Tải bản đầy đủ (.doc) (135 trang)

Bút pháp trào lộng của hồ anh thái trong hai tiểu thuyết mười lẻ một đêm và SBC là săn bắt chuột luận văn thạc sĩ ngữ văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (554.41 KB, 135 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH


HOÀNG THỊ THỦY

BÚT PHÁP TRÀO LỘNG CỦA HỒ ANH THÁI
TRONG HAI TIỂU THUYẾT MƯỜI LẺ MỘT ĐÊM
VÀ SBC LÀ SĂN BẮT CHUỘT

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN

NGHỆ AN - 2012


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH


HOÀNG THỊ THỦY

BÚT PHÁP TRÀO LỘNG CỦA HỒ ANH THÁI
TRONG HAI TIỂU THUYẾT MƯỜI LẺ MỘT ĐÊM
VÀ SBC LÀ SĂN BẮT CHUỘT

CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VĂN HỌC
MÃ SỐ: 60.22.32

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:


PGS.TS. BIỆN MINH ĐIỀN

NGHỆ AN - 2012


3

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU.................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài.................................................................................................1
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu...................................................................................3
3. Đối tượng nghiên cứu và giới hạn của đề tài......................................................12
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.....................................................................12
5. Phương pháp nghiên cứu.....................................................................................13
6. Đóng góp và cấu trúc của luận văn.....................................................................13
Chương 1
TIỂU THUYẾT HỒ ANH THÁI TRONG BỐI CẢNH
TIỂU THUYẾT VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI
VÀ KHUYNH HƯỚNG TRÀO LỘNG CỦA NHÀ VĂN
1.1. Tiểu thuyết Việt Nam đương đại (tổng quan)..................................................14
1.1.1. Bối cảnh văn hóa, xã hội của tiểu thuyết Việt Nam đương đại........................14
1.1.2. Hành trình của tiểu thuyết Việt Nam đương đại...........................................17
1.1.3. Diện mạo và các khuynh hướng của tiểu thuyết Việt Nam đương đại........20
1.2. Hồ Anh Thái - một gương mặt nổi bật của tiểu thuyết Việt Nam đương đại. 23
1.2.1. Hồ Anh Thái - một hiện tượng của tiểu thuyết Việt Nam đương đại.............23
1.2.2. Khuynh hướng trào lộng trong sáng tác của Hồ Anh Thái...........................25
1.3. Nhận diện các tiểu thuyết trào lộng của Hồ Anh Thái....................................34
1.3.1. Tiêu chí nhận diện tiểu thuyết trào lộng.......................................................34
1.3.2. Hai tiểu thuyết trào lộng của Hồ Anh Thái...................................................36

Chương 2
BÚT PHÁP TRÀO LỘNG TRONG MƯỜI LẺ MỘT ĐÊM
VÀ SBC LÀ SĂN BẮT CHUỘT TRÊN PHƯƠNG DIỆN
TỔ CHỨC CỐT TRUYỆN, NHÂN VẬT VÀ XUNG ĐỘT
2.1. Nghệ thuật tổ chức cốt truyện và các tình huống trào lộng.............................42
2.1.1. Nghệ thuật tổ chức cốt truyện.......................................................................42
2.1.2. Nghệ thuật tạo dựng tình huống trào lộng…………………………………52


4
2.2. Nhân vật và xung đột trào lộng.........................................................................60
2.2.1. Nhân vật trào lộng.........................................................................................60
2.2.2. Xung đột trào lộng.........................................................................................88
Chương 3
BÚT PHÁP TRÀO LỘNG TRONG MƯỜI LẺ MỘT ĐÊM
VÀ SBC LÀ SĂN BẮT CHUỘT TRÊN PHƯƠNG DIỆN
TỔ CHỨC GIỌNG ĐIỆU, NGÔN NGỮ
3.1. Nghệ thuật tổ chức giọng điệu trào lộng............................................................97
3.1.1. Giọng điệu trào lộng........................................................................................97
3.1.2. Các sắc thái giọng điệu trong Mười lẻ một đêm và
SBC là săn và bắt chuột...........................................................................................99
3.2. Ngôn ngữ trào lộng...........................................................................................108
3.2.1. Ngôn ngữ tiểu thuyết của Hồ Anh Thái (một vài giới thuyết)……………..108
3.2.2. Tính mới mẻ, hiện đại của ngôn ngữ trào lộng trong tiểu thuyết
Hồ Anh Thái............................................................................................................109
3.2.3. Tính đa nghĩa, tạo hình và biểu cảm của ngôn ngữ trào lộng trong tiểu thuyết
Hồ Anh Thái………………………………………………………………………112
3.2.4. Nghệ thuật vận dụng thành ngữ, tục ngữ, ca dao, chơi chữ..........................113
3.2.5. Nghệ thuật tổ chức lời văn linh hoạt biến ảo................................................118
KẾT LUẬN.............................................................................................................122

TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................125


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Cảm hứng trào lộng - một mạch cảm hứng lớn trong văn học Việt
Nam từ xưa đến nay kể cả văn học dân gian và văn học viết. Trong văn học
viết đã có một truyền thống trào lộng với các tác giả nổi tiếng như Hồ Xuân
Hương, Nguyễn Công Trứ, Trần Tế Xương, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng
Phụng, Nam Cao… Cảm hứng trào lộng đã tràn thành một dòng chảy mạnh
mẽ trong văn học dân tộc. Trong công cuộc đổi mới đất nước sau chiến tranh,
ý thức cá nhân được giải phóng, ý thức cá tính được đề cao trong văn chương
đã là cơ sở cho tiếng cười nở rộ, cảm hứng trào lộng trong văn xuôi giai đoạn
này mang đậm sắc thái dân chủ hóa và đem lại nhiều giá trị nhân văn quý giá,
chi phối cả giọng điệu, bút pháp của các nhà văn. Cảm hứng trào lộng phát
triển mạnh mẽ trong sáng tác của các thế hệ nhà văn từ lớp già đến lớp trẻ:
Tô Hoài, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phạm Thị
Hoài, Nguyễn Huy Thiệp, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái… Có thể nói rằng trong
văn học Việt Nam đương đại, đặc biệt từ 1986 đến nay, cảm hứng trào lộng
và kéo theo đó là bút pháp trào lộng càng được vận dụng nhiều, đặc biệt là
trong tiểu thuyết. Cảm hứng trào lộng, bút pháp trào lộng phát triển mạnh với
nhiều cây bút đặc sắc, trong đó có Hồ Anh Thái.
1.2. Hồ Anh Thái là một trong số không nhiều những cây bút xuất hiện
sớm và để lại dấu ấn khá sâu đậm trong văn học đương đại Việt Nam. Sáng
tác của nhà văn đem lại cho nền văn học nước nhà một luồng gió mới, thể
hiện cái nhìn đa chiều, sự khám phá mới mẻ về con người và cuộc sống
đương đại, thể hiện sự tìm tòi sáng tạo và những cách tân đáng kể, đóng góp
vào số những nhà văn đương đại, tích cực góp phần đưa văn học Việt Nam

hội nhập với văn học thế giới.


