Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

Mùa thu trong thơ xuân diệu, lưu trọng lư và quách tấn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 111 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN THỊ HUYỀN

MÙA THU TRONG THƠ
XUÂN DIỆU, LƢU TRỌNG LƢ VÀ QUÁCH TẤN

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
Chuyên nghành: Văn học Việt Nam
Mã số: 234605
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Viết Ngoạn

NGHỆ AN – 2014
0


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài .................................................................................. 3

2.

Lịch sự nghiên cứu vấn đề .................................................................... 6

3.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu......................................................... 8


4.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................ 9

5.

Phương pháp nghiên cứu...................................................................... .9

6. Đóng góp và cấu trúc luận văn ................................................................ 10
Chƣơng 1: MÙA THU NGUỒN CẢM HỨNG LỚN CỦA THƠ VIỆT NAM
1.1. Mùa thu Việt Nam nguồn cảm hứng trong nghệ thuật ........................ 11
1.2. Mùa thu trong thi ca ............................................................................. 17
1.3.Mùa thu của các nhà Thơ trong phong trào Thơ mới .......................... 26
Chƣơng 2: CẢM NHẬN VỀ MÙA THU TRONG THƠ XUÂN DIỆU,
LƢU TRỌNG LƢ VÀ QUÁCH TẤN
2.1. Mùa thu trong thơ Xuân Diệu .............................................................. 38
2.2. Mùa thu trong thơ Lưu Trọng Lư ........................................................ 57
2.3. Mùa thu trong thơ Quách Tấn .............................................................. 66
Chƣơng 3 : NHỮNG CÁCH TÂN NGHỆ THUẬT
3.1. Cái tôi trữ tình ...................................................................................... 80
3.2. Không gian và thời gian nghệ thuật .................................................... 85
3.2.1. Ánh trăng thu và gió thu ................................................................... 85
3.2.2. Thời gian chảy trôi đem đến sự tàn phai , rơi rụng .......................... 91
3.3. Cách tân về thơ, nhạc điệu, ngôn ngữ .................................................. 93
1


3.3.1. Thể thơ ............................................................................................. 93
3.3.2. Nhạc điệu thơ .................................................................................... 95
3.3.3. Ngôn ngữ thơ .................................................................................... 99

KẾT LUẬN ............................................................................................. 103
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................
PHỤ LỤC .......................................................................................................

2


MỞ ĐẦU
1.

Lí do chọn đề tài

1.1. Là một trong bốn mùa của năm, giữa mùa hạ nóng bức và mùa đông lạnh
lẽo, mùa thu như một nhịp cầu, một sự giao thoa tuyệt vời mà tạo hóa đã ban
tặng con người. Mùa thu là một mùa đẹp nhất trong năm, cảm nhận cái đẹp ấy
nhà thơ Hồ ZDếnh đã từng có câu thơ “ Trời không nắng cũng không mưa; Chỉ
hiu hiu rét cho vừa nhớ nhung”. Cái mơ hồ mênh mông, cái se lạnh của gió thu,
cái xào xạc của lá thu, cái huyền ảo của trăng thu như gieo vào lòng người biết
bao nỗi buồn. Đó là nơi cảm xúc bắt đầu, là khoảng thời gian mà tất cả chúng ta
muốn hòa mình vào với thiên nhiên, với đất trời. Mùa thu đã thực sự vực dậy
trong tiềm thức chúng ta những kỉ niệm êm đềm của một thời tuổi trẻ.
Trong thi ca, mùa thu đã đến với biết bao thi hào lỗi lạc và cũng không ít tác giả
đã nổi danh, ghi đậm dấu ấn trong lòng công chúng nhờ những thi ngôn về cái
mùa đầy yêu thương này. Có lẽ bởi sự quyến rũ đầy mê hoặc của mùa thu mà
hình ảnh về mùa này, cảm hứng của mùa này đã xuất hiện phổ biến trong thi ca
thế giới. Những thi văn tài lỗi lạc của thế giới văn chương Tây Phương thường
được nhắc nhở đến nhiều nhất là Charles Beaudelaire, Paul Verlaine, Anatole
France... đã sáng tác nhiều thi phẩm ca ngợi mùa thu diễm tuyệt. Chính những
trường phái thi ca lãng mạn, tượng trưng vào cuối thế kỷ 19 ở Pháp đã tạo nên
những ảnh hưởng sâu đậm, đối với các thi sĩ Việt Nam như trường hợp của

Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư, Thế Lữ, Huy Cận, Vũ Đình Liên... Điển hình như
những mùa thu trong thi ca Pháp thế kỉ 19 với các tác phẩm Mùa thu của
Lamactin, Thu ca của Baudelaire, Thu Khúc của Veclen. Hay trong Đường thi
của Bạch Cư Dị, ta đã bắt gặp Tảo thu độc dạ, Thu sơ. Đồng thời trong thơ trung
đại Việt Nam, mùa thu luôn là nơi gửi gắm tâm tư, tình cảm của thi nhân: Đó là
Thôn xá thu châm, Thu dạ lữ cảm, Thu dạ khách cảm, Thu nhật ngẫu thành của

3


Nguyễn Trãi. Với đại thi hào Nguyễn Du có tác phẩm Thu chi, Thu dạ, Thu nhật
kí hứng, Sơ thu cảm hứng. Ngô Thì Nhậm có Thu thu tứ tuyệt, Tống thu…
Nói như thế để thấy được mùa thu đẹp biết bao nhiêu, quyến luyến và khêu
gợi biết bao nhiêu. Người xưa đã có một quan niệm về mùa thu thật là tinh tế và
sâu sắc: “Thu là thơ của đất trời, thơ là thu của lòng người”. Quả thật, khoảnh
khắc mùa thu đã mang lại những cảm nhận, những rung động thật sâu lắng và
đẹp đẽ trong lòng người. Có thể còn ai đó đang hoài nghi cách nhìn kì diệu ấy về
mùa thu của người xưa. Nhưng nếu một lần đọc những bài thơ về mùa thu của
các nhà thơ trong phong trào Thơ mới ( 1932- 1945) thì chắc hẳn nỗi hoài nghi
ấy sẽ tan biến .
1.2. Như chúng ta đã biết, sự ra đời của Thơ mới đã làm thay đổi cả bộ mặt của
thi đàn Việt Nam thời ấy, đến nỗi chưa đầy mười năm sau, tổng kết lại phong
trào Thơ mới thì Hoài Thanh và Hoài Chân đã nhất quyết khẳng định: “ Tôi quả
quyết rằng trong lịch sự thi ca Việt Nam chưa bao giờ có một thời đại phong
phú như thời đại này. Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện một hồn thơ rộng
mở như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng nhu Huy Thông, trong
sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn
Bính, kì dị như Chế Lan Viên… và thiết tha, rạo rực, băn khoăn như Xuân
Diệu” [38.32]
1.3. Đến với Thơ mới, trước hết người đọc đã cảm nhận được những âm hưởng

