Tải bản đầy đủ (.pdf) (66 trang)

Ảnh hưởng của đạo đức nho giáo đến giáo dục đạo đức gia đình việt nam trong lịch sử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (642 KB, 66 trang )

SVTH: Lê Thị Hằng
MSSV: 6064644

GVHD: TS. Đinh Ngọc Quyên

LỜI CẢM ƠN
Qua những năm tháng học tập và rèn luyện tại trường Đại học Cần Thơ, tôi
đã tích lũy được những kiến thức bổ ích và cần thiết để tiến hành thực hiện luận
văn tốt nghiệp của mình. Luận văn tốt nghiệp là một trong những hành trang tri
thức, đề tài cuối cùng mà tôi nghiên cứu khi còn học ở trường Đại học Cần Thơ.
Tôi nghĩ việc nghiên cứu, thực hiện luận văn tốt nghiệp sẽ giúp cho bản thân tôi
có được nhiều điều bổ ích về tri thức và những kinh nghiệm quý báu cho công tác
giảng dạy sau này.
Trong suốt quá trình nghiên cứu tìm tòi để bắt đầu viết cho đến khi hoàn
thành luận văn nay, tôi đã nhận được rất nhiều lời động viên, chỉ dạy chân thành
và sự giúp đỡ của thầy Đinh Ngọc Quyên, từ tất cả các thầy cô thuộc khoa, Khoa
học Chính trị và các bạn trong lớp. Chính sự động viên giúp đỡ đó đã tạo cho tôi
thêm nhiều nghị lực để hoàn thành tốt luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn thầy Đinh Ngọc Quyên đã hết lòng giúp đỡ,
hướng dẫn, góp ý cho bài viết của tôi. Tôi cũng xin trân trọng cảm ơn các thầy cô
trong khoa, Khoa học Chính trị, trường Đại học Cần Thơ đã dìu dắt và truyền đạt
kiến thức cho tôi trong mấy niên học vừa qua, đồng thời đã tạo mọi điều kiện
thuận lợi để tôi có được những tài liệu cần thiết phục vụ cho việc thực hiện đề tài
luận văn này. Và tôi xin cảm ơn các bạn lớp Sư phạm Giáo dục công dân khóa 32
với những lời động viên và sự giúp đỡ chân thành.
Tuy nhiên do thời gian có hạn và vốn kiến thức còn hạn chế, nên tôi không
tránh khỏi nhưng thiếu sót, rất mong được sự góp ý của thầy cô và các bạn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Cần thơ,tháng 09 năm 2009
Lê Thị Hằng



Luân văn tốt nghiệp

1


SVTH: Lê Thị Hằng
MSSV: 6064644

GVHD: TS. Đinh Ngọc Quyên

PHẦN MỞ ĐẦU
1.

LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Nho giáo là một học thuyết chính trị, đạo đức đặc trưng cho nét đặc sắc của
văn hóa Phương Đông là một trong những di sản văn hóa của nhân loại. Qua hơn
hai thế kỷ tồn tại và phát triển, Nho giáo đã chứng tỏ sức sống mãnh liệt cả về giá
trị lý luận và thực tiễn của nó. Nho giáo không chỉ chi phối đời sống chính trị xã
hội, đạo đức, văn hóa giáo dục ở Trung Quốc mà còn ảnh hưởng sâu sắc đến đời
sống văn hóa tinh thần của nhiều quốc gia dân tộc trong đó có Việt Nam.
Mặc dù còn nhiều thiếu sót nhưng tư tưởng giáo dục của Nho giáo, đặc biệt
là giáo dục đạo đức đối với gia đình, được các triều đại phong kiến Việt Nam tiếp
thu, sử dụng vào việc quản lý đất nước, đào tạo con người góp phần tạo nên bộ
mặt văn hóa tinh thần của dân tộc ta trong suốt chiều dài lịch sử.
Ngày nay chúng ta tiến hành đổi mới đất nước, phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà
bản sắc dân tộc. Hơn hai mươi năm đổi mới đất nước đã đạt được nhiều thành tựu
to lớn trên tất cả các phương diện: chính trị ổn định, kinh tế tăng trưởng, văn hóa

xã hội phát triển, quan hệ quốc tế ngày càng được mở rộng.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, mặt trái của kinh tế thị
trường cũng nảy sinh nhiều diễn biến phức tạp: hiện tượng tham nhũng, chạy theo
lối sống thực dụng, vấn đề đạo đức, lối sống của một bộ phận quần chúng trong đó
có vấn đề đạo đức gia đình đang là một mối quan tâm lớn của xã hội nước ta hiện
nay.
Từ thực tế đó việc đánh gía lại vai trò giáo dục đạo đức của Nho giáo đối với
gia đình Việt Nam trong lịch sử có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và cấp thiết. Việc
nghiên cứu này giúp chúng ta thấy được những giá trị tích cực của đạo đức Nho
giáo đối với gia đình Việt Nam, trên cơ sở đó kế thừa, phát huy những giá trị tích
cực đó vào việc xây dựng gia đình Việt Nam hiện nay phù hợp với yêu cầu của sự
nghiệp đổi mới.

Luân văn tốt nghiệp

2


SVTH: Lê Thị Hằng
MSSV: 6064644

GVHD: TS. Đinh Ngọc Quyên

Chính vì tầm quan trọng của vấn đề nói trên tôi đã chọn đề tài: “ Ảnh hưởng
của đạo đức Nho giáo đến giáo dục đạo đức gia đình Việt Nam trong lịch sử” làm
đề tài luận văn tốt nghiệp cho mình.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu.
- Luận văn nghiên cứu tư tưởng của Nho giáo trong lịch sử triết học Trung
Hoa Cổ - Trung đại.

- Trên cơ sở đó luận văn làm rõ ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của đạo đức
Nho giáo đến gia đình Việt Nam trong lịch sử.
Từ đó kế thừa phát huy những giá trị tích cực của đạo đức Nho giáo trong
xây dựng đạo đức gia đình ở nước ta hiện nay.
2.2. Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài chỉ nghiên cứu đạo đức Nho giáo và ảnh hưởng tích cực, tiêu cực của
nó đối với đời sống đạo đức gia đình Việt Nam từ thời phong kiến đến hiện nay.
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI.
3.1. Mục đích:
- trên cơ sở nghiên cứu những nội dung cơ bản của đạo đức Nho giáo và ảnh
hưởng của đạo đức Nho giáo đến giáo dục đạo đức gia đình Việt Nam trong lịch
sử.
- kế thừa, phát huy những giá trị của đạo đức Nho giáo để xây dựng đạo đức
gia đình ở nước ta hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ:
- Phân tích khái lược về Nho giáo và nội dung cơ bản của đạo đức Nho giáo.
- phân tích sự ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đến giáo dục đạo đức gia
đình Việt Nam trong lịch sử.
- phân tích sự kế thừa, phát huy những giá trị tích cực của đạo đức Nho giáo
để xây dựng đạo đức gia đình Việt Nam hiện nay.
4. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
4.1. Cơ sở lý luận:
- Dựa trên cơ sở lý luận của lịch sử triết học, Đạo đức học Mác – Lênin; các
nguyên lý của: chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư
Luân văn tốt nghiệp

3


SVTH: Lê Thị Hằng

MSSV: 6064644

GVHD: TS. Đinh Ngọc Quyên

tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, tư tưởng của Đảng cộng sản Việt Nam được
thể hiện trong các văn kiện của Đảng.

4.2 Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình nghiên cứu đề tài tác giả sử dụng tổng hợp các phương pháp
của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử trong đó chú ý các
phương pháp: lôgíc và lịch sử, phân tích và tổng hợp, gắn lý luận với thực tiễn để
thực hiện nhiệm vụ đề tài đặt ra.
5. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, mục lục. luận văn
được chia thành 2 chương, 5 tiết.

Luân văn tốt nghiệp

4


SVTH: Lê Thị Hằng
MSSV: 6064644

GVHD: TS. Đinh Ngọc Quyên

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. KHÁI LƯỢC VỀ NHO GIÁO VÀ NỘI DUNG CƠ
BẢN CỦA ĐẠO ĐỨC NHO GIÁO Ở TRUNG QUỐC.
1.1 HOÀN CẢNH RA ĐỜI VÀ KHÁI LƯỢC CÁC THỜI KỲ PHÁT

