Tải bản đầy đủ (.docx) (86 trang)

skkn xây dựng ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm khách quan theo chuẩn định tính và định lượng các môn giáo dục nghề phổ thông sử dụng trong kiểm tra, đánh giá và thi nghề phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (466.83 KB, 86 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NINH BÌNH
TRUNG TÂM TH NN - HN
-----    -----

SÁNG KIẾN
ĐỀ TÀI:
XÂY DỰNG NGÂN HÀNG CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM
KHÁCH QUAN THEO CHUẨN ĐỊNH TÍNH VÀ ĐỊNH
LƯỢNG CÁC MÔN GIÁO DỤC NGHỀ PHỔ THÔNG SỬ
DỤNG TRONG KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ VÀ THI NGHỀ
PHỔ THÔNG

Phòng: Khoa học – Kĩ thuật tổng hợp
2.

Hồ Ngọc Vĩnh
Phạm Thanh Lịch

3.

phòng
Nguyễn Thanh Khiết

1.

4.
5.

phòng
Trần Văn Nhận
Lê Hoàng Yến



- P. Giám đốc
- Trưởng
- P. Trưởng

- GV
- GV


TRUNG TÂM TH NN - HN

KH KTTH

Ninh Bình: 4/2015
ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài
Trong quá trình dạy học nói chung và quá trình dạy nghề phổ
thông nói riêng, kiểm tra và đánh giá là một trong những bộ phận
chủ yếu và hợp thành một chỉnh thể thống nhất trong quá trình đào
tạo. Do vậy, chiến lược phát triển giáo dục 2001- 2010 nêu rõ: “Đổi
mới giáo dục bao gồm cả đổi mới chế độ thi cử, tuyển sinh, xây
dựng phương pháp, quy trình và hệ thống đánh giá chất lượng đào
tạo, chất lượng học sinh, sinh viên một cách khách quan, chính xác,
xem đây là biện pháp cơ bản khắc phục tính chất đối phó với thi cử
của nền giáo dục hiện nay, thúc đẩy việc lành mạnh hóa giáo dục”.
Chính vì vậy, đổi mới phương pháp dạy và học, thay đổi cách
thức kiểm tra đánh giá đã và đang là một hoạt động cấp thiết trong
nhà trường phổ thông hiện nay. Kiểm tra đánh giá kiến thức của học
sinh là một phần quan trọng trong quá trình dạy học. Ngoài công
việc chính là đánh giá chất lượng học sinh, kiểm tra đánh giá còn

được xem là đòn bẩy để nâng cao chất lượng giáo dục, là động lực
để học sinh cố gắng phấn đấu trong quá trình học tập của mình. Do
đó đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá đang được tiến hành
sâu, rộng trên phạm vi cả nước và ở tất cả các cấp học.
Thực tế cho thấy hệ thống Giáo dục - Đào tạo nước ta hiện
nay, mặc dù mục tiêu đào tạo đã có những thay đổi để phù hợp với
yêu cầu và xu thế phát triển của xã hội, phương pháp dạy học đã
được nâng cao, nhưng cách thức và công cụ kiểm tra đánh giá mà
chúng ta đang sử dụng thì chưa thực sự đổi mới. Lâu nay, chúng ta
hầu như chỉ sử dụng loại bài kiểm tra tự luận để đánh giá kết quả
học tập của học sinh. Loại câu hỏi có nhiều bất cập vì những câu
hỏi thường dài, tốn nhiều thời gian cho việc làm bài, khối lượng kiến
thức được kiểm tra hạn chế, khó sử dụng các phương tiện hiện đại
trong kiểm tra đánh giá chẳng hạn như máy vi tính.
2

2


TRUNG TÂM TH NN - HN

KH KTTH

Để khắc phục những nhược điểm trên, nhiều nước trên thế giới
đã và đang sử dụng dạng câu hỏi trắc nghiệm khách quan để đánh
giá thành quả học tập của học sinh. Ở Việt Nam hiện nay, hình thức
kiểm tra trắc nghiệm đã được dùng khá phổ biến, từ năm học 20052006 Bộ Giáo dục và Đào tạo đã áp dụng thi trắc nghiệm khách
quan cho kỳ thi tốt nghiệp THPT và tuyển sinh Đại học, cao đẳng.
Đối với các môn giáo dục nghề phổ thông sở giáo dục và đào
tạo Ninh Bình đã tổ chức thi trắc nghiệm từ năm 2007. Vì thế rất

cần thiết phải có một ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm đạt chuẩn để
sử dụng trong kiểm tra đánh giá và đặc biệt là trong thi Nghề phổ
thông.
Đáp ứng yêu cầu đổi mới về công tác kiểm tra đánh giá của
ngành Giáo dục và Đào tạo, nhằm phổ biến các kiến thức về kiểm
tra, đánh giá bằng trắc nghiệm khách quan cũng như cách thiết kế
và sử dụng hệ thống câu hỏi trắc nghiệm khách quan cho giáo viên,
góp phần nâng cao hiệu quả trong việc dạy và học các môn giáo
dục nghề phổ thông lớp 11, nhóm tác giả đã tiến hành nghiên cứu
đề tài “Xây dựng ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm khách quan
theo chuẩn định tính và định lượng các môn giáo dục nghề
phổ thông sử dụng trong kiểm tra, đánh giá và thi nghề phổ
thông”.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là xây dựng một ngân hàng
câu hỏi trắc nghiệm khách quan nhằm kiểm tra và đánh giá học
sinh trong dạy và học Nghề phổ thông, đồng thời góp phần nâng
cao chất lượng và làm cơ sở cho việc kiểm tra đánh giá kiến thức
của học sinh trong quá trình học giáo dục nghề phổ thông.
3. Giả thuyết khoa học
Nếu xây dựng thành công các nguyên tắc, quy trình thiết kế
bộ câu hỏi trắc nghiệm khách quan đủ tiêu chuẩn và sử dụng hợp lý
vào các khâu của quá trình dạy học, đặc biệt là khâu kiểm tra đánh
giá, sẽ nâng cao chất lượng dạy và học nghề phổ thông.
3

3


TRUNG TÂM TH NN - HN


KH KTTH

4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Xuất phát từ mục đích trên, nhiệm vụ của đề tài đặt ra như
sau:
-

Nghiên cứu lý luận về quá trình dạy học, lý luận về đổi mới
phương pháp dạy học, các phương pháp kiểm tra đánh giá;

-

Nghiên cứu về phương pháp kiểm tra đánh giá bằng phương
pháp trắc nghiệm, đi sâu vào phương pháp trắc nghiệm khách
quan;

-

Nghiên cứu cấu trúc chương trình các môn nghề phổ thông;

-

Xây dựng thành công ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm các nghề
điện tử, điện dân dụng, cắt may, thêu tay, sửa chữa xe máy;

-

Thực nghiệm sử dụng ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm trong
việc kiểm tra đánh giá ở trung tâm TH NN - HN tỉnh Ninh Bình,

nhằm kiểm nghiệm tính khả thi và tác dụng của việc sử dụng
câu hỏi trắc nghiệm trong kiểm tra và đánh giá.