2
Là nhà văn sớm thành công với thể loại truyện ngắn, nhưng cho đến
nay những nghiên cứu về Hồ Anh Thái chủ yếu tập trung ở thể loại tiểu
thuyết. Tiểu thuyết của Hồ Anh Thái có nhiều đổi mới mạnh mẽ và sâu sắc
trên cả hai phương diện nội dung và phương thức biểu đạt. Nhiều đề tài
truyền thống được Hồ Anh Thái thể hiện bằng cảm hứng mới, bút pháp mới.
Hồ Anh Thái say mê chiếm lĩnh, miêu tả hiện thực đời sống một cách sâu sắc,
nhiều tầng bậc và độc đáo, vừa mới, vừa lạ. Nhà văn nhạy cảm với mọi cái bi,
cái hài, đặc biệt là với cái hài. Có thể nói, Hồ Anh Thái là một người biết
cười, thích cười với những cái hài đang diễn ra trong cuộc sống thường nhật.
Hồ Anh Thái vừa kế thừa bút pháp trào lộng trong văn học, nhưng mặt khác
nhà văn biết làm mới bút pháp trào lộng của mình bằng cái nhìn nhiều chiều,
sắc sảo, tinh quái. Điều này được thể hiện rõ trong hai tiểu thuyết trào lộng
xuất sắc của ông: Mười lẻ một đêm và SBC là săn bắt chuột.
1.3. Mười lẻ một đêm và SBC là săn bắt chuột là hai tiểu thuyết đặc sắc
của Hồ Anh Thái. Sự độc đáo của hai tiểu thuyết này đã thu hút được sự chú ý
quan tâm của dư luận bạn đọc. Đã có nhiều bài viết liên quan đến hai tác
phẩm này. Tuy nhiên, chưa có công trình nào thực sự đi sâu nghiên cứu bút
pháp trào lộng của Hồ Anh Thái trong hai tác phẩm một cách toàn vẹn. Chính
vì vậy mà chúng tôi lựa chọn đề tài: Bút pháp trào lộng của Hồ Anh Thái
trong hai tiểu thuyết Mười lẻ một đêm và SBC là săn bắt chuột.
Tìm hiểu bút pháp trào lộng của Hồ Anh Thái trong hai tiểu thuyết này
không chỉ để hiểu hơn về tài năng, cá tính sáng tạo và đóng góp của ông cho
văn học dân tộc mà còn góp phần nhận diện những tìm tòi, đổi mới của tiểu
thuyết đương đại Việt Nam.



3
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
2.1. Lịch sử nghiên cứu về bút pháp trào lộng trong văn xuôi tự sự
Việt Nam hiện đại và trong sáng tác của Hồ Anh Thái
Dân tộc Việt Nam là một dân tộc có sức sống vô cùng mãnh liệt, có
tinh thần lạc quan cao trong chiến đấu, trong lao động sản xuất và ngay trong
cuộc sống hàng ngày, tiếng cười đã trở thành một yếu tố không thể thiếu.
Trong văn học Việt Nam, văn học trào phúng, trào lộng có bề dày truyền
thống gắn với lịch sử dân tộc. Cảm hứng trào trào lộng - bút pháp trào lộng đã
xuất hiện từ lâu trong văn học dân tộc, nhưng trào phúng trở thành dòng văn
học và phát triển mạnh thì phải đến giai đoạn nửa sau thế kỷ XIX với những
tác giả lớn như Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương… và cho đến nửa đầu thế kỷ
XX văn học trào phúng mới thực sự phát triển mạnh ở diện rộng. Nguyễn
Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao là ba cây bút tiêu biểu nhất của
khuynh hướng văn học hiện thực phê phán, họ lên án xã hội đương thời bằng
phương tiện vô cùng lợi hại: tiếng cười. Đã có hằng trăm công trình, bài viết
nghiên cứu sâu sắc về những tác giả này cũng như về bút pháp trào lộng trong
sáng tác của họ. Đáng ghi nhận trước hết là những công trình sưu tầm, khảo
cứu, tiêu biểu như Văn Tân với Văn học trào phúng Việt Nam (từ thế kỷ
XVIII đến thế kỷ XX), Vũ Ngọc Khánh với Thơ văn trào phúng Việt Nam (từ
thế kỷ XVII đến 1945). Bên cạnh các công trình sưu tầm, khảo cứu là những
công trình đi vào nghiên cứu từng tác giả trào phúng cụ thể như Trúc Hà với
bài Một ngọn bút mới: Ông Nguyễn Công Hoan. Thiếu Sơn trong Phê bình
Kép Tư Bền, Nguyễn Đăng Mạnh trong Nhà văn tư tưởng và phong cách,
Nguyễn Hoành Khung khẳng định Nguyễn Công Hoan là “Bậc thầy trong
truyện ngắn trước hết là truyện trào phúng”. Trần Văn Hiếu trong, Ba phong
cách trào phúng trong văn học Việt Nam thời kỳ 1930 - 1945: Nguyễn Công
Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao… Ngoài ra còn có một số tác giả, nhà



4
nghiên cứu khác như Lê Thị Đức Hạnh, Tôn Thảo Miên, Phong Lê, Hà Minh
Đức… đã có những bài viết khá sâu sắc về các tác giả và tác phẩm của họ
trong dòng văn học trào phúng giai đoạn này.
Văn học sau 1975 vẫn tiếp nối truyền thống này của nền văn học dân
tộc với nhiều cây bút đặc sắc và kéo theo đó bút pháp trào lộng càng được vận
dụng nhiều, đặc biệt trong tiểu thuyết của Phạm Thị Hoài, Nguyễn Huy
Thiệp, Tạ Duy Anh, Ma Văn Kháng, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Vũ
Bão, Tô Hoài… Không có một độc giả nào không nhận ra sự phục sinh của
tiếng cười như một nội dung quan trọng trong nội dung cảm hứng của văn
xuôi giai đoạn này. Nguyễn Thị Bình trong bài Cảm hứng trào lộng trong văn
xuôi sau 1975 khẳng định: “Cảm hứng trào lộng như một khuynh hướng đổi
mới quan trọng trong cách nhìn đời sống sẽ dấn tới những cách tân đáng kể về
hình thức của văn xuôi nghệ thuật, chưa nói ngôn ngữ, giọng điệu là nơi thể
hiện sinh động các sắc thái của nghệ thuật trào lộng. Chỉ riêng thể loại đã chịu
sự chi phối rất rõ của cảm hứng này” [12, 44].
Mai Hải Oanh trong bài viết Sự đa dạng về bút pháp nghệ thuật trong
tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới cũng đã đưa ra ý kiến của mình về bút
pháp trào lộng, giễu nhại: “Sự xuất hiện của bút pháp trào lộng ngày càng
nhiều trong tiểu thuyết đương đại…".
Trong số các nhà văn đương đại, Hồ Anh Thái cũng là nhà văn có ý
thức sử dụng bút pháp trào lộng, giễu nhại thành công và phong cách trần
thuật này ám cả vào giọng điệu của nhà văn. Hồ Anh Thái đến với nghề văn
từ năm 17 tuổi với truyện ngắn Bụi Phấn, 24 tuổi đạt giải thưởng văn xuôi
của báo Văn nghệ với truyện ngắn Chàng trai ở bến đợi xe, 26 tuổi đạt giải
thưởng văn xuôi của Hội Nhà văn Việt Nam với cuốn tiểu thuyết Người và xe
chạy dưới ánh trăng. Sau đó Hồ Anh Thái tiếp tục cho ra hàng loạt tác phẩm
như: Người đàn bà trên đảo (1985), Tự sự 265 ngày (2005), Cõi người rung