TRIỂN CỦA NHO GIÁO

1.1.1 Hoàn cảnh ra đời
Nho giáo ra đời khi xã hội Trung Quốc bước vào thời Đông Chu. Xã hội
Đông Chu được chia thành hai thời kỳ, thời kỳ Xuân Thu (722 - 479) và thời kỳ
chiến quốc (479 – 221) trước công nguyên. Đây là thời kỳ chuyển từ chế độ chiếm
hữu nô lệ sang chế độ phong kiến thời kỳ này có những đặc điểm sau:
Thời Xuân Thu, nền kinh tế của Trung Quốc đang chuyển từ thời đại đồ đồng
sang thời đại đồ sắt. Việc dùng công cụ đồ sắt ngày càng trở nên phổ biến. Trong
sách quốc ngữ có viết “Đồng thau để kiêm khích, sắt đúc quả cân…” phát minh
mới về khai thác và sử dụng đồ sắt đem lại những tiến bộ mới trong việc cải tiến
công cụ kỹ thuật sản xuất nông nghiệp. Chính vì vậy, diện tích đất canh tác được
mở rộng, kỹ thuật trồng trọt được cải tiến, tạo điều kiện tăng năng suất trong nông
nghiệp… Mặt khác, nông nô không ngừng vỡ hoang và biến thành ruộng đất tư
ngày càng nhiều, bọn quý tộc cũng chiếm dần ruộng đất của công xã thành ruộng
đất tư. Chế độ “tĩnh điền” tan rã. Sau đó, chế độ tư hữu còn được nhà nước, pháp
luật bảo vệ và thừa nhận.
Việc sử dụng công cụ bằng sắt trở nên phổ biến cùng với việc mở rộng trao
đổi sản phẩm lao động, sự phân công trong sản xuất thủ công nghiệp thúc đẩy
hàng loạt các nghành nghề thủ công nghiệp phát triển. Trong sách Chu Lễ đã viết
“ thợ mộc chiếm bảy phần, thợ kim khí chiếm sáu phần, thợ gia chiếm năm phần,
thợ nhuộm chiếm năm phần, thợ nề chiếm hai phần…”.
Trên cơ sở phát triển sản xuất thủ công nghiệp, thương nghiệp phát triển hơn
trước, tiền tệ xuất hiện. Trong xã hội đã hình thành các tầng lớp thương nhân giàu
có và ngày càng có thế lực. Thương nhân đã có nhiều người kết giao với chư hầu
và công khanh đại phu, gây nhiều ảnh hưởng đến chính trị đương thời. Chính sự
hình thành thương nghiệp buôn bán đã tạo ra trong cơ cấu xã hội một tầng lớp

Luân văn tốt nghiệp


5


SVTH: Lê Thị Hằng
MSSV: 6064644

GVHD: TS. Đinh Ngọc Quyên

mới. Tầng lớp này dần dần xuất hiện một loại quý tộc mới với thế lực ngày càng
mạnh tìm cách leo lên giành quyền lực với tầng lớp quý tộc cũ.
Chính trị và xã hội nếu thời Tây Chu chế độ tông pháp “phong hầu kiến địa”
vừa có ý nghĩa ràng buộc về kinh tế vừa có ý nghĩa về chính trị, ràng buộc về
huyết thống có tác dụng tích cực làm cho nhà Chu giữ được một thời gian dài
hưng thịnh. Đến thời kỳ Xuân Thu chế độ tông pháp nhà Chu không còn được tôn
trọng, đầu mối các quan hệ kinh tế, chính trị, quân sự thiên tử và các nước chư hầu
ngày càng lỏng lẽo, huyết thống ngày càng xa, trật tự lễ nghĩa thờ nhà Chu không
còn được tôn trọng như trước thiên tử nhà Chu hầu như không còn uy quyền với
các nước chư hầu.
Thời Xuân Thu các lãnh chúa càng tăng cường bóc lột nhân dân lao động.
Người dân ngoài việc đi chiến trận thực hiện các cuộc chinh phạt của các tập đoàn
quý tộc còn phải chịu thuế khóa, phu phen, lao dịch nặng nề. Thiên tai thường
xuyên xảy ra, nạn cướp bóc nổi lên khắp nơi khiến cho đời sống nhân dân càng
thêm khổ. Dân lưu vong “đồng trong ruộng ngoài bỏ hoang”. Bên cạnh đó các
lãnh chúa còn gây chiến tranh thôn tính lẫn nhau cũng như các lãnh chúa bóc lột
tàn khốc của dân chúng không chỉ dẫn đến sự tuyệt vọng hàng loạt các nước chư
hầu nhỏ mà còn phá hoại lễ nghĩa nhà Chu, phá hoại trật tự triều hội, triều cống,
chinh phạt giữa các chư hầu làm cho sự rối loạn xã hội ngày càng tăng. Đặc biệt là
những lễ nghi chặt chẽ tôn nghiêm trước đây đã góp phần bảo vệ và làm hưng
thịnh chế độ tông pháp nhà Chu, đến lúc này đã bị xem thường tông pháp nhà
Chu, tình trạng lễ nghĩa cương thường đã bị đảo lộn đạo đức suy đồi. Ở thời Xuân

Thu biểu hiện qua các tệ nạn xã hội như: tiếm ngôi việt vi, chư hầu chiếm dụng lễ
nghĩa quân thiên tử, đại phu chiếm dụng lễ nghĩa của chư hầu. Trong xã hội cảnh
tôi giết vua, con hại cha, vợ chồng chia lìa thường xuyên xảy ra. Tình trạng đó
theo Khổng Tử không xảy ra một sớm một chiều mà còn âm ỉ từ lâu. Trật tự xã
hội rối loạn, đời sống nhân dân lâm vào cảnh cùng cực, cuộc sống xa hoa của bọn
lãnh chúa quý tộc đã dẫn đến các cuộc khởi nghĩa của nông dân và nô lệ liên tục
xảy ra. Tất cả các tình hình đó đã dẫn đến mâu thuẫn gay gắt trong xã hội lên đến
đỉnh cao, đưa chế độ chiếm hữu nô lệ Trung Quốc lao nhanh đến giờ phút cáo
chung.
Luân văn tốt nghiệp

6


SVTH: Lê Thị Hằng
MSSV: 6064644

GVHD: TS. Đinh Ngọc Quyên

Thời Chiến Quốc đã có bước phát triển mạnh mẽ về kinh tế. Nghề luyện sắt
đã đạt tới trình độ khá cao, sự phát triển đó kéo theo sự phát triển của ngành thủ
công, như nghề làm gốm, nghề trồng dâu nuôi tằm, dệt lụa, nghề chạm trổ vàng,
bạc… tiền bằng kim loại ra đời. Thương nghiệp và các trung tâm trao đổi hàng
hóa hưng thịnh.
Bên cạnh sự phát triển kinh tế, chiến tranh tàn khốc trên quy mô lớn và liên
tục giữa các nước chư hầu làm cho đời sống của nhân dân lao động ngày càng
cùng cực hơn. Mạnh Tử viết “đánh nhau trong thành giết người thây chết đầy
thành; đánh nhau giành đất, giết người thây chết đầy đồng” (Mạnh Tử, Li Lao
Thượng). Thực tế kinh tế xã hội bất ổn đã làm cho công xã nông thôn tan rã. Chế
độ chiếm hữu tư nhân về ruộng đất dần dần trở thành quan hệ sở hữu thống trị

thay thế cho chế độ thu thuế vào sản lượng thu hoạch trước kia, thì nay thuế tính
theo sản lượng đất. Việc mua bán ruộng đất tự do và phổ biến của chế độ tư hữu
đã mở đường cho ruộng đất tập trung vào tay một số ít lãnh chúa, và địa chủ giàu
có. Đa số nông dân nghèo mất hết ruộng đất phải đi cày thuê, cấy mướn trở thành
tá điền cố nông. Chế độ bóc lột bằng phát canh thu tô xuất hiện. Trong xã hội xuất
hiện những yếu tố quan hệ sản xuất mới, đó là chế độ phong kiến quận huyện.
Mâu thuẫn gay gắt ngày càng gay gắt hơn, đẩy xã hôi đến nguy cơ nghiêm trọng.
Tuy nhiên, cùng với thực tiễn xã hội, thời Xuân Thu chiến quốc cũng đã đạt được
những thành tựu rực rỡ về thiên văn, địa lý, cơ học, y học…chính những thành tựu
này không những đã thức đẩy cho sản xuất phát triển mà còn là một trong những
tiền đề làm nảy sinh tư tưởng triết học Trung Quốc cổ đại.
Nhìn chung trong điều kiện lịch sử biến đổi toàn diện và sâu sắc đã đặt ra
những vấn đề triết học, chính trị, xã hội, luân lý đạo đức, kinh tế, pháp luật, quân
sự, ngoại giao,… kích thích lòng người, kích thích các bậc thái tử đương thời quan
tâm lý giải để tìm ra các phương pháp giải quyết “cứu đời, cứu người” làm nảy
sinh hàng loạt các nhà tư tưởng nổi tiếng và các trường phái triết học lớn. Nó thực
sự trở thành đỉnh điểm trong toàn bộ đời sống văn hóa tinh thần trong xã hội
Trung hoa cổ đại như một mốc son chói lọi trong lịch sử phương Đông. Sự phong
phú đa dạng của các thế hệ triết học thời kỳ Xuân Thu Chiến Quốc người ta phải
gọi thời kỳ này là thời kỳ “bách gia chi tử” (“bách gia” thiên thiên hạ, sách Nam
Luân văn tốt nghiệp

7


SVTH: Lê Thị Hằng
MSSV: 6064644

GVHD: TS. Đinh Ngọc Quyên


Hoa Kinh, “chư tử” Thiên Giả nghị liệt truyện, sách sử ký…) như trăm hoa đua
nở, muôn chim cùng hót. Thời kỳ này cũng là điều kiện ra đời của các hệ thống
triết học phương Đông mà tiêu biểu nhất là học thuyết Nho giáo của Khổng Tử
mang lại nhiều giá trị nhất

