Tải bản đầy đủ (.pdf) (70 trang)

Tính tương đồng và dị biệt giữa sách giáo khoa ngữ văn lớp 11, tập 1 (cơ bản và nâng cao)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (654.02 KB, 70 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA SƯ PHẠM

BỘ MÔN SƯ PHẠM NGỮ VĂN

VÕ VĂN KIÊN

TƯƠNG ĐỒNG VÀ DỊ BIỆT GIỮA
SÁCH GIÁO KHOA NGỮ VĂN LỚP 11, TẬP
1 (CƠ BẢN VÀ NÂNG CAO)
Luận văn tốt nghiệp đại học
Ngành Sư phạm Ngữ Văn

TRẦN ĐÌNH THÍCH

Cán bộ hướng dẫn:

Cần Thơ, 5 - 2011

1


QUY ƯỚC VIẾT TẮT

SGK
THPT
THCS
KHTN
KHXH & NV
KHCB
CB


NC

Sách giáo khoa
Trung học phổ thông
Trung học cơ sở
Khoa học tự nhiên
Khoa học xã hội và nhân văn
Khoa học cơ bản
Cơ bản
Nâng cao

2


Đề cương tổng quát luận văn
Lời cảm tạ
Quy ước viết tắt
Phần mở đầu
1 Lí do chọn đề tài.
2 Lịch sử vấn đề.
3 Mục đích yêu cầu.
4 Phạm vi đề tài.
5 Phương hướng và phương pháp nghiên cứu.

Phần nội dung
Chương 1: Khái quát chung về chương trình, SGK Ngữ văn lớp 11 tập 1 bộ cơ
bản và bộ nâng cao.
1
2
3

4

Vị trí và tầm quan trọng của chương trình, SGK.
Mục tiêu mơn Ngữ văn.
Quan điểm xây dựng chương trình.
Nguyên tắc xây dựng chương trình.

Chương 2: Tương đồng và dị biệt giữa SGK Ngữ văn lớp 11, tập 1 (cơ bản và
nâng cao).
1 Giới thiêu chương trình hai bộ SGK Ngữ văn lớp 11, tập 1 (cơ bản và nâng cao).
1.1 Phân phối chương trình SGK Ngữ văn lớp 11 tập 1 bộ cơ bản.
1.2 Phân phối chương trình SGK Ngữ văn lớp 11 tập 1 bộ nâng cao.
1.3 Cấu trúc SGK Ngữ văn lớp 11 tập 1 bộ cơ bản và bộ nâng cao.
2 Tương đồng và dị biệt các phân môn của SGK Ngữ văn lớp 11, tập 1 (cơ bản và
nâng cao).
2.1 Tương đồng và dị biệt phần Đọc văn.
2.1.1 Mục tiêu.
2.1.2 Nội dung và số lượng tác phẩm.
2.1.3 Cấu trúc bài học.
2.2 Tương đồng và dị biệt phần Tiếng việt.
2.2.1 Nội dung và cấu trúc bài lý thuyết.
2.2.2 Nội dung và cấu trúc bài thực hành.
2.3 Tương đồng và dị biệt phần Làm văn.
2.3.1 Nội dung và cấu trúc bài lý thuyết.
2.3.2 Nội dung và cấu trúc bài thực hành.

Phần kết luận
Tài liệu tham khảo
Mục lục
3



PHẦN MỞ ĐẦU
1 Lí do chọn đề tài
Giáo dục được xem là quốc sách hàng đầu, là nền tảng cho sự phát triển của đất
nước. Vì thế giáo dục được đầu tư mạnh mẽ và luôn đổi mới, thay đổi từ phương pháp
dạy, học đến chương trình, sách giáo khoa, nhằm nâng cao chất lượng trong nhà
trường. Từ những yêu cầu ấy năm 2007 Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đưa chương trình,
SGK Ngữ văn lớp 11 (cơ bản và nâng cao) vào giảng dạy ở trường trung học phổ
thông. SGK là tài liệu quan trọng liên quan trực tiếp đến chất lượng dạy và học, muốn
có phương pháp dạy học tích cực và hiệu quả giáo viên cần phải nắm rõ chương trình
SGK. Vì thế chúng tơi cho rằng việc nghiên cứu về SGK là rất cần thiết.
Là giáo viên dạy Ngữ văn tương lai chúng tôi ý thức được trách nhiệm của mình,
vì thế nhiệm vụ trước mắt của chúng tơi là tìm hiểu và chiếm lĩnh kiến thức từ SGK.
Bên cạnh đó, học sinh hiện nay càng lúc càng trở nên năng động và chủ động trong
việc tiếp thu kiến thức, các em tự tìm hiểu ở các kênh thơng tin khác như: báo chí, thư
viện, nhà sách, Internet… Để đuổi kịp tình hình phát triển ấy, bản thân giáo viên phải
biết thay đổi phương pháp dạy, cách truyền tải kiến thức sao cho hiệu quả, nghiên cứu
về SGK là yếu tố quan trọng nhất để giúp chúng ta thực hiện thay đổi đó.
Hiện nay phương pháp dạy của chúng ta là lấy học sinh làm trung tâm nhằm nâng
cao tính chủ động, tích cực, sáng tạo của học sinh, SGK là người bạn đồng hành xun
suốt trong q trình thực hiện phương pháp đó. Muốn đạt hiệu quả cao trong phương
pháp dạy mới cũng như mục tiêu dạy học chúng ta phải nghiên cứu kĩ về SGK.
Mặt khác, trường THPT hiện nay đã có sự thay đổi chương trình, cụ thể là chia ra
thành các ban: Ban Khoa học Tự nhiên, Ban Khoa hoc Xã hội và Nhân văn và Ban cơ
bản. Chính vì thế mà SGK dành cho các ban cũng khác nhau để phù hợp với năng lực
của học sinh theo từng ban. Cụ thể các loại SGK trước đây chỉ có một bộ dùng trong
giảng dạy, nhưng do việc phân ban này đã tác động đến sự hình thành SGK cơ bản và
nâng cao. Đây là vấn đề rất mới mẻ chúng ta chưa hiểu rõ hết về hai loại sách này, nên
nghiên cứu về nó là rất quan trọng. Từ những lí do trên đã tạo cho chúng tơi một động

lực rất lớn và cảm thấy hứng thú khi nghiên cứu đề tài “Tương đồng và dị biệt SGK
Ngữ văn lớp 11 tập 1 (bộ cơ bản và nâng cao).

2 Lịch sử vấn đề
Việc đổi mới chương trình SGK nói chung và SGK Ngữ Văn nói riêng ở bậc
THPT là một sự kiện quan trọng, chương trình đã thu hút được nhiều ý kiến đóng góp,
xây dựng. Thế nhưng, đây là một vấn đề mới mẻ chưa có nhiều bài nghiên cứu và tài
liệu tham khảo. Tất cả các ý kiến xoay quanh vấn đề này chủ yếu ý kiến đóng góp ở
tạp chí giáo dục hay trên mạng.
Như ta nói ở trên, đây là vấn đề rất mới chưa có bài nghiên cứu hồn chỉnh nào
chỉ có một số ý kiến góp ý về vấn đề xây dựng chương trình, SGK. Cụ thể có một số ý
kiến như sau:

4


Mọi vấn đề đều tồn tại ở hai mặt tích cực và tiêu cực, sự thay đổi chương trình
SGK cũng thế. Trong bài “Sự thay đổi sách và chương trình chóng mặt…” ơng Trần
Hà Nam cho thấy những ưu điểm và nhược điểm của sự thay đổi sách. Về ưu điểm ơng
cho rằng chương trình mới có sự phát triển mạnh mẽ so với chương trình cũ, cụ thể số
lượng tác phẩm đưa vào nhiều hơn, nội dung phong phú và đa dạng hơn “ Là một
người đã từng học mơn Văn theo chương trình cũ, khi ra trường cũng là lúc chúng tôi
chứng kiến sự chuyển động của bộ môn, bằng việc sinh viên khi ra trường được triệu
tập để học chương trình cải cách. Đó cũng là lần đầu tiên, sinh viên chúng tôi tiếp xúc
văn học lãng mạn theo tinh thần cởi mở hơn, được sống say sưa với những cảm xúc
trinh nguyên khi khám phá khu vườn thơ của Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bính, Thâm Tâm,
Xuân Diệu... để được biết một khuynh hướng văn học lãng mạn không "suy đồi và bạc
nhược" như chúng tôi từng học 2 tiết trong trong trường phổ thông. Đến khi đi dạy
học, tôi cũng say sưa khám phá những vẻ đẹp khác lạ của văn học kháng chiến chống
Pháp với Bên kia sông Đuống, Tây Tiến gắn liền với các tên tuổi Hoàng Cầm, Quang

