má nếu không tự giải quyết đợc giữa địa chủ và nông dân
thì đa ra toà án xét xử.
ở nhiều nơi ngời ta đối xử với nông dân thô bạo mặc dầu cũng có một số
điền chủ thiên về thuyết phục hơn là dùng vũ lực. Chính quyền Bakufu có chính
sách mềm dẻo hơn. Một đạo luật năm 1643 có những đoạn sau đây : Nếu nh
những ngời quản lý đất đai hạc đại diện của họ xử sự không đúng và không thể
chịu đợc, ngời nông dân có thể ra đi sau khi thanh toán hết mọi khoản thuế cũ.
Họ có thể sang c trú ở làng bên cạnh nơi mà họ cảm thấy dễ thở hơn. Tuy
nhiên lệnh của chính quyền Bakufu ở nhiều nơi không có hiệu lực ngời nông
dân bị áp bức đã bỏ trốn ngày càng nhiều. Chẳng hạn, năm 1642, một đạo luật
của lãnh chúa Okayama đã lên án những nhóm nông dân bỏ trốn để mu nổi

loạn và buộc những ngời còn lại trong làng phải cày cấy những mảnh đất bỏ
hoang. Không phải tất cả những ngời bỏ trốn đều do bị áp bức bóc lột, mà nhiều
ngời muốn bỏ nông thôn ra thành phố, nơi họ cho rằng kiếm sống dễ hơn. Tình
hình đó dẫn đến hình thành một tầng lớp những ngời làm công hoặc đi ở cho
những nhà giàu ở thành phố. Số này ngày càng đông trong hoàn cảnh kinh tế
phát triển trong thời bình. Ngoài ra nhiều nông dân khéo tay bỏ ra thành phố
làm thợ thủ công, thành tầng lớp thứ ba trong xã hội.
Thợ thủ công mọi nghề bị coi rẻ hơn tầng lớp nông dân. Tuy nhiên có
một số kiến thức, có tay nghề giỏi đợc kính trọng, nhất là nếu họ phục vụ cho
tầng lớp võ sĩ. Những ngời sản xuất áo giáp, gơm, kiếm đợc đối xử đặc biệt, đợc
trả lơng cao, có nơi ở tử tế. Chính quyền Bakufu và các lãnh chúa lớn có nhiều u
ái đối với họ. Nghề thợ mộc cũng đợc đối xử tốt. Chẳng hạn có một ngời thợ
mộc giỏi ở Kyoto năm 1698 tên là Nakaimondo đợc hởng lơng 500 koku và đợc
phép đeo kiếm nh một võ sĩ. Những quyền lợi và sự đối đãi tơng tự cũng đợc áp
dụng đối với các loại thợ giỏi khác nh thợ kim hoàn làm nghề vàng bạc, các
nghệ nhân, sthợ may, nhất là những ngời đợc giao công việc may quần áo cho
đại nguyên soái và giới quý tộc trong triều.
Những ngời thợ bình thờng thì không đợc u ái nh vậy. Những ngời sống ở
các thành phố pháo đài, làm việc cho các lãnh chúa với số lợng ít ỏi, nhng họ lại
đợc đặc quyền bán hàng hoá họ sản xuất ra. Còn loại thợ làm công nhật, các thợ
thủ công lập thành các phờng hội để cùng nhau bảo vệ quyền lợi. Có những ph-

Phạm Hồng Thắng 40E1- Sử. Khoá luận tốt nghiệp.

20


ờng buôn bán, phờng thợ mộc, thợ ca xẻ, thợ rèn, thợ làm ngói, thợ nề, mỗi
nghề có phờng hội riêng. Chế độ học nghề khá chặt chẽ nhng có hiệu quả.
Tầng lớp thơng nhân bao gồm những nhà buôn và các chủ hiệu là tầng