1.1.2 Khái lược về Nho giáo ở Trung Quốc
Trong quá trình phát triển Nho giáo đã trải qua bốn giai đoạn chủ yếu, đó là
Nho giáo thời Tiên Tần, Nho giáo thời Hán, Nho giáo thời Tống – Minh và Nho
giáo thời kỳ đầu nhà Thanh.
1.1.1.1. Nho giáo thời kỳ Tiên Tần
Sự hình thành và phát triển của Nho Giáo thời Tiên Tần gắn với tên tuổi của
người sáng lập là Khổng Tử và hai nhà tư tưởng lớn là Mạnh Tử và Tuân Tử.
Khổng Tử (551- 479 TCN) thuộc dòng dõi nhà Chu. Ông lại sinh ra ở nước
Lỗ và được Chu Công Đán, em út Chu Công Vũ xây dựng. Khổng Tử rất mến
phục tài đức của Chu Công, người đã đem lại cho nước Lỗ một nền văn hóa tốt
đẹp, thừa kế tinh hoa của các đời Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang, Văn Vũ…
Khổng Tử hết lời ca ngợi các triều đại Hạ, Thương, Chu đặc biệt là nhà Chu:
“nhà Chu thịnh vượng thay, ta theo nhà Chu”. Ông khen chính sự của nước Lỗ và
cho rằng chỉ có nước Vệ với nước Tề mới có khả năng theo kịp [10, tr.16].
Tự hào là người nước Lỗ, nơi coi trọng lễ giáo, tôn sùng tín nghĩa, giữ dược
phong tục của các tiên vương, Khổng Tử thấy đau lòng trước sự suy thoái của xã
hội đương thời, suốt đời ông đã phấn đấu ngăn chặn những cảnh xấu xa tàn bạo
đang diễn ra trước mắt và mong làm thế nào để xã hội trở lại thanh bình như thuở
trước.
Sự suy tàn của nhà Chu đã bắt đầu từ hai thế kỷ trước khi Khổng Tử ra đời.
Uy thế của thiên tử nhà Chu ngày càng sa sút. Các vua, chư hầu tranh chấp đất đai,
quyền lực. Nhà Chu chuyển kinh đô từ miền tây (Tây Chu) sang miền đông (Đông
Chu). Từ đó xã hội càng hỗn loạn hơn nữa, coi thường cả pháp luật và tôn giáo.
Trong nội bộ các nước chư hầu cũng diễn ra sự chém giết lẫn nhau.
Trước tình hình đó, Khổng Tử muốn nêu lên những tấm gương của thời xưa

để răn dạy người đời.

Luân văn tốt nghiệp

8


SVTH: Lê Thị Hằng
MSSV: 6064644

GVHD: TS. Đinh Ngọc Quyên

Ông ca ngợi vua Nghiêu: “Ông vua Nghiêu làm vua, đức nghiệp lớn thay!
Vòi vọi thay! Chỉ có trời là lớn thôi; chỉ có vua Nghiêu mới so sánh với trời được
thôi. Lồng lộng thay! Dân chúng chẳng có thể khen tặng đức nghiệp của ngài cho
xiết. Vòi vọi thay những đức nghiệp của ngài! Lễ nhạc và pháp độ của ngài rỡ
ràng thay!” [9. tr 129].
Ông nói về vua Thuấn và vua Vũ: “tâm chí cao lớn vòi vọi thay! Vua Thuấn
và vua vũ có thiên hạ, làm bực thiên tử, nhưng lòng chẳng dự” [9. tr129]. Đức
Khổng Tử nói rằng: “vua Vũ nhà Hạ ta chẳng chê trách được. Trong việc ăn uống
hàng bữa, người giữu đạm bạc; nhưng trong việc cúng tế quân thần, lễ vật người
dâng lên rất trọng hậu. Y phục ngài thường mặc thì xấu, nhưng áo mão ngài trang
sức trong dịp cúng tế thì rất đẹp. Cung thất của ngài thì nhỏ hẹp, nhưng ngòi lạch
trong nước, ngài tập lực mà sửa sang cho dân nhờ” [9. tr 131]. Ông khen vua
Thành Thang nhà Ân đã vì nghĩa lớn mà tiêu diệt vua Kiệt để cứu dân [9. tr. 131].
Khổng Tử muốn lấy chuyện đời xưa để giáo dục đời nay. Ông muốn “ôn cái
cũ mà biết cái mới”, “người nào ôn lại những điều đã học, do nơi đó mà biết thêm
những điều mới, người đó có thể làm thấy thiên hạ đó” [9, tr.21]. Ông tuyên bố:
“ta ham kinh sách của thánh hiền (như lục kinh: thi, thơ, dịch, lễ, nhạc, xuân thu)
là truyền lại cho đời sau, chứ ta chẳng có làm ra. Ta tin tưởng và hâm mộ đạo lý

của người xưa” [9, tr.99]. Ông lại nói: “ta chẳng muốn nữa”, “trời có nói chăng?
Thế mà bố mùa (xuân, hạ, thu, đông) cứ xoay vần mãi; trăm vật trong vũ trụ cứ
sanh hóa mãi. Mà trời có nói gì chăng?” [9, tr.279].
Vì không đủ bằng chứng cho lời nói của mình, Khổng Tử đã dành nhiều
công phu thu thập tài liệu lịch sử và di sản tư tưởng của ngày xưa. Ông đã ghép lại
và soạn thành kinh thi, kinh thư, kinh dịch, kinh lễ, kinh xuân thu. Dựa vào những
tài liệu ấy, ông đã phát biểu ý kiến với học trò, bình luận và mở rộng thêm, tạo nên
học thuyết hoàn chỉnh và mở rộng của ông.
Học thuyết của ông hướng vào việc làm như thế nào để chấm dứt được tình
trạng hỗn loạn của xã hội, suy thoái của đạo đức, sự khốn khổ của nhân dân trong
chiến tranh và đói rét.
Ông không phải là nhà cách tân để có chủ trương đổi mới xã hội theo chiều
hướng phát triển, ông chỉ luyến tiếc thời xưa và nghĩ rằng, nếu như đất nước lại có
Luân văn tốt nghiệp

9


SVTH: Lê Thị Hằng
MSSV: 6064644

GVHD: TS. Đinh Ngọc Quyên

những vua hiền, tôi giỏi thì mọi chuyện lại trở nên tốt đẹp. Hy vọng suốt đời của
ông là làm sao có được vua hiền, tôi giỏi ấy. Đó chính là phẩm chất cao qúy của
ông và cũng chính là bi kịch của ông.
Khổng Tử muốn đem chế độ của nhà Chu và lễ giáo của nhà Chu áp đặt trở
lại vào thời Đông Chu. Nhưng ở đây hoàn cảnh kinh tế xã hội đã đổi khác. Đến
đây xã hội đã phát triển. Động cơ thúc đẩy hành vi của giới cầm quyền và của tầng
lớp xã hội chủ chốt không còn điều “nhân nghĩa” của Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang,

Văn Vũ mà là những lợi ích vật chất đang xâu xé xã hội và xâu xé con người. Từ
quyền lợi thiết thực của giới kinh doanh nông nghiệp và thương nghiệp, Tần
Doanh Chính đã thống nhất Trung Quốc, hoàn toàn xóa bỏ nhà Chu và căm ghét
học thuyết của Khổng Tử. Ông ta không chỉ đốt sách và chôn nhà nho mà còn
chôn cả Khổng Tử. Khổng Tử và học thuyết của ông đã được báo tử kể từ ngày
ấy.
Mạnh Tử (371 – 289 TCN), tên thật là Mạnh Kha, tự là Dư, người đất Trâu
nước Lỗ (người đời sau tôn xưng là Mạnh Tử). Ông được tôn là “Á Thánh” (bậc
thánh nhân thứ hai sau Khổng Tử). Mạnh Tử là học trò của Tử Tư. Mạnh Tử từng
đi chu du nhiều nước nhưng chưa từng làm quan, suốt đời lo việc dạy học. Tư
tưởng của ông chủ yếu phản ánh trong bảy thiên sách Mạnh Tử do ông cùng học
trò biên soạn qua những lời của ông và học trò của ông. Mạnh Tử đứng trên lập
trường của bộ phận lạc hậu trong giai cấp địa chủ, qúy tộc, thị tộc cũ đang trên con
đường chuyển hóa giai cấp địa chủ phong kiến để lập thuyết, truyền bá tư tưởng
của mình. Mạnh Tử là người đầu tiên đề cập đến vấn đề cá nhân, vấn đề nhân cách
một cách có hệ thống và cụ thể. Ông chủ trương thuyết “tính thiện”, khẳng định
“thiện” là bản tính của con người, khi mới sinh ra ai cũng có. Theo ông, bản tính
của con người, khi sinh ra ai cũng có. Ông cho rằng bản chất của con người là
thiện ai cũng có cái tâm ai cũng có “lòng trắc ẩn”. Tâm là cái chủ đạo điều khiển
mọi hành vi. Mạnh Tử khẳng định, con người không cần phải tìm chân lý ở ngoài
thế giới khách quan, mà chỉ cần trở về suy xét chọn đến rốt ráo nội tâm của mình
là đủ. Trên thực tế, con người hiện thực có thể là ác, đó là do tác động của hoàn
cảnh, của xã hội.