5
chuông tận thế (2002), Mười lẻ một đêm (2006), Đức phật, nàng Savitri và tôi
(2007), SBC là săn bắt chuột (2011)… Những tác phẩm của Hồ Anh Thái đều
có sức chinh phục người đọc.
Là nhà văn được dư luận trong và ngoài nước quan tâm, những đổi mới
về nghệ thuật tiểu thuyết của Hồ Anh Thái được đề cập ở nhiều bài viết, và
cũng có nhiều bài giới thiệu về ông. Nhiều ý kiến đặc biệt chú ý đến nét độc
đáo về nghệ thuật trong sáng tác của Hồ Anh Thái. Wayne Karlin trong lời
giới thiệu tiểu thuyết Người đàn bà trên đảo cho bản in của Nhà xuất bản Đại
học Washington (2001) cho rằng: “Trong tác phẩm của Hồ Anh Thái chất hài
hước, chất lạ quyện với chất Kalka, dường như gây bất ngờ cho người
Phương Tây khi họ tìm hiểu văn học Việt Nam” [73, 393].
Nhà thơ George Evans đánh giá cao sự dũng cảm của Hồ Anh Thái
trong việc tiếp cận hiện thực thời hậu chiến bằng một văn phong tinh tế hài
hước và uyên bác về những điều xảy ra khi thế giới thảm bại đi qua chiến
tranh và sự thay đổi văn hóa.
Ở trong nước, Hồ Anh Thái là một trong những nhà văn được báo chí
và công chúng quan tâm nhắc đến nhiều, ở một phương diện nào đó cái tên
Hồ Anh Thái đã trở thành một thương hiệu, một sự đảm bảo nhất định cho
các nhà xuất bản.
Tiểu thuyết Hồ Anh Thái được đông đảo bạn đọc và giới nghiên cứu
phê bình quan tâm bởi tác giả luôn biết cách tạo ra bất ngờ trong tác phẩm của
mình. Ma văn Kháng cho rằng: “Nghệ thuật thực sự luôn làm nên cái bất ngờ,
truyện ngắn, tiểu thuyết Hồ Anh Thái nhất là những cái gần đây thú vị trước
hết là ở chỗ đó: Ở từng con chữ có đời sống là lạ; ở mỗi tình tiết giàu sức
khám phá; ở các mối liên tưởng lạ lùng và gần gũi; ở tổng thể câu chuyện, nó
mở ra một góc nhìn nhân sinh, nó cho thấy tính đa tầng, những thực tại nhìn


6

thấy và không nhìn thấy, những ấn tượng đặc sắc thông qua chủ đề của nó ở
chính cuộc đời này" [75, 326].
Nhận xét về ngôn ngữ trần thuật của Hồ Anh Thái, Vân Long cho rằng:
“Với thủ pháp sử dụng thành ngữ, khẩu ngữ của đời thường, với lối viết tràn
dòng, tràn câu, bỏ dấu… Hồ Anh Thái đã tạo một vị trí rất riêng cho mình ở thể
văn này. Phải chăng, đây là cách anh tiềm nhập sâu hơn nữa vào thực tại đời
sống nhố nhăng, dùng tiếng cười thông minh để phê phán chúng" [79, 245].
Nghiên cứu giọng điệu tác phẩm Cõi người rung chuông tận thế
Nguyễn Thị Minh Thái cho rằng “Cõi người rung chuông tận thế là tiểu
thuyết ngắn, cốt truyện khá giản dị, với điểm nhìn tiểu thuyết độc đáo, giọng
kể đa thanh trên nền suy tưởng trữ tình” [75, 276].
Trong bài viết: Có ai chẳng muốn đùa Ngô Thị Kim Cúc nhận xét:
“Thật thú vị khi được dẫn đường bởi người hiểu chuyện, hóm hỉnh và biết đùa
như thế. Ở đâu với ai, trong chuyện gì, Hồ Anh Thái cũng tìm ra được bao
nhiêu cái hài hước, đáng cười mà lại cười một cách rất … đúng mực, chỉn
chu, rất… an toàn" (báo Thanh niên, 9 - 2001). Theo báo Sức khỏe và đời
sống, “Nhà văn Hồ Anh Thái đã đem đến cho bạn đọc những giây phút sảng
khoái, cười. Ngòi bút trơn lướt, anh viết hấp dẫn, giọng văn châm biếm, trào
lộng, ngôn ngữ hoạt kê hiện đại. Ta bắt gặp những tiếng lóng, những từ nước
ngoài mới ăn nhập, rồi những câu tục ngữ, ca dao được làm mới. Cái sự gây
cười nhiều hơn và sâu cay hơn là những chi tiết đắt giá” [76, 246].
Về tập truyện ngắn Bốn lối vào nhà cười đã có một số ý kiến như theo
báo mạng Viet Nam net.vn: “Ở lối vào nhà cười nào (sinh - lão - bệnh - tử)
cũng có tiếng cười, nó biến giọng văn của Hồ Anh Thái thành cái giọng của
một tri thức châm chọc, giọng hoạt kê, đả kích. Ngôn ngữ của Hồ Anh Thái
cũng đáo để hài hước” [76, 224].


7
Đặc biệt là ý kiến nhận xét của tờ Sài Gòn giải phóng, “Trong các

truyện ngắn gần đây, Hồ Anh Thái đã tạo cho mình một cấu trúc riêng, một
thứ ngôn ngữ riêng… Đó là một nét lạ và rất phù hợp với giọng giễu ngại có
nhiều trong sáng tác của anh. Anh giễu nhại một lớp cán bộ khoa học làm
công ăn lương, một số họa sĩ, đạo diễn, diễn viên bất tài, giễu nhại các thứ thi
cử, phong danh. Anh giễu nhại cả chính văn chương nghệ thuật một khi nó bị
ngộ nhận” [75, 240].
Ngoài ra còn có một số bài viết của các tác giả khác cũng rất đáng được
chú ý như Diệu Hường, Nguyễn Đăng Điệp, Ngọc Anh, Lê Văn Ba, Xuân
Hạo, Nguyễn Vĩnh Nguyên…
Các bài viết, ý kiến trong và ngoài nước trên đã giúp chúng tôi có được
cái nhìn khái quát về bút pháp trào lộng trong văn xuôi tự sự Việt Nam nói
chung và trong sáng tác của Hồ Anh Thái nói riêng.
2.2. Lịch sử nghiên cứu về bút pháp trào lộng trong hai tiểu thuyết
Mười lẻ một đêm và SBC là săn bắt chuột
Hồ Anh Thái là nhà văn bản lĩnh, không ngừng làm mới mình trên
hành trình sáng tác văn học, đặc biệt từ 1995 đến nay giọng điệu tiểu thuyết
Hồ Anh Thái có sự chuyển hướng nghiêng về màu sắc trào lộng, giễu cợt, mỉa
mai như Mười lẻ một đêm và SBC là săn bắt chuột. Nhưng hiện nay, còn
được ít người nghiên cứu đặc biệt cuốn tiểu thuyết SBC là săn bắt chuột. Một
số ý kiến đã có chỉ là những cảm nhận lẻ tẻ, đơn giản về tiếng cười của Hồ
Anh Thái.
Trước hết là những bài viết về tác phẩm Mười lẻ một đêm, tác giả Lê
Hồng Lâm trong bài viết: Hài hước và trữ tình đăng trên Tạp chí Đàn ông
tháng 3/2006 đã nhận định: “Khá giống với phong cách và giọng điệu của ba
cuốn tiểu thuyết và truyện ngắn gần đây (Bốn lối vào nhà cười, Cõi người
rung chuông tận thế, Tự sự 265 ngày), Hồ Anh Thái đã đem đến cho độc giả