đặc trưng rất mới mẻ vang lên từ chính tâm hồn xôn xao, rạo rực đầy thiết tha và
khao khát của các thi nhân. Các nhà Thơ mới đã nhìn thiên nhiên, cảm nhận
không khí của đất trời không phải bằng những công thức ước lệ như thơ ca thời
trung đại. Họ đã nhìn thiên nhiên bằng chính đôi mắt của mình, rung động với
cảnh sắc của đất trời bằng chính trái tim nghệ sĩ chân thành của họ. Bởi vậy mà
thiên nhiên và cảnh vật đi vào trang thơ của các thi sĩ không còn những “ tùng,

4


cúc, trúc, mai, long, ly, quy, phượng”, “tứ linh, tứ quý”, những đề tài đã quá sáo
mòn và quen thuộc trong thơ ca cổ điển .
Các nhà Thơ mới đã trực tiếp rung động trước cảnh vật và con người bằng
chính trái tim mình, lắng nghe nhịp thở của thiên nhiên bằng chính tâm hồn
mình. Nhờ vậy mà cái khoảnh khắc tuyệt diệu của đất trời mùa thu đã đi vào tâm
hồn họ với tất cả vẻ đẹp tinh khôi, tươi tắn, rất đỗi hồn nhiên và tràn đầy sức
sống. Giữa thiên nhiên mùa thu vào tâm hồn các thi sĩ thời đại mới như có một
sự giao hòa rất tự nhiên, thể hiện một sự sống . Giữa thiên nhiên mùa thu và tâm
hồn các thi sĩ thời đại mới như có một sự giao hòa rất tự nhiên, thể hiện một sự
tương thông khoáng đạt giữa đất trời và lòng người. Họ đã khám phá ra sự sống
đầy xôn xao trong linh hồn của thiên nhiên và tạo vật .
Đó là những cái cựa mình của nụ hoa sắp đến thì bung nở, là tiếng thì
thầm của lá, là nỗi rạo của nhung phấn, là sự lung linh của những làn ánh sáng
mùa thu, là sự hổn hển của nước mây, là sự run rẩy của chồi non, lộc biếc.
Trong cái nhìn mới lạ trong các nhà Thơ mới, không gian và thởi gian mùa thu
như cũng có một tâm hồn dạt dào sức sống. Mùa thu Việt Nam hàng ngàn năm
qua đã là nguồn thi hứng lớn của thơ ca cổ điển, giờ đây như đã trở mình vươn
dậy đến với các thi sĩ thời Thơ mới với dáng vẻ và sắc màu như một thiếu nữ ở
độ tuổi xuân thì, đầy sức quyến rũ.
Mùa thu quả thật đã tiếp tục khơi dậy những nguồn cảm xúc mới mẻ và

dồi dào cho phong trào Thơ mới. Đến lượt mình, đọc phong trào Thơ mới, những
bài thơ viết về mùa thu của các thi sĩ lại tiếp tục lay động sâu sắc lòng tôi. Nó
thức dậy trong tôi những khao khát được sống với cảnh sắc với cảnh sắc trời thu.
Chúng tôi đã chọn đề tài này để nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp của
mình với mong muốn sẽ góp phần đánh giá, cảm nhận một cách đầy đủ hơn,
trọn vẹn hơn về cảm hứng trong thơ ca nói chung và Thơ mới nói riêng. Đây sẽ
5


là một hành trang quý giá để tôi bước vào công việc nghiên cứu và giảng dạy
sau này.
2.

Lịch sử nghiên cứu vấn đề.

2.1. Mùa thu luôn là một hấp lực tuyệt vời với các nhà nghiên cứu và là một đề
tài bất tận của thi ca. Đặc biệt, đến với Thơ mới lãng mạn các thi sĩ đã có những
xúc cảm mới mẻ, làm nên những mùa thu mới trong tiến trình phát triển của thơ
ca tiếng Việt viết về mùa thu, góp phần vào quá trình hiện đại hóa thơ ca Việt
Nam. Thơ mới đã đánh dấu một cái mốc trong quá trình đưa thơ ca dân tộc hòa
nhập với các trào lưu văn học hiện đại trên thế giới. Những năm gần đây, với sự
đổi mới trong tư duy, nhiều giá trị văn hóa, văn học trong quá khứ được nhìn
nhận, đánh giá lại, trong đó có Thơ mới. Nhiều nhà nghiên cứu đã nói đến cái
mới của Thơ mới về thể thơ, về giọng điệu, ngôn ngữ, cảm xúc… Ở phương
một diện nào đó, có thể xem phong trào Thơ mới là một trong những đỉnh cao
của nền thơ ca Việt Nam, trong đó những bài thơ viết về mùa thu có một vị trí
khá đặc biệt trong lòng người đọc. Ngắm kỹ hơn bốn mươi gương mặt thi nhân
trong tuyển tập Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh, Hoài Chân, dường như thi
sĩ nào cũng có một đôi lần để trái tim mình rung động trước cảnh sắc mùa thu.
Trong thơ ca lãng mạn Việt Nam có Gió thu, Tiễn thu, Đêm thu (Tản Đà),