Luân văn tốt nghiệp

10


SVTH: Lê Thị Hằng

MSSV: 6064644

GVHD: TS. Đinh Ngọc Quyên

Mạnh tử đã phát triển tư tưởng Khổng Tử: ông cho rằng đọc mà cứ mê mệt
vào sách không biết biến hóa của nó thì đừng đọc còn hơn. Ông đưa ra luận điểm
nổi tiếng là: trong quốc gia, quý nhất là dân, rồi đến đất đai, thóc gạo, của cải (xã
tắc), cuối cùng mới là vua. Đây là quan điểm hết sức mới mẽ và tiến bộ của ông.
Ông có ba mệnh đề nổi tiếng: Một là, chú trọng việc công hơn việc riêng; Hai là,
chú trọng hòa bình ghét chiến tranh; Ba là, không bao giờ chia rẽ chính trị với
nhân nghĩa trên chiến trường.
Thế giới quan của Mạnh Tử bao gồm cả chủ nghĩa duy tâm khách quan và
chủ nghĩa duy tâm chủ quan.
Về nhận thức luận, Mạnh Tử cho rằng, mọi người sinh ra đều có năng lực
nhận biết đó không phải là do cảm giác hay quá trình thực tiễn đưa ra mà nó vốn
có sẵn trong tâm. Khác với chủ nghĩa kinh nghiệm của Mạc Gia, Mạnh Tử nhấn
mạnh tầm quan trọng của nhận thức lý tính, nhấn mạnh giá trị của tư duy.
Về chính trị xã hội, Mạnh Tử chủ trương đức trị, tuyên truyền vương đạo
chống bá đạo, ông công khai ủng hộ chế độ đẳng cấp. Ông tuyên bố dứt khoát
người quân tử là người có quyền được thống trị, bóc lột kẻ tiểu nhân, kẻ tiểu nhân
là người phục vụ, nuôi dưỡng người quân tử.
Tư tưởng triết học duy tâm thần bí và những luận thuyết về luân lý, chính trị
của Mạnh Tử được Đổng Trọng Thư kế thừa, phát triển thành thứ chủ nghĩa duy
tâm tôn giáo cực đoan, trở thành hệ tư tưởng của chế độ phong kiến từ đời Hán về
sau.
Tuân Tử (298-238 TCN), tên là Huống, nhà triết học duy vật kiệt xuất trong
lịch sử triết học Trung Hoa thời cổ đại. Đứng trên lập trường cơ bản là duy vật.
Tuân Tử đã kế thừa và phê phán tất cả các trào lưu tư tưởng trước đó trên tất cả
các phương diện như vũ trụ quan, biện chứng pháp, nhận thức luận, lý luận xã
hội… và xây dựng nên học thuyết của mình. Tác phẩm của ông được hậu thế sưu

tầm, chỉnh lý và biên tập lại thành bộ Tuân Tử. Có thể nói ông là người tổng kết
lịch sử tư tưởng triết học Trung Hoa cổ đại.
Về thế giới quan, Tuân Tử đặt mối quan hệ giữa trời và người, mệnh đề:
“trời là người có sự phân biệt” là nội dung quan trọng nhất trong tư tưởng triết

Luân văn tốt nghiệp

11


SVTH: Lê Thị Hằng
MSSV: 6064644

GVHD: TS. Đinh Ngọc Quyên

học của Tuân Tử. Ông phản bác lối lập luận duy tâm thần bí về mối quan hệ giữa
trời và người của Tử Tư, Mạnh Tử.
So với Khổng Tử, Tuân Tử có nhiều điểm mới. Mối quan hệ giữa con người
và trời đất, Khổng Tử và Mạnh Tử giải quyết theo hướng duy tâm – thiên mệnh.
Tuân Tử giải quyết vấn đề này có nhiều yếu tố duy vật. Theo ông: trời, đất, người
là ba bộ phận cấu thành vũ trụ, mỗi quy luật có hoạt động riêng: trời, đất, thiên
mệnh không quyết định và can thiệp vào công việc của con người.
Con người trong triết học của Khổng – Mạnh là nạn nhân của số mệnh, thiên
mệnh. Thì con người trong triết học của Tuân Tử lại chống lại thiên mệnh, cải tạo
số phận của mình. Ông cho rằng, con người khác với các loài động vật ở chổ sống
tập thể theo xã hội, có tổ chức, có lễ nghĩa trên dưới.
Về nhận thức luận, đứng trên quan điểm duy vật về thế giới quan, Tuân Tử
đã giải quyết đúng đắn vấn đề nhận thức. Ông cho rằng: sự vật khách quan là cái
có trước; danh từ khái niệm là sự phản ánh các sự vật khách quan là cái có sau.
Ông coi thế giới là đối tượng của nhận thức, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa

cảm giác và tư duy trong quá trình nhận thức. Ông coi tri thức là kết quả của quá
trình hoạt động vật chất. Đó là những quan điểm tiến bộ, duy vật về lý luận nhận
thức của Tuân Tử.
Về lý luận đạo đức, Tuân Tử đưa ra thuyết “tính ác” để phản đối “tính thiện”
của Mạnh Tử. Ông cho rằng bản tính của con người vốn là ác. Bởi vậy, con người
ai cũng có lòng ham lợi, con người ai cũng có dục vọng. Đây là hai nguồn gốc gây
nên tội ác. Học thuyết Tuân Tử đề cập đến nhiều mặt: chính trị, triết học, con
người, xã hội, văn hóa nghệ thuật. Ông đặc biệt đánh giá cao khả năng cải tạo của
con người, cải tạo xã hội và cải tạo tự nhiên; nhưng nội dung, mục đích và phương
hướng cải tạo đó thì Tuân tử không thoát khỏi quỹ đạo của học thuyết Khổng –
Mạnh.
Nhìn chung, Nho giáo thời kỳ Tiên Tần đã trải qua ba thời kỳ biến thiên lớn:
Lúc đầu Khổng Tử lấy “nhân” mà dạy người cách đối thời dục vật, tức là lấy
cái trực giác mẫn nhuệ mà theo tiên lý để xử trí mọi việc cho phù hợp thời thuận
lý, khiến vạn vật các đắc kỳ sở và giữ được cái sinh thú ở đời. Thật là một sự học
có thái độ rất ung dung hoằng đại, đáng làm cơ sở cho sự học của người quân tử.
Luân văn tốt nghiệp

12


SVTH: Lê Thị Hằng
MSSV: 6064644

GVHD: TS. Đinh Ngọc Quyên

Cái học ấy truyền được hơn một trăm năm, Mạnh Tử lại phát minh ra cái mối
tâm học rõ ràng hơn nữa. Ông dạy người ta phải giữ lấy cái bản tâm rất linh diệu,
tự nó sáng suốt khiến ta biết rõ cái chân lý ở đời. Theo cái học của ông mà hễ
người nào giữ được cái tâm sáng suốt thì biết “nhân” là nhà rộng ta ở, “nghĩa” là

đường lớn ta đi, không bao giờ bị cái lợi và cái dục làm cho ta lầm đường lạc lối.
Nho Gia truyền đến đó tuy về đường hình thức có một vài điều hơi khác cái học
của Khổng Tử, nhưng tinh thần vẫn là một.
Cách Mạnh Tử độ mấy chục năm thì Tuân Tử xướng lên cái thuyết ‘tính ác”
và lại chú trọng dùng lễ mà kiểu sức cái tính ác. Tuy ông vẫn giữ cái nết nhân
nghĩa trung tín để làm cơ sở cho sự giáo hóa, nhưng ông thiên về mặt công dụng
và chủ trương thủ đoạn chuyên chế để trừ bỏ những điều mà ông cho là tà thuyết,
bí từ. Cái kết quả của sự học ấy gây thành cái chính trị chuyên chế ở thời nhà Tần.
Hết đời Tuân Tử thì trong Nho giáo chỉ còn một người trứ danh hơn cả là
Hán Phi; song Hán Phi lại không phải là người chân Nho nữa, cho nên ta có thể
nói rằng Nho giáo truyền đến đời nhà Tần đã bị gián đoạn.
Dưới thời nhà Tần, Nho giáo bước vào thời kỳ trung suy và đã gây ra vạ đốt
sách, chôn Nho rất tàn ác. Nhưng ta phải biết rằng chư sinh thuở ấy chẳng qua
phần nhiều là bọn phương sỹ, mượn tiếng Nho học mà kiếm lợi lộc, kỳ thực không
có mấy người thực Nho. Mà dầu có nữa, thì cũng chỉ là bọn học lối từ chương mà
thôi, chứ không có ai là người đã học đến bậc lập thành cái nghiệp “khai vật thành
trụ” như cái tôn chỉ chính đáng ở Nho giáo. Vậy nên lúc đó cái lệnh đốt sách và
chôn Nho vốn là rất hại cho sự văn học, nhưng không phải chỉ vì cái cớ ấy mà cái
học của Nho giáo mất đi. Nho giáo gián đoạn là bởi đã từ lâu trước các học giả
hoài bão chủ nghĩa hoài nghi, bỏ mất lòng tín ngưỡng của chân lý, và ai cũng chú
trọng ở sự công dụng thiển cận hẹp hòi, cho nên sứ giả nhà Tần không đốt sách và
không chôn Nho, thì Nho giáo cũng không tránh khỏi sự suy đồi.
Tóm lại, với sự khởi xướng của Khổng Tử, sự bổ sung và phát triển của
Mạnh Tử và Tuân Tử, Nho giáo thời tiên tần có mấy đặc điểm đáng chú ý sau:
Thứ nhất, vấn đề trung tâm của triết học Nho giáo thời Tiên Tần là vấn đề
chính trị - đạo đức.

