Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Hình ảnh nguời phụ nữ trong văn học cổ đại hi lạp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (944.17 KB, 88 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA SƯ PHẠM

BỘ MÔN NGỮ VĂN

PHẠM THỊ VUI

HÌNH ẢNH NGƯỜI PHỤ NỮ
TRONG VĂN HỌC CỔ ĐẠI HI LẠP
Luận văn tốt nghiệp đại học
Ngành sư phạm Ngữ Văn

Cán bộ hướng dẫn:
Th.s TRƯƠNG THỊ KIM PHƯỢNG

Cần Thơ, tháng 4 - 2011


ĐỀ CƯƠNG TỔNG QUÁT
Trong luận văn của mình tôi sẽ trình bày ba phần chính: phần mở đầu, phần
nội dung và phần tổng kết.
Trong phần mở đầu cũng như những luận văn khác tôi trình bày lí do mình
chọn đề tài, điều này chủ yếu là do lòng say mê của bản thân tôi đối với nền văn học
cổ đại phương Tây. Để có thể làm tốt đề tài, tôi đã đi vào tìm hiểu những công trình
nghiên cứu liên quan đến nền văn học này, từ đó thấy được những vấn đề nào đã
được giải quyết cũng như vấn đề nào chưa giải quyết có liên quan trong đề tài của
tôi, thông qua đó tôi có hướng để thực hiện luận văn của mình. Tiếp đó, tôi đi trình
bày về mục đích, yêu cầu của đề tài, cũng như đề cập đến đối tượng nghiên cứu và
đưa ra các phương pháp để có thể hoàn thành tốt đề tài.
Trong phần nội dung tôi đi vào trình bày theo chương, các chương đi từ
những vấn đề cơ bản nhất của nền văn học phương Tây cổ đại, đến những tác phẩm


và cuối cùng là xoáy sâu vào hình ảnh người phụ nữ trong văn học cổ đại Hi Lạp.
Vậy nên, với chương một tôi đi vào trình bày những điểm khái quát của văn học cổ
đại Hi Lạp. Trước tiên là Thần thoại Hi Lạp với những đặc trưng cơ bản của tác
phẩm đồ sộ này, tiếp đến là một số thể loại của văn học cổ đại Hi Lạp, gồm có anh
hùng ca, bi kịch và hài kịch. Với các thể loại này thì tôi đi vào tìm hiểu sự hình
thành cũng như quá trình phát triển, cùng với các tác giả, tác phẩm tiêu biểu của nó.
Chương một là những phần khái quát, đến chương hai tôi đi vào tìm hiểu hình
ảnh người phụ nữ Hi Lạp qua những tác phẩm văn học cụ thể. Chủ yếu là hình ảnh
người phụ nữ trong Thần thoại Hi Lạp, anh hùng ca Iliat, Ôđixê của Homerơ, bi kịch
Medee của Euripide, và hài kịch Những người phụ nữ hội đồng của Aristophane.
Trong chương này, tôi chủ yếu giới thiệu về tác giả và tóm tắt các tác phẩm để có
cái nhìn khái quát về tác phẩm. Song song với việc giới thiệu tác phẩm là giới thiệu
sơ lược về các nhân vật nữ trong tác phẩm ấy.
Chương ba có thể xem là chương trọng tâm trong đề tài của tôi, với tên
chương là tính cách của người phụ nữ Hi lạp được thể hiện trong văn học cổ đại, tôi
đi vào tìm hiểu, phân tích những tính tốt cũng như những điểm chưa tốt của những
người phụ nữ Hi Lạp được các tác giả thể hiện trong tác phẩm. Chủ yếu tôi khai thác
họ ở khía cạnh nhìn nhận và thể hiện bản thân mình trong tình yêu cũng như trong
cuộc sống. Họ có những điểm tốt, điểm nổi bật như luôn hướng đến một tình yêu


chân chính, thủy chung son sắt trong tình yêu. Đồng thời trong cuộc sống họ biết
vùng dậy đấu tranh cho chính nghĩa, phản kháng trước những bất công, không hợp
lẽ phải. Tuy nhiên, các tác gia trong nền văn học cổ đại không nhìn phiến diện, một
chiều, bên cạnh những đức tính tốt đẹp thì họ cũng đi vào khai thác những nét chưa
đẹp trong tính cách của người phụ nữ, điều này giúp ta có cái nhìn toàn diện và đúng
đắn hơn về hình ảnh người phụ nữ trong văn học cổ đại.
Với phần tổng kết, tôi đi vào trình bày lại một cách khái quát về toàn bộ luận
văn của mình. Qua đó, nêu ra một số điều mà mình chưa làm tốt được cũng như hi
vọng là phần nghiên cứu này sẽ được nhiều người tiếp bước để có thể hoàn chỉnh

hơn.


PHẦN MỞ ĐẦU
1 – Lí do chọn đề tài
Hi Lạp – cái tên đã đi vào lịch sử nhân loại như một huyền thoại khi đất nước
bé nhỏ này là nơi có nền văn minh cổ xưa nhất châu Âu; là nơi đã đặt nền mống cho
triết học và khoa học, sáng tạo nên nền mỹ thuật và kiến trúc đẹp đẽ, phát triển đời
sống tri thức… tất cả những gì mà các quốc gia khác trên thế giới đều lấy làm mục
tiêu để đạt đến. Nền văn học cổ đại Hi Lạp đã cung cấp cho văn học Châu Âu nói
riêng và văn học nhân loại nói chung vốn điển tích, điển cố và thi liệu rất phong phú
để sử dụng trong sáng tác qua mọi thời đại. Đặc biệt là Thần thoại Hi Lạp, chính từ
những chất liệu thần thoại đẹp đẽ, giàu giá trị nhân văn và tính triết lí sâu sắc các ca
sĩ dân gian Hi Lạp đã xây dựng thành những bài ca bất tử về các vị thần, anh hùng,
và các thành bang… Sau này thiên tài Homerơ đã tạo nên những bản anh hùng ca từ
các sự kiện trong thần thoại. Đó là những bản trường ca đẹp, ca ngợi sức mạnh và trí
tuệ con người sánh tựa thần thánh và nó mãi ngân vang xuyên suốt trong tâm hồn
nhân loại.
Khi tiếp xúc và tìm hiểu về nền văn học cổ đại Hi Lạp tôi đã bị cuốn hút ngay
từ giờ giảng đầu tiên của giảng viên về đất nước, con người cũng như những tác
phẩm ra đời ở đây. Thần thoại Hi Lạp, những sáng tác của Homerơ, Euripide,
Shophocle, Aristophan… tuy đa phần nói về chuyện các vị thần nhưng lại phản ánh
gần như chân thực cuộc sống của người dân Hi Lạp cổ xưa. Giống như Mac đã nói:
“Bản chất của Thần Thoại Hi Lạp là tự nhiên và chính là các hình thái xã hội được
trí tưởng tượng của nhân dân xây dựng nên một cách có hệ thống, có nghệ thuật,
nhưng không tự giác…”. [3; tr.21]
Văn học cổ đại Hi Lạp chú trọng ca ngợi con người, đặc biệt là hình ảnh các
vị thần, các anh hùng và người phụ nữ. Có thể nói chưa có nền văn học nào trên thế
giới lại viết về người phụ nữ với thái độ ngợi ca sớm như trong văn học cổ Hi Lạp.
Những người phụ nữ Hi Lạp đã đi vào tác phẩm như là sự hiện thân của vẻ đẹp từ

hình thể đến tâm hồn, từ nữ thần Hêra tối thượng đến những người con gái phàm
trần đều để lại ấn tượng mạnh mẽ trong lòng độc giả. Điều này thôi thúc tôi “tìm
hiểu về họ” – những người phụ nữ trong tác phẩm cổ đại, để hiểu hơn tâm hồn của
họ, những bông hoa của đất trời Hi Lạp. Bởi nếu hoa là những gì đẹp nhất của cỏ
cây và con người là những gì tinh túy của đất trời, thì hẳn người phụ nữ luôn chiếm
1


nửa phần tinh túy ấy. Mỗi loài hoa có màu sắc và hương thơm khác nhau tạo nên sự
đa dạng và phong phú khôn cùng, phụ nữ cũng vậy. Họ luôn là những gì bí mật nhất
mà ai cũng muốn tìm hiểu và khám phá, nhất là khi họ hiện thân cho một thời đại mà
với nhân loại vẫn còn nhiều bí ẩn.
Đến bây giờ con người vẫn không thôi tìm kiếm và cố gắng tái tạo lại nền văn
minh cổ đại, họ khai quật và để cho dấu ấn lịch sử trả lời những câu hỏi của nhân
loại. Có lẽ con người của thế hệ hôm nay và mai sau luôn thắc mắc tại sao ngay từ
rất sớm trí tưởng tượng của con người lại đạt đến sự siêu việt như vậy, đành rằng
mọi quốc gia đều có thần thoại vì con người lúc bấy giờ luôn khao khát giải thích
được những hiện tượng thiên nhiên nhưng không phải thần thoại nào cũng được xếp
vào loại hay nhất thế giới như Thần thoại Hi Lạp, và cũng từ đây mà các nhà văn
đương thời đã tạo nên được những tác phẩm bất hủ, “xây dựng” lại cuộc sống của
con người với cái nhìn chân thực nhất và tất nhiên nó cũng mang màu sắc huyền
diệu nhất. Ta ngỡ như mâu thuẫn nhưng không hề mâu thuẫn bởi nhiều công trình
nghiên cứu đã khẳng định những địa danh và sự kiện được nhắc tới trong thần thoại
đều có thật trong lịch sử, và sự hiện diện của thần thánh đã phản ánh được “tín
ngưỡng” cũng như niềm tin vào thế lực siêu nhiên thuở ban đầu của con người.
Cuộc hành trình khám phá về nền văn minh nhân loại hãy còn dài, và ai quan
tâm đều muốn đóng góp một phần nhỏ nào đó. Bản thân tôi cũng vậy, tôi không có
điều kiện để đi khảo sát thực tế, tôi cũng không có đủ khả năng để thẩm định những
vật chất còn sót lại như những minh chứng sống động cho sự tồn tại của nền văn
minh này. Cái tôi có là lòng yêu văn chương, yêu những tác phẩm được sinh ra như