Tiếng thu ( Lưu Trọng Lư), Thu, Thu rừng (Huy Cận), Thu (Chế Lan Viên),
Cuối thu (Bích Khê), Buồn thu (Hàn Mặc Tử), Chiều thu (Nguyễn Bính), Đêm
thu nghe tiếng quạ kêu, Một đêm mưa mùa thu, Thương thu, Cảm thu của Quách
Tấn và Xuân Diệu có Thu, Ý thu, Đây mùa thu tới.
2.2. Thế nhưng, nhìn lại những trang nghiên cứu, phê bình thơ ca viết về mùa
thu trong phong trào Thơ mới lãng mạn Việt Nam, chúng tôi thấy chưa nhiều.
Viết về phương diện này, các nhà nghiên cứu chưa có điều kiện đi sâu vào một
giai đoạn cụ thể mà chỉ đề cập một cách đơn lẻ trong một số bài viết mang tính
cảm nhận hoặc giới thiệu, phê bình. Chẳng hạn : Bài Thu của Lê Bảo và bài Đây
6


mùa thu tới của Mã Giang Lân được in trong cuốn Thơ Xuân Diệu và những lời
bình (2003), bài Đây mùa thu tới của Hà Minh Đức, Nguyễn Đăng Mạnh, Đỗ
Lai Thúy được in trong cuốn Xuân Diệu – một cái tôi khao khát nồng nàn
(2006), bài Thơ Duyên của Nguyễn Văn Long và bài Nguyệt cầm của Lê Quang
Hưng được in trong cuốn Xuân Diệu – một cái tôi khao khát nồng nàn (2006 ) .
Bài Xuân Diệu nói về Đây mùa thu tới của Hà Minh Đức ( Ghi lại theo lời kể
của Xuân Diệu ngày 18/10/1969) được in trong cuốn Xuân Diệu – thơ và đời
(2008) Riêng một số tiểu luận nghiên cứu về thơ Lưu Trọng Lư và tập Tiếng
Thu của ông : Mục từ Lưu Trọng Lư và Tiếng thu của Nguyễn Văn Long trong
Từ điển văn học (1994), Lưu Trọng Lư và Tiếng thu của Ngô Văn Phú, Tiếng
thu, thơ, nhạc của Lưu Trọng Lư của tác giả Đỗ Đức Hiếu .
Đặc biệt là bài viết Cảm thu được in trong cuốn Quách Tấn qua cái nhìn phê
bình văn học do Quách Giao sưu tầm và tuyển chọn .
Tình hình nghiên cứu trên cho thấy các bài viết, các tiểu luận về mùa thu đều
mở ra các cách cảm thụ khác nhau. Song các ý kiến, các bài viết đưa ra đều
thống nhất khẳng định mùa thu chính là tiếng lòng thổn thức của thi nhân nặng
lòng yêu dấu trước cái khoảnh khắc kì diệu của thiên nhiên, đất trời .
Nguyễn Huy Quát, Chu Thị Thúy Hằng có bài Cảm nhận về mùa thu trong

văn học trung đại Việt Nam, đăng trên tạp chí Nghiên cứu văn học, số 3, (2008).
Bài viết chỉ đề cập đến cảm nhận về mùa thu của một số tác giả trong giai đoạn
văn học trung đại Việt Nam
2.3. Tất cả những bài nghiên cứu, chuyên luận đó không ít thì nhiều đều đề cập
đến cách cảm nhận về mùa thu của một số tác giả trong phong trào Thơ mới
(1932-1945). Tuy nhiên những bài nghiên cứu ấy chỉ mang tính chất gợi mở vấn
đề mà họ chưa có điều kiện đi sâu tìm hiểu. Chúng tôi cho rằng vấn đề này cần
phải được tập trung khai thác sâu trong một giai đoạn cụ thể, để thấy được cách
cảm nhận khác nhau, sự cách tân trong nghệ thuật của từng nhà thơ trong phong
7


trào Thơ mới. Luận văn sẽ tiếp tục tìm hiểu ở những khía cạnh mới, từ đó có thể
xác định một vị trí trong văn học thật xứng đáng với những gì mà các nhà Thơ
mới đã cống hiến cho nền thơ ca dân tộc .
3.

Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tƣợng nghiên cứu:
Với mục tiêu khoa học đã đề ra, luận văn này chỉ tập trung làm sáng rõ cách
cảm nhận về mùa thu trong thơ ca đặc biệt ở ba nhà thơ trong phong trào Thơ
mới giai đoạn ( 1932 – 1945 ). Đó là Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư, Quách Tấn
và chúng tôi dừng lại ở việc tìm hiểu một số tác phẩm tiêu biểu nhất viết về
mùa thu của từng tác giả. Riêng ở Lưu Trọng Lư, cảm xúc về mùa thu trong
thơ ông được thể hiện ở một số bài, nhưng tiêu biều nhất, tập trung nhất vẫn
là bài Tiếng thu. Do vậy trong luận văn này, bài Tiếng thu sẽ được nói đến
và trích dẫn nhiều, dễ gây cảm giác lặp. Đó cũng là cái khó khăn về đối
tượng nghiên cứu của đề tài này.
3.2. Phạm vi nghiên cứu

Để đạt được mục tiêu khoa học đã đặt ra, người viết cần phải khảo sát toàn
bộ phong trào Thơ mới đề nhìn thấy rõ hơn đối tượng nghiên cứu của mình.
Đồng thời, để giải quyết tốt đề tài, người viết cũng cần phải tham khảo một
khối lượng lớn những bài thơ viết về mùa thu trong thơ ca dân tộc và nhân
loại. Ngòai ra luận văn cũng cần phải tham khảo nhiều công trình lí luận về
thơ để phục vụ cho quá trình nghiên cứu.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
4.1. Mục đích nghiên cứu
Qua việc khảo sát những bài thơ viết về mùa thu trong thơ ca luận văn nhằm
nghiên cứu về Mùa thu trong thơ Xuân Diệu, Lƣu Trọng Lƣ và Quách

8


Tấn qua đó thấy được những đóng góp của các nhà thơ trong những trang
viết về đề tài mùa thu.
4. 2.Nhiệm vụ nghiên cứu
4.2.1. Đưa ra một cái nhìn về chủ đề mùa thu trong Thơ mới nói chung và ba tác
giả Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư và Quách Tấn nói riêng.
4.2.2. Đi sâu vào khảo sát, phân tích những bài thơ viết về mùa thu của ba nhà
thơ trong phong trào Thơ mới để thấy được sự khác biệt so với thơ ca truyền
thống.
Cuối cùng rút ra kết luận để khẳng định lại những đóng góp của ba nhà thơ
trong phong trào Thơ mới.
5.Phƣơng pháp nghiên cứu
Xuất phát từ yêu cầu của đối tượng và mục tiêu của nghiên cứu đề tài, luận
văn sử dụng các phương pháp khác nhau, trong đó có các phương pháp chính
như: Phương pháp so sánh, đối chiếu. Được sử dụng để so sánh, đối chiếu giữa
các nhà thơ trong phong trào Thơ mới, giữa phong trào Thơ mới với thơ ca
truyền thống, nhằm làm nổi bật những đặc sắc của những tác phẩm viết về mùa

thu ở ba nhà thơ trên Phương pháp phân tích, tổng hợp: Được dùng để đi sâu
phân tích những yếu tố độc đáo, mới lạ, như là những đóng góp quan trọng của
các nhà Thơ mới, làm phong phú cho đề tài mùa thu của thơ ca . Phương pháp
hệ thống và thống kê : Được dùng để thống kê phân loại nguồn tư liệu, phục vụ
cho việc nghiên cứu đề tài.
6.