Dũng, biết một Vợ nhặt của Kim Lân, văn học kháng chiến chống Mỹ với Những đứa
con trong gia đình của Nguyễn Thi, Mảnh trăng cuối rừng của Nguyễn Minh Châu,
Sóng của Xuân Quỳnh, Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm, đoạn trích tiểu thuyết Cửa
Biển của Nguyên Hồng Huệ Chi đêm tân hôn (sau đổi là Huệ Chi trước lễ cưới)...”
Bên cạnh đó ơng cũng chỉ ra được một số nhược điểm như một số tác giả như Nguyễn
Bính, Lưu Trọng Lư lại khơng được đưa vào học và ơng cịn cho rằng nhóm Tự lực
văn đồn chỉ được học có Thạch Lam là q ít “thế nhưng cũng cảm thấy hụt hẫng khi
có những điều chỉnh trong chương trình khi có một số tác giả khơng được học như
Nguyễn Bính, Lưu Trọng Lư... ở chương trình 11. Phần văn xi Tự lực Văn đồn chỉ
có Thạch Lam đại diện là q ít ỏi”.
Ngồi ra ơng cịn đóng góp ý kiến ở bài khác như “ Những bất hợp lí trong
chương trình Ngữ văn hiện nay” ơng có viết “Chương trình Ngữ Văn THPT được cấu
tạo trên tinh thần tích hợp, bảo đảm sự liên thơng từ cấp THCS đến THPT. Thế nhưng
bên cạnh cấu tạo được trình bày trong cấu trúc tương đối bảo đảm theo trình tự từng
phân mơn Tiếng Việt - Làm Văn thì phần Văn học bị xé lẻ nhiều và chưa thật sự có
tính thuyết phục.”.ơng đã chỉ ra một số bất hợp lí trong chương trình. “Bất hợp lý
trong việc cho học sinh tiếp cận tác phẩm từ văn học trung đại đến văn học hiện đại
mà không cung cấp cho các em những hiểu biết cần thiết về hoàn cảnh ra đời, vị trí
tác phẩm trong tiến trình lịch sử văn học, Chương trình coi nhẹ văn học sử.” ông còn
cho rằng “Cả hai bộ sách giáo khoa cơ bản 10 và 11 đều hồn tồn vứt bỏ tính hệ
thống, tính chỉnh thể, tính khoa học, tính lịch sử của văn chương, qua đó gián tiếp thủ
tiêu
sức
mạnh
nhân
văn
của
tác
phẩm
trong

thời
đại.”
(www.ngoisaoblog.com/m.ph?u=tranhanam&p=133298) trong bài viết “Ý kiến về
Sách giáo khoa Ngữ Văn chương trình phân ban”.
TS Phạm Thị Ly cũng có một số ý kiến góp ý như: “Thấy gì qua mục kết quả cần
đạt” đã chỉ ra những khuyết điểm trong việc biên soạn mục này “các nhà biên soạn

5


vẫn tiếp tục nhấn mạnh yêu cầu về nhận thức, về kiến thức hơn là yêu cầu về giáo dục
cảm xúc, phát triển tâm hồn và cá tính, trong lúc chính cái thứ hai mới là bản chất và
là lý do tồn tại của môn ngữ văn trong nhà trường. Với cách xác định mục tiêu như
vậy, thầy và trò được đặt trong tư thế phải chấp nhận một “chân lý” đã được cài đặt
sẵn. Thêm vào đó, SGK Ngữ văn 11 còn bồi thêm một mục “ghi nhớ” được đóng
khung ở cuối bài, nhắc nhở thầy và trị một cách hiển ngơn những gì cần phải thuộc
lịng.” Và TS phạm Thi Ly cịn đóng góp thêm “mơn ngữ văn trong nhà trường có
một vai trị hết sức quan trọng. Học văn là học cách nhìn vào tâm hồn con người, đặt
mình vào hồn cảnh và tâm trạng của nhân vật để học cách thấu hiểu, cảm thông và
chia sẻ cảm xúc của người khác. Học văn cũng là học cách diễn đạt tư tưởng và cảm
xúc. Nhìn vào những mục “kết quả cần đạt” trong SGK Ngữ văn 11, người ta không
khỏi bâng khuâng tự vấn: khi đạt được những “kết quả cần đạt” đó thì mục tiêu của
mơn văn như đã nói trên liệu có đạt được?” (www.vietbao.vn/giaoduc
/sachgiaokhoanguvan11/ 08/4/2008)
Trần Quang Đại cũng có một vài nhận xét về SGK Ngữ văn 11. Trong bài “Sách
giáo khoa còn thiếu tính khoa học và chuẩn mực”, ơng nhận định “SGK mới có thêm
mục “Kết quả cần đạt” ở trước mỗi bài học và phần “Ghi nhớ” sau mỗi bài học. Đối
với nhiều bài Đọc văn và Tiếng Việt, những nội dung ấy chính là câu trả lời cho
những câu hỏi tìm hiểu bài trong SGK, chẳng khác gì hiện tượng cho đáp án trước khi
ra đề. Đối với các bài Đọc văn, nội dung ý nghĩa của tác phẩm cần phải được phân

tích, tìm hiểu theo một trình tự nhất định thì khi phát hiện ra mới thú vị, sâu sắc. Đằng
này, HS chỉ cần đọc phần “Ghi nhớ” hay “Kết quả cần đạt” là đã nắm được ngay, vơ
hình trung công việc của giáo viên và HS trên lớp là đi chứng minh một kết quả đã cho
trước. Mặt khác, ở nhiều bài, nội dung của hai phần này cũng na ná nhau, chỉ có khác
biệt đơi chút về câu chữ, tạo nên cảm giác trùng lặp, thiếu lôgic. Ví dụ như ở các bài
“Vào phủ chúa Trịnh”(Lê Hữu Trác), “Sa hành đoản ca” (Cao Bá Quát), “Chữ người
tử tù” (Nguyễn Tuân), “Hai đứa trẻ” (Thạch Lam), “Hạnh phúc của một tang gia”
(Vũ Trọng Phụng) …” và “các soạn giả SGK Ngữ văn 10, 11 vừa không chuẩn về mặt
học thuật, vừa thiếu tôn trọng tác giả. SGK là chuẩn mực về tính khoa học,”
( />Ơng Văn Hiến cho rằng SGK Ngữ văn còn mắc nhiều sai lầm và lỗi trong quá
trình biên soạn “ Đọc Ngữ văn 11, ai cũng nhận ra phần Tiểu dẫn về tác giả, tác phẩm
thuộc thời trung đại, hiện đại đều quá dài: Lê Hữu Trác (trang 3); Hồ Xuân Hương
(trang 18); Nguyễn Khuyến (trang 21); Trần Tế Xương (trang 29); Nguyễn Công Trứ
(trang 37) Cao Bá Quát (trang 40); Lẽ ghét thương (trang 45); Văn tế nghĩa sĩ Cần
Giuộc (trang 60); Ngô Thời Nhậm (trang 68); Nguyễn Trường Tộ (trang 71)… Khơng
ít tác giả đã được học kĩ ở lớp dưới. Khó lịng nhận ra đâu là tác giả chính cần phải
chú trọng. Trước đây, chương trình văn THPT cũ chỉ nhấn mạnh 12 tác giả. So sánh
ba bài giới thiệu Tú Xương trong Văn học 9 (NXB Giáo dục tái bản lần thứ 11), Ngữ

6


văn 9 và 11, ta sẽ thấy về nội dung cơ bản các bài viết không khác nhau là mấy nhưng
sách Ngữ văn 11 (nâng cao) dành hơn một trang khổ 17x24 cm in chữ nhỏ để Tiểu dẫn
về Tú Xương và bài Thương vợ (trang 66, 67). Dài như vậy thì nên đổi Tiểu dẫn thành
“Đại dẫn” (Tiểu dẫn về Trần Tế Xương trong Văn học 9, tập một, trang 147 chỉ có
194 chữ, trong Văn học 11, tập một, sách chỉnh lí hợp nhất năm 2000) gồm 420 chữ)”.
Ngồi ra ơng cịn cho rằng SGK cần phải chỉnh sửa thêm một số lỗi: “nên bỏ bài Lẽ
nghét thương ra khỏi chương trình” và
Ngữ văn 11, tập một (cơ bản)

Trang 37, 172 -Nếu viết hoa chữ “Nho” trong câu “Nguyễn Cơng Trứ… xuất
thân trong trong một gia đình Nho học”, “Nguyễn Cơng Hoan xuất thân trong một gia
đình quan lại Nho học” thì chữ “nho” trong “Hồ Chí Minh sinh ngày 19-5-1890 trong
một gia đình nhà nho” (Ngữ văn 12, tập 1, trang 23) có nên viết hoa? Nho học và nhà
nho rất khác nhau. Tiền nhân của Nguyễn Cơng Trứ, Nguyễn Cơng Hoan có những ai
xứng danh là nhà khoa học về đạo Nho?
Trang 138 – Nam Cao (1917 - 1951) là lệch với Ngữ văn 8, tập một trang 45
(Nam Cao sinh năm 1915, mất năm 1951).
“Nam Cao đã được nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ
thuật…” phải đổi thành “Nam Cao đã được nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí
Minh về văn học nghệ thuật…”.
Ngữ văn 11, tập một (nâng cao)
Trang 45- Nên viết Cao Bá Quát “được cử làm Huấn đạo ở phủ Quốc Oai, Hà
Tây” thay cho làm giáo thụ.
Trang 59 - “Nguyễn Khuyến thi Hương đỗ Giải nguyên… Năm 1871, thi Hội lần
hai thứ hai đỗ Giải nguyên, thi Đình đỗ Đình nguyên” phải sửa thành “Nguyễn
Khuyến thi Hương đỗ Giải nguyên… Năm 1871, thi Hội lần hai đỗ Hội ngun, thi
Đình đỗ Đình ngun (Hồng giáp)”.
Trang 60, 77 và các trang có lỗi tương tự - Có thể bỏ hoặc thay từ “hưu” trong
các ngữ Nguyễn Khuyến “không nhận chức và năm sau lấy cớ đau mắt xin về hưu”;
Nguyễn Khuyến “Từng ra làm quan và đã về hưu”, Nguyễn Công Trứ viết Bài ca ngất
ngưởng khi… về hưu”… bằng nhiêu từ, ngữ khác “cáo quan”, từ quan, “an trí”,
“nghỉ tại q nhà”… Tơi đã gặp khó khăn khi học sinh hỏi: “Nguyễn Khuyến có được
nhận lương hưu khơng thầy?
Trang 77, 79 -“Thơ hát nói” nên thay bằng “thể thơ hát nói”.
Trang 80 và các trang có lỗi tương tự: Chùa Hương nay thuộc Hà Nội; hạn chế
các kiểu câu “đây là bài tiểu biểu nhất”, “hay nhất”, “độc đáo nhất”, “một trong
những bài hay nhất” ở vị trí cuối cùng khi giới thiệu các văn bản thơ.( />rumid/13/postid/37/scope/posts/Default.aspx)
Sau khi Ơng Văn Hiến có những ý kiến nhận xét như thế, GS Trần Đình Sử Tổng
chủ biên SGK ngữ văn lớp 11 trả lời ý kiến của ông “nhan đề là phê bình sách Ngữ