8
từ đầu đến cuối là giọng điệu châm biếm, hài hước và cười cợt quen thuộc,

những trò lố lăng kệch cỡm về đời sống thị dân, giới trí thức nửa mùa, những
kẻ bất tài mang danh nghệ sĩ… nhưng đôi khi pha chút trữ tình, nhẹ nhàng…”
[81, 287].
Nhận xét này của Lê Hồng Lâm có phần thống nhất với Sông Thương
trong bài Ngả nghiêng trần thế, báo Thanh niên 11/4/2006, “Mười lẻ một đêm
được viết bằng giọng hài hước chủ đạo, thậm chí có đoạn lồng vào cả truyện
cười dân gian. Câu văn thụt thò dài ngắn có chủ đích… Tác giả dũng cảm phải dùng chữ dũng cảm - nhảy thẳng vào những ngổn ngang của đời sống
hôm nay” [81, 291].
Trên báo Tin tức cuối tuần (6/4/2006) tác giả Từ Nữ viết: “Không ai lạ
lẫm gì lối viết “Thị Mầu” của nhà văn Hồ Anh Thái, nhưng bạn đọc vẫn vấp
từ bất ngờ này đến bất ngờ khác. Một cuốn tiểu thuyết chứa đựng nhiều thông
tin xã hội làm bạn đọc ngộp thở. Rồi sự xuất hiện ngỡ như chốc lát, đơn giản
của đôi tình nhân không tên là duyên cớ cho những tràng cười trên từng trang
tiểu thuyết” [81, 288].
Đáng chú ý hơn cả là bài viết: Mười lẻ một đêm - cái nhìn hắt sáng từ
phía sau của Nguyễn Thị Minh Thái (báo Văn nghệ, 10/6/2006), tác giả đánh
giá cao lối viết mới, giọng kể mang tính thông tấn “góc nhìn ở vị thế hắt sáng,
từ phía sau, từ bản thể, giọng tiểu thuyết giễu nhại thâm sâu” [81, 294]. Tác
giả bài viết cũng chỉ ra mặt hạn chế, cái giá của việc thử thách cách viết mới:
“Người đọc không dễ tính, khó có thể tìm được sự thống nhất nội tại phải có
giữa cái nhìn báo chí bên ngoài và giọng kể bên trong của một tiểu thuyết chỉ
thông qua một tình huống đó đã được Hồ Anh Thái tìm thấy và biện hộ một
cách thông minh” [81, 296].
Trong bài viết Đời cười trong Mười lẻ một đêm, Thúy Nga báo Tuổi trẻ
Thành phố Hồ Chí Minh, 1/3/2006 nhận xét: “Câu chuyện không diễn ra ở


9
bên trong cánh cửa mà ở ngoài kia nhốn nháo và đầy nghịch lý. Câu chuyện
của mười một ngày đêm lại là chuyện của hai đời người, của mấy đời, của

một thời thế hôm qua và hôm nay được quy chiếu trong cái nhìn trào lộng,
phóng đại…” [81, 285].
Hoài Nam trong bài viết Chất hài hước nghịch dị trong Mười lẻ một
đêm đã làm nổi bật chân dung các nhân vật mang đậm chất hài hước nghịch
dị. Với mỗi nhân vật, tác giả bài viết đã đi đến khái quát đặc điểm về tính
cách, sự đối lập đáng cười giữa hình thức sang trọng bề ngoài với sự trống
rỗng phi đạo đức bên trong. Sắc thái trào lộng được toát lên qua mỗi bức chân
dung nhân vật. Những chân dung ấy ta có thể bắt gặp đâu đó trong cuộc sống.
Từ đó Hoài Nam khái quát: “Những tình huống nghịch dị tạo ra ấn tượng
mạnh về một đời sống mất chuẩn: những giá trị và ngụy giá trị xâm thực,
chồng chéo che phủ lẫn nhau, người ta không có cách nào phân biệt được và
vì thế luôn luôn phải mò mẫm giữa các vách tường ảo tưởng. Bằng tiếng cười,
tác giả của Mười lẻ một đêm đã phanh phui những cái nhẽ ra không có quyền
tồn tại song lại nghiễm nhiên đang tồn tại trong cuộc sống, và mặt khác, nhà
văn cũng buộc người đọc phải nhận thức một sự thực: cuộc sống nay, ở đây,
bây giờ, tất cả đều đang ngổn ngang, và chắc hẳn để có một trật tự tương đối,
sẽ phải mất không ít thời gian và nỗ lực cho nó!” [81, 305].
Thiều Đức Dũng nhận thấy, một trong những đặc sắc làm nên sức hút
của tác phẩm Hồ Anh Thái là chất châm biếm trào lộng, hài hước. Trong công
trình: Cảm hứng trào lộng trong sáng tác của Hồ Anh Thái (Luận văn Thạc sĩ
2007, Đại học Vinh) tác giả cho rằng: cảm hứng trào lộng trong sáng tác của
Hồ Anh Thái xuất hiện ngay từ những sáng tác đầu tiên và trở thành cảm
hứng xuyên suốt chủ đạo, một trong những nét nổi bật của cảm hứng trào
lộng là sử dụng bút pháp trào lộng - là một trong những bút pháp đắc dụng để
triển khai cái nhìn về cuộc sống.