5. Phạm vi đề tài
5.1 Phạm vi nghiên cứu
Năm môn nghề phổ thông đang được giảng dạy tại trung tâm
Tin học – ngoại ngữ và hướng nghiệp tỉnh Ninh Bình: Điện dân
dụng, điện tử, cắt may, thêu tay, sửa chữa xe máy
5.2 Phạm vi áp dụng
Trung tâm Tin học – ngoại ngữ và hướng nghiệp tỉnh Ninh Bình,
Các trường THPT, trung tâm GDTX trực thuộc Sở GD&ĐT tỉnh Ninh
Bình.
6. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phối hợp các phương pháp:
-

Phương pháp phân tích, tổng hợp lý luận: Nghiên cứu các tài
liệu lý luận có liên quan tới kiểm tra, đánh giá và phương pháp
dạy học nghề phổ thông;

-

Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Tìm hiểu xem thực trạng
tình hình dạy học nghề phổ thông và phương pháp kiểm tra,
đánh giá ở các trung tâm KTTH HN;

4

4



TRUNG TÂM TH NN - HN
-

KH KTTH

Phương pháp thực nghiệm sư phạm: Thực nghiệm nhằm xác
định tính khả thi, hiệu quả của đề tài và chất lượng của hệ
thống câu hỏi trắc nghiệm khách quan nêu trong đề tài;

-

Phương pháp sử dụng toán học: sử dụng thống kê toán học để
xử lý và phân tích kết quả thực nghiệm.

7. Những đóng góp của đề tài
-

Hệ thống hóa cơ sở lý luận của việc kiểm tra, đánh giá và thiết
kế bộ câu hỏi trắc nghiệm sử dụng trong kiểm tra và đánh giá;

-

Xây dựng quy trình thiết kế câu hỏi trắc nghiệm khách quan
về từng loại kiến thức trong các môn nghề phổ thông;

-

Thiết kế bộ câu hỏi trắc nghiệm khách quan theo nội dung
chương trình các môn nghề phổ thông và được kiểm định đạt

tiêu chuẩn định tính, định lượng và có độ tin cậy cao để đảm
bảo sử dụng trong dạy học Nghề phổ thông.

5

5


TRUNG TÂM TH NN - HN

KH KTTH

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1. Giới thiệu chung về phương pháp kiểm tra đánh giá
1.1. Khái niệm kiểm tra, đánh giá
- Kiểm tra:
Là quá trình giáo viên thu thập thông tin về kết quả học tập
của học sinh. Các thông tin này giúp cho giáo viên kiểm soát được
quá trình dạy học, phân loại và giúp đỡ học sinh. Những thông tin
thu thập được so sánh với tiêu chuẩn nhất định.
- Đánh giá:
Đánh giá kết quả học tập là quá trình thu thập và xử lý thông
tin về trình độ, khả năng thực hiện mục tiêu học tập của học sinh,
về tác động và nguyên nhân của tình hình đó nhằm tạo cơ sở cho
những quyết định sư phạm của giáo viên và nhà trường, cho bản
thân học sinh để học sinh ngày một học tập tiến bộ hơn. Kết quả
của việc đánh giá được thể hiện bằng điểm số theo thang điểm đã
được quy định, ngoài việc đánh giá thể hiện bằng lời nhận xét của
giáo viên.
Kiểm tra và đánh giá là hai quá trình có mối quan hệ chặt chẽ

với nhau. Kiểm tra là để đánh giá, đánh giá dựa trên cơ sở của kiểm
tra.
1.2. Vị trí, vai trò, chức năng của kiểm tra đánh giá
1.2.1 Vị trí của kiểm tra đánh giá
Kiểm tra đánh giá là một khâu quan trọng không thể thiếu
được trong quá trình giáo dục. Đánh giá thường nằm ở giai đoạn
cuối cùng của một giai đoạn giáo dục và sẽ trở thành khởi điểm của
một giai đoạn giáo dục tiếp theo với yêu cầu cao hơn, chất lượng
mới hơn trong cả một quá trình giáo dục.
Ta có thể thấy rõ vị trí của kiểm tra đánh giá qua sơ đồ sau:

6

6


TRUNG TÂM TH NN - HN

KH KTTH

Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh là một bộ
phận cấu thành và là giai đoạn cuối cùng của quá trình dạy học.
Vị trí của kiểm tra - đánh giá trong quá trình dạy học được thể
hiện thông qua sơ đồ dưới đây:

1.2.2 Vai trò của kiểm tra và đánh giá
Kiểm tra, đánh giá là một khâu quan trọng của quá trình dạy
học, thông qua kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh giúp
cho giáo viên thu được những thông tin ngược từ học sinh, phát
hiện thực trạng kết quả học tập của học sinh cũng như nguyên

nhân cơ bản dẫn đến thực trạng kết quả đó. Đó là cơ sở thực tế để
7

7


TRUNG TÂM TH NN - HN

KH KTTH

giáo viên điều chỉnh, hoàn thiện hoạt động học của học sinh và
hướng dẫn học sinh tự điều chỉnh, tự hoàn thiện hoạt động học của
bản thân.
Đánh giá kết quả học tập của học sinh là một bộ phận hợp
thành rất quan trọng và tất yếu của toàn bộ quá trình dạy học. Kết
quả toàn bộ quá trình dạy học ở một mức độ quan trọng phụ thuộc
vào việc tổ chức kiểm tra và đánh giá kết quả của học sinh một
cách đúng đắn. Công tác đánh giá trong dạy học - giáo dục là một
việc làm phức tạp, bởi lẽ kết quả cuối cùng là kết quả tổng hợp của
nhiều yếu tố tác động.
Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh vừa đóng vai
trò bánh lái, vừa giữ vai trò động lực của dạy học. Nó định hướng,
thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động dạy học và hoạt động quản lý giáo
dục. Kiểm tra, đánh giá có tác động đến việc cách tân trong đào
tạo. G.K.Miler đã khẳng định: “Thay đổi một chương trình hoặc
những kỹ thuật giảng dạy mà không thay đổi hệ thống đánh giá,
chắc chắn là chẳng đi tới đâu! Thay đổi hệ thống đánh giá mà
không thay đổi chương trình giảng dạy, có thể có một tiếng vang
lớn đến chất lượng học tập hơn là một sự sửa đổi chương trình mà
không sờ đến kiểm tra, đánh giá, thi cử.”