Luân văn tốt nghiệp

13



SVTH: Lê Thị Hằng
MSSV: 6064644

GVHD: TS. Đinh Ngọc Quyên

Thứ hai, mặc dù đây là giai đoạn hình thành và bước đầu phát triển song
những vấn đề cơ bản của triết học Nho giáo đã được nêu ra và giải quyết rất thấu
đáo từ thời kỳ này, các nhà tư tưởng đời sau chỉ bổ sung và hoàn thiện nó trên cơ
sở nhu cầu của lịch sử và thời đại.
Thứ ba, Nho giáo thời Tiên Tần còn chứa đựng nhiều giá trị mang tính nhân
văn hơn những giai đoạn phát triển về sau.
Thứ tư, Nho giáo thời Tiên Tần đang cố gắng thoát khỏi ảnh hưởng của thế
giới quan thần quyền thời Hạ, Thương và giai đoạn đầu của nhà Chu nên các yếu
tố tôn giáo, thần bí không sâu đậm bằng Nho giáo thời Hán.
Nhìn chung, những nội dung cơ bản của triết học Nho giáo đã được hình
thành và ổn định từ thời kỳ này. Các nhà tư tưởng đời sau thông qua sự “ chú giải”
mà có thể thu hẹp hoặc mang những nội dung nguyên thủy ấy nhưng vẫn trên
danh nghĩa là bảo vệ và phát triển học thuyết Nho giáo.
1.1.1.2. Nho giáo thời kỳ nhà Hán.
Qua thử thách nghiệt ngã dưới ngọn lửa “đốt sách, chôn Nho sĩ” của nhà
Tần, sang đời Hán, Nho giáo lại được hồi sinh. Buổi đầu nhà Hán do thực hiện
chính sách phục sức dân, ổn định đời sống xã hội, nên các tư tưởng “nhân đạo”,
“nhân chính”, “hữu vi” của Nho giáo được tôn sùng. Đến thời Hán Vũ Đế, để
thích ứng với nhu cầu tăng cường nền chuyên chế phong kiến, các trào lưu triết
học chủ yếu phục hồi lý luận chính trị, đạo đức, thần quyền thời Tây Chu và lợi
dụng chủ nghĩa thần bí trong thuyết âm dương – ngũ hành xuất hiện cuối thời
chiến quốc, đề cao Nho học của Khổng – Mạnh, mê tín thuật thần tiên, ảo tưởng ở
sự trường sinh bất tử.

Vào năm 136 TCN, Đổng Trọng Thư đã cho điện định lại tất cả sách vở kinh
điển của Nho gia và phân lại thành năm loại gọi là ngũ kinh gồm: Kinh thư, Kinh
thi, Kinh lễ, Kinh dịch và Kinh xuân thu. Ông đã dùng học thuyết “tam cương”,
“ngũ thường” để thần bí hóa trật tự lễ nghĩa của xã hội phong kiến và quan điểm
đạo đức luân lý của Nho gia. Nho học được Đổng Trọng Thư cải tạo, kết hợp với
thần học “sấm vĩ” thành một trào lưu tư tưởng phản động của chủ nghĩa duy tâm
thần bí, chính thức trở thành hình thái ý thức chiếm vị trí thống trị trong xã hội
phong kiến thời Lưỡng Hán. Đó là vũ khí tinh thần của giai cấp thống trị nhằm nô
Luân văn tốt nghiệp

14


SVTH: Lê Thị Hằng
MSSV: 6064644

GVHD: TS. Đinh Ngọc Quyên

dịch quần chúng nhân dân lao động, hòa hoãn mâu thuẫn giai cấp trong xã hội và
khống chế các tập đoàn phong kiến địa phương. Tuy nhiên, trên cơ sở sự phát triển
của đời sống xã hội những thành tựu của khoa học, kỹ thuật, tư tưởng triết học duy
vật vô thần có bước phát triển mới. Nhân cuộc khủng hoảng xã hội với các cuộc
bạo động của nông dân liên tiếp nổ ra, phái không cầm quyền là những tầng lớp
địa chủ mới lên, những nhà trí thức tiến bộ đã đưa ra thế giới quan duy vật và
những quan điểm chính trị- xã hội tiến bộ, làm vũ khí tư tưởng chống lại tầng lớp
địa chủ, quý tộc cầm quyền lấy quan điểm thần học Nho giáo làm hệ tư tưởng
chính thống trong đời sống tinh thần xã hội đương thời.
Dưới sự chế biến của Đổng Trọng Thư, những yếu tố tích cực trong tư tưởng
luân lý, đạo đức đầy tính nhân bản và sinh động thời Khổng- Mạnh đã trở nên xơ
cứng, nghèo nàn, mang nặng tính chất duy tâm thần bí, nên nó đã làm mất đi ý

nghĩa uyên bác của Nho học.
Như vậy, sự phát triển của Nho giáo thời kỳ nhà Hán có những đặc điểm cơ
bản sau đây:
Thứ nhất, thời Hán Vũ Đế, Nho giáo trở thành hệ tư tưởng thống trị và chuẩn
mực đạo đức của xã hội phong kiến Trung Quốc.
Thứ hai, Nho giáo thời hán có sự pha trộn tư tưởng của các trường phái triết
học khác và phát triển theo hướng cực đoan, duy tâm thần bí. Nó đề cao sức mạnh
của thần quyền và dùng sức mạnh đó để phù trợ cho vương quyền.
Thời Tùy, Đường không chỉ có Nho giáo mà cả Phật giáo và Đạo giáo cũng
lưu hành và đều được nhà nước ủng hộ, trong đó Nho giáo vẫn chiếm được ưu thế
hơn so với các học phái khác. Nho giáo thời kỳ này ít nhiều chịu ảnh hưởng của
triết lý Phật giáo và ngược lại.
Nhà đường suy tàn và sụp đổ rồi triều Ngũ Quý rối loạn, Nho giáo vốn chủ
yếu dựa vào triều đình để thống trị đời sống tư tưởng của xã hội cũng mắc vào
vòng lúng túng, luẩn quẩn.
1.1.1.3 Nho giáo thời Tống- Minh.
Đến đời Tống – Minh, Nho giáo được phục hưng, một lần nữa Nho giáo
được tôn sùng và gắn liền với tên tuổi của các danh Nho như Trình Hạo, Trình Di,
Chu Hy, Lục Cữu Uyên, Vương Thủ Nhân… đời nhà Tống các vua sùng bái
Luân văn tốt nghiệp

15


SVTH: Lê Thị Hằng
MSSV: 6064644

GVHD: TS. Đinh Ngọc Quyên

Khổng Tử và Mạnh Tử rất được coi trọng. Vua Chân Tông (998 – 1022) đã đến

yết miếu của Khổng Tử. Vua Thần Tông (1065 – 1085) phong Mạnh Tử làm Châu
đốc vương, được cùng Nhan Tử phối sự với Khổng Tử, và lại phong Dương Hừng
làm thành Đô Bá, Hàn Vũ làm Xương Đô Bá, cùng thờ chung miếu. Lúc bấy giờ
có người xin tôn Khổng Tử làm đế, nhưng nhiều người bàn không nên mới thôi.
Nho giáo truyền đến thế kỷ XI, vào khoảng đời của vua Nhân Tông (1023 –
1024) thì thật là thịnh. Về đường học vấn lúc bầy giờ có những nhà đại Nho như:
Thiệu Ung, Chu Đôn Di, Trương Tái, xướng lên học thuyết lý học, rồi anh em họ
Trình là Trình Hạo và Trình Di nối các học thuyết ấy mà xác lập thành học phái.
Đến đời Nam Tống lại có Chu Hi, Lục Cử Uyên chia phái lý thành cái đạo vắn
học và tôn đức tính. Nét nổi bật của hoạt động Nho giáo là sự chú giải cuốn sách
kinh điển do Chu Hy tiến hành. Mặc dù không có sáng tạo đặc sắc gì, thầy Chu
cũng được đánh giá rất cao, triều đình kén chọn nhân tài cũng lấy các trước tác
của Chu Hy làm căn cứ đối chiếu.
Đến thời nhà Minh tạo điều kiện cho danh Nho nổi lên, tuy vậy, con đường
hoạt động của Nho giáo chủ yếu vẫn bằng con đường giảng dạy, thi cử theo tinh
thần “học không chán, dạy không mỏi”. Nề nếp cũ của Tống nho qua đời nhà
Nguyên cho đến thời kỳ bây giờ vẫn được tôn trọng và được thực hiện thành
những kỷ cương chặt chẽ hơn. Đến thế kỷ XVI, Nho giáo mới được một bước phát
triển mới, một trường phái khác các trường phái Hán nho và Tống nho. Ngọn cờ
nổi lên trên bước phát triển này là Vương Thủ Nhân, tự Ba An và thường có tên
gọi quen thuộc là Vương Dương Minh. Với Dương Vương Minh rõ ràng Nho giáo
vẫn có những bước tiến lên ở đây lại là những hướng duy tâm nhất nguyên, duy
tâm cực đoan. Có thể khẳng định rằng học thuyết của Dương Vương Minh là một
học thuyết đầy chủ tâm chủ quan triệt để ở Trung Quốc.
Tóm lại, Nho giáo thời Tống – Minh đã đạt tới đỉnh cao và chiếm vị trí độc
tôn hơn lúc nào hết. Nó đã bổ sung thêm phần bản thể luận triết học trên lập
trường duy tâm, có pha trộn tam giáo (Nho, Phật, Lão) và kế thừa những tư tưởng
triết học đặc sắc thời kỳ cổ đại, được phân làm hai phái: lý học do Chu Hy và
Trình Hạo, Trình Di đại diện; phái tâm học do Lục Cửu Uyên và Vương Thủ
Nhân là đại diện.