7


văn 11 (nâng cao), nhưng thực tế ơng phê bình cả hai bộ sách cơ bản và nâng cao, mà
trong đó phê bình sách Ngữ văn 11 (cơ bản) gồm 26 điểm, phê bình Ngữ văn 11 (nâng
cao) 16 điểm, tổng số là 42 điểm. Tơi khơng đồng tình cách gọi các điểm này là “lỗi”
hay “nội dung cần chỉnh sửa” như tiêu đề nhiều bài báo viết, bởi vì khơng phải cái gì
ơng Hiến nêu lên đều đúng là “lỗi” hay “nội dung cần chỉnh sửa” của SGK.
Dù thái độ ông Văn Hiến như thế nào, trong 16 điểm ông phê bình sách Ngữ văn
11 (nâng cao), tôi vẫn nhận thấy có 02 điểm ơng nói đúng. Một chỗ viết nhầm là Giải
nguyên (tr. 59), lẽ ra phải là Hội nguyên. Chỗ này là sơ suất khi in ấn, đã nói thi
Hương đỗ Giải ngun rồi thì thi Hội khơng thể lại Giải ngun được. Một chỗ nói về
Lục Vân Tiên được thần phật cứu (tr. 21), lẽ ra chỉ nói thần và người là đủ. Đấy chỉ là
sơ suất nhỏ. Tuy vậy, tôi vẫn chân thành cảm ơn và hoan nghênh ơng Văn Hiến.
Ngồi mấy điểm ấy, các điểm cịn lại của ơng nêu ra chưa đủ chứng cứ và chưa
có sức thuyết phục. Dĩ nhiên, khơng thể địi hỏi người phê bình chỗ nào cũng đúng;
câu được câu chăng là chuyện bình thường. Điều khơng bình thường ở đây là ơng
Hiến có khuynh hướng bịa đặt, gian lận, nhằm phủ định bộ SGK Ngữ văn 11 (nâng
cao)( />Tóm lại, sau khi khảo sát các ý kiến đóng góp trên ta thấy SGK là vấn đề rất lớn,
thu hút nhiều ý kiến đóng góp. Tuy nhiên, mỗi người điều có quan điểm, lập trường tư
tưởng riêng, nên các ý kiến đánh giá khác nhau về một vấn đề có khi cịn trái ngược
nhau, nhưng dù sao đó cũng là những ý kiến đóng góp quý báu rất đáng trân trọng,
mỗi người đều có một lý lẽ riêng, cơ sở riêng tuy chưa thống nhất nhưng mang tính
thuyết phục. Ngồi ra có nhiều ý kiến đóng góp như thế sẽ giúp cho chúng ta có cái
nhìn sâu hơn, rộng hơn về SGK Ngữ văn.
Qua những ý kiến trên ta thấy chưa có cơng trình nghiên cứu nào về “Tương
đồng và dị biệt SGK Ngữ văn lớp 11 tập 1 (bộ cơ bản và nâng cao)” do đó đề tài
của chúng tơi là mới mẻ. Cũng chính vì nhiều kiến như thế sẽ gây khó khăn cho chúng
tơi trong q trình thực hiện cơng trình, khó tránh khỏi sự trùng ý, lập ý. Nhưng chúng

tơi hy vọng rằng cơng trình nghiên cứu của chúng tơi sẽ đóng góp một phần nhỏ vào
vấn đề chương trình SGK Ngữ văn.

3 Mục đích u cầu
Với đề tài này chúng tôi sẽ không nghiên cứu cụ thể từng loại SGK Ngữ văn lớp
11 tập 1 bộ cơ bản và bộ nâng cao mà chúng tôi tìm ra những điểm tương đồng và dị
biệt giữa hai quyển SGK đó, cụ thể chúng tơi sẽ khảo sát ở các khía cạnh như: số
lượng bài dạy đưa vào chương trình, phân phối chương trình, cấu trúc chương trình và
cấu trúc bài học…ở cả ba bộ phận: Văn học, Tiếng viêt, Làm văn. Qua đó chúng tơi
chỉ ra được điểm tương đồng và dị biệt để giúp chúng ta nắm rõ hơn về chương trình
SGK Ngữ văn này.
Vì đây là chương trình mới, nội dung kiến thức đã thay đổi nhiều, nếu chỉ nghiên
cứu về một bộ SGK sẽ khơng giúp cho ta có một cái nhìn tổng qt về chương trình,

8


không phát hiện ra những đặc điểm riêng của từng loại SGK. Nhưng khi so sánh về hai
bộ SGK đó sẽ giúp chúng ta có cái nhìn tổng qt hơn về chương trình, thấy được ưu,
nhược điểm của từng loại sách, từ đó giúp ta nắm vững hơn về SGK.

4 Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu: với yêu cầu của đề tài này chúng tôi tập trung đi vào khai
thác điểm tương đồng và dị biệt SGK ngữ văn lớp 11 tập 1 (bộ cơ bản và nâng cao) ở
cả ba bộ phận: Văn học, Tiếng việt và Làm văn.

5 Phương hướng và phương pháp nghiên cứu
Phương hướng:
• Nhận đề tài
• Lập đề cương tổng quát

• Lập đề cương chi tiết và đưa ra các ý chính cần giải quyết
• Sắp xếp các ý chính
• Hồn thành luận văn
Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp thống kê: trong quá trình thực hiện đề tài này, chúng tôi tiến hành
sưu tầm các tài liệu có liên quan đến SGK, đặc biệt là SGK Ngữ văn lớp 11, cụ thể ở
những nơi như nhà sách, thư viện, Internet…sau đó sắp xếp lại thành hệ thống. Tài
liệu chủ yếu của chúng tôi là hai bộ SGK ngữ văn lớp 11, tập 1 (bộ cơ bản và nâng
cao)
Phương pháp so sánh đối chiếu: do nội dung của đề tài này là tìm ra điểm tương
đồng và dị biêt của hai bộ SGK trên nên phương pháp này đóng vai trị chủ đạo trong
suốt q trình thực hiện.
Ngồi các phương pháp trên chúng tơi cịn sử dụng phương pháp lập luận phân
tích nhằm làm nổi bât vấn đề, mang tính thuyết phục cao

9


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT ĐẶC ĐIỂM CHUNG VỀ CHƯƠNG TRÌNH,
SGK NGỮ VĂN LỚP 11, TẬP 1 (CƠ BẢN VÀ NÂNG CAO)
1 Vị trí và tầm quan trọng của chương trình, SGK
Chương trình, SGK nói chung và chương trình, SGK Ngữ văn nói riêng là vấn đề
cực kì quan trọng trong giáo dục, bởi nó liên quan trực tiếp đến các vấn đề quan trọng
khác như mục tiêu dạy và học, nội dung, phương pháp và đối tượng giáo dục.
Chương trình là văn bản quy định nội dung, kế hoạch giảng dạy, học tâp của một
môn học, là tài liệu có tính chất pháp lệnh của nhà nước buộc phải thực hiện nghiêm
túc.
SGK là nơi cụ thể hóa chương trình về mặt nội dung, nó thể hiện đầy đủ ý đồ của

chương trình. SGK phải thể hiện được mục tiêu giáo dục, ngun lí giáo dục cụ thể
hóa nội dung, phương pháp giáo dục được quy định trong chương trình giáo dục của
bậc học, cấp học, lớp học…Bên cạnh đó, SGK là tài liệu chủ yếu đối với giáo viên và
học sinh. SGK chứa đựng những nội dung cơ bản nhất, là tài liệu có tính chất cơng cụ
cung cấp cho giáo viên những kiến thức cần thiết khi triển khai dạy học. Kiến thức
trong SGK là một hệ thống kiến thức khoa học chính xác theo một trình tự logic chặt
chẽ được gia công về mặt sư phạm cho phù hợp với trình độ học sinh và thời gian học
tập.
SGK là nguồn tài liệu chứa đựng rất nhiều chức năng như: truyền đạt kiến thức,
phát triển khả năng nhận thức, tìm hiểu, khai thác, kỉ năng; củng cố đánh giá những
hiểu biết; tổng hợp hiểu biết, tra cứu tham khảo và giáo dục về mặt xã hội, văn hóa.
Chính vì thế SGK đóng vai trị chủ yếu trong việc thực hiện mục tiêu của môn học.
SGK do Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức biên soạn và duyệt trên cơ sơ thẩm định
của Hội đồng Quốc gia thẩm định SGK để sử dụng chính thức, thống nhất trong giảng
dạy, học tập ở nhà trường và các cơ sở giáo dục khác. Nhà nước quản lí việc in ấn,
xuất bản và phát hành SGK.