Trong mọi sự đánh giá, vai trò hàng đầu của kiểm tra, đánh giá
là giúp thực hiện được quyết định cho điểm, cho lên lớp. Vì quá
trình đánh giá cung cấp những cơ sở cho một sự phán xét về giá trị.
Sự phán xét này cho phép giáo viên ra được những quyết định sư
phạm tốt nhất.
Kiểm tra, đánh giá không chỉ đóng vai trò kích thích mà còn
đóng vai trò dạy học. Kiểm tra, đánh giá là nhiệm vụ cần thiết để tổ
chức quá trình dạy học, điều chỉnh quá trình dạy học, cũng như
giúp lựa chọn những phương pháp làm việc và tính chất tài liệu học
tập, phân hóa bài tập một cách hợp lý đối với học sinh.
Kiểm tra, đánh giá không những là một nhân tố dạy học mà
còn là một nhân tố kích thích. Hai yêu cầu này liên quan mật thiết
với nhau: Nếu đánh giá mà không kích thích học sinh học tập thì nó
8

8


TRUNG TÂM TH NN - HN

KH KTTH

chỉ là nhân tố dạy học đơn thuần và ngược lại nếu vai trò dạy học
mất đi hay bị lu mờ thì tất yếu điều đó sẽ được phản ánh lên tác
dụng của đánh giá. Đánh giá càng chính xác bao nhiêu thì càng
giúp giáo viên trong việc cải tiến, hoàn thiện được nội dung đào
tạo, quy định chính xác tài liệu, phương pháp, phương tiện, hình
thức tổ chức dạy học thích hợp bấy nhiêu.
Vai trò của kiểm tra, đánh giá có thể được tóm lược thông qua
từng đối tượng cụ thể như sau:

-

Đối với giáo viên: Kiểm tra và đánh giá cung cấp cho giáo viên
những thông tin “liên hệ ngược ngoài” giúp người dạy điều chỉnh
hoạt động dạy. Việc kiểm tra, đánh giá được tiến hành thường
xuyên, nghiêm túc cung cấp cho giáo viên những thông tin về trình
độ chung của cả tập thể học sinh và giúp cho giáo viên đánh giá
chính xác năng lực học tập và nhận thức của từng cá nhân học sinh
để kịp thời có biện pháp giúp đỡ, bồi dưỡng thích hợp. Kết quả bài
kiểm tra của học sinh còn là cơ sở để dựa vào đó giáo viên có thể
phân loại kết quả học tập của học sinh từng lớp;

-

Đối với học sinh: Kiểm tra và đánh giá giúp cung cấp những thông
tin “liên hệ ngược trong”, giúp cho người học tự điều chỉnh hoạt
động học. Qua kiểm tra, đánh giá người học tự thấy mình đã tiếp
thu những điều đã học đến mức nào, có những lỗ hổng nào cần
phải bổ khuyết trước khi bước vào một phần mới của chương trình
học tập. Cũng qua kiểm tra, đánh giá học sinh còn có cơ hội thể
hiện, phát triển năng lực hoạt động trí tuệ như: ghi nhớ, tái hiện,
chính xác hóa, phân tích, tổng hợp,… Kiểm tra và đánh giá còn tạo
động cơ khuyến khích học sinh phát huy tinh thần học tập, tự học
và nâng cao ý thức tự giác, tổ chức, kỷ luật. Học sinh sẽ so sánh kết
quả của các bạn và thi đua học tập với bạn bè, đề ra phương hướng
phấn đấu, ý chí vươn lên đạt kết quả học tập cao hơn;

-

Đối với các cấp quản lý: Kiểm tra, đánh giá cung cấp những thông

tin cơ bản về thực trạng giảng dạy và học để có thể có những chỉ
đạo kịp thời, uốn nắn những lệch lạc, khuyến khích và hỗ trợ những
sáng kiến hay, đảm bảo thực hiện tốt mục tiêu giáo dục. Kiểm tra,
9

9


TRUNG TÂM TH NN - HN

KH KTTH

đánh giá cũng giúp cho các cơ quan quản lý đánh giá kết quả giáo
dục, đào tạo để cấp chứng chỉ, văn bằng được chính xác và có
những biện pháp quản lý giáo dục thích hợp.
1.2.3 Chức năng của kiểm tra và đánh giá
Chức năng định hướng: Kiểm tra và đánh giá để dự báo khả
năng của học sinh có thể đạt được trong quá trình học tập, đồng
thời xác định những điểm mạnh và yếu của học sinh. Việc kiểm tra,
đánh giá cũng làm cơ sở cho việc lựa chọn bồi dưỡng năng khiếu,
đồng thời giúp cho giáo viên có thể chọn cách dạy phù hợp với khả
năng của học sinh. Kiểm tra, đánh giá thường diễn ra ở giai đoạn
trước, thể hiện ở những bài ôn tập, kiểm tra đầu năm, có thể là
những bài thử sức ở giai đoạn đầu các môn học theo chương trình
phân môn, đó là những cách xác định mức độ nắm tri thức ở người
học để dự kiến những khó khăn, từ đó có cách thức tác động phù
hợp;
Chức năng chuẩn đoán: Kiểm tra và đánh giá chuẩn đoán
nhằm hỗ trợ việc học tập. Yêu cầu của kiểm tra và đánh giá chuẩn
đoán đòi hỏi phải có cách xử lý thông tin để vừa thâu tóm được các

thời điểm khác nhau của quá trình học tập, vừa có tính chất thúc
đẩy, củng cố, mở rộng và nâng cao chất lượng tri thức. Kiểm tra và
đánh giá chuẩn đoán được tiến hành thường xuyên và cung cấp cho
người học những tín hiệu ngược về việc học tập của họ, từ đó giúp
họ khắc phục những thiếu sót, điều chỉnh cách học cho phù hợp;
Chức năng xác nhận: Đánh giá xác nhận cung cấp những số
liệu để thừa nhận hay bác bỏ sự hoàn thành hay chưa hoàn thành
nhằm xếp loại người học theo mục đích nào đó, thường được tiến
hành sau một giai đoạn học tập. Chức năng này có ý nghĩa quan
trọng về nhiều mặt, đặc biệt là ý nghĩa xã hội của nó. Đánh giá xác
nhận bộc lộ tính hiệu quả của một hệ thống đào tạo;
Việc đánh giá này đòi hỏi phải thiết lập một ngưỡng trình độ
tối thiểu và xác định đúng vị trí kết quả của người học đối với
ngưỡng này.