từ trong cổ tích nhưng có sức sống tiềm tàng, sống xuyên suốt trong lòng nhân loại.
Đi tìm hiểu và khám phá hình ảnh người phụ nữ trong văn chương cổ đại Hi Lạp tuy
không phải là một công trình lớn, nhưng tôi tin bài nghiên cứu này sẽ góp phần vào
việc tìm hiểu về con người, đặc biệt là người phụ nữ trong văn chương cổ đại, để ta
có thể thấy từ ngàn xưa người phụ nữ phương Tây đã mạnh mẽ, quyền uy như thế
nào, cũng như số phận của họ đã từng ra sao trong tâm thức của con người thời ấy.

2


2 – Lịch sử vấn đề
Đối với những nhà nghiên cứu thì văn học cổ đại Hi Lạp nói chung luôn là
vùng đất kì diệu mà họ luôn muốn khám phá. Có rất nhiều công trình nghiên cứu
cũng như bài viết về nền văn học này. Khi bàn đến văn học châu Âu các nhà nghiên
cứu luôn dành phần đầu tiên, cũng như số lượng lớn để giới thiệu một cách tổng
quát nhất. Chẳng hạn như khi nói về vị trí của Văn học cổ đại Hi Lạp, Angghen viết:
“Chúng ta phải luôn luôn quay về với những thành tựu trong triết học và trong mọi
lĩnh vực khác của dân tộc nhỏ bé này, một dân tộc mà tài năng và những hoạt động
có tính chất toàn diện của nó đã đảm bảo cho nó một địa vị mà không một dân tộc
nào khác có tham vọng đạt tới trong lịch sử tiến hóa của nhân loại”. [1; tr.3]
Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu thường chỉ đi sâu vào tìm hiểu sự ra
đời và các loại thể của nền văn học cổ đại như: thần thoại, anh hùng ca, bi kịch, hài
kịch… Đặc biệt họ chú trọng tìm hiểu về nội dung để qua đó hiểu thêm về con người
lúc bấy giờ vì đối tượng mà nền văn học này hướng đến để phản ánh là con người –
“là sự thể hiện con người với tất cả thói xấu cũng như sự tốt, con người với đầy đủ
những ham muốn ước mơ chứ không phải con người một chiều, chung chung. Vì thế
ta thấy các vị thần trên đỉnh Olanhphơ cũng mang những tính cách của con người
trần thế như: ghen tuông, hờn giận, vui buồn. Những vị thần trong tác phẩm của
Eschyle, Homerơ đều có những tâm lý, dục vọng, hành động, dáng dấp, cử chỉ của
con người”. [14; tr.3] Văn học Hi Lạp cổ đại còn đề cập đến những vấn đề có tính

chất xã hội như vấn đề tự do, công lý, tinh thần chiến đấu chống lại số mệnh, tư
tưởng anh hùng. Nhờ vậy nền văn học ấy đã dựng nên những hình tượng thể hiện
đầy đủ bản chất của nhân loại trong buổi sơ khai. Những nhà nghiên cứu cũng đặc
biệt chú trọng đến hình thức và cách thức lưu truyền cũng như giá trị thẩm mĩ của
nền văn học này, ai cũng công nhận giá trị thẩm mĩ to lớn của nó và có người nhận
định rằng: “khi tiếp xúc với nền văn học đó, ta như thấy lại tuổi thơ của riêng mình
và nhận thấy rằng chúng ta đã lớn lên từ một bước dài của lịch sử nhân loại”. [14;
tr.4]
Các công trình nghiên cứu hầu như chỉ tập trung phân tích về những vị thần,
những anh hùng: Asin, Uylix, Hector… Tuy nhiên có một số đông nhân vật từng
gây ra những mâu thuẫn có khi dẫn đến chiến tranh hay cũng vì họ mà vô số chiến
công được xác lập trong lịch sử văn học cổ đại lại chưa thấy có một công trình nào
3


nghiên cứu một cách triệt để trong thời gian gần đây. Đó là các nhân vật phụ nữ. Thế
giới phụ nữ trong văn học cổ đại rất phong phú và đa dạng, từ các nữ thần kiêu hãnh,
quyền uy trong thần thoại, đến những nàng công chúa xinh đẹp dịu dàng và những
người phụ nữ bình thường đều được nói đến. Khi bắt tay vào nghiên cứu đề tài này
tôi có đọc được một số bài viết về tác phẩm Medee của Euripide trên mạng, nguồn
từ diễn đàn văn học, tuy nhiên bài viết chỉ đi vào tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến bi
kịch, cũng như về lịch sử xã hội chứ chưa khai thác sâu vào nội tâm nhân vật, những
giằng xé, nỗi đau mà nhân vật nữ chính phải chịu trước sự mất mát của tình yêu, của
hạnh phúc. Bên cạnh đó tôi cũng có đọc những bài viết về các nhân vật của Văn học
cổ đại Hi Lạp trong Hợp Tuyển Văn Học Châu Âu và Văn Học Phương Tây, qua đó
tôi thấy người viết chỉ xoáy sâu vào những nhân vật anh hùng. Tuy những nhân vật
này là chính, nhưng chúng ta không nên chỉ đi tìm những cái hay, cái đẹp, cái uy
linh của người anh hùng mà quên đi người phụ nữ cũng có vai trò rất quan trọng
trong cuộc sống và xã hội. Họ có thể là nguyên nhân dẫn đến chiến tranh, nhưng
cũng có thể là những người vợ, người mẹ hết lòng vì chồng vì con đang trên chiến

trường. Có thể là người con gái xinh đẹp bị phụ rẫy tình yêu và cảm thấy bị xúc
phạm nên tìm cách trả thù, để rồi sau đó tạo nên bi kịch của riêng mình. Họ hiện lên
với tất cả những gì dung dị, đời thường nhưng cũng thật cao quý và sang trọng. Mỗi
người trong số họ mang một cảnh đời riêng có cả niềm vui và nước mắt, và đến một
lúc nào đó họ lại vùng lên một cách mạnh mẽ.
Có thể nói càng về sau, theo thời gian phát triển của lịch sử nhân loại thì
người phụ nữ càng khẳng định được vị trí cũng như bản lĩnh của mình, họ luôn vùng
lên vì cuộc sống vì bản thân của mình. Các nhà văn đã thổi vào họ một luồng tư
tưởng mới về quyền của người phụ nữ mà đỉnh cao là hài kịch của Aristophan. Như
vậy là từ rất sớm ở Châu Âu vị trí của người phụ nữ đã được khẳng định, uy quyền
thông minh như Zeus mà đôi lần còn thua trí người vợ Hêra với “đôi mắt bò cái” và
vẻ đẹp ít người sánh bằng.
Hình ảnh người phụ nữ không phải là một hình ảnh mới lạ trong văn học, bởi
văn chương là tấm gương phản ánh cuộc sống, mà trong cuộc sống ở bất cứ nơi đâu
cũng có những người phụ nữ. Họ có thể là những bậc mẫu nghi thiên hạ qua các thời
đại, những mỹ nhân nhan sắc khuynh thành, những nàng quận chúa, những nữ quí
tộc; và họ còn là những người mẹ, người chị thân thương của mọi người. Những
4


người mang nghiệp văn chương trong các thời đại đều không tiếc lời lẽ tốt đẹp để ca
ngợi người phụ nữ. Vậy nên khi bàn về cái đẹp, người ta vẫn thường nghĩ về người
phụ nữ - họ đã nhẹ nhàng đi sâu vào tâm khảm biết bao người thông qua những hình
ảnh rất quen thuộc, thân thương và gần gũi. Bất kì quốc gia nào cũng rất tự hào về
giới nữ của nước mình. Vì thế, đi kèm với những tác phẩm văn chương bao giờ cũng
có những bài bình luận, đó cũng như là một trong những cách khẳng định tài năng
của tác giả cũng như chỗ đứng của tác phẩm trên văn đàn.
Trong quá trình khảo sát lịch sử đề tài, người viết trong khoảng thời gian nhất
định và trong giới hạn khả năng đã sưu tập được một số công trình nghiên cứu liên
quan đến đề tài Hình ảnh người phụ nữ trong văn học cổ đại Hi Lạp như sau:

Trước tiên là một số đề tài luận văn nghiên cứu về hình ảnh người phụ nữ
trong các tác phẩm văn học nước ngoài cũng như trong những tác phẩm văn học
Việt Nam mà sinh viên khoa văn của trường Đại học Cần Thơ đã thực hiện trong
vòng mười năm trở lại đây như:
+ Số phận người phụ nữ trong tác phẩm Nữ tu sĩ của Đơni Điderot, sinh viên thực
hiện Lê Minh Khải (5/2006).
+ Hình tượng người phụ nữ Nam bộ trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, sinh viên
thực hiện Đặng Nguyễn Hồng Gắng (5/2008).
+ Hình tượng nhân vật người phụ nữ trong Sông Đông êm đềm của
M.A.Sôlôkhôp, sinh viên thực hiện Thạch Thị Thanh Loan (5/2009).
+ Hình ảnh người phụ nữ trong Con gái thầy lang và Phu nhân táo quân của Amy
Tan, sinh viên thực hiện Mai Thị Hồng Nhung (5/2009).
Ở các đề tài này, các tác giả đã đi sâu vào tìm hiểu về thân phận người phụ nữ
đặt trong mối tương quan với hoàn cảnh xã hội đương thời. Điều quan trọng nhất là
hầu hết các đề tài trên đều viết về những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ dù
trong bất kì hoàn cảnh nào. Tuy nhiên, những đề tài trên chỉ giới hạn trong một hoặc
một vài tác phẩm của một tác giả nào đó và những tác phẩm này thuộc thời kì cận
đại hoặc hiện đại. Riêng đề tài Hình ảnh người phụ nữ trong Văn học cổ đại Hi Lạp
thì khá mới lạ và đặc biệt. Người viết cần tìm hiểu hình ảnh người phụ nữ cổ đại
trong những tác phẩm văn học ở thời kì đầu của Văn học Châu Âu mà văn học Hi
Lạp là đại diện. Một điều nữa ta dễ dàng nhận ra là người phụ nữ trong văn học giai
đoạn này, nói cụ thể là trong Thần thoại Hi Lạp đều đã đạt đến đỉnh cao về quyền
5


lực và địa vị so với người phụ nữ trong xã hội cận đại sau này. Nếu nói theo phương
diện này thì người viết sẽ tìm hiểu theo hướng giảm dần. Bởi về sau trong những tác
phẩm thuộc thể loại anh hùng ca và bi kịch cổ đại Hi Lạp thì hình ảnh người phụ nữ
không còn uy quyền như trong thần thoại nữa “vai trò của các nữ thần trong thần
thoại đã biểu thị một thời kì xưa hơn tức là thời kì mà người đàn bà có địa vị tự do

hơn, được tôn trọng hơn, nhưng đến thời đại anh hùng chúng ta thấy người đàn bà
đã bị rẻ rúng trước ưu thế của người đàn ông và trước sự cạnh tranh của nữ nô lệ”.
[12; tr.350] Bên cạnh đó, trong những tác phẩm Văn học cổ đại người phụ nữ đã đi
vào trang viết với nét đẹp khó có thể diễn tả hết bằng lời dù là hình thể hay phẩm
chất. Đó là những “hình tượng cực đẹp nếu không phải là đẹp và tươi tắn nhất trong
văn học thời xưa”. [4; tr.23] Họ là những người phụ nữ dù là người trần hay nữ thần
đều hiện lên thật gần gũi và thân quen đến đáng kinh ngạc, “ngay cả các vị nữ thần
cũng làm đủ mọi nghề: quay sợi, nấu ăn, chữa bệnh”. [12; tr.364] Điều này càng thể
hiện rõ hơn cách nhìn nhận về vai trò của phụ nữ trong cuộc sống xã hội qua tư duy
ngây thơ của con người cổ đại.
Trên đây là một số nhận định của các nhà nghiên cứu về hình ảnh người phụ
nữ trong văn học cổ Hi Lạp. Tuy chúng không liên quan trực tiếp đến đề tài của tôi
nhưng thiết nghĩ đó lại là những ý kiến đóng góp rất có giá trị cho luận văn của
mình. Nối gót những công trình trước đây, qua phần nghiên cứu của mình tôi sẽ cố
gắng đi sâu và khảo sát kĩ các tác phẩm để có thể có một công trình hoàn thiện nhất
về hình ảnh người phụ nữ trong văn học cổ đại Hi Lạp.

3 – Mục đích và yêu cầu
Có thể nói mục đích cao nhất của tôi khi làm đề tài này chính là cơ hội thực
sự để tôi có thể nhìn nhận lại quá trình học tập suốt những năm trên giảng đường về
kiến thức có được cũng như về kĩ năng làm việc của mình. Tiếp đó, tôi muốn có
phần đóng góp bé nhỏ vào các công trình nghiên cứu văn học cổ đại Hi lạp nói
chung và công trình nghiên cứu về hình ảnh của những người phụ nữ trong nền văn
học này nói riêng. Dù nhỏ nhưng tôi tin là nó có giá trị nhất định trong quá trình tìm
hiểu về văn học Phương Tây Cổ đại của nhiều người. Hình ảnh người phụ nữ luôn là
một hình ảnh đẹp trong văn chương “Đông, Tây, Kim, cổ”, bất kì văn chương thời
đại nào, đất nước nào cũng đều viết về họ, chỉ khác là tùy theo hoàn cảnh xã hội và
6



phong tục tập quán mà có những hình ảnh khác nhau. Có thể nói trên trái đất này có
bao nhiêu tộc người thì có bấy nhiêu cách để nói về người phụ nữ, nhưng cái chung
nhất họ luôn là những vẻ đẹp đáng được ca ngợi và trân trọng. Tôi chỉ xin góp một
phần công sức của mình để tìm hiểu về hình ảnh đẹp này trong một thời đại và một
số tác phẩm nhất định của nền Văn học cổ đại Hi Lạp.
Để có thể làm tốt đề tài này chẳng những cần phải có kiến thức nhất định về
những tác phẩm văn học cổ đại, lòng nhiệt thành mà người viết còn cần phải có một
thái độ làm việc nghiêm túc, tích cực. Đối với nền Văn Học cổ Hi Lạp tôi có thừa
lòng say mê nhưng đó là điều kiện cần chứ chưa đủ, để có thể viết tốt tôi cần phải nỗ
lực tìm kiếm tài liệu, những bài viết liên quan, song song đó tôi sẽ không ngừng trau
dồi các kĩ năng, phương pháp nghiên cứu để có được cái nhìn đúng đắn, khách quan
cũng như có thể viết tốt đề tài này.

4 – Phạm vi nghiên cứu đề tài
Nền văn học cổ đại rất phong phú, đa dạng, đồ sộ đã được hình thành và phát
triển qua một thời gian dài. Có thể nói ở bất kì thể loại nào cũng có hình ảnh của
người phụ nữ dù ít, dù nhiều. Ở bài viết này tôi sẽ đi khảo sát tất cả các thể loại lớn
với những tác phẩm tiêu biểu từ đó đi đến sự khái quát chung về hình ảnh của người
phụ nữ trong văn học cổ đại Hi Lạp. Như vậy, phạm vi nghiên cứu của đề tài sẽ bao
gồm hình ảnh người phụ nữ qua thần thoại, anh hùng ca, bi kịch và hài kịch cổ đại
Hi Lạp.
Để khảo sát những hình ảnh này, tôi chủ yếu nghiên cứu trong những tác
phẩm văn học cổ đại Hi Lạp đã được dịch sang Tiếng Việt và giới thiệu như sau:
-

Thần thoại Hi Lạp – Nguyễn Văn Khỏa dịch

-

Iliat và Ôđixê của Homerơ – Nguyễn Văn Khỏa dịch


-

Medee của Euripide – Lê Nguyên Cẩn dịch

-

Những người phụ nữ hội đồng của Aristophan – bản tóm tắt và đoạn

trích của Lê Nguyên Cẩn giới thiệu.
Đồng thời tôi sẽ tìm hiểu thêm những công trình nghiên cứu xung quanh các
tác phẩm này để bổ sung thêm về kiến thức, tư liệu trong quá trình tổng hợp vấn đề
để có thể hoàn thành bài viết một cách tốt nhất.

7


5 – Phương pháp nghiên cứu
Bất kì một việc nào cũng vậy để có thể hoàn thành tốt cần phải có phương
pháp làm việc chu đáo và có khoa học. Trong quá trình hoàn thành đề tài tôi chủ yếu
sẽ sử dụng một số phương pháp cơ bản như: so sánh, qui nạp, diễn dịch, giải thích,
chứng minh, tổng hợp vấn đề, từ đó đi đến kết luận cuối cùng và trình bày bài viết
theo sự hiểu biết và nghiên cứu cá nhân.
Khi tiếp nhận đề tài tôi đã dùng một số thao tác cơ bản để có thể hoàn thành
tốt bài viết như sau:
+ Tập hợp những tài liệu cũng như những ý kiến liên quan đến đề tài.
+ Bổ sung những phát hiện mới mang tính cá nhân.
+ Xây dựng đề cương.
+ Hoàn thành bản thảo.
Cuối cùng tôi sẽ tổng hợp tất cả các vấn đề, cũng như sửa chữa những ý chưa

chính xác mà giảng viên hướng dẫn đã lưu ý để hoàn thành bài viết một cách tốt
nhất.