Luân văn tốt nghiệp

16


SVTH: Lê Thị Hằng
MSSV: 6064644

GVHD: TS. Đinh Ngọc Quyên

1.1.1.4 Nho giáo thời kỳ nhà Thanh
Nhà Thanh là nòi giống người Hồ ở vùng núi Tràng Bạc, phía Đông Bắc đất
Mãn Châu. Năm vạn lịch thứ 11 (1583) có người tù trưởng tên là Nộ Nhĩ Cáp xích
vật nổi lên đánh bại các bộ lạc, rồi đến năm vạn lịch thứ 44 (1610) xưng làm đế,
tức là vua Thái Tông nhà Thanh. Thái Tổ phái quân nhà Minh ở Thẩm Dương lập
thành một nước có thế lực rất mạnh.
Nho giáo trong giai đoạn đầu nhà Thanh là xu hướng “thực học” phát triển,
phê phán mạnh mẽ, khắt khe và có tính viễn vông, kinh viện của lý học Trình –
Chu và tâm học Lục – Vương, các nhà triết học đầu nhà Thanh chủ trương “ quốc
gia hưng vong, thất hu hữu trách”, đòi hỏi việc nghiên cứu học thuật phải gắn với
hiện thực đời sống xã hội, mang lại lợi ích thiết thực cho quốc kế dân sinh. Từ đó
hình thành trường phái “thực học” lấy việc chữa trị việc đời làm mục đích và đã
sản sinh ra nhiều nhà triết học lừng danh như: Hoàng Tông Hy, Cố Viên Võ…
Tóm lại, Nho giáo hình thành và phát triển qua nhiều triều đại lịch sử, giai
đoạn sau đều có những điểm khác biệt so với giai đoạn trước. Mỗi một giai đoạn
Nho giáo có một nét đặc trưng riêng và phát triển khác nhau có lúc cực thịnh có
lúc suy yếu.
1.2 NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA ĐẠO ĐỨC NHO GIÁO.
Đạo đức nho giáo gồm một hệ thống các phạm trù chặt chẽ, nhất quán có liên
quan mật thiết với nhau. Tam cương, Ngũ thường còn gọi chung là Cương thường

là nội dung cơ bản của đạo đức Nho giáo, nó chi phối mọi suy nghĩ và hành động
của con người. Sau đây, chúng ta sẽ xem xét các phạm trù: nhân, lễ, nghĩa, trí, tín
tạo thành thang giá trị đạo đức của Nho giáo.

1.2.1. Nhân
Đọc luận ngữ chúng ta thấy chữ “nhân” được nhắc đến nhiều lần và trở thành
tư tưởng cốt lõi của đạo đức Nho giáo. Theo Nho gia, đức lý tưởng này bao hàm
trong đó mọi đức tốt đẹp khác. Người có đức “nhân” đồng nghĩa với người hoàn
thiện nhất [ 14, tr. 58] nên “nhân” là nghĩa rộng nhất của đạo làm người.
Đạo làm người có hàng ngàn, hàng vạn nhưng chung quy lại chỉ là những
điều đối với mình và đối với người, nên “nhân”, có thể biểu hiện là cách cư xử với
mình và đối với người.
Luân văn tốt nghiệp

17


SVTH: Lê Thị Hằng
MSSV: 6064644

GVHD: TS. Đinh Ngọc Quyên

Đối với mình: “trước hết phải làm những việc khó, sau hưởng thành quả mới
gọi là nhân” (nhân giả tiên nhân nhi hậu hoạch, khả vị nhân hỹ) [9, tr. 199]. Khác
với những người “bất nhân” – những người không cam chịu cảnh khổ và cũng
không thể hưởng lâu dài khoái lạc – người “nhân” sẵn sàng vui vẻ trong bất kỳ
hoàn cảnh nào, dù đấy là vinh hoa hay nghèo đói, túng thiếu vì đối với người
“nhân”, cái cao cả nhất là “đức nhân” của mình (bất nhân giả, bất khả cứu xử ước,
bất khả dĩ trường xử lạc. Nhân giả an nhân. Trí giả lợi nhân) [luận ngữ].
Người sáng lập ra Nho gia đã đề cập đến nhiều biểu hiện khác nhau của đức

nhân, song, chung quy lại “người có đức nhân là người phải nghiêm trang, tề
chỉnh, rộng lượng, khoan dung; đức tính, lòng thành; siêng năng, cần mẫn; bố
đức, thi ân”. “Nghiêm trang, tề chỉnh sẽ khiến người khác không dám khinh nhờn;
rộng lượng, khoan dung sẽ khiến người khác bị thu phục; đức tín, lòng thành sẽ
khiến người khác bị thu phục; thi ân, bố đức sẽ làm người khác bị sai khiến và cần
mẫn, siêng năng sẽ đem lại nhiều điều bổ ích.
Đối với người: nguyên tắc suốt đời của người có đức nhân phải theo là “ái
nhân” (thương yêu người khác). Khổng tử dạy: “người nhân muốn tự lập lấy mình
thì cũng phải lo tập cho người, muốn thành đạt cho mình thì cũng phải lo thành
đạt cho người. Người nhân ứng xử với mình như thế nào cũng phải ứng xử với
người khác như thế” (phù nhân giả, kỷ dục lập dị lập nhân; kỷ dục đạt nhi đạt
nhân. Năng cận thủ thí) [9, tr.211-212]. Hoặc khi Tử Cống (họ Đoan Mộc, tên Tứ,
người nước Vệ, kém Khổng Tử khoảng 30 tuổi. Đoan Mộc Tứ đã từng làm tướng
của nước Lỗ, tướng của nước Vệ; là một trong “thập triết” của Nho gia) hỏi: “có
chữ nào mà người nhân trọn đời phải theo không?” Khổng Tử đáp: “có chữ thứ”.
Nghĩa là: “việc mình không muốn thì đừng bao giờ làm cho người khác” (Tử
Cống vấn viết: Hữu nhất ngôn nhi khả dĩ chung thân hành chi dã hồ? Tử viết: kỳ
thứ hồ, kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân) [9, tr568-569].
Tất nhiên theo Nho gia, không phải bất kỳ ai người nhân cũng phải yêu
thương, đùm bọc. Đạo lý của xã hội luôn luôn là tiêu chuẩn để người nhân phân
định, đánh giá tỏ thái độ của mình đối với người khác.
Đánh giá vai trò đức nhân, Khổng Tử cho rằng nếu tâm của con người luôn
luôn hướng về nhân thì không bao giờ con người nghĩ tới chuyện phản loạn,
Luân văn tốt nghiệp

18


SVTH: Lê Thị Hằng
MSSV: 6064644


GVHD: TS. Đinh Ngọc Quyên

miệng không nói những điều sàm bậy, không dấn vào việc ác, tà. Chính vì vậy,
đối với dân, đức nhân cần thiết hơn cả lửa, nước và đối với những người cầm
quyền, đức nhân như một thành trì vững chắc để giữ gìn những gì họ đạt được.
Khát khao của con người là đạt được đức nhân và vươn cao hơn nữa, Khổng
Tử còn chia những người đạt được đức nhân này thành “bậc thánh”, “bậc nhân”.
Với quan điểm “ôn cổ tri tân” (nhắc chuyện đời xưa để răn dạy đời nay),
nhìn lại lịch sử, Khổng Tử đã xếp những người như Nghiêu, Thuấn vào bậc thánh;
Bá Dị, Thúc Tề, Vi Tử, Cơ Tử, Tỉ Can, Quản Trọng vào bậc nhân.
Có thể nói toàn bộ ý tưởng của Khổng Tử dẫn dắt con người đạt đến đức
nhân. Kế thừa tư tưởng này Nho gia sau Khổng Tử đã đồng nhất “nhân” với
“thiện”. Chẳng hạn Mạnh Tử đã từng nói: “người có đức nhân xung quanh kính
yêu gọi là thiện. Người làm điều thiện theo lương tâm gọi là tín. Người có tínthiện đầy đủ và làm nên sự nghiệp khiến cho mỹ của mình được tỏ sáng gọi là đại.
Đã là bậc đại nhân lại biết cảm hóa người khác khiến cho thiên hạ quay về nẻo
thiện gọi là thành”
Như vậy “nhân” là phạm trù quan trọng nhất, cơ bản nhất trong đạo đức đạo
Khổng – Mạnh nói riêng, đạo đức học Nho gia nói chung. Nhân là cái đích tu
dưỡng của Nho học. Song “nhân” chỉ dừng lại ở nguyên tắc mang tính phổ quát.
Cái cụ thể của nguyên tắc này là “hiếu”.
Chữ “hiếu” được người Trung Quốc nói đến rất sớm. Những bản kim văn
như Đại Khắc Đỉnh, Trung Đôn, Quốc Khương Ân, Đổ Bá Sở đã đề cập đến
“hiếu”. Kinh Thi cũng nói đến trung hiếu, khắc hiếu…Ở đây, chữ hiếu đã đề cập
đến mối quan hệ giữa người với người, song nó thuộc đời sống chính hệ, nó như
sợi dây nối liền bề dưới với bề trên, nối liền con người với tổ tiên, thần thánh; còn
“hiếu” với tính cách chuẩn mực đạo đức thì, như các nhà nghiên cứu Trung Quốc
đã khẳng định, đến đời Khổng Tử mới hoàn toàn rõ nét [23, tr249-252].
Theo Khổng Tử, hiếu có lúc là cội nguồn của nhân và cũng có lúc hiếu với
nhân là một.