10

10


TRUNG TÂM TH NN - HN

KH KTTH

1.3. Một số phương pháp kiểm tra đánh giá cơ bản
1.3.1 Phương pháp kiểm tra vấn đáp
Kiểm tra bằng phương pháp vấn đáp là phương pháp giáo viên
tổ chức hỏi và đáp giữa giáo viên và học sinh, qua đó thu được
thông tin về kết quả học tập của học sinh, được sử dụng sau khi
học xong một bài hay nhiều bài, một hay nhiều chương hay toàn bộ

sách.
Kiểm tra vấn đáp có thể sử dụng ở mọi thời điểm trong tiết học
cũng như trong khi thi cuối học kì hoặc cuối năm học, học sinh cần
trình bày bằng ngôn ngữ nói.
Ưu điểm của phương pháp này là: Giáo viên có điều kiện tiếp
xúc trực tiếp với người học, nhờ đó có thể đánh giá được thái độ của
người học, mặt khác, bằng những câu hỏi đa dạng, giáo viên không
chỉ thu thập được thông tin về hiểu biết của người học theo tiêu
chuẩn chung mà còn có thể phát hiện ra những năng lực đặc biệt
hoặc những khó khăn, thiếu sót của từng cá nhân người học.
Nhược điểm của phương pháp này là: Với số lượng câu hỏi rất
ít nên khó bao quát toàn bộ chương trình môn học, việc đánh giá bị
ảnh hưởng bởi các yếu tố chủ quan, học sinh được hỏi những câu
hỏi khác nhau với thời lượng, ở điều kiện không như nhau, do đó
ảnh hưởng đến tính khách quan. Vấn đáp được sử dụng chủ yếu để
kiểm tra kiến thức của người học, phương pháp kiểm tra vấn đáp
thường tốn thời gian để tiến hành.
1.3.2 Phương pháp kiểm tra viết
Bài kiểm tra viết yêu cầu học sinh xây dựng câu trả lời hoặc
làm bài tập do giáo viên giao cho dưới hình thức viết. Kiểm tra viết
là hình thức kiểm tra phổ biến, được sử dụng đồng thời với nhiều
học sinh cùng tại một thời điểm, được sử dụng sau khi học sinh học
xong một phần của chương, một chương hay nhiều chương, hoặc
sau khi học xong toàn bộ chương trình sách giáo khoa, nội dung
kiểm tra có thể bao quát từ vấn đề lớn có tính chất tổng quát đến
vấn đề nhỏ, học sinh phải diễn đạt câu trả lời bằng ngôn ngữ viết.
Xét theo dạng thức của bài kiểm tra có hai loại kiểm tra viết là kiểm
11

11



TRUNG TÂM TH NN - HN

KH KTTH

tra viết dưới dạng tự luận và kiểm tra viết dưới dạng trắc nghiệm
khách quan.
1.3.3 Phương pháp trắc nghiệm khách quan
Một bài trắc nghiệm khách quan thường bao gồm nhiều câu
hỏi, mỗi câu thường được trả lời bằng một dấu hiệu đơn giản hay
một từ, một cụm từ. Câu trắc nghiệm khách quan bao gồm các loại
sau:
-

Loại câu nhiều lựa chọn;

-

Loại câu đúng – sai;

-

Loại câu điền vào chỗ trống;

-

Câu ghép đôi.

1.3.4 Phương pháp kiểm tra thực hành

Phương pháp kiểm tra thực hành là phương pháp giáo viên tổ
chức cho học sinh tiến hành các hoạt động thực tiễn, qua đó thu
được những thông tin về kỹ năng thực hành của học sinh.
Trong thực tế nhiều yếu tố của các bài kiểm tra thực hành
không thể kiểm tra trên giấy bút được nhưng có thể đo lường bằng
công cụ và kỹ thuật quan sát
Quan sát trực tiếp, có hệ thống là kỹ thuật quan trọng để thu
thập số liệu đánh giá học sinh về kỹ năng, thái độ.
Đánh giá kỹ năng bao gồm: Đánh giá cách thức tiến hành hoạt
động và đánh giá sản phẩm.
Ưu điểm nổi bật của phương pháp này là kiểm tra được kỹ
năng thực hành của người học, giúp cho việc rèn luyện kỹ năng,
khắc phục tình trạng học tập lý luận xa rời thực tiễn.
Tuy nhiên kiểm tra bằng phương pháp này cần nhiều thời gian
hơn, công tác tổ chức và việc chuẩn bị công phu hơn so với các
phương pháp khác.

12

12


TRUNG TÂM TH NN - HN

KH KTTH

1.4. Định hướng đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá
1.4.1 Thực trạng của việc kiểm tra đánh giá trong giai đoạn
hiện nay ở các trường THPT, Trung tâm GDTX, trung tâm
KTTH - HN

Hiện nay, việc kiểm tra và đánh giá nói chung vẫn còn phổ
biến ở hình thức ra đề tự luận. Kiểm tra miệng, kiểm tra 15 phút,
kiểm tra 1 tiết (45 phút), … đều bằng thi viết.
Câu hỏi kiểm tra chủ yếu dùng tự luận, hình thức này phần
nào đã đánh giá được kết quả học tập của trò và phương pháp dạy
của thầy, song trong giai đoạn hiện nay nó đã bộc lộ một số hạn
chế như:
-

Do thời gian làm bài kiểm tra hạn chế trong nên mỗi bài kiểm tra
viết bằng hình thức tự luận chỉ tập trung vào một số kiến thức trọng
tâm, không bao quát rộng. Cũng do đó, học sinh có thể đoán được
và chỉ học tủ một số vấn đề và bỏ qua các kiến thức khác. Trong
quá trình làm bài kiểm tra học sinh có thể quay cóp, sử dụng tài
liệu, trao đổi bài, …

-

Đề kiểm tra không bao trùm được nội dung học bài, phụ thuộc vào
giáo viên ra đề nên độ tin cậy không cao;

-

Việc đánh giá làm bài của học sinh phụ thuộc vào người chấm, mất
nhiều thời gian, đôi khi gây cảm giác nặng nề cho giáo viên;