lớp thấp nhất trong xã hội. Song nền kinh tế Nhật Bản trong thời bình ngày một
phát triển và mở rộng, tầng lớp thơng nhân giàu có lên và có thế lực. Đến thế kỷ
XVIII thì bằng sức mạnh của đồng tiền họ đã phá đợc những hàng rào phân
chia giai cấp trong xã hội dới thời các đại nguyên soái Tokugawa. Những thơng
nhân giàu có đợc chính quyền sử dụng nh những chủ thầu và công việc của họ
rất cần cho tầng lớp võ sĩ. Ngay cả phờng hội buôn bán, vốn không đợc chính
quyền a lắm, nay cũng đợc vị nể do họ đóng góp đợc nhiều thuế má, lệ phí.
Cần nói thêm rằng, trong mỗi giai tầng xã hội lại chia ra nhiều đẳng cấp,
từ các lãnh chúa đến ngời lính thờng; từ phú nông đến ngời tá điền làm công
nhật kiếm sống; từ ngời thợ thủ công lành nghề đến thợ học việc; từ những thơng nhân giàu có đến ngời bán rong. Sự phân hoá thành đẳng cấp đó ngày càng
rõ, ngời ta thấy trong các cuộc họp làng xã, mỗi loại ngời có vị trí rõ rệt. Tôn ti
trật tự phức tạp trong xã hội lại thể hiện rõ trong các mối quan hệ xã hội, tuy có
nặng nề nhng lại khuyến khích đợc ý thức vơn lên.
Bốn giai cấp chính trong xã hội nói trên chiếm phần đông dân số, vì còn
một số loại ngời không thuộc hẳn tầng lớp nào. Chẳng hạn có những nhóm ngời
sống lu động trên sông nớc, ngời đi cày cuốc thuê, ngời làm nghề khuân vác,
thợ đấu, chân sào, phu khiêng kiệu và những ngời lao động đơn giản khác
không cần có kỹ năng gì đặc biệt. Còn có loại ngời nữa vốn là những võ sĩ cũ,
gặp rủi ro hoặc bất mãn vì lý do gì đó, nội dung chống lại trật tự xã hội đơng
thời. Họ thờng là những võ sĩ không nghề nghiệp, thờng gọi là Rònin, một loại
ngời trong lịch sử chế độ phong kiến cần đợc nghiên cứu kỹ hơn.
Mặc dầu có những biện pháp đàn áp của chính quyền, số võ sĩ thất
nghiệp vẫn không giảm. Chẳng những thế số này ngày một tăng, họ oán trách
thái độ đối xử của chính quyền. Nguy cơ của những cuộc nổi dậy ngày một rõ,
điển hình nhất là đã có cuộc khởi nghĩa trên quy mô lớn của những võ sĩ thất
nghiệp dới sự lãnh đạo của Yuishòsetsu, trong những năm cuối đời của đại
nguyên soái Iemetsu.
1.3.3. Tình hình văn hoá.

Phạm Hồng Thắng 40E1- Sử. Khoá luận tốt nghiệp.


21


Những điều kiện kinh tế, xã hội nh vậy đợc phản ánh trong nền văn hoá
phong phú, đa dạng ở thời kỳ Tokugawa. Xóm làng, nhà cửa ở nông thôn quy
hoạch khá ngăn nắp, có đờng đi rộng, thẳng, những dòng nớc tới cho đồng
ruộng. ở thành thị đợc xây dựng to lớn đẹp đẽ, dân c đông đúc, thành thị còn là
chiến lũy nữa.
Trong những thế kỷ XIII - XV, kỷ luật của tầng lớp võ sĩ đã đặc biệt phát
triển thành cái gọi là Võ sĩ đạo(Bushido) tới mức trở thành một giá trị thẩm
mĩ, một tiêu chuẩn đạo đức và hành động của toàn xã hội. Nó có ảnh hởng
mạnh mẽ tới sự phát triển văn hoá.
Hình tợng nghệ thuật của ngời võ sĩ đã đợc thể hiện trong các tác phẩm
văn học ra đời và phát triển trong thời kỳ ấy mang tính hình thức là gunkinhững anh hùng ca. Nổi tiếng nhất là hai thiên anh hùng ca: một là, Hâykê
Mônôgatati, ra đời vào đầu thế kỷ XIII, có nội dung kể về cuộc chiến giữa họ
Taira và họ Minamôtô; và hai là Taihayki(Thái bình kí), ra đời vào giữa thế kỷ
XIV, kể lại cuộc đấu tranh giữa các phong kiến miền Đông và miền Tây. Cả hai
tác phẩm này đều hình thành trên cơ sở những câu chuyện truyền miệng của
nhân dân có ngời chuyên kể lại.
Ngoài văn học, nghệ thuật sân khấu cũng đạt đợc những thành tựu đáng
kể trong các thế kỉ XIV - XV. Tuy nhiên đặc điểm kịch của thời kì này là ở chỗ
nó không tách rời sân khấu. Kịch bản ra đời trong quá trình trình diễn, còn
những mục trình diễn đều bắt nguồn từ những điệu nhảy múa của nhân dân. Đề
tài của kịch thờng là những câu chuyện hoang đờng, thần thoại, những truyện
anh hùng, truyện lãng mạn, cổ tích và cả những biến cố xảy ra trong cuộc sống.
Khi trình diễn, ngời ta thay đổi nhiều cảnh, có đoạn múa, đoạn hài hớc và đôi
khi còn xen vào vài ngón ảo thuật. Kịch gia nổi tiếng nhất thời ấy là Xêami
(1368-1443).
Hội hoạ thời kì này rất phát triển với những lối vẽ thuỷ mặc. Đó là lối vẽ