Cấu trúc và đóng góp của luận văn

6.1.

Đóng góp mới của luận văn
Luận văn là công trình tìm hiểu Mùa thu trong thơ Xuân Diệu, Lưu Trọng

Lư và Quách Tấn với cái nhìn tập trung và hệ thống.

9


Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể là tài liệu tham khảo vận dụng cho
việc học tập , nghiên cứu và giảng dạy ngữ văn trong nhà trường.
6.2. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn có 3
chương :
Chương 1: Mùa thu nguồn cảm hứng lớn của thơ ca Việt Nam
Chương 2 :Cảm nhận về mùa thu trong thơ Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư và Quách
Tấn
Chương 3: Cách tân trong nghệ thuật

10



CHƢƠNG 1
MÙA THU NGUỒN CẢM HỨNG LỚN CỦA THƠ CA VIỆT NAM

1.1. Mùa thu Việt Nam nguồn cảm hứng trong nghệ thuật
Mùa thu mùa của thi ca là mùa rất dễ khơi gợi những cảm xúc, những
chắc ẩn trong lòng người, là khoảng thời gian mà chúng ta muốn hít căng vào
lồng ngực những hương thơm dịu mát đang luồn lách trong kẽ lá, nhành cây để
thấy mình cần thổ lộ, bộc bạch những tình cảm trắc ẩn. Phải chăng đây là lúc
những giai điệu đẹp đẽ của mùa thu muốn nhảy nhót lên cùng những xúc cảm
của lòng người. Mùa thu người ta thấy mình trở về với chính mình, trở về với
những cảm xúc thật nhất, đẹp nhất. Chính vì vậy song song với những bức tranh
về mùa thu là những ca khúc , những giai điệu tuyệt vời về mùa thu. Đó là
những nốt nhạc đầu tiên trầm buồn, xa vắng mênh mông như tiếng thở của gió.
Những giai điệu ấy, như đưa bước chân chúng ta lặng lẽ tìm về với một niềm
hoài niệm xưa. “Mùa thu chết”; “Mùa thu cho em”, “Không còn mùa thu” ; “
Tiếng thu” hay “Thu quyến rũ”; “ Suối Mơ” …đều là những tuyệt phẩm viết về
mùa thu mà khi được cất lên, giai điệu của chúng có thể khiến bao thế hệ người
nghe phải vỡ òa cảm xúc.
Hầu hết các nhạc sĩ Việt Nam đều có ít nhiều nhạc phẩm viết về mùa thu.
Cố nhạc sĩ Phạm Duy sáng tác nhiều nhạc phẩm có giá trị và phổ nhạc bài thơ
của thi hào Guillaume Apollinaire Mùa thu chết, do thi sĩ Bùi Giáng dịch sang
Việt ngữ :
“ …Ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảo
Em nhớ cho mùa thu đã chết rồi
Ôi ngát hương thời gian mùi thạch thảo
Em nhớ cho mùa thu đã chết rồi
11



Ôi ngát hương thời gian mùi thạch thảo
Em nhớ cho rằng ta vẫn chờ em
Vẫn chờ em, vẫn chờ em, vẫn chờ
Vẫn chờ…….đợi em ”.
( Mùa thu chết – Phạm Duy )
Nhạc phẩm là nỗi day dứt nói lên những thương nhớ khôn nguôi của một
mùa thu tàn úa, những ai oán, tiếc thương của người tình vẫn chờ đợi sự trở lại
của mùa thu yêu thương cho nhau.
Hơn hai mươi năm chiến tranh Việt Nam khốc liệt, trong gió chiều ảm
đạm, đìu hiu, và những chiếc khăn tang của những ngưởi thiếu phụ với nước mắt
mùa thu :
“ Nước mắt mùa thu khóc ai trong chiều
Hàng cây trút lá, nghĩa trang đìu hiu
Từng chiếc, từng chiếc lệ khô vàng héo
Buồn thương từng kiếp nằm trong mộ héo tên người đời quên
Nước mắt mùa thu khóc than triền miên
Nước mắt mùa thu khóc than đêm dài
Mùa thu chơi vơi tiếng mưa buồn rơi ” .
( Mùa thu chết – Phạm Duy )
Nước mắt đã rơi khi mùa thu về trong buổi chiều thu buồn bã, cảnh vật
nơi đây dường như tan tác cõi lòng. Quả thật, bản nhạc của nhạc sĩ Phạm Duy đã
vang lên những nốt nhạc thấm đẫm nỗi buồn và nước mắt trong buổi chiều mùa
thu đìu hiu và cô quạnh .
Tình cảm dành cho mùa thu được nhạc sĩ Ngô Thụy Miên thể hiện vừa lãng
mạn, lại vừa kín đáo nhưng vẫn có sự nồng nàn trong các tình khúc của mình.
12


“... Anh có nghe mùa thu mưa giăng lá đổ

Anh có nghe nai vàng hát khúc yêu đương
Và anh có nghe khi mùa thu tới
Mang ái ân, mang tình yêu tới
Anh có nghe hồn thu nói mình yêu nhau nhé...
(Mùa thu cho em” -nhạc sĩ Ngô Thụy Miên)
Khi mùa hè với cái nắng gay gắt qua đi, mùa thu đến đem theo những cơn
gió heo may dịu dàng, những con đường tràn ngập lá vàng rơi và cả khúc yêu
thương của những trái tim “ vương màu xanh mới ”. Đó chính là lời nhắn nhủ
mà nhạc sĩ Ngô Thụy Miên gửi gắm trong ca khúc Mùa thu cho em. Lời ca bay
bổng, giai điệu ngọt ngào mang âm hưởng những năm 1970 mỗi khi vang lên
như khẽ nhắc nhở người nghe rằng mùa thu đã sang rồi. Cô gái trong bài hát đã
nhờ vẻ đẹp “má hồng”, “môi em thơm nồng” của mùa thu để bày tỏ tình yêu của
mình một cách ý nhị. Khi thiên nhiên, đất trời thay áo mới, con người cũng
khoác lên mình một tâm hồn mới, đầy ắp yêu thương và hy vọng.
Nhắc tới mùa thu, hầu như ai cũng hình dung ra sắc vàng. Đó là màu của
những chiếc lá rơi bên thềm, của ánh trăng khuya và cũng là màu vàng tê tái của
những ký ức tươi đẹp đã qua, chìm khuất tận nơi chân trời.
“... Không còn mùa thu, trăng rơi bên thềm
Không còn lời ru, mơ trên môi mềm
Em thơ, như mùa xuân đầu, nối dài đêm sâu
Anh làm mùa thu, cho em mơ màng...”
“Không còn mùa thu” (nhạc sĩ Việt Anh)
Ngoài vẻ đẹp quyến rũ làm xao xuyến lòng người, mùa thu với những lời
ru, ánh trăng thề, những con đường hiu quạnh còn đem lại cảm giác buồn man
mác. Đó là sự hoài niệm về những gì đã qua, về mối tình cũ đã chìm trong quá
13