-

Kết quả khó xác định đúng trình độ học tập của học sinh do chưa
xác định được các chuẩn mực mới để đánh giá kết quả học tập của

học sinh;

-

Cách tổ chức kiểm tra đánh giá phức tạp, tốn kém nhất là trong các
kỳ thi lớn như thi tốt nghiệp THPT, thi tuyển sinh vào các trương Đại
học, Cao đẳng.
Năm học 2005-2006 Bộ Giáo dục và Đào tạo đã áp dụng thi trắc
nghiệm khách quan cho kỳ thi tốt nghiệp THPT và thi tuyển sinh Đại
học, Cao đẳng với môn Ngoại ngữ. Tuy nhiên, ngoài tài liệu hướng
dẫn học sinh cách làm bài thi trắc nghiệm, hướng dẫn giáo viên
cách coi thi và thu bài thi giáo viên không được hướng dẫn gì thêm.
13

13


TRUNG TÂM TH NN - HN

KH KTTH

Cho nên hình thức kiểm tra và đánh giá này vẫn còn xa lạ đối với
học sinh và cả giáo viên do bởi cả những lý do sau:
Đa số các trường THPT chưa có phần mềm soạn thảo, chấm

-

điểm và đánh giá hệ thống câu hỏi trắc nghiệm;
Việc sử dụng hệ thống kiểm tra bằng phương pháp trắc


-

nghiệm chỉ được nhà trường khuyến khích giáo viên sử dụng dưới
góc độ thử nghiệm;
Các tổ bộ môn chưa có kế hoạch xây dựng ngân hàng đề thì

-

trắc nghiệm khách quan cho bộ môn mình giảng dạy;
Đa số các giáo viên chưa nắm bắt được cách thức xây dựng

-

một bài kiểm tra bằng phương pháp trắc nghiệm khách quan, cách
đánh giá một câu hỏi trắc nghiệm theo độ tin cậy và độ phân biệt;
Học sinh còn ít được kiểm tra, đánh giá bằng hình thức trắc

-

nghiệm khách quan nên chưa có kỹ năng làm bài thi trắc nghiệm.
1.4.2 Tại sao phải đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá

Hiện nay việc kiểm tra và đánh giá ở các trường phổ thông còn
chưa được coi trọng và bị phê phán là thiếu chính xác, không đủ độ
tin cậy và làm sai lệch chất lượng giáo dục. Phần lớn các giáo viên
đều quan niệm, việc ra đề kiểm tra cho học sinh đơn giản là có
điểm số ghi vào sổ điểm. Từ đó, có căn cứ để cuối học kỳ, cuối năm
đánh giá học sinh. Còn các cán bộ quản lý giáo dục thì cho rằng, đó
là công việc của giáo viên chứ không phải của hiệu trưởng. Trong
tình hình đó vấn đề đổi mới trong đánh giá chất lượng dạy và học

đang được quan tâm và cần được nghiên cứu.
Đổi mới phương pháp kiểm tra, đánh giá là khâu quan trọng
trong quá trình đổi mới phương pháp dạy học, bởi lẽ dạy học là một
quá trình bao gồm các khâu cơ bản như: Thiết kế bài giảng, thực
hiện bài giảng và kiểm tra đánh giá.
Đổi mới phương pháp dạy học với mục tiêu nhằm nâng cao
chất lượng dạy học, trong đó đổi mới kiểm tra đánh giá có vai trò
đặc biệt quan trọng trong việc đảm bảo tính hiệu quả của đổi mới
dạy học nói chung, do đó phương pháp kiểm tra đánh giá cũng cần
phải đổi mới.
14

14


TRUNG TÂM TH NN - HN

KH KTTH

1.4.3 Định hướng đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá

Đổi mới phương pháp dạy học được chú trọng để đáp ứng
những yêu cầu mới của mục tiêu nên việc kiểm tra, đánh giá phải
được chuyển biến mạnh theo hướng phát triển trí thông minh sáng
tạo của học sinh, khuyến khích vận dụng linh hoạt các kiến thức, kỹ
năng đã học vào những tình huống thực tế, làm bộc lộ những cảm
xúc, thái độ của học sinh trước những vấn đề nóng hổi của đời sống
cá nhân, gia đình và cộng đồng. Chừng nào việc kiểm tra đánh giá
chưa thoát khỏi quỹ đạo học tập thụ động thì chưa thể phát triển
dạy và học tích cực.

Thống nhất với quan điểm đổi mới phương pháp đánh giá như
trên, việc kiểm tra, đánh giá sẽ hướng vào việc bám sát mục tiêu
của từng bài, từng chương và mục tiêu giáo dục môn học ở từng
lớp, cấp. Các câu hỏi bài tập sẽ đo được mức độ thực hiện các mục
tiêu đã được xác định.
Hướng tới yêu cầu kiểm tra đánh giá công bằng, khách quan
kết quả học tập của học sinh, bộ công cụ đánh giá được bổ sung
các hình thức đánh giá khác nhau như đưa thêm dạng câu hỏi, bài
tập trắc nghiệm, chú ý hơn tới đánh giá cả quá trình lĩnh hội tri thức
của học sinh, quan tâm tới mức độ hoạt động tích cực, chủ động
của học sinh trong từng tiết học, kể cả ở tiết tiếp thu tri thức mới
lẫn tiết thực hành, thí nghiệm. Điều này đòi hỏi giáo viên bộ môn
đầu tư nhiều công sức hơn cũng như công tâm hơn. Lãnh đạo nhà
trường cần quan tâm và giám sát hoạt động này.
Xóa bỏ tư tưởng thành tích trong đánh giá, xóa bỏ dạy thêm,
học thêm tràn lan ở các cấp học.
Xây dựng ngân hàng đề thi kiểm tra theo qui trình khoa học và
trình độ chuẩn của chương trình để tiến tới kiểm tra đồng loạt trong
phạm vi cả nước hoặc từng vùng theo các bộ đề chung cho từng
giai đoạn học tập.