2 Vấn đề phân ban ở THPT
Trung học phân ban ra đời khoảng thế kỉ XVIII ở châu Âu, ngày càng hoàn
thiện và được áp dụng rộng rãi ở nhiều nước châu Âu.
Phân ban được thực hiện trong quá trình dạy học ở cấp THPT. Khi thực hiện
phân ban những học sinh có năng lực, sở trường, nhu cầu, nguyện vọng và điều kiện
học tập tương đối giống nhau được tổ chức thành nhóm học theo cùng một chương
trình gọi là ban. Tùy theo số lượng học sinh mà mỗi ban có thể chia thành nhiều lớp.
Ví dụ học sinh có khả năng, nhu cầu, sở trường về lĩnh vực khoa học xã hội, các em có
thể tham gia học ở ban KHXH & NV.
Nói cách khác phân ban là chia THPT thành các ban, trong đó có một số mơn học
nhiều hơn, sâu hơn ở từng ban. Ở nước ta phân ban được thực hiện bắt đầu từ các khối

10



lớp 10, các em học sinh được chia thành các ban: ban khoa học tự nhiên, ban khoa học
xã hội và nhân văn và ban khoa học cơ bản. Chương trình ở mỗi ban có sự khác biệt
bao gồm: mơn chung và mơn phân hóa. Mơn chung là các mơn mà các ban đều học
như nhau như: giáo dục công dân, tin học, thể dục, quốc phịng… mơn phân hóa là các
môn được học nhiều hơn, sâu hơn ở các ban khác.
Mục đích phân ban: nhằm tối ưu hóa q trình giáo dục và đào tạo theo năng lực,
sở trường, nguyện vọng của học sinh. Bởi phân ban là phù hợp với quy luật phát triển
của nhận thức, tâm sinh lí học sinh, thể hiện được quan điểm nhân văn trong giáo dục.
Đáp ứng được yêu cầu chuẩn bị phân luồng đào tạo ngày càng phù hợp với sự đòi hỏi
phân công lao động xã hội hiện nay và tương lai. Chuẩn bị tốt cho việc học lên các
nghành nghề ở Cao đẳng và Đại học. Giảm tải những chổ chưa thật cần thiết và hiện
đại hóa nội dung, từng bước thực hiện chất lượng giáo dục.
Phân ban đã và đang thực hiện ở trường THPT, hiện nay ở THPT chia thành ba
ban: Ban KHTN là ban mà học sinh học chun sâu về các mơn như: Tốn, Lí, Hóa,
Sinh ; Ban KHXH&NV là ban học sinh học chuyên sâu về các môn như: Văn, Sử, Địa,
Ngoại Ngữ và Ban cơ bản là ban học sinh học tất cả các mơn ở mức độ bình thường,
cơ bản.
Chương trình này được thực hiện như sau: khi học sinh bước vào lớp 10, các em
có quyền lựa chọn ban học cho mình tùy vào nhu cầu nguyện vọng cũng như sở trường
của bản thân. Từ những yếu tố trên chương trình phân ban giúp phát huy được hết
năng lực của học sinh.
Ví dụ: Học sinh có sở thích học Văn và hoc tốt các mơn xã hội, có thể chọn vào
ban KHXH & NV
Tóm lại, phân ban ở THPT đã tác động mạnh mẽ đến việc biên soạn SGK, do
mỗi ban có mục tiêu dạy học riêng nên SGK dành cho việc giảng dạy của các ban cũng
khác nhau, SGK là người bạn đồng hành suốt trong quá trình dạy, học của giáo viên và
học sinh. Việc vận dụng SGK hợp lí với từng ban là rất cần thiết. Chính vì thế đã dẫn
đến sự hình thành SGK Ngữ văn ở hai bộ cơ bản và nâng cao, cụ thể là SGK Ngữ văn

lớp 11 tập 1 (cơ bản và nâng cao) mà chúng tơi nghiên cứu trong cơng trình này.

3 Mục tiêu môn Ngữ Văn
3.1 Mục tiêu chung
Ngữ Văn được tổng hợp từ ba bộ phận: Văn học, Tiếng việt và Làm văn, là mơn
học có tính chất nền tảng, có tác dụng quan trọng tạo nên trình độ văn hóa cho con
người. Dạy và học tốt môn Ngữ văn chẳng những tạo cơ sở cho học sinh học tốt các
môn học khác mà còn giáo dục học sinh tiếp thu được truyền thống văn hóa dân tộc,
rèn luyện đạo đức, tư tưởng tình cảm và tư duy thẩm mỹ...
Mục tiêu của môn Ngữ văn THPT là trên cơ sở đã đạt được của chương trình
Ngữ Văn THCS, bồi dưỡng thêm một bước năng lực mới cho học sinh như: Đọc hiểu
văn bản (văn, thơ, truyện…) năng lực viết một số văn bản thơng dụng và giao tiếp
bằng lời nói trước công chúng. Đồng thời cung cấp một hệ thống tri thức phổ thông về

11


văn học dân tộc và văn học thế giới, về ngơn ngữ và tiếng việt, về lí luận văn học, lịch
sử văn học và văn hóa, tạo một phần tích lũy ban đầu để hình thành các năng lực đọc,
viết, năng lực cảm thụ thẩm mĩ, phát triển tư duy, nắm được phương pháp học tập bộ
môn, tạo thành tập qn học tập Ngữ văn, biết tìm tịi, phát hiện, suy nghĩ, giải quyết
vấn đề, làm cơ sở cho sự phát triển trí tuệ và nhân cách suốt đời.
Trong quá trình dạy học, với đặc trưng riêng của mình, mơn Ngữ văn hướng tới
bồi dưỡng cho học sinh lòng yêu tiếng Việt, yêu văn hóa yêu văn học nước nhà. Giáo
dục lòng yêu nước và tự hào dân tộc, tinh thần nhân văn, lý tưởng xã hội chủ nghĩa,
đạo đức cao thượng, thị hiếu thẩm mĩ tốt, đa dạng. Hướng dẫn học sinh quan tâm tu
dưỡng phẩm chất văn hóa cá nhân hình thành cá tính lành mạnh, góp phần hình thành
nhân cách người lao động mới trong xã hội mới và thời đại mới.

3.2 Mục tiêu riêng của môn Ngữ văn theo từng ban

Chương trình, SGK Ngữ văn nói chung và chương trình, SGK Ngữ văn lớp 11
tập 1 ( cơ bản và nâng cao) nói riêng là tài liệu quan trọng bám sát vào chuẩn chương
trình của từng lớp học, bậc học. Mục tiêu môn học Ngữ văn lớp 11 tập 1 (cơ bản và
nâng cao) cùng thưc hiện mục tiêu chung với mục tiêu của bộ môn. Tuy nhiên đối
tượng học sinh khác nhau nên SGK dùng trong giảng dạy và mục tiêu mơn học cũng
có sự khác nhau, do vấn đề phân ban THPT nên ta có hai bộ SGK Ngữ văn lớp 11 tập
1 bộ cơ bản và bộ nâng cao. SGK Ngữ văn lớp 11 tập 1 bộ cơ bản (SGK cơ bản) dùng
để dạy học sinh lớp 11 thuộc ban KHTN và ban Cơ bản, còn SGK Ngữ văn lớp 11 tập
1 bộ nâng cao (SGK nâng cao) dành cho học sinh thuộc ban KHXH & NV, các ban sử
dụng SGK khác nhau nên mục tiêu môn học cũng khác nhau, Cụ thể:
Đối với ban KHTN và ban khoa học cơ bản: Cung cấp một khối lượng tri thức
văn học phổ thông tương đối có hệ thống bao gồm tác phẩm văn học, tác giả, thể loại
(của văn học Việt Nam và văn học nước ngồi), ngơn ngữ văn học, văn học sử, lí luận
văn học và một số tác phẩm thuộc các loại khác như sử kí, các loại nghị luận. Thơng
qua chúng mà mở rộng cho học sinh khả năng đọc hiểu và tiếp xúc với đời sống xã hội
ở nhiều mặt.
Rèn luyện cho học sinh năng lực đọc độc lập, bắt đầu từ đọc đúng, hiểu đúng văn
bản tiếng Việt, tiến tới hiểu đúng nội dung, tư tưởng, tình cảm của tác phẩm, biết cảm
thụ giá trị thẩm mĩ của văn học, biết phân tích, đánh giá tác phẩm theo trình độ phổ
thơng một cách có phương pháp và tinh thần sáng tạo.
Học sinh biết quan sát đời sống, xã hội và tự nhiên, biết nhận xét ý kiến và có chủ
kiến riêng của mình, biết viết các văn bản thơng dụng như tự sự, thuyết minh, hành
chính cơng vụ, đặc biệt là văn bản nghị luận xã hội và nghị luận văn học với tư duy
sáng rõ, biết đặt vấn đề và giải quyết vấn đề, có luận cứ thuyết phục, biết diễn đạt
mạch lạc, lưu loát và phần nào có cá tính riêng, biết thuyết trình theo chủ đề được đặt
hoặc tự lựa chọn một cách mạnh dạn, lưu lốt có nội dung.
Học sinh biết khai thác vận dụng các tri thức tiếng Việt để đọc văn, làm văn trao
dồi tiếng Việt, đồng thời có thêm tri thức bước đầu về lịch sử tiếng Việt, loại hình