Sách luận ngữ có ghi lại lời của Hữu Tử phản ánh tư tưởng hiếu là cội nguồn
của nhân như sau: “bậc quân tử luôn chú vào việc gốc. Cái gốc vững vàng thì đạo

Luân văn tốt nghiệp

19


SVTH: Lê Thị Hằng
MSSV: 6064644

GVHD: TS. Đinh Ngọc Quyên

lý từ đó mà sinh ra, đễ chính là cái gốc của đức nhân đó chăng?” (Quân tử vụ
bản. Bản lập nhi đạo sanh. Hiếu đễ dã giã, kỳ vi nhân chi bản dư?) [9,tr.6].
Sách luận ngữ cũng ghi rằng: có lần Tể Ngã hỏi Khổng Tử; “cái tang ba năm
cũng nên thâu lại một năm cũng đã dài rồi. Người quân tử ba năm chẳng tập lễ thì
sự học lễ của mình ắt hư hỏng, ba năm chẳng tập nhạc thì nhạc ắt cũng lụn bại.
Vã lại vừa trọn năm thì lúa cũng đã ăn hết, lúa mới đã gặt xong, những cây lúa
lửa cũng đã dùng hết cả. Vậy nên để tang một năm là cũng được rồi”. Khổng Tử
hỏi lại: “trong khi chưa mãn tang ba năm mà ăn gạo thơm, mặc áo gấm thì người
có an lòng chăng?”… Này, bậc quân tử khi cư tang dầu ăn đồ ngon cũng không
biết mùi vị, dẫu nghe nhạc hay cũng chẳng thấy vui…
Tể Ngã lui ra. Khổng Tử than rằng: “trò Dư là người bất nhân”.
Hiếu, theo Khổng Tử là vô vi, vô cải.
Như vậy, nếu nhân là đức cao nhất của con người và nếu thực chất của nhân
là hiếu trở thành ý nghĩa to lớn nhất của cuộc sống.
Tóm lại, nhân chính là đạo làm người. Đạo làm người rất sâu rộng, vừa xử
thế vừa tu thân, tức là cả đối với mình, đối với người, nói vắn tắt đó là “trung”
“thứ”. Đó là những điều theo Nho giáo là hợp với đạo trời, lòng người.

Nếu nhân thể hiện tình cảm sâu sắc giữa người với người thì nghĩa là trách
nhiệm thể hiện tình cảm đó.

1.2.2. Nghĩa
Với nội dung và ý nghĩa sâu rộng như trên, nhân không chỉ bao hàm hiếu, đễ,
trung, tín mà còn bao hàm cả đức “nghĩa”. Tư tưởng nhân nghĩa đã được các thế
hệ nhà nho nối tiếp nhau bàn rất sâu, rất kỹ và trở thành một giá trị đạo đức truyền
thống mang tính nhân văn sâu sắc của người Trung Hoa.
Theo Khổng Tử, “nghĩa” trước hết được hiểu là lẽ phải, là việc cần phải làm
về đạo đức. Ông cho rằng người quân tử thấy việc đáng làm, hợp nghĩa thì cứ làm
mà không cần tính toán lợi hay hại cho bản thân. Khổng Tử đã từng nói: “bậc
quân tử làm việc cho đời, không có việc gì người cố ý làm, không có việc gì người
cố ý bỏ, hễ hợp nghĩa thì làm”. Về tư tưởng này của Khổng Tử sau này được sách
của Trung Du giải thích rõ hơn: “nghĩa là cư xử cho thích hợp”.

Luân văn tốt nghiệp

20


SVTH: Lê Thị Hằng
MSSV: 6064644

GVHD: TS. Đinh Ngọc Quyên

Thứ hai, “nghĩa” là cái vốn độc lập với “lợi”. Sách luận ngữ đã nghi lại lời
nói của Khổng Tử như sau: “bậc quân tử tinh tường về việc nghĩa, kẻ tiểu nhân
ràng rẽ về việc lợi” (Quân tử dụ ư nghĩa, tiểu nhân dụ ư lợi) [9, tr.114]. Ở đây
phải thấy quân tử và tiểu nhân là hai loại người đối lập nhau không phải chủ yếu
về địa vị xã hội mà chủ yếu là về đạo đức, nên khi cho rằng: “quân tử tinh tường

về việc nghĩa”, còn “tiểu nhân rành rẽ về việc lợi” không phải Khổng Tử chỉ đề
cập đến cái trí, đến sự hiểu biết của hai loại người này mà còn muốn xác định sự
khác nhau cơ bản giữ hai nhân cách.
Tư tưởng “nghĩa”, “lợi” đối lập nhau được Khổng Tử khẳng định trong các
lời dạy của mình. Truyền rằng, Mạnh Tử ra mắt Lương Huệ Vương, Huệ Vương
hỏi: “Mạnh tiên sinh chẳng ngại đường xa tới đây, hẳn có cách gì có thể đem lại
cái lợi cho đất nước tôi? Mạnh Tử đáp: vua cần gì phải nói đến việc lợi. Hãy nói
đến việc nghĩa mà thôi. Nếu ở trên bậc quốc vương nói rằng: có cách gì làm lợi
cho đất nước ta. Như vậy, từ trên xuống dưới đều tranh nhau mối lợi, ắt vận nước
phải lâm nguy…kẻ trên, người dưới đều làm việc lợi trước, làm việc nghĩa sau thì
người này sẽ tước đoạt hết của cải của kẻ kia mới hài lòng. Trái lại, chưa hề có
người quý điều nhân mà lại bỏ bê cha mẹ, bà con mình; chưa hề có người trọng
việc nghĩa mà lại coi việc vua, việc nước nhẹ hơn việc riêng của mình. Vậy nên
vua chỉ nên nói việc nhân nghĩa mà thôi”.
Thứ ba, “nghĩa” đồng nghĩa với “nhân”. Trong những lời dạy Khổng Tử
thường nhấn mạnh đến nhân. Ông cho rằng: “người có nhân chẳng vì bảo toàn sự
sống của mình mà làm hại đức nhân. Người ấy có thể tự quyên sinh để giữ trọn
đức nhân” (chí sỹ nhân dân, vô cầu sinh dĩ hại nhân, hữu sát nhân dĩ thành nhân)
[9, tr.554].
Còn Mạnh Tử ví sinh mệnh con người như cá, đức nghĩa như bàn tay gấu
(món ăn rất quý của người Trung Quốc). Giữa hai món ấy, được chọn một, Nho sỹ
không ngần ngại gì khi phải bỏ cá. Ông viết: “cá là món ta thích ăn, tay gấu là
món ta cũng chuộng. Nếu chẳng được luôn cả hai món ấy một lượt, ta sẽ bỏ cá mà
lựa bàn tay gấu. Sống thì ta cũng ham, nghĩa thì ta cũng mộ. Nếu chẳng được cả
hai món ấy một lượt, ta sẽ bỏ mạng sống mà giữ lấy nghĩa mà thôi”.

Luân văn tốt nghiệp

21



SVTH: Lê Thị Hằng
MSSV: 6064644

GVHD: TS. Đinh Ngọc Quyên

Như vậy, nếu ở Khổng Tử, con người sẵn sàng chết vì nhân và đến Mạnh Tử,
con người sẵng sàng chết vì nghĩa thì nhân và nghĩa khác gì nhau. Điều này còn
thể hiện rất rõ khi nói đến nhân, Nho gia sau này thường để nhân đi cùng với
nghĩa thành nhân nghĩa.
Nói đến nhân nghĩa, Mạnh Tử viết: “tôi vì nhân nghĩa mà thờ vua, con vì
nhân nghĩa mà thờ cha, em vì nhân nghĩa mà thờ anh, vua tôi, cha con, anh em
đều bỏ lợi, đến với nhau chỉ vì lòng hâm mộ nhân nghiã. Quốc gia như vây mà
không hưng thịnh thì chưa từng có”.
Tóm lại, đối với Khổng – Mạnh, nhân nghĩa là vô cùng quan trọng, mọi đức
khác của con người đều đến từ nhân, nghĩa mà ra, cũng như mọi vật trong trời đất
đều do âm dương, cương nhu mà thành.

1.2.3. Lễ.
Các nhà nghiên cứu Trung Quốc cho rằng, lúc đầu lễ là cái để thờ cúng thần,
là gọi là cúng thần. Lễ khởi thủy bắt nguồn từ việc ăn uống như đồ xôi, mổ lợn,
rót rượu vào chén mà bưng lên, dùi bọc rơm vào trống đất dường có thể bày tỏ
lòng tôn kính với quỷ thần… ở đây lễ mang tính chất tôn giáo là chủ yếu.
Khi người Chu lên ngôi, bằng việc tôn giáo hóa chính trị, lễ trở nên đa dạng
và phức tạp hơn hẳn. Lễ lúc này được chia thành năm loại, gọi là ngũ lễ gồm: cát
lễ, hung lễ, quân lễ, tân lễ và gia lễ.
Cát lễ là những quy định về tế tự. Với người cổ đại nói chung và người
Trung Quốc cổ đại nói riêng, tế lễ là việc linh thiêng nhất nên cát lễ đứng đầu các
lễ.
Hung lễ là những quy định về ma chay, thiên tai, nhân họa.