15

15


TRUNG TÂM TH NN - HN

KH KTTH


1.4.4 Định hướng đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá kết
quả học tập các môn Nghề phổ thông

Việc kiểm tra đánh giá bao gồm cả lý thuyết và thực hành,
hình thức có thể là tự luận hoặc trắc nghiệm, kiểm tra vấn đáp, trên
giấy hoặc trên máy. Nội dung các môn Nghề phổ thông rất thuận lợi
cho ra đề thi trắc nghiệm. Do đó cần tăng cường sử dụng phương
pháp này để có thể kiểm tra trên phạm vi kiến thức rộng và tiết
kiệm thời gian.
Đặc điểm khá đặc trưng của môn Nghề phổ thông là kiến thức
đi đôi với thực hành. Tuy nhiên không nên lạm dụng quá nhiều phần
thực hành. Có nhiều phần cần nắm chắc nguyên lý hoạt động trước
khi có thể thao tác trực tiêp trên máy móc.
Có thể đánh giá học sinh thông qua:
-

Mức độ nắm vững kiến thức cơ bản: có thể thực hiện thông
qua bài kiểm tra bằng trắc nghiệm;

-

Mức độ thành thạo các kĩ năng: Thông qua các bài tập thực
hành, thao tác trên máy và tạo ra các sản phẩm;

-

Khả năng giải quyết vấn đề thể hiện qua khả năng biết đề
xuất phương hướng giải quyết và biết lựa chọn công cụ thích
hợp để giải quyết: có thể thực hiện kiểm tra bằng giao vấn đề,
bài tập lớn;


-

Khả năng làm việc theo nhóm: có thể giao nhiệm vụ, chủ đề,
đề án nhỏ.

2. Phương pháp kiểm tra trắc nghiệm
2.1. Khái niệm, phân loại
2.1.1 Khái niệm

Trắc nghiệm theo nghĩa rộng là một hoạt động được thực hiện
để đo lường năng lực của các đối tượng nào đó nhằm những mục
đích xác định.
Trắc nghiệm mà đối tượng là con người có thể được hiểu theo
định nghĩa sau: “Trắc nghiệm là một phương pháp khoa học cho
phép dùng một loạt những tác động xác định để nghiên cứu một
16

16


TRUNG TÂM TH NN - HN

KH KTTH

hay nhiều đặc điểm nhân cách phân biệt được bằng thực nghiệm
với mục tiêu đi tới những mệnh đề lượng hóa tối đa có thể được về
mức độ biểu hiện tương đối của đặc điểm cần nghiên cứu”.
Trắc nghiệm là một phương pháp khoa học, trắc nghiệm phải
được phát triển dựa trên những quy tắc có căn cứ khoa học, chẳng

hạn: thử nghiệm trắc nghiệm, phân tích bài tập, đánh giá độ tin cậy
và xác định tính hiệu quả.
Trong giáo dục, trắc nghiệm được tiến hành thường xuyên ở
các kì thi, kiểm tra để đánh giá kết quả học tập, đối với một phần
của môn học, toàn bộ môn học, đối với cả một cấp học, hoặc để
tuyển chọn một số người có năng lực nhất vào một khoá học.
2.1.2 Phân loại

Có thể chia trắc nghiệm ra thành 3 loại như sau:
1. Loại quan sát: Giúp xác định những thái độ, những phản ứng vô ý

thức, những kỹ năng thực hành và một số kỹ năng về nhận thức,
chẳng hạn cách giải quyết vấn đề trong một tình huống đang được
nghiên cứu.
2. Loại vấn đáp: Có tác dụng tốt khi nêu các câu hỏi phát sinh trong

một tình huống cần kiểm tra. Trắc nghiệm vấn đáp thường được
dùng khi tương tác giữa người chấm và người học là quan trọng,
chẳng hạn cần xác định thái độ phản ứng khi phỏng vấn, …
3. Loại viết: Thường được sử dụng nhiều nhất vì nó có những ưu điểm

sau:
Cho phép kiểm tra nhiều học sinh cùng một lúc;
Cho phép học sinh cân nhắc nhiều hơn khi trả lời;
Đánh giá được một loại tư duy ở mức độ cao;
Cung cấp bản ghi rõ ràng các câu trả lời của thí sinh để dùng khi
chấm;
Dễ quản lý hơn vì bản thân người chấm không tham gia vào bối
cảnh kiểm tra.
Trắc nghiệm viết thường được chia thành hai nhóm: Trắc nghiệm

Tự luận (Essay) và Trắc nghiệm Khách quan (Objective test).
17

17


TRUNG TÂM TH NN - HN

KH KTTH

Trắc nghiệm tự luận (Essay): Là nhóm các câu hỏi trắc nghiệm buộc
trả lời theo dạng mở, học sinh phải tự trình bày ý kiến trong một bài
viết để giải quyết vấn đề mà câu hỏi nêu ra. Phương pháp tự luận
này khá quen thuộc với tất cả mọi người;
Trắc nghiệm khách quan (Objective test): Là nhóm các câu trắc
nghiệm mà trong đó đề thi thường gồm rất nhiều câu hỏi, mỗi câu
nêu ra một vấn cùng với những thông tin cần thiết sao cho thí sinh
chỉ phải trả lời vắn tắt cho từng câu.
Ta có sơ đồ về các phương pháp trắc nghiệm như sau:

2.2. Phương pháp kiểm tra đánh giá bằng câu hỏi trắc
nghiệm khách quan
2.2.1 Các kiểu câu hỏi trắc nghiệm khách quan

Trắc nghiệm khách quan là phương pháp kiểm tra, đánh giá
kết quả học tập của học sinh bằng hệ thống câu hỏi trắc nghiệm
khách quan. Gọi là khách quan vì cách cho điểm (đánh giá) hoàn
toàn không phụ thuộc vào người chấm.
Trắc nghiệm khách quan được chia thành các kiểu câu hỏi cơ
bản sau:

a. Trắc nghiệm Đúng/Sai (Yes/No questions)

18

18


TRUNG TÂM TH NN - HN

KH KTTH

Trước một câu dẫn xác định (thông thường không phải là câu
hỏi), học sinh đưa ra nhận định và lựa chọn một trong hai phương
án trả lời Đúng hoặc Sai.
Loại câu hỏi này có 50% xác suất trả lời đúng nên chỉ thích
hợp cho việc kiểm tra những kiến thức sự kiện, khái niệm, công
thức. Chúng thường đòi hỏi trí nhớ, ít kích thích suy nghĩ, khả năng
phân loại học sinh rất thấp.
Ưu điểm:
Đây là loại câu hỏi đơn giản nhất để trắc nghiệm kiến
thức về những sự kiện;
Loại câu hỏi trắc nghiệm “đúng – sai” giúp cho việc trắc
nghiệm bao gồm một lĩnh vực rộng lớn trong một khoảng
thời gian ít ỏi;
Có thể viết được nhiều câu hỏi trong một khoảng thời
gian ngắn hơn so với việc soạn câu hỏi nhiều lựa chọn.
Ngoài ra nó cũng mang tính chất khách quan khi chấm
điểm.
Nhược điểm:
Có thể khuyến khích sự đoán mò;