12



tiếng Việt, về văn bản và giao tiếp, về các phong cách biểu đạt và biết sửa lỗi về từ,
câu, liên kết mạch lạc trong bài làm văn. Ngoài ra SGK Ngữ Văn cịn có tác dụng
hướng các em học sinh đến tình u tiếng Việt và có ý thức giữ gìn trong sáng tiếng
Việt.
Nhằm đáp ứng nhu cầu nâng cao hiểu biết, phát huy khả năng tìm tịi, sáng tạo về
ngôn ngữ và văn học của những học sinh có thiên hướng về Ngữ Văn. Qua đó đóng
góp phần phát hiện, bồi dưỡng học sinh có năng khiếu tạo nguồn cho các ngành khoa
học xã hội và nhân văn.
Đối với ban KHXH & NV: ngoài phần thống nhất với ban KHTN và ban
KHCB, có thêm một số điểm khác:
Về tri thức đưa thêm một số thể loại tác phẩm văn học việt nam và nước ngoài,
cho học sinh học có hệ thống hơn về tác giả, tác phẩm lớn của văn học dân tộc, trang
bị tri thức lí luận văn học và văn hóa tương đối hồn chỉnh hơn.
Về kĩ năng, chú trọng về định hướng nghiên cứu trong đọc văn, bao quát các hiện
tượng trong tác phẩm, tác giả, thể loại, trào lưu, văn học, khơi gợi năng lực phát hiện,
sáng tạo, biết sử dụng sách công cụ, biết sưu tầm tài liệu để giải quyết vấn đề, chú
trọng phát huy năng khiếu, khuyến khích suy nghĩ riêng, tìm tịi riêng về ngơn ngữ và
văn học.

4 Quan điểm xây dựng chương trình
Để có một chương trình đạt chất lượng cao, cần phải có quan điểm tổng hợp,
chương trình phải thực hiện một cách có ý thức tồn diện và có kế hoạch mục tiêu đào
tạo từng lớp, từng ban, từng cấp về phương hướng đào tạo, quan điểm, phương pháp
đặc trưng của cả quá trình đào tạo người học sinh bằng công cụ Văn học và tiếng Việt
Chương trình SGK nói chung và chương trình SGK Ngữ Văn lớp 11, tập 1 ( cơ
bản và nâng cao) nói riêng phải coi trọng tính thực hành, vận dụng, các kiến thức được
học phải gắn liền với thực tế, không phải là những tri thức mang tính hàn lâm, kinh
viện, nặng về thi cử mà phải hết sức chú trọng đến tính sáng tạo, thực hành và hướng

nghiệp, gắn bó chặt chẽ với thực tiễn phát triển kinh tế xã hội cũng như nhu cầu hiểu
biết của học sinh. Phải xác định được mục tiêu cần đạt về kiến thức, kĩ năng, tư tưởng
tình cảm một cách rõ ràng.
Chương trình phải xuất phát từ những hiểu biết có căn cứ, liên quan, tác động
trực tiếp hoặc gián tiếp đến quá trình đào tạo mơn Ngữ văn như: thực trạng của dạy và
học Ngữ Văn, những thuận lợi, khó khăn về mọi mặt trong quá trình dạy học, đời sống
xã hội, chế độ chính trị của đất nước, từ những dự đốn có căn cứ về bước tiến của xã
hội, từ những hiểu biết về các thành tựu khoa học có liên quan…Tất cả đều phải được
nghiên cứu một cách đầy đủ, kĩ lưỡng.

5 Nguyên tắc xây dựng chương trình
5.1 Nguyên tắc kế thừa và phát triển
Nguyên tắc này đòi hỏi SGK Ngữ văn nói chung và SGK Ngữ văn lớp 11 tập 1
(cơ bản và nâng cao) nói riêng phải kế thừa những thành quả đã đạt được cũng như

13


khắc phục những hạn chế của các bộ SGK trước đây (SGK trước và trong cải cách,
SGK chỉnh lí hợp nhất năm 2000).
Tuy nhiên, SGK Ngữ văn mới không chỉ có kế thừa mà cịn phát triển. Trên cơ sở
kế thừa ấy SGK sẽ phát triển theo hướng mới phù hợp với xu thế của thời đại nhằm
củng cố và nâng cao chất lượng giảng dạy.

5.2 Nguyên tắc tích hợp
Tích hợp có nghĩa là sự kết hợp, liên kết các mơn học có liên quan nhau thành
một hệ thống, nhất thể hóa, tránh tạo sự phân tán rời rạc nhằm tạo một hợp lực để hoạt
động dạy học đạt kết quả cao nhất.
Tinh thần tích hợp được thể hiện ngay từ tên mơn học: mơn Ngữ Văn, đó là sự
tích hợp của ba môn là Văn học, Tiếng việt và Làm văn. Tích hợp ở đây là tích hợp tự

nhiên, đa chiều chứ không phải là sự lắp ghép cơ học, hay là phép cộng số học đơn
thuần. Trước đây ba bộ phận này nằm riêng lẽ trong ba SGK khác nhau nhưng hiện
nay kết hợp lại với nhau theo hệ thống tạo thành môn Ngữ Văn. Ba bộ phận này kết
hợp đan xen lẫn nhau giữa các bộ phận, các bộ phận hỗ trợ và bổ sung cho nhau. Ví dụ
như: Văn học giúp học sinh cảm thụ tác phẩm văn chương, tư tưởng tình cảm trong tác
phẩm… Học sinh muốn thể hiện cảm xúc của mình trước những tác phẩm như thế phải
cần đến Tiếng việt để lựa chọn từ ngữ hợp lí để diễn tả, học sinh muốn viết cảm xúc
mình ra để chia sẽ với người khác cần đến làm văn để có được cách diễn đạt mạch lac
đầy sức thuyết phục. Như vây, ta thấy sự tích hợp trên là động lực rất lớn để giáo dục
học sinh đạt được hiểu quả cao, sự tích hợp này nhằm rèn luyện tư duy tổng hợp cũng
như rèn luyện các kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết cho học sinh.

5.3 Nguyên tắc đảm bảo tính khoa học sư phạm và thực tiễn
Trước đây có một số ý kiến cho rằng SGK phổ thông không được công nhận là
công trình khoa học. Ý kiến trên khơng hợp lí bởi lẽ SGK được biên soạn và duyệt trên
cơ sở thẩm định của hội đồng quốc gia thẩm định SGK. Trong quyển sách “Đổi mới
phương pháp dạy học, chương trình và sách giáo khoa”, mục “ sách giáo khoa phổ
thơng có phải là cơng trình khoa học hay khơng? (Trang 193)” Trần Bá Hồnh có viết
“Bộ SGK cải cách giáo dục của ta, tuy chưa đạt chất lượng cao và đồng đều như
mong muốn, nhưng đã được biên soạn theo quy trình chặt chẽ từ khâu bảo vệ đề
cương, biên soạn, biên tập, thực nghiệm, đến khâu xét duyệt bản thảo trước hội đồng
theo quyết định của Bộ. cũng có những cuốn sách không được hội đồng thẩm định
chấp nhận. thực tế đó chứng tỏ SGK phổ thơng phải là những sản phẩm lao động khoa
học nghiêm túc ở trình độ cao.” Vì những lẽ trên, chúng tơi tán đồng ý kiến SGK phổ
thơng là một cơng trình khoa học sư phạm, cho nên SGK ln đảm bảo tính khoa học.
Trước hết về nội dung những tri thức trong chương trình, SGK phải đảm bảo tính
chính xác, khoa học, hiện đại phải phù hợp với năng lực trình độ của học sinh. Chương
trình, SGK phải đáp ứng kiến thức khái quát, kiến thức cụ thể cho từng cấp học, bậc
học.


14


Về mặt cấu trúc, cách sắp xếp bố trí chương trình phải thể hiện được tính khoa
học, phù hợp với quy luật và tâm lí tiếp nhận của học sinh.
Bên cạnh đó, Chương trình SGK phải đảm bảo tính thực tiễn. Đất nước đổi mới,
giáo dục càng phải đổi mới, do vậy nội dung chương trình đào tạo phải phù hợp và gắn
liền với thực tiễn hoàn cảnh đất nước trước mắt và lâu dài.

5.4 Đảm bảo tính thẩm mĩ và nhân văn
Môn Ngữ văn là môn học rất đề cao giá trị thẩm mĩ và nhân văn, tác phẩm văn
chương đưa vào chương trình SGK phải lựa chọn kĩ sao cho tác phẩm vừa mang hơi
thở thời đại vừa có giá trị thẩm mĩ và giá trị nhân văn sâu sắc, hai tính chất này cần
được chú ý theo đúng đặc trưng của bộ mơn, góp phần phát huy sức mạnh đặc thù của
văn chương, chống lối dạy, học xã hội một cách thô thiển và tầm thường.
Hiện nay, xã hội ngày càng phát triển theo hướng kinh tế thị trường, cuộc sống
của con người cũng thay đổi theo xã hội, nhiều giá trị văn hóa ngày càng mai một theo
thời gian vì vậy việc giáo dục tính nhân văn và giá trị thẩm mĩ cho học sinh qua những
bài học Ngữ văn là rất cần thiết.