khứ. Mùa thu đến và đi quá đột ngột, cũng giống như chuyện tình dang dở của
cô gái trong ca khúc Không còn mùa thu, để lại bao nuối tiếc và thương nhớ.

Những ký ức về cuộc tình cũ cứ hiện về trong tâm trí của cô gái ấy mỗi độ thu
sang.
Có một mùa “ Thu quyến rũ” đã được Đoàn Chuẩn- Từ Linh cảm nhận thế này
“… Anh mong chờ mùa thu
Dìu thế nhân vào chốn thiên thai
Và cánh chim ngập ngừng không muốn bay
Mùa thu quyến rũ anh rồi…”
“Thu quyến rũ”
(nhạc sĩ Đoàn Chuẩn - Từ Linh)
Ca khúc góp mặt từ năm 1950 nhưng cho đến nay, những câu hát ngập
tràn cảm xúc của Thu quyến rũ vẫn khiến bao thế hệ người yêu nhạc Việt Nam
đắm chìm vào một không gian lãng mạn, ngả mình trên câu hát khi mỗi độ thu
về. Vẻ đẹp của đất trời khi “ngả màu xanh lơ”, khi đàn bướm vui đùa trên những
bông hồng, khi “mây bay về nơi cuối trời” đã khiến người nhạc sĩ “tức cảnh sinh
tình”. Thu trở nên quyến rũ và đẹp hơn bao giờ hết qua lời kể của một chàng
lãng tử si tình đã “trót yêu” tà áo xanh rực rỡ mà mùa thu tự khoác lên mình.
Là người nổi tiếng với tính cách phong lưu, hào hoa và ông đã đem cái
“chất” ấy vào trong các tác phẩm của mình. Đoàn Chuẩn sáng tác không nhiều
nhưng mỗi bài hát của ông lại gắn với một giai thoại khác nhau và chủ yếu là về
mùa thu vì “đó là mùa của tình yêu”.
Mùa thu còn đưa chúng ta vào thế giới của mộng, của mơ, của thương của
nhớ, làm rung động lòng người, như gợi một niềm luyến tiếc, xa xôi. Mùa thu đã
đưa tên tuổi của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn ( 1939 – 2001) gắn với nhạc khúc Nhìn
những mùa thu đi với nỗi lòng chia tay, nuối tiếc :
14


“ Nhìn những mùa thu đi
Em nghe sầu lên trong nắng
Và lá rụng ngoài song

Nghe tiếng mình vào quên lãng
Nghe tháng ngày chết trong thu vàng ”
( Nhìn những mùa thu đi – Trịnh Công Sơn)
Chúng ta bắt gặp mùa thu lãng mạn bay bổng trong âm nhạc của Văn Cao.
Bước vào âm nhạc Việt Nam với ca khúc Suối mơ lúc 16 tuổi, Văn Cao đã
nhanh chóng đưa mùa thu gắn liền với những giấc mơ, khát vọng thuộc về tâm
hồn và sự sáng tạo của con người :
“ Suối mơ bên rừng thu vắng, dòng nước trôi lững lơ ngoài nắng, ngày
chưa đi sao gió vương, bờ xanh ngắt bóng đồi c ây thùy dương ”.
( Suối mơ – Văn Cao )
Đó là tâm trạng cô đơn trong đêm mùa thu. Nghe mùa thu đang rơi theo lá
vàng, để rồi từ đó ông dâng tặng đời những mùa thu chan chứa khát vọng tình
người :
“ Suối mơ !
Nghe rừng heo hút
Dòng êm đưa lá khô già trút
Còn như lưu hương yêu dấu
Với suối xưa trời nơi đâu
Từng hẹn mùa xưa càng xây nhà bên suối
Nghe suối róc rách trôi hoa lừng hương gió ngát
Đàn nai đùa trong khóm lá vàng tươi ” .
( Suối mơ – Văn Cao )
15


Mỗi khi thưởng thức nhạc phẩm của Văn Cao, nghe hơi thở Đường thi lẩn
khuất trong từng lời ca. Mùa thu của Văn Cao thật mơ màng và huyền diệu. Qua
âm nhạc của Văn Cao, chúng ta thấy mùa thu luôn làm xao xuyến trái tim người
nghe bởi tiếng lòng tha thiết, cùng những ca từ rất sâu lắng với những giai điệu
mượt mà. Đồng thời lắng nghe tiếng thu bằng âm nhạc của Văn Cao, chúng ta

có thể cảm nhận được trong những ca từ tiếng Việt được thăng hoa. Với mùa
thu, âm nhạc của Văn Cao là một dòng chảy riêng trong nền âm nhạc Việt Nam,
dòng chảy ấy luôn hướng về thiên nhiên và con người. Trên con đường nghệ
thuật của Văn Cao, mùa thu luôn là nguồn cảm hứng kì diệu nhất, là đối tượng
thẩm mĩ tuyệt vời nhất để ông sáng tác lên những giai điệu bất hủ .
Đặc biệt thi phẩm Tiếng thu của Lưu Trọng Lư đã cho chúng ta thấy một
hình ảnh vô cùng đẹp đẽ người cô phụ Việt Nam trông ngóng kẻ chinh phu trở
về từ một chiến địa xa xôi. Đó là hình ảnh đáng khâm phục của bao người phụ
nữ Việt Nam trong suốt dòng lịch sử của dân tộc. Thi phẩm Tiếng thu được nhạc
sĩ Lê Thương phổ nhạc, với nhịp chậm 4/4, hợp âm Pha trưởng :
“ Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn thức
Em không nghe rạo rực
Hình ảnh kẻ chinh phu
Trong lòng người cô phụ
Em không nghe rừng thu
Lá thu kêu xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô “ .
( Tiếng thu – Lưu Trọng Lư )
16