Khó dùng để chẩn định yếu điểm của học sinh;
Có độ tin cậy thấp;
Khoảng lựa chọn quá hạn hẹp.
Các lưu ý khi soạn câu trắc ngiệm “đúng – sai”:
Nên dùng những chữ chính xác và thích hợp để câu hỏi
đơn giản và rõ ràng;
Nếu có thể được, nên cố gắng soạn các câu hỏi thế nào
cho nội dung có nghĩa hoàn toàn đúng hoặc hoàn toàn
sai;
Cần chú trọng điểm văn phạm;
Tránh dùng các câu ở thể phủ định;
Nên cố viết những câu để áp dụng kiến thức đã học;
19

19


TRUNG TÂM TH NN - HN

KH KTTH

Nên dùng các từ định lượng hơn định tính để chỉ các số
lượng;
Tránh khuynh hướng dùng số câu trả lời đúng nhiều hơn
câu sai hay ngược lại.
b. Trắc nghiệm nhiều lựa chọn (multiple choice questions)
Đây là loại trắc nghiệm thông dụng nhất. Loại này thường có
hai phần: phần đầu được gọi là phần dẫn, nêu ra vấn đề, cung cấp
thông tin cần thiết hoặc nêu một câu hỏi; phần sau là các phương
án để chọn thường được dấnh dấu bằng các chữ cái A, B, C, D hoặc

các số 1, 2, 3, 4. Trong các phương án đã chọn chỉ có duy nhất một
phương án đúng hoặc một phương án đúng nhất còn các phương án
khác được đưa vào với tác dụng gây nhiễu, còn gọi là câu mồi. Do
vậy khi các câu lựa chọn được chuẩn bị tốt thì một người không có
kiến thức chắc chắn về vấn đề đó sẽ không thể nhận biết được
trong tất cả các phương án đã chọn đâu là phương án đúng, đâu là
phương án nhiễu.
Ưu điểm:
Có thể đo được khả năng tư duy. GV có thể dùng loại này
để đánh giá mục tiêu giảng dạy, học tập khác nhau như:
+ Xác định mối tương quan “nhân – quả”.
+ Nhận biết các điều sai lầm.
+ Ghép các kết quả hay điều quan sát với nhau.
+ Định nghĩa các thành ngữ.
+ Tìm nguyên nhân của một số sự kiện.
+ Nhận biết đặc điểm tương đồng hay dị biệt giữa 2
hay nhiều vật.
+ Xác định nguyên lý hay ý niệm tổng quát từ các sự
kiện.
+ Xác định thứ tự hay cách xếp đặt giữa nhiều vật.
+ Xác định nhiều vấn đề đang được tranh luận dưới
nhiều quan điểm.
20

20


TRUNG TÂM TH NN - HN

KH KTTH


Độ tin cậy cao hơn. Yếu tố đoán mò may rủi giảm đi so
với các loại TNKQ khác khi số phương án lựa chọn tăng
lên;
Học sinh phải xét đoán và phân biệt rõ ràng khi trả lời các
câu hỏi;
Tính chất giá trị tốt hơn. Loại trắc nghiệm này có độ giá
trị cao hơn nhờ tính chất có thể dùng đo mức độ tư duy
khác nhau;
Có thể phân tích được tính chất mỗi câu hỏi. Dùng
phương pháp phân tích tính chất mỗi câu hỏi, chúng ta có
thể xác định câu hỏi nào quá dễ, câu hỏi nào quá khó,
câu hỏi nào mơ hồ hay không có giá trị với mục tiêu cần
trắc nghiệm;
Tính chất khách quan khi chấm.
Nhược điểm:
Khó soạn câu hỏi. Điều khó do ở chỗ phải cho được câu
trả lời đúng nhất trong lúc các câu, các phương án trả lời
khác để chọn cũng phải có vẻ hợp lý. Thêm vào đó các
câu hỏi phải đo được các mục tiêu ở mức năng lực nhận
thức cao hơn ở mức nhớ. Vì vậy cần yêu cầu cao ở GV khi
soạn câu hỏi;
Thí sinh có óc sáng kiến có thể tìm ra những câu trả lời
hay hơn phương án đúng đã cho, nên họ có thể không
thỏa mãn hay cảm thấy khó chịu;
Các câu trắc nghiệm có nhiều phương án trả lời để lựa
chọn có thể đo được khả năng phán đoán tinh vi và khả
năng giải quyết vấn đề khéo léo một cách hiệu nghiệm
bằng câu hỏi tự suy luận soạn kỹ.
Các lưu ý khi soạn câu trắc nghiệm nhiều lựa chọn:

Phần chính hay phần dẫn của câu hỏi phải diễn đạt rõ
ràng một vấn đề. Các câu trả lời để chọn phải là các câu
khả dĩ thích hợp với vấn đề đã nêu;
21

21


TRUNG TÂM TH NN - HN

KH KTTH

Phần chính hay câu dẫn của câu hỏi nên mang trọn ý
nghĩa và phần câu trả lời để chọn nên ngắn gọn;
Nên bỏ bớt các chi tiết không cần thiết;
Tốt nhất nên có 4 phương án trả lời để chọn cho mỗi câu
hỏi;
Nên tránh 2 thể phủ định liên tiếp;
Các câu trả lời để chọn phải có vẻ hợp lý;
Phải chắc chắn chỉ có một câu trả lời đúng;
Độ dài của các câu trả lời trong các phương án cho sẵn
để chọn phải gần bằng nhau;
Các câu trả lời trong các phương án để chọn lựa phải
đồng nhất với nhau;
Các câu trả lời nhằm đo sự hiểu biết, suy luận, hay khả
năng áp dụng các nguyên lý vào những trường hợp mới
nên được trình bày dưới hình thức mới;
Lưu ý đến các điểm liên hệ về văn phạm có thể giúp HS
nhận biết câu trả lời;
Các câu trả lời đúng nhất hay hợp lý nhất phải được đặt ở

các vị trí khác nhau một số lần tương đương nhau;
Vị trí các câu trả lời để chọn lựa nên được sắp xếp theo
một thứ tự “tự nhiên” nào đó có thể được;
Nên tránh dùng câu dẫn dạng phủ định. Nếu dùng phải
gạch dưới hoặc in đậm chữ “không” để nhắc học sinh
thận trọng khi trả lời;
Rất hạn chế dùng các phương án như: Các câu trên đều
đúng; Các câu trên đều sai; Em không biết; Một kết quả
khác….
c. Trắc nghiệm điền khuyết (supply items)
Còn được gọi là trả lời ngắn (short answer), đây là dạng trắc
nghiệm khách quan có câu trả lời tương đối tự do. Thường chúng ta
nêu ra một mệnh đề có khuyết một bộ phận, học sinh nghĩ ra nội
22