8


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
TÌM HIỂU KHÁI QUÁT VỀ VĂN HỌC CỔ ĐẠI HI LẠP
1.1 – Văn hóa cổ đại Hi Lạp
Đất nước Hi Lạp nằm ở phía Nam bán đảo Ban Căng với vị trí địa lí vô cùng
thuận lợi cho việc giao lưu và phát triển. Phía Đông giáp biển Êgiê, Tây Bắc giáp
Albanie, Đông Nam giáp Thổ Nhĩ Kì, phía Bắc giáp Nam Tư và Bulgarie.
Nền văn hóa và văn học cổ đại Hi Lạp chiếm một vị trí đặc biệt trong lịch sử
phát triển của nền văn minh phương Tây. Có thể nói chính bối cảnh lịch sử đã sản
sinh ra nền văn học cổ đại Hi Lạp và nói như Mac nó chỉ có thể “nảy sinh trong
những điều kiện của những quan hệ xã hội ấy mà thôi chứ vĩnh viễn không thể trở
lại được nữa”. [3; tr.14] Đó là bối cảnh xã hội Hi Lạp thời kì cổ đại với phong trào
tự do dân chủ, với những cuộc đấu tranh bảo vệ thể chế của một nền dân chủ dù là
trong khuôn khổ của chế độ nô lệ, với ý thức tự cường dân tộc cương quyết chống
mọi thế lực để bảo vệ đất nước đã là gương sáng cho các nước phương Tây nhìn vào
noi theo. Và trên cơ sở ấy một nền nghệ thuật có giá trị lớn đã ra đời.
Đây là thời kì mà con người sớm tự khẳng định mình, họ đi tìm và trả lời cho
mọi câu hỏi về thế giới tự nhiên tồn tại xung quanh mình, họ bắt đầu có những thành
tựu nhất định trên nhiều lĩnh vực đặc biệt là triết học. Bên cạnh đó những phát kiến
về thiên văn, địa lí, số học, toán học cũng phát triển một cách rực rỡ không kém và
đó là nền mống vững chắc cho việc xây dựng khoa học thời cận đại sau này. Có thể
nói đỉnh cao nhất của Văn hóa cổ đại Hi Lạp là nền văn học cổ đại. Nền văn học này
diễn biến trong vòng bảy, tám thế kỉ từ khi có những bút tích văn học đầu tiên đến
khi Hi Lạp và Maxêđoan trở thành chư hầu của đế quốc La Mã (thế kỉ I tr.CN). Các

học giả đã dựa trên những sự kiện lịch sử đã chia Văn học Hi Lạp ra thành 3 thời kì
lớn như sau:
1 – Thời kì tối cổ: bắt đầu từ khi có những bút tích văn học đầu tiên đến
thế kỉ V tr.CN.
2 – Thời kì cổ điển (hoặc Attich) từ chiến tranh Ba Tư – Hi Lạp đến thế kỉ III
tr.CN

9


3 – Thời kì chủ nghĩa Hêlen (hoặc Alêcxăngđrơ) từ thế kỉ II đến thế kỉ I
tr.CN
Cũng như mọi nền văn học khác trên thế giới trước khi có văn học viết thì
nền Văn học cổ đại Hi Lạp đã hình thành nền văn học dân gian với một kho tàng
thần thoại phong phú vào loại bậc nhất thế giới.
Cũng từ chất liệu này Homerơ đã cho ra đời hai bản anh hùng ca Iliat và
Ôđixê, một bản trường ca chiến trận hào hùng và một bản trường ca về cuộc sống
thanh bình cũng như là ca ngợi về trí tuệ tuyệt vời của con người. Sau Homerơ vẫn
có những nhà thơ sáng tác các trường ca về thành Tơroa và Tebơ nhưng các thi
phẩm này không có giá trị mấy. Sau Homerơ thì Hêziôt được mệnh danh là nhà thơ
của Hi Lạp cổ đại, điều nổi bật nhất trong sáng tác của ông là ông dùng thơ ca để ca
ngợi lao động của con người. Ông đề cập đến những việc đồng áng bình dị nhọc
nhằn nhưng qua đó nêu lên ý nghĩa cao đẹp về việc lao động làm cho cuộc sống con
người tốt đẹp hơn.
Thời kì này thơ trữ tình cũng phát triển một cách mạnh mẽ với những tên tuổi
lừng lẫy như Tiectê, Minnecnơ, Ximônitơ, Panhđa, Xapho… mỗi người một vẻ,
những nhà thơ trữ tình đầu tiên này đều có những sáng tác bất hủ về tình yêu. Hơn
nữa cùng với sự phát triển của chế độ tư hữu trong thời kì chế độ nô lệ hình thành
vai trò cá nhân trong xã hội đã được đề cao, họ đi vào tìm hiểu thế giới nội tâm vô
cùng phong phú của con người: “Loại thơ này nhằm biểu hiện một tình cảm thuần

túy bên trong, nói lên cảm nghĩ của nhà thơ về một đối tượng nào đó”. [2; tr.5] Thơ
của Văn học cổ đại Hi Lạp gần với thơ ca thời kì cận đại của các nước phát triển sau
này.
Một thể loại lớn nữa của Văn học cổ đại ta phải nhắc đến là kịch. Ca kịch ra
đời từ phong tục tế thần rượu nho Dyonysos, hình thành hai loại hình là bi kịch và
hài kịch. “Hài kịch khởi nguồn từ chính thể dân chủ”. [3; tr.17] Hài kịch vốn dĩ chịu
ảnh hưởng của hề kịch Pêlôpơnezơ – nhà thơ châm biếm cổ đại. Hài kịch cổ đại Hi
Lạp bắt đầu với tên tuổi của Êpicacmơ (450 tr.CN) phát triển với Manhex, Crôtinôx,
Cratex và thực sự đạt đến đỉnh cao với thiên tài Aristophane. Từ những tác phẩm
đầu tiên hài kịch đã thể hiện tình yêu cuộc sống tinh thần lạc quan và nhất là mang
tính chiến đấu mạnh mẽ, lên tiếng bảo vệ cho cuộc sống con người. Bi kịch thì thiên
về sử dụng những xung đột, nhất là trong nội tâm của con người trước những thực
10


trạng diễn ra trong cuộc sống. Nhân vật trong bi kịch cũng lên tiếng và hành động vì
hạnh phúc cũng như chính nghĩa. Khác với hài kịch, bi kịch ngay từ những ngày đầu
đã được xem là một loại hình chính kịch và được mọi người rất nhiệt tình hưởng
ứng.
Trong giai đoạn đầu này một thể loại khác cũng ra đời và đưa nền văn xuôi
Hi Lạp phát triển với một mức độ cao đó là văn hùng biện. Có thể nói hùng biện là
truyền thống của người Hi Lạp. Đều này thể hiện trong sinh hoạt xã hội và được
phản ánh trong văn học. Một thủ lĩnh thật sự tài ba phải là người chiến đấu hay và có
tài nói chuyện để thuyết phục lòng người. Trong số những nhà hùng biện được coi là
mẫu mực của thời đại thì tên tuổi của Đêmôxter sáng chói. Những tác phẩm của ông
mang đầy nhiệt huyết và luôn luôn sôi sục tình yêu nước, yêu tự do mãnh liệt. Ông
thực sự là một người chiến sĩ kiên quyết đấu tranh đến cùng cho nền độc lập dân tộc,
tự do của đất nước. Ông bị lưu đày và thà uống thuốc độc tự tử chứ không để sa vào
tay quân thù, ông vốn là người “lời lẽ ra sao thì bút tích như vậy”. [3; tr.18] Đồng
thời Đêmôxtêr cũng chính là sự kết hợp hài hòa giữa người hoạt động xã hội và nhà

văn trong xã hội bấy giờ.
Nói đến lĩnh vực ngụ ngôn, trong chúng ta ai cũng nhớ đến Laphôngten sống
vào thế kỉ XVII ở Pháp đã viết nên những bài thơ ngụ ngôn bất tử. Quay ngược lại
thời kì Văn họzc cổ đại Hi Lạp ta có thể tìm thấy Ezôp – “ông tổ của ngụ ngôn”. [3;
tr.18] Tên tuổi của ông vang lừng đến mức tại Aten người ta đã cho dựng một pho
tượng của ông. Ông xuất thân là một nô lệ, hình dạng xấu xí quê ở vùng Tiểu Á
thuộc Hi Lạp, sống vào thế kỉ VI tr. CN, nhờ tài sáng tác ngụ ngôn mà ông đã được
chủ giải phóng. Chính tài năng thiên phú này đã đưa ông đến đỉnh cao của danh
vọng và cũng chính nó đã đưa đến bất hạnh trong cuộc đời ông. Ông sáng tác ngụ
ngôn chế giễu bọn buôn thần bán thánh ở Đenphơ và bị chúng tìm cách buộc tội
chết. Ngụ ngôn của Êzôp là tiếng nói đấu tranh của những người chịu số phận bất
hạnh, những người bị trị và những nô lệ đồng thời cũng là lời phê phán không
thương xót đối với bọn thống trị bất lương… Bên cạnh đó tác phẩm của Ezôp còn là
lời khuyên bảo chí tình với đồng loại, với con người. Truyện của ông mang tính
nhân văn cao đẹp và có giá trị qua mọi thời đại.
Được xem là một trong những nền văn hóa lớn của nhân loại nên ta không
ngạc nhiên khi trong giai đoạn đầu này ở Hi Lạp sử học và triết học thật sự phát triển
11