Một mùa thu thôi nhưng vô số những cách nhìn, những cảm nhận thật
tươi mới, tinh tế và đặc sắc đã ghi vào lòng người những âm hưởng vô cùng đẹp
đẽ của mùa thu. Với những âm thanh và nhạc điệu thật mền mại và uyển
chuyển, các nhạc sĩ đã tạo nên những bản nhạc mùa thu du dương và tràn đầy
xúc cảm. Những bản nhạc ấy luôn đi cùng thời gian và năm tháng. Đó là những
bản tình ca bất hủ về mùa thu .
1. 2. Mùa thu trong thi ca

Một chút gió heo may đã lành lạnh hắt hiu đủ cho lòng chúng ta chùng
xuống với chiếc lá rơi nhẹ trên mặt hồ tĩnh lặng như gương. Dẫu không nhìn
thấy đâu đây “Một chiếc lá ngô đồng vừa rơi, mọi người đã nhìn thấy mùa thu
trở về” (Ngô đồng nhất diệp lục. Thiên hạ cộng tri thu). Chỉ thấy sương khói xây
thành cũng đủ cho lòng nhau se sắt đón thu sang. Đã hơn hàng tỷ năm từ khi có
sự hiện hữu trái đất này trong vũ trụ mênh mông, mùa thu đã ra đi và trở lại biết
bao nhiêu tỉ lần theo chu kỳ tuần hoàn của tạo hóa. Mùa thu, cái thời tiết lãng
mạn trữ tình của thiên nhiên đã trở thành đề tài tuyệt diệu vô tận trong kho tàng
văn chương nghệ thuật của nhân loại. Nó đã tạo nên bao nhiêu thi hào, thi bá lỗi
lạc Đông Tây kim cổ. Không có một nhà khảo cứu văn học thế giới nào, tổng
hợp cho hết được những áng văn chương toàn bích ca ngợi mùa thu. Vì hầu như
trong tất cả những thi sĩ của mỗi đất nước khi mới bắt đầu yêu thơ và chọn con
đường sáng tạo thi ca như một nghiệp dĩ cao quý, đều xác quyết không thể nào
từ chối hấp lực tuyệt vời đầy xúc động nghệ thuật của mùa thu. Hàng ngàn năm
trước, khi địa vị của dòng thơ Đường đánh giá là tuyệt đỉnh của nền văn học
Trung Hoa, dòng thơ ấy đã khai mờ từ thời sơ Đường dưới thời Vua Cao Tổ
năm Vũ Đức Nguyên Niên, đến thời kỳ Văn Đường dưới thời vua Chiêu Tuyên
Đế, kéo dài lịch sử Đường thi lên đến cả ngàn năm. Tuy nhiên những bài thơ ca
ngợi mùa thu của Lí Bạch, Vương Duy, Thôi Hiệu, Đỗ Phủ.. cho đến bây giờ
chúng ta có dịp đọc lại vẫn cảm nhận được cái thâm hậu, kỳ tuyệt biết dường
17


nào. Mùa thu là mùa mà các thi nhân đi tìm những vần thơ để sáng tác lên
những tuyệt phẩm bất hủ nghìn năm.
Nhiều thi tài lỗi lạc của thế giới văn chương Tây phương thường được
nhắc tới như : Charles Beaudelaire, Paul Verlaine, Anatole France… đã sáng tác
nhiều thi phẩm ca ngợi mùa thu diễm tuyệt. Chính những trường phái thi ca lãng
mạn, tượng trưng vào cuối thế kỉ 19 ở Pháp, đã tạo nên những âm hưởng sâu
đậm đối với các thi sĩ Việt Nam như : Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư, Thế Lữ, Huy

Cận….[47,1]
Mùa thu thời tiết lãng mạn trữ tình của thiên nhiên đã trở thành đề tài
tuyệt diệu và vô tận trong kho tàng văn chương nghệ thuật của nhân loại. Có lẽ
không mùa nào trong năm lãng mạn như mùa thu. Từ lâu mùa thu đã gắn liền
với thi ca, hầu như trong tất cả những thi sĩ của mỗi dân tộc , khi mới bắt đầu
yêu thơ và chọn con đường sáng tạo thi ca, họ đều không thể từ chối sự hấp dẫn
tuyệt vời đầy xúc động của mùa thu. Ở Việt Nam, mùa thu mang đến những
cảnh thật mơ màng, quyến rũ. Trong thiên nhiên mùa thu vừa là nguồn cảm
hứng, vừa là nơi gửi gắm tâm tư, tình cảm của thi nhân. Bước vào thiên nhiên
xưa, là bước vào một thiên nhiên tĩnh lặng, yên bình và thanh vắng trở thành vẻ
đẹp của thiên nhiên trong nghệ thuật cổ điển. Đêm thu, trăng lặn, quạ kêu,
sương đầy trời, hàng phong bên sông, ngọn lửa thuyền chài hắt hiu, nửa khuya
tiếng chuông chùa ngân nga làm rung động sóng nước, Trương Kế đã viết nên
bài thơ để đời:
Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự
Dạ bán chung thanh đáo khách thu yền
(Phong Kiều Dạ Bạc)
18


Nếu vị tiên thơ đã để lại cho đời những vần thơ bay bổng, lãng mạn thì vị
thánh thơ lại mang duyên nợ với đời qua những trang thơ ai oán, day dứt triền
miên về những cảnh đời đau khổ, bất hạnh. Đỗ Phủ thường đặt nỗi niềm vào
khung cảnh thiên nhiên cao rộng.
Lác đác rừng phong hạt móc sa
Ngàn năm hiu hắt khí thu lòa
Một cảnh rừng mùa thu lạnh lẽo, trắng xóa, bạt ngàn những tuyết và chỉ
toàn là tuyết làm lòng người thêm hiu quạnh. Bao đau đớn, bi thương, bất hạnh