Quân lễ là nhưng quy định về phục vụ chiến tranh, những hoạt động săn bắn,
kiến tạo thành lũy.
Tân lễ là những quy định về triều chính.
Gia lễ những quy định trong sinh hoạt đời thường, trong các quan hệ huyết
tộc.
Từ nhà Chu trở đi, ngoài tính chất tôn giáo, lễ còn bao hàm mọi nghi thức
trong sinh hoạt xã hội, kể cả những vấn đề thể chế chính trị. Những quy định này
cực kỳ chi tiết, nó đi vào cả hoạt động cá nhân, gia đình như ăn, mặc, đi, đứng,
Luân văn tốt nghiệp

22


SVTH: Lê Thị Hằng
MSSV: 6064644

GVHD: TS. Đinh Ngọc Quyên

chào hỏi, cưới xin, ma chay, hội hè, đình đám…của từng loại người trong xã hội.
Theo lễ thì người sang, người hèn có trang phục phân biệt, đồ dùng phân minh,
ngôi thứ phân định…
Vì muốn khôi phục lại tôn chỉ của nhà Chu và nhận thấy lễ rất hữu ích cho
việc thực thi thuyết chính danh nên Khổng Tử rất coi trọng lễ. Ông đã san định lại
lễ và từ ông trở đi Nho gia khai thác triệt để ở góc độ luân lý của nó.
Sỡ dĩ như vậy là vì:
Thứ nhất, căn cứ vào lễ có thể xác định được vị trí của từng người trong các
quan hệ. Lễ đã đóng vai trò là cái định ra sự phân minh trong trật tự xã hội, trật tự
gia đình và cũng là cái định sự thân – sơ trong giao tiếp.
Sách kỹ lễ viết : « không có lễ không thể thờ thần của trời đất cho đúng thứ
bậc : không có lễ không thể phân biệt vua – tôi, trên – dưới, lớn – bé ; không có lễ

không thể phân biệt được tình thân của trai – gái, cha – con, anh – em trong xã
hội ». Hoặc: « lễ là cái định thân – sơ, quyết hiềm nghi, biệt giống – khác, minh
trái – phải ».
Thứ hai, với những quy định chặt chẽ, tỷ mỉ cho mọi hành vi, hành động và
đồ dùng trong cuộc sống, lễ từng ngày, từng giờ tác động đến tâm tư, tình cảm của
con người, góp phần tạo nên những phẩm chất cá nhân mà xã hội đòi hỏi.
Khổng Tử nói về vấn đề này khi lý giải vai trò của lễ quy định cách ăn mặc
khi có tang, khi ở triều đình và khi ra trận như sau: « người mặc áo xô gai, chống
gậy, chí không thể đến sự vui, không phải vì tai không nghe thấy, vì y phục khiến
như thế; người mặc cái phủ, cái phất, áo cổn mũ miện, dáng điệu uy nghi không
phải là nguyên tính nghiêm trang, vì y phục khiến như thế; người đội mũ trụ, mặc
áo giáo, cầm giáo dài, không nhút nhát không phải là tư thế mạnh bạo, vì y phục
khiến như thế ».
Như vậy, với lễ người xưa thường nói: «ở nơi mồ mã chưa dạy thương mà tự
có lòng thương; ở nơi đền đài, chưa dạy kính mà tự có lòng kính ».
Thứ ba, cũng như những quy định chặt chẽ, tỉ mỉ cho mọi hành vi, hành động
và mọi hành động trong cuộc sống, cùng với việc góp phần tạo nên những phẩm
chất cá nhân mà xã hội đòi hỏi, lễ đóng vai trò không nhỏ trong việc kìm hãm
những đam mê của cá nhân và xã hội đang muốn chế ngự.
Luân văn tốt nghiệp

23


SVTH: Lê Thị Hằng
MSSV: 6064644

GVHD: TS. Đinh Ngọc Quyên

Với những công cụ nói trên, « lễ ngăn cấm những điều tà đạo tự nó chưa

hình thành, lễ giúp con người tiến gần đến điều thiện và tránh xa điều ác mà con
người không biết».
Có thể nói, bất kỳ một người nào thuộc Nho gia cũng nói nhiều về lễ, song
người có công đề cập đến chi tiết và có hệ thống là Tuân Tử.
Về nguồn gốc của lễ, Tuân Tử cho rằng: « con người sinh ra ai cũng có lòng
ham muốn. Ham muốn mà không được thì không thể tìm tòi, dò hỏi. Tìm tòi mà
không có chừng mực thì không thể không tranh. Tranh thì loạn. Loạn thì khốn
cùng. Tiên vương ghét loạn cho chế định ra lễ để phân ra trật tự », hoặc: « trời
đất là nguồn gốc của sự sống, tổ tiên là nguốn gốc của giống nòi, vua là thầy là
nguồn gốc của nền bình, trị. Không có trời, đất thì sự sống ở đâu mà ra? Không
có tổ tiên thì giống nòi ở đâu mà có? Không có vua, thầy thì nền bình, trị ở đâu
mà được thiết lập? ba nguồn mà mất thì con người mất yên. Muốn yên thì trên thờ
trời, dưới thờ đất, tôn kính tổ tiên, quý trọng vua thầy… đó là nguồn gốc của lễ».
Vai trò của lễ, Tuân Tử viết : trời đất nhờ lễ mà hòa hợp: mặt trăng, mặt trời
nhờ lễ mà sáng tỏ; bốn mùa nhờ lễ mà có thứ tự; tinh tú nhờ lễ mà chuyển vần;
sông ngòi nhờ lễ mà lưu thông; vạn vật nhờ lễ mà sống còn; ưa ghét nhờ lễ mà
đúng mức; mừng giận nhờ lễ mà đúng mực. Đúng là lễ như dây, như thước của
người thợ. Nảy dây mực thì không ai có thể lừa dối được thẳng, cong; bắc cán cân
thì không ai có thể lừa dối được nặng, nhẹ; đặt cái quy, cái cũ thì không ai có thể
lừa dối được vuông tròn. Vậy nên dây mực là tiêu chuẩn cực tốt của sự ngay
thẳng; cái cân là tiêu chuẩn cực tốt của sự cân bằng. Cái quy, cái cũ là tiêu chuẩn
cực tốt của sự vuông tròn, còn lễ là tiêu chuẩn cực tốt của đạo làm người.
Tuân Tử khẳng định: lễ mực uy nghi và nó phân biệt trật tự trên dưới. Lễ rất
mực rành mạch vì nó phân biệt lời phải, lời trái. Thiên hạ theo lễ thì trị, không
theo lễ thì loạn, theo lễ thì yên, không theo lễ thì nguy, theo lễ thì còn, không theo
lễ thì mất. Với cái khẳng định này, cùng việc thuyết phục, Tuân Tử đã bộc lộ thái
độ răn đe để con người tuân thủ theo lễ.
Có thể nói, với những quy định về lễ và việc truyền bá vừa có tính chất
khuyên con người tự giác thực hiện, vừa có tính chất cưỡng bức con người thực


Luân văn tốt nghiệp

24


SVTH: Lê Thị Hằng
MSSV: 6064644

GVHD: TS. Đinh Ngọc Quyên

hiện, lễ đã từng ngày, từng giờ trở thành thói quen đạo đức của cá nhân và của
toàn xã hội.
Nếu nhân là đức cao nhất của con người, là đức mà con người cần vươn tới
thì, như Khổng Tử đã nói: « một khi con người tự kiềm chế mình, làm theo những
điều mà lễ đã dạy, con người đã đạt đến đức nhân, xã hội sẽ nhân». Chính vì thế,
Nho gia chủ trương; «không xem, không nghe, không nói, không làm những gì
không hợp với lễ».
Với quan điểm trên, lễ trở thành công cụ quan trọng nhất để Nho gia thực
hiện thuyết « chính danh », và cũng chính là tại sao lễ lại quan trọng đến như vậy,
lễ chỉ đứng sau nhân.

1.2.4. Trí
Khổng Tử rất trọng đức trí nên trong Luận ngữ, « trí » được đề cập khá nhiều
ở những tình huống khác nhau. Theo Khổng Tử thì trí được hiểu là sự minh mẫn,
sáng suốt của con người để phân biệt người chính, kẻ tà. Vì thế khì Phàn Trì hỏi
về trí thì ông nói: « trí là người biết »...Phàn Trì chưa hiểu, Khổng Tử giải thích:
« là dùng người trực, bỏ kẻ gian, như vậy có thể giáo hóa kẻ gian thành người
trực» (Phàn Trì vấn trí, Tử viết: tri nhân, Phàn Trị vi đạt. Tử viết: «Cử trực thổ
chư uổng giả trực ») [9. tr.436].
Khổng Tử còn dạy học trò: « kẻ dựng chỗ ở không biết dựng nhà nơi Lý (tên

gọi một khu dân cư có khoảng 25 gia đình sinh sống) tốt không thể là gọi là người
có trí »; hoặc, có lần Tể Dư hỏi: «giả sử có người nhân biết có người ngã xuống
giếng, người nhân có nên nhảy xuống cứu chăng ?». Khổng Tử đáp lại: « nên đến
đó để tìm cách cứu chứ đừng nhảy liều xuống mà thiệt thân. Hãy để bị lừa gạt bởi
những điều có lý chứ đừng để bị lừa gạt bởi những điều đần độn».
Như vậy, trí là sự hiểu biết nói chung để phân biệt và đánh giá con người và
tình huống, qua đó xác định cho mình cách ứng xử cho đúng đường, đúng đạo.
Là cái hướng dẫn con người ứng xử nên không thể đạt được đức nhân nếu
thiếu trí và ngược lại, nếu đủ trí để hiểu đạo thánh hiền nhưng không có nhân để
giữ gìn thì dù có đạt được đạo ấy rồi nó cũng mất đi, cùng với nhân, nghĩa, lễ, trí
là cái không thể thiếu để con người vươn tới sự hoàn thiện.

Luân văn tốt nghiệp

25


×