rất rực rỡ. Ở Hi Lạp thần quyền không đóng vai trò quan trọng cũng như không có
tầng lớp tăng lữ đặc quyền, không có hệ thống đẳng cấp đè nặng lên xã hội, không
có chủ nghĩa giáo điều, tôn giáo khống chế tư tưởng con người như ở phương Đông
cổ đại. Từ thế kỉ thứ VI tr.CN đã có những triết gia tên tuổi và ngay từ buổi ban đầu
họ đã sớm có những suy tư về nguồn gốc của thế giới và vạn vật, vì vậy nên cuộc
đấu tranh giữa hai trường phái duy tâm và duy vật đã nảy sinh ngay từ lúc sơ khai
của triết học. Talexđơ Mile một trong bảy người hiền của toàn Hi Lạp, ông có nhiều
phát minh mà đến nay vẫn còn giá trị, ở lĩnh vực triết học ông là một tín đồ của
trường phái duy vật, ông đả phá gay gắt đầu óc mê tín cho rằng “thần là kẻ sáng tạo
ra vạn vật”. Ông cho rằng “thế giới do vật chất tạo thành”, “vật chất là có mãi”… có

thể nói đây là những khởi điểm tốt đẹp cho triết học duy vật phát triển rực rỡ sau
này. Bên cạnh đó với Hêraclit tư tưởng biện chứng đã được ông đề cập đến bằng
những câu nói nổi tiếng mà đến nay vẫn còn nguyên giá trị người ta không bao giờ
có thể tắm hai lần trên cùng một dòng sông, mọi sự vật đều biến động, mọi vật đều
biến đổi. Có rất nhiều nhà hiền triết lỗi lạc đã xuất hiện trong thời kì này như
Prôtagôrax, Xôcrat, Platông, Arixtôt và chính họ đã xây dựng những viên gạch đầu
tiên kiên cố vững chắc để làm nền cho triết học phát triển sau này. Nền văn hóa cổ
đại đã phát triển một cách mạnh mẽ và toàn diện trên nhiều lĩnh vực, nó thật sự đã
gây ấn tượng cho tôi, một người trẻ tuổi ở thời kì hiện đại nhìn về một nền văn hóa
lớn trong quá khứ của toàn nhân loại.
Đế quốc Hi Lạp sụp đổ cùng với cái chết bất ngờ của Alêcxăngđrơ đại đế
(323 tr.CN). Đế quốc La Mã bên kia bờ Địa Trung Hải nổi lên làm lu mờ “thiên tài
Hi Lạp”. [3; tr.20] Hi Lạp trở thành một tỉnh của Đế quốc La Mã. Sau thế kỉ I tr.CN
Đế quốc La Mã lại sụp đổ (thế kỉ IV) một nước thiên chúa giáo thời kì Bizăngtanh
đã thay thế cho một Hi Lạp cổ đại có nến văn hóa tràn đầy tinh thần nhân văn. Do đó
nền văn học này cũng rơi vào sự thấp kém về nghệ thuật, nó chỉ đơn thuần mang giá
trị như tài liệu để người sau có thể tham khảo và tìm hiểu về giai đoạn đó. Điều này
càng khẳng định rõ hơn về việc Văn học cổ đại Hi Lạp chỉ có thể ra đời và phát triển
rực rỡ trong một hoàn cảnh xã hội nhất định như Mac đã nói: “Nghệ thuật và thơ ca
của người Hi Lạp đến ngày nay vẫn còn giữ được giá trị làm mẫu mực của nó chưa
ai vượt qua khỏi”. [3; tr.20]

12


1.2 – Một số thể loại trong văn học cổ đại Hi Lạp
1.2.1 – Thần thoại Hi Lạp
Theo Từ điển Văn học bộ mới thì họ định nghĩa Thần thoại Hi Lạp là “những
huyền thoại, truyền thuyết ra đời ở khu vực Đông nam Địa Trung Hải, nơi đã phát
sinh nền văn minh Cret-Miken (Crète-Mycène, 3.000 – 1.000 tr.CN), trải qua một

quá trình tiến triển hết sức phức tạp và lâu dài dần trở thành thần thoại Hi lạp”. [2;
tr.1651]
Như ta đã biết bất kì một đất nước nào cũng có những câu chuyện thần tiên,
cổ tích. Nó như một chiếc nôi kì diệu để nuôi dưỡng tâm hồn con người. Có thể nói
thần thoại đã phản ánh một cách chân thực và sinh động về tư duy của con người
trong thời kì bắt đầu hình thành xã hội, “tư duy của con người trong thời kì thị tộc,
con người của ngọn lao đá, lưỡi rìu đồng không thể có được một thứ lí luận nào
khác ngoài thần thoại để nhận thức thế giới xung quanh”. [12; tr.30]
Kornei Tchoukovski đã dành gần như suốt cả cuộc đời mình để tìm hiểu về tư
duy trẻ em, và nếu khảo sát những công trình nghiên cứu của ông ta sẽ thấy có sự
tương quan nhất định giữa tư duy trong thần thoại và tư duy của trẻ em. Nghĩa là con
người trong thời kì đầu của nhân loại họ cũng đi tìm và trả lời cho những câu hỏi vì
sao, tại sao như trẻ em vậy. Theo nghiên cứu của Kornei Tchoukovski thì “các em
thường nhầm lẫn là do không hiểu biết nhiều sự việc và những hiện tượng rất đơn
giản. Các em tìm cái logic của sự vật, giải thích sự vật bằng những suy diễn ảo
tưởng”. [9; tr.36] Ta có thể trích dẫn một dẫn chứng trong công trình nghiên cứu về
tư duy trẻ em của ông như sau: Có một em bé cởi truồng đứng trước gương suy nghĩ
và nói: Mắt thì để trông… Tai thì để nghe… Mồm thì để nói… Thế cái rốn thì để
làm gì nhỉ? Và cậu bé tự trả lời để cho nó đẹp chắc. Tư duy thần thoại cũng gần như
vậy, nhưng được đặt trong không gian rộng hơn vì lúc đó con người nhỏ bé với sự
lạc hậu cũng như hiểu biết thấp kém của mình đã phải đối mặt với biết bao hiện
tượng tự nhiên đang diễn ra xung quanh mình, họ trở nên thật bơ vơ và lạc lõng như
một đứa trẻ không người chỉ bảo. Đi tìm hiểu những vấn đề này ta chỉ có thể giải
thích sỡ dĩ như vậy vì tất cả được xây dựng trong chế độ thị tộc và trình độ thấp kém
của nó. Họ lấy mối quan hệ của tập thể thị tộc làm cơ sở, coi đó là một quan hệ phổ
biến có tính chất chung cho nhân loại, cho thế giới để nhìn nhận, để giải thích những
thực tại trong thế giới quan mà mình đang sống. Con người cổ đại tư duy cũng ngây
13



thơ như trẻ nhỏ đối với họ mọi thứ đều mới mẽ và lạ lẫm. Họ bắt đầu tạo ra các vị
thần và cái gì cũng có thần, điều gì họ thấy sợ và khó hiểu thì sẽ có thần và đến
những công việc thường nhật trong cuộc sống của họ cũng có một vị thần cai quản
từ thần Zeus tối thượng, mẹ đất Gaia vĩ đại đến thần quay tơ, dệt cửi... và “bất kì một
câu chuyện thần thoại nào cũng đều khắc phục, khống chế và tạo thành các lực
lượng tự nhiên trong tưởng tượng và nhờ trí tưởng tượng, do đó nó sẽ biến mất khi
người ta thực sự khống chế được các sự kiện này”. [9; tr.32] Ta thấy, trong Thần
thoại nói chung và Thần thoại Hi lạp nói riêng thì những sức mạnh thiên nhiên đều
được thể hiện dưới sự giận dữ hoặc quyền năng của thần linh, cơn giận của các vị
thần sẽ gây ra sấm sét, nạn đại hồng thủy, bệnh dịch và có khi mang đến cả chiến
tranh cho nhân loại. Vậy nên tự nhiên vô hình trung được thần thoại hóa bằng những
hình ảnh, hình tượng con người, mang tính cách, tính nết con người. Đó là quá trình
như ta thường gọi là sinh động hóa tự nhiên bằng nhân hình hóa và nhân cách hóa.
Quá trình này trong lịch sử đã diễn ra trong một thời gian dài và vô cùng phức tạp.
Thần thoại Hi Lạp được mở đầu với câu chuyện về việc hình thành trời đất và
các vị thần. Có lẽ điều làm cho mọi người thích thú nhất là cách con người cổ đại
truy nguyên ra tổ tông của các vị thần chính là đêm tối Nix và sương mù ngụ trong
lòng Khaôx kết đọng lại thành quả trứng sau này nở ra thần tình yêu. Đây tuy là
cách lí giải ngây thơ nhưng không kém phần nhân văn cao đẹp khi dường như họ
muốn nói rằng mọi thứ đều do thần tình yêu mà ra, họ đề cao tình yêu nghĩa là đề
cao tình cảm cao đẹp của con người. Từ tư duy này con người cổ đại đã tạo ra những
cuộc hôn phối, những cuộc đấu tranh và cuối cùng khẳng định quyền lực của các vị
thần. Họ tạm chia thế giới ra làm ba cõi do ba anh em Zeus cai trị, một thần là Zeus
ở nơi quanh năm tràn đầy ánh sáng và những gì tốt đẹp nhất trên thiên đường là đỉnh
Olanhphơ, một người cai trị địa ngục là thần chết Hadex, và một nữa là Podêiđông
cai trị biển cả. Ba vị thần đại diện cho những thế lực thiên nhiên mạnh nhất lúc bấy
giờ mà con người chưa đủ hiểu biết cũng như trình độ để giải thích.
Thần thoại Hi Lạp được hình thành trong khoảng thời gian lịch sử khá dài.
Đó là một quá trình lịch sử từ thời văn minh Miken (2000 – 1100 tr.CN) đến những
buổi thi diễn, đọc, kể anh hùng ca của Homerơ trong những ngày hội rồi đến hội