dồn vào cuối cuộc đời của Đỗ Phủ làm tiếng thơ ông sầu thảm và bi lụy như vậy.
Cảnh mùa thu ở đây có vẻ hoành tráng, dữ dội, đúng với phong cách trầm uất và
bi tráng của Đỗ Phủ.
Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ
Cô chu nhất hệ cố viên tâm
Cảnh thu trong thơ xưa có khi được miêu tả qua một số câu thơ trong bài
tứ tuyệt, bát cú đường luật. Nhưng cũng có khi cả bài thơ lại hướng về tả cảnh
mùa thu hoàn chỉnh. Nói về đề tài “ vịnh thu ” trong thơ trung đại Việt Nam,
cũng nghĩa là tìm hiểu quá trình phát triển của nó qua nhiều thế kỉ. Ban đầu, các
nhà thơ cổ điển Việt Nam “vịnh thu” đã đi theo khuôn mòn sử dụng những hình
ảnh có sẵn trong nguồn thơ Trung Quốc và mang tính ước lệ, tượng trưng. Các
nhà thơ trung đại thường “vịnh thu” ở trạng thái tĩnh và buồn lặng lẽ. Nhà thơ,
nhà phê bình Xuân Diệu có lời khen bài Mùa thu của Ngô Chi Lan, một nữ sĩ
dưới thời Lê Thánh Tông. Xuân Diệu cho rằng bài thơ của bà là “một bước tiến
của thơ, lời văn ở đây trong sáng, liền, thoải mái, không gợi và không có nhạc
điệu” [2.15]. Bài thơ nôm có nhan đề Mùa thu đã thể hiện rõ chủ ý của Ngô Chi
Lan, nhà thơ đã dành trọn cho việc tả cảnh thu :

19


“ Gió vàng hiu hắt cảnh tiêu sơ
Lẻ tẻ bên trời bóng nhạn thưa
Giếng ngọc, sen tàn, bông hết thắm
Rừng phong lá rụng tiếng như mưa” .
( Hồng Đức Quốc âm thi tập )
Qua thế kỉ 16 – 18, các nhà thơ trung đại Việt Nam ít sử dụng những hình
ảnh mang tính công thức, ước lệ khi, không đi theo khuôn mòn khi tả cảnh thu.
Nguyễn Du tả cảnh trời thu qua sự phản chiếu của cái long lanh đáy nước in
trời:

“ Long lanh đáy nước in trời
Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng”
( Truyện Kiều )
Một bầu trời thu xanh trong và một mặt nước thu cũng trong veo đã tạo
nên một bức tranh tuyệt vời đến vậy. Từ láy “long lanh” đặt lên đầu câu càng
tạo nên vẻ hấp dẫn cảnh trời thu, nước thu và âm hưởng mùa thu.
Với cảnh thu man mác thơ mộng, sương khói giăng khắp núi đồi đã thoáng
hiện ra não nề trong Đoạn trường tân thanh của đại thi hào Nguyễn Du :
“ Người lên ngựa, kẻ chia bào
Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san”
( Truyện Kiều )
Những câu thơ thu chia biệt trong Truyện Kiều đã xé nửa vầng trăng.
“Thu” không những để thưởng ngắm, đồng thời còn ký thác tấm lòng của tác
giả. Đúng là mùa thu đã gợi nhắc buồn mơ trong xa cách nhớ nhung, tạo nên
những biến thái nhạy cảm của tâm hồn thi nhân bởi mùa thu. Mùa thu giữ lại
bóng trăng mơ màng, giữ lá vàng cùng sương biếc. Bao trùm lên tất cả là màu
20


vàng xôn xao của lá, của gió, của trăng, của thời gian đã trôi, hòa lẫn vào trong
cõi lòng đơn chiếc. Mùa thu là mùa chuyển giao những động thái về tạo hóa, nó
tạo nên sự mơ hồ giữa trong xanh mùa hạ chưa qua và hiu hiu cái rét của mùa
đông đang chờ .
Một trong hai đại biểu xuất sắc cuối cùng của nền văn học trung đại Việt
Nam, Nguyễn Khuyến (1835–1909) được coi là bậc quán quân về thơ tả cảnh
mùa thu. Bản nhạc của mùa thu đã đưa nhà thơ Yên Đổ về với tâm trạng cô đơn,
buồn lắng, u uất hòa nhập với trời thu tĩnh vắng. Chùm thơ thu ba bài Thu vịnh,
Thu điếu, Thu ấm của ông được đánh giá là tam tuyệt của thơ thu Việt Nam.
Đằng sau cảnh thu tĩnh lặng là nỗi niềm tâm sự thầm kín của thi nhân. Với ba
bài thơ thu nổi tiếng thì những ưu điểm trong bút pháp miêu tả của ông sáng rỡ

lên như một dấu son tươi mới. Với tài năng của mình, Nguyễn Khuyến đã đưa
thơ Việt Nam tiến lên một bước mới, đặc biệt là đến với hiện thực, cụ thể là sinh
động hơn trong bút pháp miêu tả. Thiên nhiên làng quê trong thơ Yên Đổ đến
với độc giả bằng tất cả vẻ đẹp giản dị, thanh sơ. Ba bài thơ thu của Nguyễn
Khuyến, luôn tỏa ra thứ ánh sáng làm êm dịu trong trẻo và say đắm lòng người.
Thiên nhiên bao la của những ngày thu muộn, có ao nước trong veo lóng lánh
bóng trăng, có đom đóm lập lòe ngõ tối, đã tạo nên ba bức tranh đặc sắc về cảnh
thu Việt Nam ở vùng đồng bằng Bắc Bộ
Trong cuốn Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ 18 đến hết thế kỉ 19,
Nguyễn Lộc nhận định : “ Nói về thiên nhiên trong văn học cổ có rất nhiều, tả
cái đẹp của thiên nhiên mùa thu trong văn học cổ có rất nhiều, tả cái đẹp của
thiên nhiên mùa thu trong văn học cổ rất hay. Nhưng trước Nguyễn Khuyến,
chưa bao giờ có một thiên nhiên nào đậm đà phong vị của đất nước, quê hương
đến thế” [29.57] .