10
Tiểu thuyết SBC là săn bắt chuột là sự tiếp nối thành công của Hồ Anh
Thái về bút pháp trào lộng. Hàng loạt bài viết đánh giá cao sự mới mẻ, thời sự

cả về nội dung lẫn hình thức nghệ thuật của tác phẩm. Ma Văn Kháng trong
bài viết Giọng điệu Hồ Anh Thái cho rằng: "Đây là một bữa đại tiệc rất nhiều
đặc sản về ngôn từ và giọng điệu: giễu nhại, hài hước, đùa nghịch, châm
chích… nói lái - nói ngược - nói nhại - nói bóng, nói gió - chêm đệm - liên
tưởng - ẩn dụ - hoán dụ…” [45].
Cũng viết về cách sử dụng từ ngữ, giọng điệu trong tác phẩm này, Đỗ
Thị Kim Liên có bài viết Từ đặc điểm sử dụng câu văn trong tiểu thuyết SBC
là săn bắt chuột của Hồ Anh Thái góp phần xác định làn ranh tiểu thuyết
trước và sau 1975. Giáo sư cho rằng Hồ Anh Thái đã rất thành công trong
việc chế tác các từ ngữ tự do theo kết cấu của thành ngữ, nhại lời bài hát với
hàm nghĩa giễu nhại.
Hoài Nam trong bài viết Văn xuôi Việt Nam năm 2011: Gừng già mới
cay? nhận thấy: “Giọng điệu của tác phẩm là hài hước, chế giễu, và nhại, đó
chính là thủ pháp chủ đạo mà Hồ Anh Thái đã sử dụng trong cuốn tiểu thuyết
của mình. Nhại tên tác phẩm, nhại hành động của nhân vật, nhại ca khúc nghệ
thuật, nhại ca dao, tục ngữ… dường như tác giả không buông tha bất cứ thứ
gì” [53].
Trong bài viết Hồ Anh Thái lấy chữ mà chơi, Thứ 6, 09/12/2011, (Thể
thao văn hóa Cuối tuần) Đoàn Lê cho rằng: “Cầm cuốn tiểu thuyết gần đây
nhất của Hồ Anh Thái, SBC là săn bắt chuột (Nxb Trẻ, năm 2011) ta phải tủm
tỉm tự hỏi trước khi mở ra đọc: “Ông ta lại sắp bày ra cái trò gì đây?”. Bởi Hồ
Anh Thái là nhà văn không đi theo đường mòn một dòng chảy nào, đặc biệt
những sáng tác gần đây luôn gây bất ngờ. Những vấn đề nghiêm túc đến mấy,
những dòng chữ đau cứa vào tâm hồn người đọc đến mấy, ông vẫn cứ cười
cợt, nghịch ngợm khoác cho cái áo hài hước. Nhờ vậy mọi vấn đề trở thành


11
món ăn… dễ tiêu hóa. Người ta nói những người hài hước thường thông
minh. Các cây bút lại càng phải thông minh đến độ nào mới hài hước hóa

được đôi mắt nhìn cuộc đời" [49].
Trần Nhã Thụy trong bài viết Chuột lẫn vào người đã có những nhận
xét tinh tế, sắc sảo về bút pháp của Hồ Anh Thái: “Sử dụng lối viết hoạt kê
nhưng tiểu thuyết của Hồ Anh Thái không chỉ dừng lại ở mức độ gây cười mà
khiến phải nghĩ, phải thay đổi. Một cõi nhân gian bé mọn qua ngòi bút của
nhà văn như được soi từng ngóc ngách, bóc tách từng lớp vỏ màu mè để hiện
ra những chân dung trần trụi và sự giễu nhại khi lộ, khi ẩn nhưng lúc nào
cũng mang một hàm lượng tri thức với tâm thế đối thoại không khoan
nhượng” [89].
Dù có nhiều ý kiến khác nhau về hai tác phẩm này nhưng có thể khẳng
định rằng bút pháp trào lộng mà nhà văn sử dụng để viết nên hai tiểu thuyết
này là vô cùng đặc sắc.
Bút pháp trào lộng ngày càng được vận dụng nhiều trong tiểu thuyết
đương đại xuất phát từ nhiều căn nguyên của nó. Có lẽ không nên hiểu đơn
giản trào lộng và giễu nhại chỉ nhằm tới một mục đích giải thiêng, cần hiểu
sâu hơn đó là hình thức tiếp cận các giá trị đời sống một cách dân chủ, đa
nguyên, phi quy phạm. Hồ Anh Thái đã rất thành công với bút pháp trào lộng,
giễu nhại này. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về Hồ Anh Thái nhưng thực
sự chưa có một công trình nào nghiên cứu vấn đề này một cách nghiêm túc,
đầy đủ, khoa học. Điều này thúc đẩy chúng tôi đi vào nghiên cứu đề tài Bút
pháp trào lộng của Hồ Anh Thái trong hai tiểu thuyết Mười lẻ một đêm và
SBC là săn bắt chuột nhằm khẳng định năng lực sáng tạo dồi dào và sự đổi
mới mạnh mẽ của tác giả trên con đường sáng tạo nghệ thuật.


12
3. Đối tượng nghiên cứu và giới hạn của đề tài
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là Bút pháp trào lộng của Hồ Anh
Thái trong hai tiểu thuyết Mười lẻ một đêm và SBC là săn bắt chuột.

3.2. Giới hạn của đề tài
Đề tài bao quát các sáng tác của Hồ Anh Thái, trong đó tập trung vào
hai tiểu thuyết của ông là Mười lẻ một đêm và SBC là săn bắt chuột.
Văn bản tác phẩm dùng để khảo sát, luận văn dựa vào các cuốn:
1. Hồ Anh Thái, Mười lẻ một đêm, Nxb Đà Nẵng (tái bản lần thứ 3), Đà
Nẵng, 2007.
2. Hồ Anh Thái, SBC là săn bắt chuột, Nxb Trẻ, TP Hồ Chí Minh, 2011.
Các thể loại khác của nhà văn là đối tượng để tham chiếu. Ngoài ra,
còn có thêm sự liên hệ với một số tác phẩm của các nhà văn giai đoạn trước
và sau đổi mới.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Qua khảo sát hai tiểu thuyết Mười lẻ một đêm và SBC là săn bắt chuột
trên nhiều phương diện của tổ chức tác phẩm, luận văn nhằm xác định những
nét đặc sắc trong bút pháp trào lộng của tiểu thuyết Hồ Anh Thái.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
4.2.1. Đưa ra một cái nhìn chung về tiểu thuyết của Hồ Anh Thái trong
bối cảnh của tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Luận văn giới hạn từ 1986 đến
nay), nhận diện Mười lẻ một đêm và SBC là săn bắt chuột của Hồ Anh Thái
như những tiểu thuyết trào lộng.
4.2.2. Khảo sát, phân tích, xác định bút pháp trào lộng của Hồ Anh
Thái ở hai tiểu thuyết trên phương diện tổ chức cốt truyện, tình huống, xung
đột, nhân vật của cái hài.


13
4.2.3. Khảo sát, phân tích, xác định bút pháp trào lộng của Hồ Anh
Thái ở hai tiểu thuyết trên phương diện tổ chức giọng điệu và ngôn ngữ.
Cuối cùng rút ra một số kết luận về tiểu thuyết trào lộng của Hồ Anh
Thái.

5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau, trong đó
có các phương pháp chủ yếu: phương pháp lịch sử, phương pháp thống kê phân loại, phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp so sánh - loại
hình, phương pháp cấu trúc - hệ thống… để làm nổi bật bút pháp trào lộng
của Hồ Anh Thái trong hai tiểu thuyết Mười lẻ một đêm và SBC là săn bắt
chuột.
6. Đóng góp và cấu trúc của luận văn
6.1. Đóng góp
Luận văn là công trình đầu tiên tìm hiểu bút pháp trào lộng của Hồ Anh
Thái ở hai tiểu thuyết Mười lẻ một đêm và SBC là săn bắt chuột với cái nhìn
tập trung và hệ thống.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc
tìm hiểu nghiên cứu tiểu thuyết trào lộng của Hồ Anh Thái nói riêng, văn xuôi
trào lộng, trào phúng Việt Nam hiện đại nói chung.
6.2. Cấu trúc của luận văn
Ngoài Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận
văn được triển khai trong 3 chương:
Chương 1: Tiểu thuyết Hồ Anh Thái trong bối cảnh tiểu thuyết Việt
Nam đương đại và khuynh hướng trào lộng của nhà văn.
Chương 2: Bút pháp trào lộng của Hồ Anh Thái trong Mười lẻ một đêm
và SBC là săn bắt chuột trên phương diện tổ chức cốt truyện, tình huống,
xung đột, nhân vật.