diễn bi kịch trong ngày hội của thần rượu nho. Theo các nhà nghiên cứu thì thần
thoại được chia ra làm ba loại: Thần thoại về các gia hệ thần, thần thoại về các thành
14


bang và thần thoại về các anh hùng. Sự phân loại và sắp xếp như trên là có nguyên
do của nó, như trên ta đã đề cập thì các vị thần được xem là thành phần đầu tiên của
vũ trụ. Thần thoại về gia hệ của các vị thần với nội dung hiện thực đã phản ánh thời
kì xã hội thị tộc ban sơ nhất. Trên cơ sở đó sẽ ra đời các thành bang, con người bắt
đầu giáo dục tình yêu quê hương, yêu thành bang rồi huyền thoại về các anh hùng ra
đời để bảo vệ thành bang cũng như khẳng định vị trí của mình trong tập thể anh
hùng.
Tuy nhiên, các loại thần thoại này có một đặc điểm chung cơ bản là đều thấm
nhuần thế giới quan thần linh chủ nghĩa, đều thông qua thế giới quan này mà phản
ánh hiện thực cuộc sống tư tưởng và tình cảm của người cổ đại. Trên cái nền chung
đó thì mỗi loại thần thoại lại có những đặc điểm riêng với những dụng ý khác nhau.
Thần thoại về gia hệ thần chính là tư duy ngây thơ của con người nhằm lí giải cho
thế giới khách quan bên ngoài.
Thần thoại về các thành bang là một bước phát triển cao hơn trong tư duy của
người Hi Lạp cổ trên cơ sở là sự phát triển xã hội. Đó là sự ra đời của các tổ chức
thành bang. Họ đi vào tìm hiểu về nguồn gốc cũng như sự hình thành của các thành
bang với một mục đích cao đẹp là bảo vệ quê hương cũng như thể hiện tình yêu với
nơi mình sinh ra. Đồng thời trong loại thần thoại này họ cũng ca ngợi những người
anh hùng đã ra đời và bảo vệ nơi chôn nhau cắt rốn của mình, tên tuổi của họ gắn
liền với tên của các thành bang.
Thần thoại về các anh hùng mang đậm sắc thái ca ngợi và nó gắn bó mật thiết
với hai loại thần thoại trên. Thường thì mỗi một anh hùng điều được một trong các
vị thần linh bảo trợ, tất nhiên cũng có trường hợp họ bị các vị thần ghét bỏ và hãm
hại. Ngược lại cũng có những anh hùng giao du mật thiết với thần thánh như
Tăngtan được lên chơi với các vị thần trên đỉnh Olanhphơ, hoặc Hêraklex được trở

thành vị thần bất tử. Cũng như trên đã trình bày thì đôi khi tên của các vị anh hùng
có liên quan mật thiết đến sự hình thành, phát triển cũng như sự tồn vong của các
thành bang như anh hùng Catnôx và thành bang Têbê, chuyện anh hùng Têzê và
thành bang Aten. Thần thoại anh hùng chủ yếu ca ngợi những công dân ưu tú của
các thành bang. Đó là những người giỏi giang, dũng cảm trong lao động cũng như
chiến đấu, sức mạnh, vẻ đẹp trí tuệ, sự can trường của họ là mơ ước của quần chúng
lúc bấy giờ. Hình ảnh những người anh hùng là những mẫu hình lí tưởng mà con
15


người luôn muốn vươn tới và đạt được. Điều này thể hiện cảm quan lãng mạn chung
của thần thoại luôn hướng tới những gì đẹp nhất, xuất sắc nhất. Đó là những
Hêraklex, Pecxê, Belerôphông, Têzê, Jadong, Asin, Uylix… Đặc biệt là Hêraklex
được xem như hình tượng tiêu biểu cho sự hài hòa giữa sức mạnh vật chất và tinh
thần của người anh hùng cổ đại: tiêu diệt quái vật, trừng phạt bạo chúa và những kẻ
tham tàn gian ác chà đạp lên cuộc sống của con người, chàng chế ngự thiên nhiên
bằng sức lao động vĩ đại, bảo vệ kẻ yếu, lập lại sự công bằng bác ái trong xã hội…
Ở Hi Lạp cổ đại người ta tôn vinh chàng không chỉ như một anh hùng mà còn như
một vị thần linh. Các dân tộc Hi Lạp đều tự xưng là con cháu, là dòng dõi của chàng.
Có thể nói chàng là hình tượng anh hùng vô cùng gần gũi, quen thuộc với nhân dân
phương Tây và ở thời đại nào chàng cũng gợi nguồn cảm hứng, không ít những họa
sĩ, những nhà văn, những đạo diễn đã từ hình tượng của chàng mà tạo ra những tác
phẩm hay và có giá trị. Vượt qua khung cảnh hư ảo của thần thoại các anh hùng trở
nên bất tử bởi họ có vị trí vững trải qua không gian và thời gian với hình tượng đẹp
từ vẽ ngoài đến trí tuệ.
Nhìn chung ta thấy Thần thoại Hi Lạp là nhằm thể hiện trạng thái sinh hoạt
của người xưa và nhận thức tư tưởng của họ trong cuộc sống. Vì vậy khi nghiên cứu
Thần thoại Hi Lạp ta thấy ở đó cả sự hình thành và phát triển của một xã hội với đầy
đủ những trật tự của nó.
Một điều đặc sắc của Thần thoại Hi Lạp mà ta không thể không nhắc đến đó

là những đặc điểm về nội dung và yếu tố lãng mạn trong kho thần thoại này. Thần
thoại Hi Lạp thuộc thể loại văn học dân gian một thể loại ra đời sớm nhất và được
tồn tại khá đặc biệt đó là qua hình thức truyền miệng. Tuy nhiên, cách truyền miệng
cũng thật ấn tượng vì nó thể hiện được nét văn hóa tốt đẹp của người Hi Lạp cổ.
Thần thoại Hi Lạp tồn tại qua lời kể chuyện của các bô lão bên bếp lửa khuya, qua
bài ca của người hát rong, qua lời dạy dỗ của các bậc hiền triết với các bậc vua chúa
và các thành bang. Lúc đầu thần thoại rất đơn sơ, ít tình tiết, càng ngày càng được
bổ sung một cách phong phú và sinh động, bởi lẽ xã hội phát triển thì tư duy của con
người cũng thay đổi, họ nhìn nhận thế giới khách quan và xã hội một cách bao quát
hơn, trong khi kể chính những người kể chuyện cũng không nhận ra rằng mình đang
góp phần sáng tạo ra thần thoại qua cảm quan của cá nhân mình. Thần thoại Hi lạp

16


có một thời kì là ảnh hưởng duy nhất và sinh động nhất trong sinh hoạt văn hóa của
người Hi lạp trước khi có chữ viết.
Thông qua thần thoại thì thực tế sản xuất, trình độ và công cụ sản xuất cũng
được thể hiện rõ. Ngày nay các nhà khoa học qua sự nghiên cứu và tìm hiểu đều giải
thích mọi chuyện qua lăng kính hiện thực, còn trước đây con người cổ đại cũng giải
thích các hiện tượng sự vật xung quanh nhưng là bằng cảm quan lãng mạn của mình
nên trong các lĩnh vực từ sản xuất đến văn hóa nghệ thuật đều có các vị thần. Đó là
tiếng đàn ngân nga thánh thót của Amphiông khiến cho các hòn đá xúc động mà tự
chồng chất lên nhau thành các thành bang; tiếng đàn Kitar của Apôlông làm cho đôi
chân của các vị nữ thần Muydơ muốn nhảy múa mỗi khi nghe được; hay tiếng đàn
Lia của chàng Orphê có thể cảm hóa người đưa đò trên dòng sông âm phủ Xêtich để
đưa vợ về. Rõ ràng thần là hình ảnh thực tế của người thợ lành nghề như Gorki đã
từng nói: “Mỗi vị thần được trang bị một công cụ sản xuất và hình tượng thần là
hình tượng thành công trong lao động”. [3; tr.27]
Thực tế chiến đấu với kẻ thù “hai chân và bốn chân” và thực tế sinh hoạt xã