22


TRUNG TÂM TH NN - HN

KH KTTH

dung trả lời thích hợp để điền vào chỗ trống, thường là những câu
trả lời có nội dung ngắn ngọn hoặc một vài từ.
Ưu điểm:
Thí sinh có cơ hội trình bày những câu trả lời khác,
thường phát huy óc sáng kiến;
Thí sinh mất cơ hội đoán mà câu trả lời như trong các loại
trắc nghiệm khách quan khác;
Dễ soạn hơn các loại trắc nghiệm khác;

Loại này rất thích hợp cho những vấn đề như tính toán,
cân bằng phương trình hóa học, nhận biết các vùng trên
bản đồ, giản đồ;
Giúp học sinh luyện trí nhớ và vận dụng chúng trong giờ
học.
Khuyết điểm:
Người soạn thường trích nguyên văn các câu trả lời từ
sách giáo khoa;
Việc chấm bài mất nhiều thời gian và không khách quan;
Khi có nhiều chỗ chừa trống trong câu hỏi, người làm sẽ
rối trí hơn.
Các lưu ý khi soạn câu trắc nghiệm điền khuyết :
Lời chỉ dẫn phải rõ ràng, tránh viết các câu diễn tả mơ
hồ;
Tránh lấy các câu nguyên văn từ sách ra để khỏi khuyến
khích học sinh học thuộc lòng;
Đừng nên chừa trống quá nhiều chữ trọng yếu;
Các khoảng cách nên có chiều dài bằng nhau cho người
làm không đoán được câu trả lời.
d. Trắc nghiệm ghép đôi (matching items)
Có thể xem đây là một dạng đặc biệt của dạng trắc nghiệm
khách quan nhiều lựa chọn, dạng câu hỏi này thường gồm hai cột
thông tin, một cột là những câu hỏi (hay câu dẫn) một cột là những
23

23


TRUNG TÂM TH NN - HN


KH KTTH

câu trả lời (hay còn gọi là câu lựa chọn), yêu cầu học sinh phải tìm
cách ghép các câu trả lời ở cột này với câu hỏi ở cột khác sau cho
hợp lý.
Ưu điểm:
Các câu ghép đôi dễ viết và dễ dùng, đặc biệt rất thích
hợp khi cần khẳng định các mục tiêu ở tư duy thấp;
Khi được soạn kỹ, loại câu ghép đôi đòi hỏi người làm
phải chuẩn bị rất tốt kiến thức vì yếu tố đoán mò giảm đi
rất nhiều, nhất là phải ghép những cột có ít nhất 8 đến
10 phần tử với nhau;
Người ta có thể dùng trắc ngiệm loại ghép đôi để đo các
mức trí năng khác nhau. Nếu được khéo léo soạn thảo,
loại trắc nghiệm này có thể được dùng như loại có nhiều
trả lời cho sẵn để tránh trắc nghiệm ở những mức trí
năng cao hơn.
Khuyết điểm:
Trắc nghiệm loại này không thích hợp cho thẩm định các
khả năng như sắp đặt, áp dụng kiến thức nguyên lý;
Người đọc sẽ mất nhiều thời gian để đọc cả một cột mỗi
lần muốn ghép đôi;
Dễ trả lời thông qua loại trừ;
Không cho thấy khả năng sử dụng các thông tin ghép đôi.
Các lưu ý khi soạn câu hỏi ghép đôi:
Phải xác định rõ tiêu chuẩn để ghép một phần tử của cột
trả lời và phần tử tương ứng của cột câu hỏi;
Số phần tử để chọn lựa trong cột trả lời nên nhiều hơn số
phần tử trong cột câu hỏi hoặc mỗi phần tử trong cột trả
lời có thể dùng nhiều lần;

Các câu hỏi nên có tính chất đồng nhất hoặc liên hệ
nhau.

24

24


TRUNG TÂM TH NN - HN

KH KTTH

2.2.2 Các nguyên tắc, yêu cầu, mức độ nhận thức khi ra đề kiểm
tra và thi trắc nghiệm khách quan.

Việc ra đề thi dựa trên cơ sở phát triển năng lực, trí tuệ học sinh
ở 6 mức độ từ đơn giản đến phức tạp: Nhận biết, ghi nhớ tri thức;
Thông hiểu, lí giải; Vận dụng; Phân tích; Tổng hợp; Đánh giá, bình
xét. Trước hết học sinh phải nhớ các kiến thức đơn giản đó là nền
tảng vững vàng có thể phát triển năng lực nhận thức ở mức độ khác
nhau của nhận thức. Tùy theo tính chất, yêu cầu của mỗi kỳ thi để
định ra lượng kiến thức đưa vào phù hợp với từng mức độ nhận
thức.
Đề thi, kiểm tra phải có độ khó hợp lý, phù hợp với thời gian làm
bài của học sinh, tránh những đề thi hoặc đề kiểm tra đánh đố học
sinh. Không nên ra đề thi, kiểm tra kiểu phải học thuộc lòng, học
vẹt. Đề thi, kiểm tra phải đánh giá được khả năng lý giải, ứng dụng,
phân biệt và phán đoán của học sinh.
Nội dung đề thi, kiểm tra tập trung đánh giá phạm vi kiến thức
rộng, bao quát chương trình học, tránh tập trung nhiều vào những

mảnh nhỏ kiến thức sẽ dẫn đến mảnh rời rạc, chắp vá trong kiến
thức của học sinh.
Đề thi hoặc đề kiểm tra phải đảm bảo chuẩn về kiến thức
và kỹ năng:
2.2.2.1 Về kiến thức: (với 6 mức độ nhận thức)
a. Nhận biết:
Nhận biết thông tin, ghi nhớ, tái hiện thông tin là mức độ yêu
cầu thấp nhất của trình độ nhận thức thể hiện ở chỗ học sinh có
thể và chỉ cần nhớ hoặc nhận ra khi đưa ra hoặc dựa trên những
thông tin có tính đặc thù của một khái niệm, một sự vật, một
hiện tượng.
Học sinh phát biểu đúng một định nghĩa, định lý, định luật
nhưng chưa giải thích và vận dụng được chúng.
Có thể cụ thể hóa mức độ nhận biết như sau:
Nhận ra, nhớ lại các khái niệm, định lý, tính chất;
25

25


×