21


Xuân Diệu cũng đã từng nhận xét : “Nguyễn Khuyến nổi tiếng nhất trong văn
học Việt Nam là về thơ Nôm, mà trong thơ Nôm của Nguyễn Khuyến, nức danh nhất
là ba bài thơ mùa thu : Thu ẩm, Thu điếu, Thu vịnh” [2.34] .
Đến với Tam Nguyên Yên Đổ, mùa thu là mùa của gió heo may, của trời
xanh trăng sáng, là mùa lá rụng, là mùa côn trùng sinh sản, đêm tối đóm lập lòe
đầy vườn. Quả thật, phải là người đã sống và hòa mình thật sự với cảnh vật đồng
quê Việt Nam như Nguyễn Khuyến, mới có thể rung động tất cả các nét đặc thù
của mùa thu, để dồn vào ba bài thơ tiêu biểu cho mùa thu Việt Nam là bài thơ
Thu điếu được viết bằng chữ Nôm, làm theo thể thất ngôn bát cú đường luật.
Cảnh thu được miêu tả hầu hết tám câu thơ, hình ảnh con người chỉ xuất hiện
trực tiếp ở hai câu cuối bài. Đọc bài thơ, chúng ta có thể tưởng tượng ra trước
mắt một bức tranh thủy mặc, khung cảnh thu được gói vào trong một không gian

hẹp, đó là “chiếc ao thu” nhỏ bé, xinh xắn, chiếc thuyền câu cũng bé tẻo teo.
Nguyễn Khuyến dường như hóa thân thành một nhà quay phim tài ba bậc nhất.
Tầm nhìn của ông bao quát cả không gian mùa thu :
“ Ao thu lạnh lẽo, nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Sóng biếc theo làn hơi gợi tí
Lá vàng trước ngõ khẽ đưa vèo”
( Thu điếu )
Tác giả khắc họa thành công bức tranh mùa thu mang nét đặc trưng của
mùa thu vùng đồng bằng chiêm trũng Bắc Bộ. Cảnh thu đẹp hài hòa, vừa trong
vừa tĩnh, vừa gần gũi vừa quen thuộc, mộc mạc, dân dã hồn hậu, dễ đi vào lòng
người, vừa sinh động lại đượm buồn. Cả khung cảnh ấy làm phông duy nhất cho
một chiếc lá thu vàng rơi trước gió. Chữ “vèo” tả dáng thanh mảnh của chiếc lá
mùa thu bay. Tuy nhỏ bé nhưng dường như nó có sức thu cả đất trời vào mình.
22


Bức tranh thu điếu xuất hiện nhiều gam màu lạnh: độ xanh trong của nước, độ
xanh biếc của sóng, độ xanh ngắt của trời. Cái lạnh của cảnh, của ao thu, trời thu
thấm vào tâm hồn nhà thơ hay chính cái lạnh từ tâm hồn nhà thơ lan toả ra cảnh
vật? có người cho rằng câu thơ Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo có phần không
hợp lý: lá vàng khẽ đưa trước gió không thể có độ “ vèo” khi bay. thực ra điều
đó có vẻ không hợp lý ấy lại rất lô gíc, rất thống nhất tâm trạng. Từ “vèo” chính
là sự thể hiện tâm sự thời thế của nhà thơ, một tâm sự đau buồn trước hiện tình
đất nước đầy đau thương. Thời thế thay đổi quá nhanh, non sông mất vào tay
giặc mà mình không làm được gì để giúp đời, cứu nước. Hình ảnh ao thu như
đưa ta về với mùa thu đích thực của đồng bằng Bắc Bộ, một ao thu “trong veo”,
“lạnh lẽo”, một mặt nước sóng “gợn tí” tưởng chừng như phẳng lặng, mang
đến cho con người một cảm giác tĩnh tại, bình yên vô cùng. Giữa mặt ao thu
phẳng lặng là một chiếc thuyền câu bé nhỏ gợi lên một cảm giác lạc lõng, vô

định của con người. Khi nhắc đến mùa thu ở đồng bằng Bắc Bộ, người ta có thể
liên tưởng ngay đến ao thu. Dường như chất thu thấm đượm trong hình ảnh ao
thu. Ngước mắt lên nhìn là bầu trời xanh ngắt, rộng lớn, cao vời vợi :
“ Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”
( Thu Điếu)
“ Ngõ trúc” là hình ảnh rất đặc trưng cho cảnh làng quê vùng đồng bằng
Bắc Bộ. Đọc câu thơ, ta như lạc vào một không gian vắng lặng, bình yên của
mùa thu Bắc Bộ với một ngõ trúc vắng vẻ, quanh co. Nhà thơ không những cảm
nhận được vẻ quạnh quẽ của đêm thu mà còn như đo được độ sâu của đêm. Quả
thật không thể có được hình ảnh thơ thuần việt tuyệt đối ấy nếu không có một
tình yêu quê hương đằm thắm đến vô cùng. Trước thời cuộc đảo điên, vận nước
đen tối, một ông quan thanh liêm đã về vườn, liệu có thể làm được gì cho dân
cho nước? Nhà thơ muốn gửi gắm tâm sự của mình vào cảnh thu để bớt đi nỗi
23


buồn vì bất lực. Song thiên nhiên làng quê mộc mạc, thân thiết ấy lại càng làm
cho ông cảm thấy day dứt về trách nhiệm của bản thân. Khát vọng phục vụ quê
hương không thành, cũng giống như việc câu cá không được, ông chưa đủ kiên
nhẫn để ngồi chờ vì không còn cách nào khác giải tỏa niềm u uất của mình. Nỗi
trống vắng khôn cùng khiến nhà thơ nghe được tiếng cá đớp mồi thật nhỏ, đó là
âm thanh duy nhất trong khung cảnh thu tĩnh lặng :
“ Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”
( Thu Điếu- Nguyễn Khuyến)
Một tư thế “ tựa gối ôm cần”, một sự đợi chờ “ lâu chẳng được”, một cái
chợt tỉnh khi mơ hồ nghe “cá đớp” . Người câu cá như đang ru hồn mình trong
giấc mộng mùa thu, đó là một cuộc đời thanh bạch, một tâm hồn thanh cao.
Cũng như mạch cảm xúc ấy, Nguyễn Khuyến đã đưa cái thần của cảnh

thu Việt Nam vào bài Thu vịnh :
“ Trời thu xanh nắt mấy tầng cao
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu
Nước biếc trông như tầng khói phủ
Song thưa để mặc bóng trăng vào”
( Thu vịnh)
Cái thanh thoát nhẹ nhõm, cái cao vời vợi của không gian được gói gọn
trong bầu trời thu xanh ngắt. Điểm nhấn trên bầu trời ấy là “ cần trúc”. “ Cần
trúc” còn non trông yếu ớt, khi có làn gió hiu hiu thổi nhẹ, giống như chiếc cần
câu nghiêng bóng xuống mặt ao, đu đưa trước gió. Không gian mùa thu như
chìm lẫn trong màn sương mờ ảo của buổi chiều. Hình ảnh mùa thu pha thêm
màu “ nước biếc” với khói phủ nhạt nhòa. Cảnh vật ở đây thật tĩnh lặng:
24


×