dùng nớc lã, mực đen để vẽ lên giấy. Lối vẽ này có nguồn gốc từ Trung Quốc
và đợc truyền vào Nhật Bản từ thời Tống. Vào thế kỉ XV, lối vẽ thuỷ mặc đã đợc kết hợp với Đại Hoà hội để vẽ sơn thuỷ, hoa, điểu, cầm thú. Sự kết hợp này
đợc thể hiện ở chỗ, ngời ta vẫn vẽ thuỷ mặc là chính, nhng chấm phá thêm một
vài mầu sắc theo nghệ thuật tả chân của Đại Hoà hội trong hội hoạ, qua đó thể
hiện đợc tình cảm và t tởng sâu sắc nhất của con ngời. Các nghệ sĩ nổi tiếng
Phạm Hồng Thắng 40E1- Sử. Khoá luận tốt nghiệp.

22


nhất trong hội hoạ của thời kì này là Giôsetsu Setsusu (1420-1506) và Canô
Môtônôbu (1476-1559).
Bên cạnh hội hoạ, nghành điêu khắc cũng phát triển rộng rãi, khuynh hớng mới trong điêu khắc thời kì này là sự kết hợp những truyền thống cũ của
Nhật Bản với những yếu tố điêu khắc. Tuy nhiên, điêu khắc thờng vẫn đợc kết
hợp với kiến trúc. Những công trình kiến trúc nổi tiếng nhất thời bấy giờ có Toà
nhà vàng (kinkakuddi) xây dựng năm 1397 ở Kiôtô và Chùa bạc (ginkakuddi)
xây năm 1473.
Sự phát triển của văn hoá vào thế kỉ XVI vẫn tiếp tục diễn ra trong hoàn
cảnh rất phức tạp. Các cuộc chiến tranh phong kiến kéo dài đã ảnh hởng tới nó.
Do vậy đặc điểm của văn hoá Nhật Bản ở thế kỉ XVI là đợc hình thành dới ảnh
hởng của các yếu tố xung đột và mâu thuẫn nhau. Chẳng hạn, trong văn học,
loại văn châm biếm rất phát triển. Nội dung của loại văn này mang tính chất
hiện thực, chủ yếu phản ánh những thói xấu của tầng lớp quý phái và bọn thầy
tu.
Kiến trúc của thế kỉ XVI cũng có nhiều thay đổi, nhìn chung lộng lẫy có
tỉ lệ rất đều và ít nhiều đã chịu ảnh hởng của phơng pháp xây dựng và hình thái
kiến trúc của châu Âu. Các nghệ sĩ trang hoàng thời kì này cũng đồng thời là
những nhà chế tạo đồ trang sức, đạt đến mức độ rất điêu luyện. Ơ thành thị bắt
đầu phổ biến các hình thức văn hoá gọi là phòng trà (tianôu). Ơ đây thờng tập
trung một nhóm ngời nhỏ nhất định, họ tự do thảo luận những vấn đề văn hoá,

chính trị mà họ quan tâm. Đồng thời với việc phổ biến các cuộc họp phòng trà
thì lối trồng cây cảnh một trong những đặc điểm của dân tộc Nhật Bản tiêu
biểu cho văn hoá nhà cửa - cũng phát triển. Vờn cây cảnh trong dinh tiêu khiển
của Thiên hoàng Casura ở gần Kioto, ở giữa vờn có phòng trà, đợc xem là vờn
mẫu mực của loại nghệ thuật này.
Sang thời Tokugawa, do đất nớc đợc hoà bình thống nhất hơn 2 thế kỉ,
nên văn hoá Nhật Bản có nhiều điều kiện phát triển. Đây là thời kì văn hoá
truyền thống của Nhật Bản, sau một giai đoạn dài hình thành và phát triển, đã
định hình, đồng thời cũng là thời kì Nhật Bản chịu ảnh hởng nhiều của văn hoá
phơng Tây.
Về sân khấu, đã xuất hiện và phổ biến loại kịch tuồng kèm vũ, nhạc gọi
là Cabuki(ca-vũ-kĩ) do một phụ nữ là Ôkuni sáng lập. Lúc đầu các đoàn ca-vũPhạm Hồng Thắng 40E1- Sử. Khoá luận tốt nghiệp.