5.5 Nguyên tắc khắc phục tính hàn lâm và giảm tải
Vấn đề quá tải hiện đang là vấn đề cấp bách trong giáo dục, bởi vì ở THPT các
em học sinh học rất nhiều môn, nếu vấn đề quá tải không được giải quyết sẽ ảnh
hưởng rất lớn đến tình hình học tập của các em. Vì vậy, chương trình SGK Ngữ văn
mới của chúng ta rất chú trọng đến vấn đề này, giảm tải bớt những bài học mang tính
chất lý thuyết nhiều, sử dụng những khái niệm mơ hồ, khó hiểu, chỉ đưa vào chương
trình những vấn đề cơ bản, cần thiết, hữu dụng gắn liền với thực tiễn.
Chương trình trước đây mang ít nhiều có tính hàn lâm ở một số bộ phận như
Tiếng việt, có khá nhiều khái niệm mới lại, khó hiểu ít ích dụng. Vì vậy, chương trình
mới đã loại bỏ những lí thuyết nặng nề, tăng cường khâu thực hành luyện tập, ứng

dụng thực tế.
Giảm tải khơng có nghĩa là bỏ bớt kiến thức, khơng đưa thêm kiến thức mới. vấn
đề là giảm cái gì, nên đưa cái gì và cách đưa như thế nào để đáp ứng được với chuẩn
chương trình.

5.6 Ngun tắc tích cực hóa việc học tập của học sinh
Nhằm nâng cao chất lượng dạy và học, Giáo dục nước ta không ngừng đổi mới
phương pháp dạy và chương trình dạy, với chương trình có sự thay đổi SGK, phương
pháp dạy cũng được thay đổi từ quan niệm truyền thống sang quan niệm hiện đại. Nếu
trước đây lấy giáo viên làm trung tâm bây giờ thay đổi ngược lại học sinh đóng vai trò
là trung tâm, nếu lúc trước học sinh là người lệ thuộc hoàn toàn vào kiến thức bài dạy
của thầy giờ đây các em là người làm chủ trong việc tìm ra kiến thức, người thầy chỉ
đóng vai trị là người gợi mở, dẫn dắt các em trên con đường lĩnh hội tri thức. Chương
trình, SGK và phương pháp dạy là hai vấn đề quan trọng trong giáo dục, hai vấn đề
này tồn tại song song và bổ sung, hổ trợ cho nhau. Vì phương pháp thay đổi dẫn đến

15


Chương trình SGK cũng thay đỗi, nên việc biên soạn SGK Ngữ văn lớp 11 tập 1 (bộ
cơ bản và nâng cao) phải gắn liền với sự thay đổi đó.
SGK Ngữ văn lớp 11 tập 1 (bộ cơ bản và nâng cao) được biên soạn nhằm phục
vụ cho phương pháp giảng dạy tích cực đó. SGK có sự thay đổi cấu trúc chương trình,
nội dung bài học…Trong mỗi bài học, các em không chỉ học những bài lý thuyết khô
khan mà đưa vào đó những giờ thực hành, thảo luận, các em trở nên chủ động và tích
cực hơn trong học tập, giờ đây các em chính là người tự tìm cho mình kiến thức, giáo
viên chỉ là người chỉ đạo hướng dẫn học sinh.

16



CHƯƠNG 2
TƯƠNG ĐỒNG VÀ DỊ BIỆT GIỮA SGK NGỮ VĂN 11,
TẬP 1
(CƠ BẢN VÀ NÂNG CAO)
1 Giới thiệu chương trình hai bộ SGK Ngữ văn lớp 11, tập 1 (cơ bản và
nâng cao).
1.1 Phân phối chương trình SGK Ngữ văn lớp 11, tập 1 bộ cơ bản
PHÂN PHỐI CHƯƠNG TRÌNH (CB)
HỌC KÌ I
19 tuần
15 tuần x 4 tiết + 4 tuần x 3 tiết = 72 tiết

Tuần
Tuần 1

Tuần 2

Tuần 3

Tuần 4

Tuần 5

Tuần 6
Tuần 7

Tiết
1,2
3

4
5
6
7
8
9
10
11
12
13,14,15

Phân mơn
Nội dung chương trình
Đọc văn
Vào phủ chúa trịnh ( Lê Hữu Trác)
Tiếng việt Từ ngôn ngữ chung đến lời nói cá nhân
Viết bài viết số 1
Làm văn
Tự tình (Hồ Xuân Hương)
Đọc văn
Câu cá mùa thu (Nguyễn Khuyến)
Phân tích đề, lập dàn ý bài văn nghị luận
Làm văn
Thao tác lập luận phân tích
Đọc văn
Thương vợ (Trần Tế Xương)
Đọc thêm: Khóc Dương Khuê (Nguyễn Khuyến)
Đọc thêm: Vịnh khoa thi hương (Trần Tế Xương)
Tiếng việt Từ ngôn ngữ đến lời nói cá nhân (tiếp theo)
Đọc văn

Bài ca ngất ngưỡng (Nguyễn Công Trứ)
Bài ca ngắn đi trên bãi cát (Cao Bá Quát)
16
Làm văn
Luyện tập thao tác lập luận phân tích
17
Lẽ ghét thương (Nguyễn Đình Chiểu)
18
Đọc thêm: Chạy giặc (Nguyễn Đình Chiểu)
Đọc văn
19
Đọc thêm: Bài ca phong cảnh Hương Sơn (Chu Mạnh
Trinh)
20
Làm văn
Trả bài viết số 1 và làm bài viết số 2 ( tại nhà)
21,22,23 Đọc văn
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc (Nguyễn Đình Chiểu)
24
Tiếng Việt Thực hành về thành ngữ, điển cố
25,26
Chiếu cầu hiền (Ngơ Thì Nhậm)
Đọc văn
27
Đọc thêm: Xin lập khoa luật (Nguyễn Trường Tộ)

17


Tuần 8


Tuần 9
Tuần 10

Tuần 11

Tuần 12

Tuần 13

Tuần 14

28
29,30
31
32
33,34
35,36
37,38
39,40
41,42
43
44

Tiếng việt
Đọc văn

45,46

Đọc văn


47
48
49,50
51
52
53,54
55
56
57,58

Tiếng việt
Làm văn

Làm văn
Đọc văn
Làm văn
Đọc văn
Tiếng việt
Đọc văn
Làm văn

Đọc văn
Tiếng việt
Đọc văn
Tiếng việt
Làm văn
Đọc văn

Tuần 15


Tuần 16
Tuần 17

Tuần 18
Tuần 19

59
Làm văn
60
61,62,63 Đọc văn
64,65
Đọc văn
66
67
68,69
70,71
72

Tiếng việt
Đọc văn
Làm văn

Thực hành nghĩa của từ trong sử dụng
Ôn tập văn học trung đại Việt Nam
Trả bài làm văn số 2
Thao tác lập luận so sánh
Khái quát VHVN từ đầu TK XX đến CMT8/ 1945
Viết bài viết số 3 ( nghị luận văn học)
Hai đứa trẻ (Thạch Lam)

Ngữ cảnh
Chữ người tử tù (Nguyễn Tuân)
Luyện tập thao tác lập luận so sánh
Luyện tập vận dụng kết hợp các thao tác lập luận phân
tích và so sánh
Hạnh phúc một tang gia (trích “số đỏ” của Vũ Trọng
Phụng)
Phong cách ngơn ngữ báo chí
Trả bài viết số 3
Một số thể loại văn học: Thơ, Truyện
Chí Phèo (Nam Cao)
Phong cách ngơn ngữ báo chí (tiếp theo)
Chí Phèo (tiếp theo)
Thực hành lựa chọn các bộ phận trong câu
Bản tin
Đọc thêm: Cha con nghĩa năng (Hồ Biểu Chánh)
Đọc thêm: Vi hành (Nguyễn Ái Quốc)
Đọc thêm: Tinh thần thể dục (Nguyễn Công Hoan)
Luyện tập viết bản tin
Phỏng vấn và trả lời phỏng vấn
Vĩnh biệt cửu trùng đài (Nguyễn Huy Tưởng)
Tình yêu và thù hận (trích “Rơ-mê-ơ và Giu-li-et” của
Sếch-xpia)
Thực hành một số kiểu câu trong văn bản
Ôn tập văn học
Kiểm tra tổng hợp học kì I
Luyện tập phỏng vấn và trả lời phỏng vấn
Trả bài kiểm tra tổng hợp học kì I

18



1.2 Phân phối chương trình SGK Ngữ văn lớp 11, tập 1 bộ nâng cao
PHÂN PHỐI CHƯƠNG TRÌNH (NC)
HỌC KÌ I
19 tuần
15 tuần x 4 tuần + 4 tuần x 3 tiết = 72 tiết
Tuần

Tuần 1

Tuần 2

Tuần 3

Tiết
1,2
3
4
5
6
7
8
9,10
11
12
13,14,15

Phân môn
Đọc văn

Tiếng việt
Làm văn
Đọc văn
Tiếng việt
Làm văn
Đọc văn
Tiếng việt
Đọc văn

Tuần 4
16

Làm văn

17,18,19
Đọc văn

Tuần 5
20
21,22

Tiếng việt
Đọc văn

Tuần 6
23,24
Tuần 7

Làm văn


25,26
Đọc văn
27

Làm văn

Nội dung chương trình
Vào phủ chúa trịnh ( Lê Hữu Trác)
Đọc thêm: Cha tơi
Từ ngơn ngữ chung đến lời nói cá nhân
Luyện tập phân tích đề, lập dàn ý bài văn nghị luận xã
hội
Lẽ ghét thương (Nguyễn Đình Chiểu)
Đọc thêm: Chạy giặc
Luyện tập về ngơn ngữ chung và lời nói cá nhân
Bài viết số 1
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc (Nguyễn Đình Chiểu)
Tác gia Nguyễn Đình Chiểu
Luyện tập về hiện tượng tách từ
Tự tình II (Hồ Xuân Hương)
Bài ca ngắn đi trên bãi cát (sa hành đoản ca của Cao
Bá Quát)
Trả bài viết số 1, viết bài làm văn số 2 nghị luận xã
hội (ở nhà)
Câu cá mùa thu (Nguyễn Khuyến)
Tiến sĩ giấy (Nguyễn Khuyến)
Đọc thêm: Khóc Dương Khuê (Nguyễn Khuyến)
Luyện tập về trường từ vựng và từ trái nghĩa
Tác gia Nguyễn Khuyến
Thương vợ