14
Chương 3: Bút pháp trào lộng của Hồ Anh Thái trong Mười lẻ một đêm
và SBC là săn bắt chuột trên phương diện tổ chức giọng điêu và ngôn ngữ.
Chương 1
TIỂU THUYẾT HỒ ANH THÁI TRONG BỐI CẢNH
TIỂU THUYẾT VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI

VÀ KHUYNH HƯỚNG TRÀO LỘNG CỦA NHÀ VĂN
1.1. Tiểu thuyết Việt Nam đương đại (tổng quan)
1.1.1. Bối cảnh văn hóa, xã hội của tiểu thuyết Việt Nam đương đại
Điều kiện mới sau 1975 cộng với sự thức tỉnh sâu sắc của ý thức cá
nhân người sáng tác đem đến cho văn học dân tộc một bước phát triển quan
trọng, đặc biệt ở thể loại tiểu thuyết - một thể loại có vai trò lớn trong quyết
định diện mạo, tâm thế của văn học hiện đại.
Sau 1975, chiến tranh kết thúc, đất nước được thống nhất, cả dân tộc
bước vào công cuộc xây dựng đất nước sau chiến tranh với rất nhiều khó
khăn, thử thách. Hậu quả nặng nề của hai cuộc chiến tranh ác liệt và lâu dài
nhất trong lịch sử dân tộc đã khiến cả dân tộc hết sức vất vả trong việc tái
thiết mà cho đến nay vẫn chưa thể khắc phục hết được. Chiến tranh đã tàn
phá, hủy hoại nặng nề cơ sở hạ tầng của nền kinh tế nông nghiệp nghèo nàn
lạc hậu, môi trường bị hủy hoại nghiêm trọng, con người phải sống với những
di chứng chiến tranh. Đặc biệt là những hậu quả về tinh thần không gì có thể
bù đắp được. Đất nước thời hậu chiến đã phải gồng mình để đứng vững trước
những khó khăn chồng chất đó. Hơn nữa, đất nước còn phải đối mặt với
những chính sách cấm vận kinh tế, cô lập chính trị. Cuộc khủng hoảng, tan rã
của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa và sự sụp đổ của Liên Xô đã tác động
mạnh mẽ, toàn diện đến toàn bộ đời sống của đất nước. Cả dân tộc hoang
mang, bất an trước tình hình phức tạp của chính trị, kinh tế thế giới, nguy cơ


15
khủng hoảng đã ngày một hiện rõ. Những chủ trương, chính sách kinh tế chính trị - xã hội của Đảng lại tỏ ra nóng vội, chủ quan, duy ý chí đã khiến
cho đất nước gặp nhiều khó khăn và lâm vào bế tắc. Tất cả những đặc điểm
đó, đã đẩy đất nước đến cuộc khủng hoảng kinh tế ngày càng nặng nề ở nửa
những năm đầu thập kỉ tám mươi của thế kỷ trước.
Trước tình hình ngày càng xấu đi của nền kinh tế, chính trị, xã hội và
đời sống, Đại hội lần thứ VI của Đảng (12/1986) đã xác định đường lối đổi

mới toàn diện, mở ra một thời kỳ mới cho đất nước vượt qua khủng hoảng để
bước vào giai đoạn ổn định, phát triển mạnh mẽ và ngày càng vững chắc.
Đường lối đổi mới tại Đại hội VI của Đảng và Nghị quyết 05 của Bộ Chính trị
được thông qua đã khẳng định một cách mạnh mẽ quyết tâm đổi mới đất
nước. Sự suy thoái kinh tế đã được chặn lại, tốc độ tăng trưởng của nền kinh
tế ngày một được nâng cao và dần đi vào ổn định, nền kinh tế thị trường dần
được hình thành. Đất nước đã có những dấu hiệu phục hồi kinh tế thông qua
các chủ trương, chính sách mới được kịp thời ban hành.
Sau Đổi mới, những chuyển biến về xã hội, văn hóa - tư tưởng là hết
sức rõ nét. Một trong những thay đổi xã hội mạnh mẽ nhất đó là sự thay đổi
của bộ mặt nông thôn Việt Nam. Đất nước thoát khỏi chiến tranh, cuộc sống
được cởi bỏ cơ chế bao cấp trì trệ, con người được trả về với đời sống xã hội
thường nhật mà ở đó có muôn màu muôn vẻ, lẫn lộn tốt xấu, trắng đen, bi hài.
Xã hội Việt Nam chứng kiến quy luật nghiệt ngã của buổi giao thời: những
giá trị về đạo đức, xã hội, nhân cách trước đây bền vững là thế, thì nay đã bị
nền kinh tế thị trường tấn công mạnh mẽ dẫn đến rạn nứt đổ vỡ. Trong khi đó,
các chuẩn mực và các giá trị mới chưa thực sự hoàn thành. Xã hội và con
người Việt Nam trong hơn 30 năm qua đã “trải qua một cuộc trở dạ lớn lao và
không ít đau đớn, phải tự xây dựng lại hình ảnh của chính mình cùng lúc với
việc phải tự hoàn thành từng bước các tiêu chí giá trị” [18, 134]. Trong tình


16
hình ấy, đời sống văn hóa - tư tưởng cũng có những diện mạo và diễn biến
khá phức tạp.
Trên bình diện giao lưu quốc tế, nhu cầu đổi mới cũng tạo điều kiện
cho Việt Nam mở cửa thiết lập các mối quan hệ và hội nhập với thế giới trên
các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa. Thế giới chuyển từ đối đầu sang đối thoại,
các tổ chức khu vực và thế giới ngày càng phát huy vai trò kết nối thế giới
thành “ngôi nhà chung”, mỗi quốc gia - dân tộc đều được quyền tham dự vào

các hoạt động của nhân loại.
Trong xu thế toàn cầu hóa ngày càng mạnh mẽ, Việt Nam đang cố gắng
xác lập chỗ đứng của mình. Các hoạt động trao đổi, giao lưu văn hóa giữa
Việt Nam với thế giới ngày càng nhiều hơn theo cả hai chiều. Thực tế cho
thấy, toàn cầu hóa không chỉ là thách thức mà còn có nhiều điều kiện thuận
lợi cho sự phát triển của văn học Việt Nam. Những tiến bộ của khoa học kỹ
thuật và tính phổ biến của ngôn ngữ quốc tế đã và đang ngày ngày kết nối các
nền văn học với nhau mà không phân biệt biên giới, dân tộc, văn hóa, điều
kiện kinh tế, trình độ khoa học kỹ thuật… trong đó Việt Nam không phải là
ngoại lệ. Theo đó, văn học Việt Nam hoàn toàn đến được với thế giới với tư
cách là một nền văn học cố gắng hội nhập, ngược lại, những diễn biến văn
học thế giới được tiếp nhận ở Việt Nam một cách nhanh nhất.
Xu thế toàn cầu hóa đã đem lại cho văn học Việt Nam nhiều thuận lợi
nhưng cũng đồng thời gặp nhiều thách thức. Thuận lợi của văn học Việt Nam
trước hết nằm ngay trong chính bản thân nó. Đó là những cuộc tiếp xúc của
văn học Việt Nam với văn học thế giới trong lịch sử. Chẳng hạn, tiếp xúc giữa
văn học Việt Nam với văn hóa Ấn Độ trong thời cận đại (chủ yếu là Phật
Giáo khoảng thế kỷ II - III), với văn hóa - văn học Trung Hoa trong suốt mười
thế kỷ phong kiến Việt Nam, với văn học Phương Tây (chủ yếu văn học
Pháp) từ đầu thế kỷ XX, với văn học Nga từ sau 1945 và văn học Mỹ từ sau