23


kĩ thờng trình diễn trong các bữa tiệc của các nhà quyền quý để mua vui. Cách
trình diễn của loại kịch này còn tạp nghệ: hoặc ca, hoặc ngâm những cố khúc,
hoặc diễn những màn kịch dao khúc ngắn. Lời lẽ thiên về cuồng ngôn vui nhộn,
hay châm biếm, vũ điệu kèm theo nhạc hoặc những điệu lả lớt. Lối diễn Cabuki
này về sau đợc quần chúng bình dân rất a chuộng, nên nhiều đoàn Cabuki đợc
thành lập và đi trình diễn khắp nơi. Nổi tiếng nhất là các đoàn Sacata Tôdurô ở
Kioto, và Isicaoa Đandurô ở Edo.
Cũng trên lĩnh vực sân khấu, còn có sự phát triển mạnh của loại hình múa
rối cạn. Loại hình này xuất hiện từ những thế kỷ trớc và có đặc điểm là trình
diễn đồng thời với lối hát xẩm Dôruri. Vào khoảng những năm 1688 - 1703
tuồng múa rối đạt tới sự phát triển toàn thịnh. Tác giả nổi tiếng nhất của loại
hình nghệ thuật này là Sicamasu Môndaêmôn(1623 - 1724).
Về văn học, đây là thời kì phát triển của thể thơ Haicai( Bài hài) và thể
thơ trào phúng.

Thơ bài hài, cũng gọi là bài cú, là thể thơ mà ngời Nhật tự hào là đặc biệt
nhất thế giới. Mỗi bài thơ rất ngắn, nhng lời lẽ thì tao nhã, ý nhiều, đủ mang
đến cho ngời đọc nhiều cảm xúc. Masuô Sunêfusa đợc coi là bậc thánh của thể
thơ này, và đợc ngời Nhật đánh giá cao nh nhà thơ Lí Bạch thời Đờng(Trung
Quốc).
Trên cơ sở thể thơ bài hài, một số nhà thơ đã đem kết hợp nó với một số
thể thơ khác thành thể thơ trào phúng châm biếm thói đời. Ngời thành công
nhất trên lĩnh vực này là Caraisenri(1718 - 1790). Ông sáng tác nhiều và đợc lu
lại thành một tập gọi là Senrisu(Xuân Liễu tập).
Hội hoạ dới thời Tokugawa đặc biệt phát triển, lôi kéo không chỉ những
hoạ sĩ nhà nghề mà cả rất nhiều hoạ sĩ nghiệp d, và hình thành nên nhiều môn
phái. Có môn phái gồm các thi nhân, văn sĩ, nho gia, gọi là Buninga (văn nhân
hoạ), có môn phái chuyên vẽ thảo mộc, thụ, lâm, nên gọi là Sasâyga(tả sinh
hoạ), có phái chuyên dùng sơn màu thực tơi vẽ bình phong hoặc tranh thờ, chùa,
đềnNhững hoạ sĩ nổi danh nhất thời bấy giờ là: Canôtany (1602-1674), Ôgata
Kôrin (1658 - 1716), Hisicaoa Môrônôbu (1618 - 1694) và Maruyama Ôkyô
(1733 - 1795).
Sự phát triển của văn hoá thời Tokugawa không tách rời với sự phát triển
của giáo dục. Tuy vẫn lấy Nho học làm nội dung giảng dạy chính, nhng điểm
Phạm Hồng Thắng 40E1- Sử. Khoá luận tốt nghiệp.

24


mới của thời kì này là ở chỗ, giáo dục không còn là đặc quyền của quý tộc nữa
mà đã lan xuống các tầng lớp thứ dân. Các lớp t học đợc mở ra ở khắp nơi và đợc gọi là Têracôya(tự tử ốc). Phần lớn các thầy đồ là nhà s, nhng cũng có không
ít những quan chủ, thầy thuốc, vũ sĩ giải nghệ cũng tự mình đóng vai các thầy
đồ giảng dạy.
Trong khi đó, mọi tiếp xúc với văn hoá phơng Tây bị nghiêm cấm bởi
chính sách đóng cửa của nhà Tokugawa. Nhng vì những ngời Hà Lan vẫn đợc

buôn bán ở Nagasaki, nên thông qua ngời Hà Lan, văn hoá phơng Tây vẫn ít
nhiều đợc truyền vào và bắt đầu ảnh hởng mạnh mẽ tới giới trí thức Nhật Bản.
Nó nhanh chóng đợc nhiều ngời học hỏi và làm bùng lên một phong trào của
những ngời học tập, nghiên cứu và làm theo phơng Tây, gọi là phong trào Hà
Lan học. Nhờ ảnh hởng của phong trào này, Nhật Bản đã tiếp thu đợc ít nhiều
khoa học và kĩ thuật phơng Tây, rút ngắn đợc phần nào khoảng cách giữa phơng
Tây và Nhật Bản.

Phạm Hồng Thắng 40E1- Sử. Khoá luận tốt nghiệp.

25


×