Đọc thêm: Vịnh khoa thi hương (Nguyễn Khuyến)
Thao tác lập luận phân tích
Luyện tập thao tác lập luận phân tích (về xã hội)
Bài ca ngất ngưỡng (Nguyễn Cơng Trứ)
Đọc thêm: Bài ca phong cảnh Hương Sơn (Chu Mạnh
Trinh)
Luyện tập thao tác lập luận phân tích (về tác phẩm
thơ)

19


28
29,30
Tuần 8

Tuần 9

Tuần 10

Tuần 11

Đọc văn
31
32
33,34
35,36
37,38

Tiếng việt

Đọc văn
Làm văn
Đọc văn

39
40

Tiếng việt

41,42

Đọc văn

43
44
45,46

Làm văn

Làm văn

Đọc văn
Tuần 12
47
48
49,50
Tuần 13

Tuần 14


Tuần 15

Đọc văn
51
52
53,54
55
56
57,58
59
60
61,62

Tuần 18

Làm văn
Đọc văn
Tiếng việt
Đọc văn
Tiếng việt
Làm văn
Đọc văn

Tuần 16

Tuần 17

Tiếng việt

63

64
65
66
67,68

Làm văn
Đọc văn
Làm văn
Làm văn

Trả bài viết số 2
Chiếu cầu hiền (Ngơ Thì Nhậm)
Đọc thêm: Xin lập khoa luật; Đổng mẩu
Ôn tập văn học trung đại Việt Nam
Ngữ cảnh
Khái quát VHVN từ đầu TK XX đến CMT8/ 1945
Viết bài viết số 3 ( nghị luận văn học)
Hai đứa trẻ (Thạch Lam)
Đọc thêm: cha con nghĩa nặng (Hồ Biểu Chánh)
Ngữ cảnh (tiếp theo)
Luyện tập thao tác lập luận phân tích (về tác phẩm văn
xuôi)
Chữ người tử tù (Nguyễn Tuân)
Đọc thêm: Vi hành (Nguyễn Ái Quốc)
thao tác lập luận so sánh
Luyện tập thao tác lập luận so sánh
Hạnh phúc một tang gia (trích “số đỏ” của Vũ Trọng
Phụng)
Đọc thêm: Nghệ thuật băm thịt gà (trích “Việc làng”
của Ngơ Tất Tố)

Phong cách ngơn ngữ báo chí
Luyện tập các thao tác lập luận
Chí Phèo (Nam Cao)
Đọc thêm: Tinh thần thể dục (Nguyễn Công Hoan)
Đọc tiểu thuyết và truyện ngắn
Trả bài vết số 3
Đời thừa (Nam Cao)
Tác gia Nam Cao
Luyện tập về phong cách ngôn ngữ báo chí
Vĩnh biệt cữu trùng đài (Nguyễn Huy Tưởng)
Luyện tập tách câu
Phỏng vấn và trả lời phỏng vấn
Tình yêu và thù hận (trích “Rơ-mê-ơ và Giu-li-et” của
Sếch-xpia)
Đọc kịch bản văn học
Ôn tập làm văn
Ôn tập văn học
Luyện tập phỏng vấn và trả lời phỏng vấn
Bài viết số 4

20


69
70,71

Tiếng việt

Luyện tập từ Hán việt
Tuần 19

Bản tin
Làm văn
Luyện tập viết bản tin
72
Trả bài viết số 4
Đây là hai bộ SGK khác nhau về đối tượng sử dụng nhưng chúng đều hình thành
dựa trên nền kiến thức cơ bản của chương trình Ngữ văn lớp 11, thống nhất với nhau
về quan điểm xây dựng chương trình, kiến thức của hai bộ sách chênh lệnh nhau
khoảng 20%. Vì thế, hai bộ sách này có nhiều điểm tương đồng và dị biệt với nhau ở
nhiều khía cạnh. Về phân phối chương trình ở cả hai bộ sách phân ra 18 tuần do 4 tuần
cuối kết hợp lại thành 3 tuần. Nhưng phân theo 18 tuần số tiết ở các tuần cuối sẽ khơng
rõ ràng. Theo Thầy Trần Đình Thích trong “Phân tích chương trình Ngữ văn Trung
học phổ thơng” có lập bảng phân phối chương trình Ngữ văn lớp 11 tập 1 là 19 tuần,
chúng tơi nhận thấy phân phối chương trình theo 19 tuần sẽ giúp chúng ta dễ dàng so
sánh đối chiếu hơn.
Qua bảng phân phối chương trình ta thấy được những điểm tương đồng và dị biệt
sau:
Tương đồng:
Thống nhất về thời gian phân bố chương trình, qua hai bảng phân phối trên ta
thấy môn Ngữ văn lớp 11, học kì 1 ở cả hai bộ sách đều phân bố bài học trong 19 tuần
và 72 tiết. Cụ thể từ tuần 1 đến tuần 15 mỗi tuần 4 tiết (15 tuần x 4 tiết ) tuần 16 đến
tuần 19 mỗi tuần 3 tiết (4 tuần x 3 tiết ), 15 tuần x 4 tiết + 4 tuần x 3 tiết = 72 tiết. Dù
hai SGK khác nhau nhưng thời lượng bài và thời gian học là bằng nhau, đều đó cho
thấy sự chênh lệch của hai sách này là không đáng kể.
Bên cạnh đó, hai bộ sách cịn thống nhất với nhau về số tiết của các phân môn
trong phân phối chương trình, để khảo sát kĩ hơn về vấn đề này chúng tôi lập bảng so
sánh về số tiết của ba phân môn ở cả hai bộ SGK.
Bảng so sánh sự phân bố số tiết trong phân phối chương trình.

Phân mơn

Đọc văn

SGK Ngữ văn lớp 11 tập 1 bộ
cơ bản
(72 tiết)
42 tiết trong đó phần đọc thêm
chiếm 7 bài

Tiếng việt

10 tiết trong đó 6 tiết lí thuyết
và 4 tiết thực hành

Làm văn

20 tiết trong đó 3 tiết thi và trả
bài thi học kì 1

21

SGK Ngữ văn lớp 11 tập 1 bộ
nâng cao
(72 tiết)
40 tiết trong đó phần đọc
thêm chiếm 9 bài
11 tiết trong đó 4 tiết lí thuyết
và 7 tiết thực hành

21 tiết trong đó 3 tiết thi và
trả bài thi học kì 1



5 tiết làm bài viết và trả bài viết
5 tiết lí thuyết
7 tiết thực hành

6 tiết làm bài viết và trả bài
viết
4 tiết lí thuyết
1 tiết ơn tập
7 tiết thực hành

Qua bảng so sánh ta thấy số tiết của ba phân môn: Đọc văn, Tiếng việt và Làm
văn là tương đương nhau ở cả hai bộ sách. Cụ thể phần đọc văn chiếm khoảng 57% ,
phần Tiếng việt chiếm khoảng 14% và Làm văn chiếm khoảng 29% trên tổng số 72
tiết.
Dị biệt:
Có sự chênh lệch nhau về số tiết giảng dạy của ba bộ phận: Đọc văn, Tiếng việt,
Làm văn. Cũng dựa vào bảng so sánh trên, ta nhận thấy số tiết đọc văn của bộ SGK
Ngữ văn lớp 11 tập 1 bộ nâng cao giảm đi 2 tiết so với SGK Ngữ văn 11 tập 1 bộ cơ
bản, chỉ còn 40 tiết. Trong phần đọc văn chia thành 2 bộ phận đó là phần học chính
thức và phần đọc thêm, SGK Ngữ văn bộ cơ bản bao gồm 42 tiết trong đó phần học
chính thức là 35 tiết và phần đọc thêm là 7 bài, SGK Ngữ văn bộ nâng cao là 40 tiết
trong đó phần học chính thức chiếm 31 tiết và phần đọc thêm chiếm 9 bài. Ta thấy
phần học chính thức của SGK Ngữ văn bộ nâng cao ít hơn SGK bộ cơ bản là 4 tiết
nhưng bù lại phần đọc thêm của SGK Ngữ văn nâng cao lại nhiều hơn SGK Ngữ văn
bộ cơ bản 2 bài.
Phần tiếng việt cũng có sự chênh lệch số tiết nhưng không đáng kể chỉ 1 tiết,
phần Tiếng việt của SGK Ngữ văn bộ cơ bản là 10 tiết, trong đó bao gồm 6 tiết lí
thuyết và 4 tiết thực hành, SGK bộ nâng cao là 11 tiết trong đó phần lí thuyết chiếm 4

tiết ít hơn so với phần lí thuyết bộ cơ bản 2 tiết ngược lại phần thực hành của bộ SGK
nâng cao chiếm 7 tiết.
Đối với phần Làm văn tổng số tiết của hai bộ sách chênh lệch nhau 1 tiết cụ thể
SGK bộ cơ bản tổng số là 20 tiết, SGK bộ nâng cao là 21 tiết. Phần này hai bộ sách
giống nhau ở chổ có 3 tiết thi và trả bài thi, 7 tiết thực hành. Khác nhau là số tiết làm
bài viết và trả bài viết của SGK bộ cơ bản là 5 tiết, phần lí thuyết là 5 tiết cịn SGK bộ
nâng cao số tiết làm bài viết và trả bài viết là 6 tiết, phần lí thuyết là 4 tiết, riêng bộ
sách này có dành 1 tiết ơn tập làm văn. Đây là điểm khác nhau cơ bản của phân phối
chương trình SGK Ngữ văn 11 tập 1 bộ cơ bản và nâng cao.