17
1954. Những cuộc tiếp xúc ấy diễn ra bằng nhiều con đường khác nhau (hòa
bình - chính trị…), dưới nhiều hình thức riêng (truyền giáo, cưỡng bức văn
hóa, giao lưu hợp tác). Vì vậy, mức độ ảnh hưởng và dấu ấn của các yếu tố
ngoại nhập cũng đậm nhạt khác nhau.
Như vậy, văn học Việt Nam không hề lạ lẫm với những giao lưu tiếp
xúc văn học. Đây có thể xem như một lợi thế mà mỗi người làm văn học cần
ý thức khai thác để có thể vượt qua “mặc cảm tâm lý hậu thuộc địa về một

nền văn chương nhỏ bé” (Inrasara). Ngoài ra, với một đất nước có nền văn
hóa đậm bản sắc, có truyền thống yêu chuộng thơ văn và một nền văn học với
lịch sử phát triển tương đối dày dặn cũng là nhân tố có lợi cho những bước
tiến của văn học Việt Nam trong điều kiện hiện nay.
Từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI (1986), đường lối đổi mới và mở cửa
đã đem lại cơ hội phát triển và hội nhập cho kinh tế, văn hóa ở quy mô khu
vực và thế giới. Bối cảnh ấy là điều kiện thuận lợi cho văn học bước ra khỏi
ám ảnh chiến tranh, cởi trói khỏi gánh nặng tư tưởng chính trị và nhiệm vụ
cách mạng, trở về đúng với bổn phận và bản chất của mình. Thực tế này được
ghi nhận bằng việc chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của văn học, đặc biệt là
tiểu thuyết của các tác giả: Lê Lựu, Dương Hướng, Ma văn Kháng, Nguyễn
Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Dương Thu Hương, Bảo
Ninh, Tạ Duy Anh, Nguyễn Thị Thu Huệ, Y Ban, Phan Thị Vàng Anh, Hồ
Anh Thái, Võ Thị Hảo, v.v… Mặc dù chưa có được kiệt tác mang tầm thế
giới nhưng những sáng tác của họ ở những mức độ và phương diện khác nhau
đã góp phần dân chủ hóa đời sống văn học và ít nhiều tạo nên một diện mạo
tươi sáng hơn cho nền văn học dân tộc trong quá trình vươn ra tầm khu vực
và thế giới.
1.1.2. Hành trình của tiểu thuyết Việt Nam đương đại


18
Hoàn cảnh đất nước sau 1975 đã có những bước phát triển quan trọng,
kéo theo đó là sự thay đổi trong văn học, đặc biệt ở thể loại tiểu thuyết - lĩnh
vực chiếm địa vị thống trị trên văn đàn đương đại. Với khả năng dung chứa
phạm vi hiện thực rộng lớn, với tính chất tự do, để ngỏ linh động tiểu thuyết
có thể xâm nhập vào tất cả các tầng vỉa, ngóc ngách của hiện thực đời sống để
nhận thức, phản ánh và biểu hiện.
Văn học Việt Nam từ sau 1975, nhất là từ sau 1986 lại nay là một quá
trình văn học rất phong phú, đa dạng lại đang tiếp diễn với những thay đổi lớn

lao của đời sống. Văn học Việt Nam đang dần bước vào một quỹ đạo phát
triển mà ở đấy những thành tựu trong lịch sử được đặt ngang hàng với những
thành tựu của văn chương thế giới. Trong không khí dân chủ hóa, tiểu thuyết
đã “lột xác” (Nguyễn Tuân), xóa tan sự lo ngại về số phận của tiểu thuyết.
Tiểu thuyết có sự phát triển mạnh mẽ, trở thành thể loại chủ chốt, thành nhân
vật chính trên sân khấu văn học nước nhà. Sự khởi sắc của tiểu thuyết là kết
quả của sự đóng góp chung sức của hàng loạt cây bút đầy tài năng với những
phá cách táo bạo. Tiểu thuyết sau 1975 có sự thay đổi trên nhiều bình diện, từ
quan niệm, nội dung phản ánh đến hình thức thể hiện.
Tiểu thuyết là một thể loại tự sự có dung lượng lớn, nhìn cuộc sống từ
góc độ đời tư. Đời tư là tiêu điểm để miêu tả cuộc sống. Tùy vào từng thời kỳ
mà cường độ của sự khai thác cuộc sống từ góc độ này khác nhau. Mô hình
tiểu thuyết còn được đặc trưng bởi tính chất văn xuôi, nhân vật tiểu thuyết là
“con người nếm trải”. Tư duy thành phần chính yếu của tiểu thuyết là cốt
truyện, là tính cách nhân vật và hệ thống sự kiện, biến cố, chi tiết. Tiểu thuyết
xóa bỏ khoảng cách giữa người trần thuật với nội dung trần thuật, cho phép
người trần thuật có thái độ thân mật thậm chí suông sã với nhân vật. Đây cũng
là thể loại có sự tổng hợp nhiều nhất khả năng nghệ thuật của các thể loại văn
học khác. Quan niệm này đã bị tiểu thuyết đương đại hoàn toàn phá vỡ. Tiểu


19
thuyết đương đại tự do, gần gũi với đời thường, với dung lượng vừa phải, cốt
truyện đơn giản, số lượng nhân vật ít. Đặc biệt từ sau 1986, tiểu thuyết Việt
Nam có nhiều phá cách đáng kể trong quan niệm. Tiểu thuyết không chỉ là sự
tái hiện hiện thực mà còn là sự sáng tạo hiện thực - hiện thực với sự đan cài
giữa ảo và thực. Tiểu thuyết không đưa đến những lời răn dạy, giáo huấn,
không đưa ra những chuẩn mực, chân lý, mà đó là sự cật vấn, phản biện, tạo
lập một thế giới đầy nghi hoặc. Vì thế tiểu thuyết không hướng tới mục đích
để độc giả tin vào thế giới mà luôn đặt người đọc trong trạng thái phản tỉnh,