hội cũng được phản ánh trong thần thoại. Họ chiến đấu với thiên nhiên và bắt thiên
nhiên phải phục vụ mình như hình tượng Hêraklex chàng đã dùng đôi tay có sức
mạnh thần kì để nắn hai con sông Anphê và Pênê cho dòng nước chảy xiết cuốn
sạch rác rưởi trong chuồng bò của Ôgiax, chính chàng cũng bóp chết sư tử Nêmê,
bắt sống lợn lòi Êrimăngtơ… Những tên vua bạo tàn, hung ác, thậm chí nhút nhát
ích kỉ cũng bị chàng trừng trị thỏa đáng. Những kẻ thù “hai chân” đã bị trừng phạt
bởi chính hành động của chúng theo như tư tưởng công lí của con người cổ xưa.
Bên cạnh đó, chế độ quần hôn, tạp hôn cũng được thể hiện trong thần thoại:
“Trong xã hội cộng đồng thị tộc việc người anh trai hay em trai đối xử với em gái
hay chị gái của mình như đối xử với một người vợ là việc hợp với pháp lí”. [3; tr.29]
Ở đây rõ ràng Ăngghen đã phản ánh đúng mối quan hệ và xây dựng gia đình trong
thời kì cổ thông qua các câu chuyện thần thoại. Đồng thời những giá trị tốt đẹp cũng
như những bài học làm người cũng được phổ biến trong thần thoại, tạo nên một giá
trị nhân văn rất lớn từ tác phẩm đồ sộ này.
Đã nói đến thần thoại là phải nói đến những yếu tố lãng mạn đến hoang
đường khó tin. Lãng mạn được hiểu là sóng tràn bờ, ta có thể hiểu đó là sự vượt lên
trên thực tại, con người hướng đến những gì cao hơn, xa hơn so với cuộc sống của
17


mình. Con người ở thời kì hiện đại sử dụng yếu tố lãng mạn trong văn chương để
chối bỏ cuộc sống hiện tại vì họ thấy bất mãn hay không vừa ý. Người cổ đại sử
dụng yếu tố lãng mạn để thể hiện ước mơ của mình. Họ mong muốn có thể đi nhanh
như ý nghĩ mới có đôi giày của chàng Hecmex, hay những vũ khí mang đến chiến
thắng tất yếu như con ngựa có cánh Pêgazơ, những mũi tên “bách phát bách trúng”
của Hêraklex. Như Gorki từng nói: “Tôi không chút nghi ngờ rằng chúng ta ai cũng
đều hiểu những truyện cổ tích, truyền thuyết cổ đại, nhưng một đều mong ước là sao
hiểu sâu hơn ý nghĩa của những truyện đó. Ý nghĩa đó chung quy là ước vọng của
những người lao động thời cổ muốn cho lao động của mình nhẹ nhàng hơn, muốn
tăng năng suất lao động, muốn tự võ trang để chống lại kẻ thù hai chân và bốn

chân”. [7; tr.4] Hơn thế nữa, cũng như bao thần thoại khác con người luôn mong
mình có cuộc sống tràn ngập niềm vui nên mới có thế giới Olanhphơ nơi các vị thần
bất tử sống, nơi mà nỗi buồn chỉ thoáng qua còn niềm vui là bất tận. Yếu tố lãng
mạn, kì ảo trong thần thoại Hi Lạp làm cho câu chuyện thêm lung linh huyền ảo
nhưng nó cũng đóng vai trò như một vỏ bọc vững chắc để con người cổ đại thể hiện
triết lí nhân sinh của mình. Con người cổ đại chẳng những mong mình được sống
mãi, sống vui vẻ hạnh phúc mà còn mong mình sống thật sự có ý nghĩa. Họ sống và
thực hiện lí tưởng của mình dù phải lìa bỏ gia đình, có thể chọn cách ra đi là khó
mong được trở lại như Uylix, Hector.. Hay chấp nhận ra chiến trường dù biết là
mình phải chết nhưng tiếng vang thì còn mãi nơi hậu thế như Asin.
Nói chung, qua sự khảo sát những vần đề trên ta thấy Thần thoại Hi Lạp thực
sự đóng một vai trò cực kì quan trọng trong việc hình thành và phát triển nền văn
học cổ đại Hi Lạp.

1.2.2 – Anh hùng ca
Anh hùng ca được hiểu là: “một loại trường ca dân gian, một loại hình của
thể loại tự sự hình thành trên cơ sở thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích và khai
thác đề tài, cốt truyện trong kho tàng đó” [16]. Giai đoạn đầu của anh hùng ca
thường chỉ là những bài ca ca ngợi về các anh hùng, người có công với thành bang
hoặc đã lập nên chiến công rực rỡ nhưng những bài ca này tồn tại với một dung
lượng khá là khiêm tốn. Càng về sau những bài ca này càng được hoàn chỉnh hơn và
dần dần trở thành những tác phẩm văn học thực thụ.
18


Từ kho Thần thoại Hi Lạp vô cùng phong phú và thực tại cuộc sống người ta
đã tạo ra nhiều tác phẩm truyền miệng thuộc nhiều thể loại khác nhau như trường ca,
thơ ca trữ tình và ca kịch nhưng phần lớn qua thời gian đã bị thất lạc duy chỉ còn hai
bản trường ca của Homerơ là còn lưu lại và khá hoàn chỉnh. Đó là hai bản trường ca
Iliat và Ôđixê, có thể xem đây là thành tựu quan trọng của văn học cổ đại Hi Lạp.

Đồng thời đây cũng là bút tích xưa nhất của văn học Châu Âu. Anh hùng ca của
Homerơ đạt đến trình độ mẫu mực gần như hoàn chỉnh, nó phản ánh rất chân thực
“một thời kì ấu thơ của nhân loại phát triển đến mức rực rỡ nhất, một đi không bao
giờ trở lại, thời kì chuyển tiếp từ chế độ công xã nguyên thủy sang chế độ chiếm hữu
nô lệ, từ dã man sang văn minh, từ chế độ sở hữu tập thể thị tộc công xã nguyên
thủy sang chế độ tư hữu tài sản. Nói cụ thể hơn, đó là thời kì quá độ từ nền văn hóa
Mixen sang nền văn hóa cổ điển Hi Lạp, thời kì đồng hóa của bốn nhóm bộ tộc Hi
Lạp, để hình thành dân tộc Hi Lạp, dân tộc trong cái ý nghĩa ban đầu, sơ khai của
nó”. [3; tr.39] Tiếp xúc với những tác phẩm anh hùng ca ta như có thể hình dung lại
một thời kì xã hội đã qua với đầy đủ sự phát triển cũng như suy vong của một giai
đoạn nhất định trong Hi Lạp cổ đại.
Về kết cấu, anh hùng ca là một câu chuyện được kể lại có trật tự với nhiều sự
kiện nên có một qui mô lớn và đồ sộ, đây là một trong hai đặc trưng cơ bản nhất của
anh hùng ca bởi nó mang trong mình tính khái quát hiện thực lịch sử rộng lớn. Nó ra
đời như mang một sứ mạng to lớn là ôm trong lòng cả quá khứ lẫn hiện tại vì sinh
sau thần thoại đã chịu sự kế thừa và phát triển đồng thời lại phản ánh thực tại đương
thời lúc bấy giờ. Và theo Hêghen thì “nội dung và hình thức của nó thực sự là toàn
bộ các quan niệm, toàn bộ thế giới và cuộc sống của một dân tộc được trình bày
dưới hình thức khách quan của một biến cố thực tại”. [7; tr.285] Với một nội dung
như vậy thì hình thức của anh hùng ca phải thực sự lớn mới có thể chứa nổi. Tất
nhiên sẽ có những khúc ca không thật sự hay tồn tại trong bản trường ca, không
tránh khỏi những đoạn tác giả quá sa đà vào một vấn đề nào đó nhưng nhìn chung
các khúc ca đều có giá trị và làm nổi bật nội dung đặc sắc của bản trường ca.
Các nhân vật chính của anh hùng ca là những người anh hùng, tráng sĩ tiêu
biểu cho sức mạnh thể chất và tinh thần, cho ý chí thông minh, lòng dũng cảm của
cộng đồng, họ là hình tượng đẹp mà cộng đồng xây dựng và muốn hướng đến.
Trong anh hùng ca hình ảnh người anh hùng được miêu tả rất tỉ mỉ từ hình dáng đến
19