1.3 Cấu trúc chương trình SGK ngữ văn lớp 11 tập 1 bộ cơ bản và bộ
nâng cao.
Cấu trúc chương trình, SGK là cách sắp xếp các bài học trong sách thành một hệ
thống nhất định, sự sắp xếp đó sao cho phù hợp với mục tiêu cũng như nội dung của
môn học. Cấu trúc SGK Ngữ văn là sự tích hợp của ba bộ phận bao gồm: Đọc văn,
Tiếng việt và Làm văn, sự tích hợp đó khơng đơn thuần là sự kết hợp một chiều, cứng

22


nhắc mà đó là sự kết hợp linh hoạt, đa chiều giữa các bộ phận với nhau. Ba bộ phận
này kết hợp đan xen với nhau, có khi trong một tuần các em học đầy đủ cả ba phân
môn, Các bộ phận trong cấu trúc có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau, bộ phận
này là nền tảng để tiếp cận bộ phận khác và ngược lại. Cấu trúc SGK Ngữ văn lớp 11
tập 1 bộ cơ bản và bộ nâng cao cũng dựa vào kết cấu chung đó, tuy nhiên do mục tiêu
của từng loại sách khác nhau dẫn đến cấu trúc SGK cũng có sự khác nhau nhưng
không đáng kể. Sau đây là bảng so sánh cấu trúc SGK Ngữ văn lớp 11 tập 1 bộ cơ bản
và nâng cao, nhằm giúp chúng ta thấy rõ về điểm tương đồng và dị biệt của hai bộ
sách này.
Bảng so sánh cấu trúc SGK Ngữ văn lớp 11 tập 1 bộ cơ bản và bộ nâng cao

Cấu trúc SGK Ngữ văn lớp 11
Cấu trúc SGK Ngữ văn lớp 11
Bộ phận
tập 1 bộ cơ bản.
tập 1 bộ nâng cao.
Phần đọc văn đưa vào học chính Phần đọc văn đưa vào học chính
thức đi theo trình tự từ văn học thức đi theo trình tự từ văn học
trong nước đến văn học nước ngoài trong nước đến văn học nước ngoài
Văn học trong nước bao gồm văn Văn học trong nước bao gồm văn
học trung đại và hiện đại
học trung đại và hiện đại
Văn học trung đại, chủ yếu là văn Văn học trung đại, chủ yếu là văn
học nữa cuối thế kỉ XIX. Bao gồm học nữa cuối thế kỉ XIX. Bao gồm
một số tác phẩm như:
một số tác phẩm như:
- Vào phủ chúa Trịnh -Lê Hữu - Vào phủ chúa Trịnh -Lê Hữu
Trác
Trác
- Tự tình –Hồ Xuân Hương
- Lẽ ghét thương - Nguyễn Đình
- Câu cá mùa thu –Nguyễn
Chiểu
Khuyến
- Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc –
Đọc văn
- Thương vợ -Trần Tế Xương
Nguyễn Đình Chiểu
- Bài ca ngất ngưỡng –Nguyễn - Tác gia Nguyễn Đình Chiểu
Cơng Trứ
- Tự tình –Hồ Xuân Hương

- Bài ca ngắn đi trên bãi cát – - Bài ca ngắn đi trên bãi cát –
Cao Bá Quát.
Cao Bá Quát.
- Lẽ ghét thương - Nguyễn Đình - Câu cá mùa thu –Nguyễn
Chiểu
Khuyến
- Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc – - Tiến sĩ giấy –Nguyễn Khuyến
Nguyễn Đình Chiểu
- Tác gia Nguyễn Khuyến
- Chiếu cầu hiền –Ngơ Thì Nhậm - Thương vợ -Trần Tế Xương
- Bài ca ngất ngưỡng –Nguyễn
Cơng Trứ
- Chiếu cầu hiền –Ngơ Thì
Nhậm

23


Văn học hiện đại
Chủ yếu là văn học đầu thế kỉ XX
đến Cách mạng tháng tám năm
1945. Thể loại chủ yếu là truyện
ngắn, tiểu thuyết và kịch. Với một
số tác phẩm tiêu biểu như:
- Hai đứa trẻ - Thạch Lam
- Chữ người tử tù –Nguyễn Tuân
- Hạnh phúc một tang gia –(trích
tiểu thuyết Số đỏ của Vũ Trọng
Phụng)
- Chí Phèo –Nam Cao

- Vĩnh biệt cửu trùng đài –
Nguyễn Huy Tưởng

Văn học hiện đại
Chủ yếu là văn học đầu thế kỉ XX
đến Cách mạng tháng tám năm
1945. Thể loại chủ yếu là truyện
ngắn, tiểu thuyết và kịch. Với một
số tác phẩm tiêu biểu như:
- Hai đứa trẻ - Thạch Lam
- Chữ người tử tù –Nguyễn Tuân
- Hạnh phúc một tang gia –(trích
tiểu thuyết Số đỏ của Vũ Trọng
Phụng)
- Chí Phèo –Nam Cao
- Đời thừa –Nam Cao
- Tác gia Nam Cao
- Vĩnh biệt cửu trùng đài –
Nguyễn Huy Tưởng
Văn học nước ngoài
Văn học nước ngoài
SGK đưa vào văn học nước Anh SGK đưa vào văn học nước Anh
với tác giả nổi tiếng Sếch-xpia.
với tác giả nổi tiếng Sếch-xpia.
Tình yêu và thù hận – Sếch –xpia
Tình yêu và thù hận – Sếch –xpia

Phần lí luận văn học
Phần lí luận văn học
Một số thể loại văn học: Thơ, Đọc tiểu thuyết và truyện ngắn

truyện
Đọc kịch bản văn học
Bài đọc thêm
SGK đưa vào một số bài đọc thêm
Bài đọc thêm
SGK đưa vào một số bài đọc thêm tương ứng với cụm thể loại và giai
tương ứng với cụm thể loại và giai đoạn văn học của phần đọc văn đưa
đoạn văn học của phần đọc văn đưa vào học chính thức
vào học chính thức
- Cha tơi –Đặng Huy Trứ
- Khóc Dương Kh –Nguyễn - Chạy giặc –Nguyễn Đình
Khuyến
Chiểu
- Vịnh khoa thi hương –Trần Tế - Khóc Dương Kh –Nguyễn
Xương
Khuyến
- Chạy giặc –Nguyễn Đình - Vịnh khoa thi hương –Trần Tế
Chiểu
Xương
- Bài ca phong cảnh Hương Sơn - Bài ca phong cảnh Hương Sơn
–Chu Mạnh Trinh
–Chu Mạnh Trinh
- Xin lập khoa luật –Nguyễn - Xin lập khoa luật –Nguyễn

24


Trường Tộ
- Cha con nghĩa nặng –Hồ Biểu
Chánh

- Vi hành –Nguyễn Ái Quốc
- Tinh thần thể dục –Nguyễn
Công Hoan
Sau mỗi giai đoạn văn học có phần
ơn tập củng cố kiến thức.

Phần lí thuyết
SGK đưa vào một số phong cách
ngơn ngữ và ngữ cảnh giao tiếp như
- Ngôn ngữ chung đến lời nói cá
nhân
- Ngữ cảnh
- Phong cách ngơn ngữ báo chí
Phần thực hành
- Thực hành về thành ngữ, điển
cố.
Tiếng việt
- Thực hành về nghĩa của từ
trong sử dụng.
- Thực hành về lựa chọn trật tự
các bộ phận trong câu.
- Thực hành một số kiểu câu
trong văn bản

Làm văn

Trường Tộ
- Đổng mẫu
- Cha con nghĩa nặng –Hồ Biểu
Chánh

- Vi hành –Nguyễn Ái Quốc
- Nghệ thuật băm thịt gà – Ngô
Tất Tố
- Tinh thần thể dục –Nguyễn
Công Hoan
Sau mỗi giai đoạn văn học có phần
ơn tập củng cố kiến thức.
Phần lí thuyết
SGK đưa vào một số phong cách
ngôn ngữ và ngữ cảnh giao tiếp
như
- Ngơn ngữ chung đến lời nói cá
nhân
- Ngữ cảnh
- Phong cách ngơn ngữ báo chí
Phần thực hành
- Thực hành về ngơn ngữ chung
và lời nói cá nhân
- Thực hành về hiện tượng tách
từ
- Thực hành về trường từ vựng
và từ trái nghĩa
- Thực hành về phong cách ngôn
ngữ báo chí
- Thực hành về tách câu
- Luyện tập về từ Hán Việt

Phần lí thuyết
Phần lí thuyết
SGK đưa vào các bài học nhằm

SGK đưa vào các bài học nhằm
rèn luyện kĩ năng lập luận cho học rèn luyện kĩ năng lập luận cho học
sinh như:
sinh như:
- Phân tích đề, lập dàn ý bài văn - Thao tác lập luận phân tích
nghị luận
- Thao tác lập luận so sánh
- Thao tác lập luận phân tích
- Phỏng vấn và trả lời phỏng vấn

25


×