đầy nghi ngờ. Mô hình nhân vật trong tiểu thuyết truyền thống đã được thay
thế. Nhân vật trong tiểu thuyết đương đại không có lí lịch rõ ràng, không có
cuộc đời được lập trình sẵn, mang tầm khái quát xã hội mà nhân vật chỉ được
tái hiện như những mẩu, những mảnh, những kí họa được góp nhặt trong bộn
bề đời sống. Tiểu thuyết đương đại cũng không tuân thủ trình tự thời gian trần
thuật mà phá vỡ văn bản thành những mảnh vụn rời rạc, nhà văn là người sắp
xếp, là người “chơi cấu trúc” (Nguyễn Đăng Điệp). Với kết cấu như trên cho
phép tiểu thuyết có sự thâm nhập của các thể loại khác: thơ, điển tích, nhật
ký… nới rộng nội hàm thể loại. Như vậy, trong thời kỳ đổi mới, mô hình tiểu
thuyết truyền thống đã bị phá vỡ để thích nghi nhanh chóng với sự biến đổi
của hiện thực, cũng như tuân thủ quy luật phát triển nghệ thuật.
Từ sự thay đổi trong quan niệm, sau 1975 tiểu thuyết Việt Nam đã có
nhiều bước chuyển đáng kể. Một đội ngũ nhà văn đông đảo thuộc nhiều thế
hệ đã nối tiếp vượt qua những rào cản trói buộc, hướng tới tìm tòi, thể nghiệm
mới mẻ làm phong phú, đa dạng thể loại tiểu thuyết, cũng từ sau đổi mới
(1986) số lượng tiểu thuyết được xuất bản khá lớn. Mỗi tác phẩm tiếp cận
hiện thực ở những góc độ khác nhau, phân tích, kiện giải nó dưới nhãn quan
riêng của người nghệ sĩ, tạo ra đời sống tiểu thuyết sôi động, phong phú. Với
xu hướng dân chủ hóa, nhìn thẳng vào sự thật, các nhà tiểu thuyết đã chạm


20
vào mọi ngóc ngách, tầng vỉa của đời sống xã hội với tất cả sự ngổn ngang bề
bộn của cuộc đời. Ở giai đoạn 1945 - 1975 đối tượng trung tâm của sự nhận
thức phản ánh là con người công dân, con người cộng đồng thì sau đổi mới số
phận con người trở thành mối quan tâm hàng đầu của nhà văn - thể hiện cái
nhìn dân chủ. Tiểu thuyết đương đại đã đào xới sâu vào “tiểu vũ trụ” vào “con
người bên trong con người”, giải mã những uẩn khúc trong suy nghĩ, tình cảm
mỗi cá thể, chạm vào cả thế giới tâm linh, vô thức, tiềm thức với nhiều yếu tố
hư hoặc.

Về phương diện nghệ thuật, tiểu thuyết đương đại có sự cách tân mạnh
mẽ. Nhiều cây bút tiểu thuyết, đặc biệt là những cây bút trẻ với bản lĩnh, tài
năng, chấp nhận sự mạo hiểm luôn sáng tạo, thể nghiệm, cách tân trên nhiều
phương diện, từ cốt truyện, giọng điệu, ngôn ngữ, bút pháp… khai thác tối đa
hiệu quả của các yếu tố này. Thoát khỏi mô hình kết cấu tiểu thuyết truyền
thống, các cây bút tiểu thuyết đương đại lựa chọn kiểu cấu trúc lỏng lẻo, lắp
ghép, với cốt truyện giàu tâm trạng, nhiều kết thúc để ngỏ. Tiểu thuyết đương
đại dung nạp mọi sắc thái ngôn ngữ, kể cả ngôn ngữ đời thường trần trụi, góc
cạnh. Nhiều tác phẩm ngôn ngữ nhân vật được cá tính hóa cao độ, giọng điệu
tiểu thuyết đa thanh với nhiều sắc thái khác nhau, có hài hước, trữ tình, có cật
vấn, hoài nghi, triết lí.
Như vậy, từ sau 1986 đến nay, tiểu thuyết Việt Nam có sự nỗ lực đáng
kể, mở ra giai đoạn phát triển phong phú, đa dạng và đầy khởi sắc. Các nhà
văn đương đại dần khẳng định chỗ đứng và dần định hình phong cách nghệ
thuật, trong đó có nhiều cây bút trẻ. Vì thế, cũng không phải ngẫu nhiên mà
Nguyễn Huy Thiệp gọi đây là “Thời của tiểu thuyết”.
1.1.3. Diện mạo và các khuynh hướng của tiểu thuyết Việt Nam
đương đại
Văn học Việt Nam 1945 - 1975 diễn ra trong hoàn cảnh đất nước có
chiến tranh kéo dài suốt 30 năm, văn học Việt Nam giai đoạn này đã đóng


21
góp một phần to lớn vào sự nghiệp chung của đất nước, đã làm tròn sứ mệnh
cao cả của một nền văn học phục vụ sự nghiệp cách mạng, phục vụ đắc lực
cho sự nghiệp chính trị. Nhìn từ đặc điểm loại hình, đó là nền văn học được
viết theo khuynh hướng sử thi có sự thống nhất từ cảm hứng, đề tài, chủ đề,
nhân vật, cho đến kết cấu, giọng điệu.
Văn học Việt Nam đương đại, nhất là từ sau năm 1986 lại nay, đã trở
về với cuộc sống bình thường của nó. Tuy vậy phải mất gần 10 năm trượt dài

theo “quán tính sử thi”, cơ chế quản lý bao cấp và tình trạng thiếu dân chủ
kéo dài, văn học Việt Nam mới thực sự chuyển mình, mới bắt đầu được sống
đúng với bản chất của nó. Vào cuối những năm 70 đã hình thành rõ rệt nhu
cầu nhìn lại giai đoạn văn học trước đó, chỉ ra những hạn chế của nó, để từ đó
hình thành hướng phát triển mới cho văn học dân tộc. Một trong những nhà
văn tiên phong chính là Nguyễn Minh Châu “người mở đường tinh anh và tài
hoa” của văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới với truyện Cái mặt (viết từ năm
1975 nhưng mãi đến năm 1982 mới được công bố dưới cái tên Bức tranh).
Nguyễn Minh Châu đã đặt những viên gạch đầu tiên cho công cuộc đổi mới
diễn ra hết sức sôi động sau đó. Những trăn trở của các nhà nghiên cứu như
Hoàng Ngọc Hiến, Phương Lựu, Lê Đình Kỵ… về vấn đề tính chân thực
trong văn học, về quan hệ giữa văn học và hiện thực, về tính dân tộc trong văn
học cũng là những khởi động đáng chú ý báo hiệu sự chuyển mình mạnh mẽ
của văn học Việt Nam từ sau 1986.
Tại Đại hội VI, tinh thần đổi mới chống quan liêu, bao cấp, thực hiện
dân chủ trở thành khẩu hiệu chính thức, khẩu hiệu lớn nhất của cả nước. Tiếp
đó, cuộc gặp của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh với đại diện giới văn nghệ sĩ
vào cuối năm 1987, đã thổi một luồng gió mới vào đời sống văn nghệ của
nước nhà, tạo nên một hiệu ứng lan truyền tinh thần đổi mới tư duy, nhìn
thẳng vào sự thật với khẩu hiệu “Cởi trói”, “Tự cứu lấy mình” của hoạt động


×