trang phục, vũ khí chiến đấu và cả những cuộc chiến, chiến công của họ cũng được
tường thuật lại một cách chi tiết. Trong Iliat Homerơ đã dành hẳn một khúc ca để
miêu tả về vũ khí của Asin, đây là sự ưu ái của tác giả dành cho nhân vật, ngày hôm
nay chúng ta đọc thì thấy nó quá rườm rà và không cần thiết tuy nhiên với con người
cổ đại thì không có vấn đề gì bởi đó cũng là cách để họ tỏ lòng ngưỡng mộ với
người anh hùng tài ba xuất chúng này. Điều đáng để ta chú ý là tất cả những hình
ảnh này đều được miêu tả với vẻ đẹp kì diệu khác thường. Sở dĩ như vậy vì như trên
ta cũng có nói anh hùng ca ra đời sau thần thoại cho nên từ thế giới các vị thần
chuyển sang thế giới con người thì cái nhìn còn mang đậm màu sắc thần linh huyền
ảo là điều không thể tránh khỏi.
Đề tài của anh hùng ca chính là quan hệ thị tộc, các cuộc chiến tranh bộ lạc,
các nghi lễ tôn giáo. Anh hùng ca phản ánh cuộc chiến tranh giành đất đai, nó cũng
thường gắn liền với đề tài tranh giành phụ nữ. Như trong anh hùng ca Iliat nguyên
nhân trực tiếp dẫn đến cuộc chiến thành Tơroa là để dành lại người đàn bà đẹp nhất
trần gian Hêlen, trong quá trình xảy ra cuộc chiến nhiều nữ nô lệ đã trở thành món
đồ để các chủ tướng chia với nhau. Những cuộc chiến trong anh hùng ca không thể
gọi là chính nghĩa hay phi nghĩa, bởi lẽ trong thời kì đầu hình thành xã hội thì bộ tộc
lớn tiêu diệt đồng hóa bộ tộc nhỏ để có thể trở thành bộ tộc lớn hơn. Lí tưởng cuộc
sống và giá trị cuộc sống thực sự có ý nghĩa khi cá nhân mình gắn với tập thể, cá
nhân hi sinh vì cộng đồng. Những anh hùng luôn mang lí tưởng của tập thể thị tộc,
bộ lạc. Người anh hùng tràn đầy sức sống, nhiệt tình sôi nổi, khát khao hiểu biết và
chinh phục thế giới. Đó là con người của chiến công và chiến thắng, đây chính là
chủ nghĩa anh hùng mà trong bất kì bản anh hùng ca nào cũng phải có.
Có thể nói những bản anh hùng ca là những bài ca tràn đầy những cung bậc
ngợi ca. Họ ca ngợi chủ nghĩa anh hùng tập thể, ca ngợi tinh thần đấu tranh cho công
lí và chính nghĩa của xã hội, ca ngợi tình yêu lao động và hạnh phúc chân chính. Vì
vậy, anh hùng ca còn có tác dụng giáo dục đạo đức và bồi dưỡng lí tưởng thẫm mĩ
cho con người lúc bấy giờ và cho đến ngày nay vẫn còn giá trị.
Anh hùng ca là một tác phẩm kể chuyện, phản ánh một giai đoạn lịch sử khá
dài của dân tộc, những sự kiện lớn lao quyết định đến toàn thể nhân dân trong một

thành bang nào đó. Như bản trường ca Iliat của Homerơ là kể lại mười năm cuộc
chiến thành Tơroa, và bản Ôđixê là thời hậu chiến với số phận của người anh hùng
20


mà trí tuệ sánh tựa thần linh – Uylix. Những nhà thơ trong khi kể chuyện một mặt
tuân vào những quy tắc nghiêm ngặt, chặt chẽ mặt khác lại góp phần sáng tạo cho nó
càng thêm hoàn chỉnh. Qua thời gian người ta có thể đưa ra những biện pháp nghệ
thuật cơ bản của anh hùng ca như sau:
Thứ nhất đó là lối miêu tả tỉ mỉ, đây cũng là nguyên nhân tất yếu khiến cho
những bản anh hùng ca luôn có dung lượng đồ sộ. Người sáng tác anh hùng ca phải
có một sự quan sát thật sự tinh tế mới có thể tạo ra những khúc ca hay và có giá trị.
Một biến dạng của lối miêu tả chi tiết, tỉ mỉ, cụ thể là có những đoạn được kéo dài
thành một chương độc lập. Rõ ràng, những nhà sáng tác dân gian không chú ý đến
điều này, một sự việc được viết dài hay ngắn là do tính chất quan trọng của việc ấy
mà ra. Tuy nó phá vỡ sự cân bằng vì có những đoạn cực ngắn cùng tồn tại trong một
bản anh hùng ca, nhưng không vì vậy mà làm ảnh hưởng đến giá trị của tác phẩm,
thậm chí nó trở thành một trong những thủ pháp nghệ thuật của anh hùng ca.
Thứ hai là lối miêu tả không phù hợp với trật tự thời gian. Anh hùng ca là tập
hợp hầu như rất nhiều sự kiện và có thể những sự việc đó xảy ra cùng lúc nhưng qua
cách viết của tác giả anh hùng ca ta có cảm giác như việc này xảy ra trước việc kia
hay ngược lại. Ví dụ như trong Ôđixê, đồng thời với việc Têlêmac đi tìm hỏi tin tức
của người cha như xin thuyền, đến xứ sở Piolot của ông già Nexto, đến xứ Xpart của
Menelax là sự việc Uylix rời đảo Ôghiđi bị bão làm trôi dạt và dừng lại ít ngày ở xứ
sở Pheaki, nhà thơ đã tách hai sự việc này ra cho đến khúc ca XV hai cha con mới
gặp nhau.
Thứ ba chính là lối so sánh mở rộng. Có thể nói so sánh là một đặc trưng
trong thủ pháp nghệ thuật của anh hùng ca. Dường như bất kì cái gì cũng có sự
tương đồng với cái khác và sự so sánh này giúp cho độc giả dễ tiếp nhận và liên
tưởng. Có những đoạn so sánh ngắn, bình thường. Ở những đoạn này ta thấy tác giả

chỉ tìm những cái gần gũi với diện mạo, hành động hoặc hình dáng để miêu tả để
làm cho những đối tượng được so sánh trở nên sinh động hơn, có sức truyền cảm
mạnh mẽ hơn. Bên cạnh đó trong anh hùng ca ta bắt gặp không ít những đoạn tác giả
sử dụng cách so sánh rất rộng và gần như là chồng chất nó trở thành một đoạn độc
lập trong tác phẩm. Ví dụ như trong Iliat khúc ca XVII những câu thơ từ 735 đến
759, tác giả đã sử dụng lối so sánh chồng chất như sau: “Như thế với một khí thế
tưng bừng và kiên định, những người Akêen mang cái thi hài ra khỏi cuộc chiến đấu
21


đưa về những chiếc thuyền trũng. Chống lại họ, một cuộc giao tranh tàn bạo đang
lan rộng giống như một đám cháy đang ập đến, tràn vào đô thị và phút chốc lửa
cháy bùng bùng tỏa khắp nơi, trong khi đó nhà cửa sập đổ dưới một vầng ánh sáng
mênh mông và gió thét gào dữ dội; cũng vậy, từ những bước đi của chiến binh và
chiến mã nổi lên tiếng rầm rập liên tiếp. Những chiến binh cất bước lúc này giống
như những con la, những con la đang mặc trên mình chúng sự hung hăng, táo tợn,
kéo từ núi xuống trên con đường đá lởm chởm một cây cột hoặc một cây xà to lớn
của thuyền, lòng chúng khô kiệt đi vì cố gắng vì nỗi nhọc nhằn và mồ hôi; cũng vậy,
với khí thế bừng bừng kiên định, những người Akêen ra đi mang theo cái thi hài. Sau
họ, hai tướng Agiắc vẫn đứng vững ở trận địa. Người ta tưởng chùng như thấy một
ngọn đồi rừng cây rậm rạp nhô ra cắt cánh đồng làm đôi và đứng vững vàng trước
dòng nước lũ đang tràn ùa tới; ngọn đồi chặn đứng cơn lũ khốc hại của những dòng
nước và đột nhiên bẻ quặt những dòng nước xiết chảy về phía sau cánh đồng; cũng
vậy, không chút nao núng, ở phía sau thi hài Patơrôclơ, hai chàng Agiắc ngăn chặn
cuộc tiến công của quân Tơroa. Còn quân Tơroa thì đuổi theo, trong số họ trước hết
là Enê, con trai của Ăngkidơ và Hector danh tiếng lẫy lừng. Giống như một đám
mây chim, những chim ri, chim sẻ vừa bay vừa kêu ríu rít lên ghê rợn khi thấy con
diều hâu bay tới gần, con chim đem chết chóc đến cho những con chim nhỏ; cũng
vậy, những trai tráng Akêen bỏ chạy, kêu hét lên ghê rợn và quên mất đi khí thế
chiến đấu sôi sục của mình, và hàng trăm vũ khí đẹp đẽ rơi xuống quanh hào trong

cuộc rút chạy của những người Đanaen. Nhưng cuộc giao chiến không vì thế mà
dừng lại”. [6; tr.365] Những đoạn so sánh như thế này vô hình trung làm chậm lại
diễn biến của câu chuyện. Tuy vậy, nó lại góp phần tạo nên phong cách kể chuyện
chậm rãi, trang trọng của anh hùng ca.
Thứ tư là những lời nhắc lại. Một trong những yêu cầu của người nghe là
muốn người kể chuyện làm cho mình dễ nhớ, dễ hiểu và dễ nắm bắt được cốt lõi của
câu chuyện nên trong quá trình kể người kể phải nhắc lại những tình tiết liên quan để
người nghe có thể tiếp thu một cách trọn vẹn những sự kiện có liên quan mật thiết
với nhau trong mạch truyện. Trong hai bản anh hùng ca của Homerơ có những chỗ
tác giả gần như nhắc lại toàn bộ khúc ca trước rồi mới kể tiếp câu chuyện của mình,
những lời nhắc lại hình thành trong anh hùng ca là do những nhu cầu trên của người
nghe.
22


×