Tải bản đầy đủ (.pdf) (49 trang)

Dạy học bài phong cách ngôn ngữ chính luận trong sách giáo khoa ngữ văn theo hướng tích cực (KL03736)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (403.27 KB, 49 trang )

Phạm Thị Thanh Thêu – K33C Văn
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1 Ở nước ta, những năm gần đây, nền giáo dục đã được Đảng và Nhà nước đặc
biệt quan tâm, đầu tư phát triển. Tuy nhiên, so với các nước trong khu vực và trên
thế giới, sự nghiệp giáo dục của nước ta vẫn nằm trong tình trạng trì trệ và lạc hậu.
Để đáp ứng được các yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; tiến
đến một nền kinh tế tri thức toàn cầu hóa với một sự cạnh tranh quyết liệt , vươn
lên sánh vai với các cường quốc năm châu, Đảng và Nhà nước ta đã tiến hành
nhiều chính sách đổi mới giáo dục, trong đó có đổi mới phương pháp dạy học.
Định hướng đổi mới phương pháp dạy và học đã được xây dựng trong Nghị
quyết Trung ương 4 khóa VII (01/ 1993); Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII
(12/1996); được thể chế hoá trong Luật Giáo dục (12/1998); được cụ thể hóa trong
các chỉ thị của Bộ Giáo dục và đào tạo.
Nghị quyết Trung ương 4 khóa VII (01/1993) đã nêu: “Đổi mới phương pháp
dạy học ở tất cả các cấp học, bậc học, kết hợp học với hành, học tập và sản xuất,
thực nghiệm và nghiên cứu khoa học gắn với nhà trường, với xã hội, áp dụng
phương pháp giáo dục hiện đại để bồi dưỡng cho học sinh năng lực tư duy, sáng
tạo, năng lực giải quyết vấn đề”.
Chỉ thị số 14 (4/1994) của Bộ Giáo dục và đào tạo; Luật Giáo dục (12/1998),
điều 24.2 cũng đã chỉ rõ: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích
cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với từng đặc điểm lớp học,
môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng, vận dụng kiến thức
vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học
sinh, tận dụng được công nghệ mới nhất, khắc phục lối dạy truyền thống truyền thụ
một chiều, truyền thụ các kiến thức có sẵn…”
1

Khoá luận tốt nghiệp



Phạm Thị Thanh Thêu – K33C Văn
Từ định hướng đổi mới phương pháp dạy học nêu trên, chúng ta đã nhận thấy
trong dạy học cần phải chú ý phát huy tính tích cực, chủ động, tự giác, sáng tạo của
HS.
1.2 Hiện nay, cùng với việc đổi mới chương trình, SGK cũng đã được biên soạn lại.
Phân môn Tiếng Việt được tích hợp với Văn và Làm văn và trở thành môn học có
tên gọi là Ngữ văn. Chính vì vậy, các phong cách chức năng ngôn ngữ đã được chú
trọng hơn. Trong các phong cách chức năng ngôn ngữ thì phong cách ngôn ngữ
chính luận là một trong những phong cách chức năng ngôn ngữ quan trọng được
đưa vào giảng dạy trong chương trình Ngữ văn lớp 11.
1.3 Nhìn chung, các bài phong cách chức năng ngôn ngữ được soạn trong chương
trình Ngữ văn THPT thường mang tính chất khô khan, khó tiếp cận đối với học
sinh. Và thường khi dạy những bài học này, học sinh không mấy hứng thú. Hơn
nữa, trong thực tế, một số GV khi dạy bài “Phong cách ngôn ngữ chính luận” nói
riêng và các phong cách chức năng ngôn ngữ nói chung chỉ chú ý đến kiến thức
chuyên môn, dạy cho đủ bài, đủ tiết mà không hề chú ý đến việc vận dụng phối kết
hợp các phương pháp dạy học để phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học
sinh. Vì vậy, chất lượng dạy và học chưa thực sự đạt được mục tiêu đề ra.
1.4 Bản thân là một sinh viên sư phạm chuẩn bị ra trường, tôi nhận thấy được vai
trò, tầm quan trọng của việc vận dụng quan điểm dạy học theo hướng tích cực vào
dạy từng bài phong cách chức năng ngôn ngữ trong chương trình SGK Ngữ văn
THPT. Dạy học theo quan điểm tích cực luôn lấy học sinh làm trung tâm. Nó có
nhiều ưu điểm và mang lại hiệu quả cao trong hoạt động dạy và học.
Từ những lí do nêu trên, chúng tôi lựa chọn đề tài “Dạy học bài phong cách
ngôn ngữ chính luận trong SGK Ngữ văn 11 theo hướng tích cực” với mục đích
góp một phần nhỏ của mình vào quá trình đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao

2

Khoá luận tốt nghiệp



Phạm Thị Thanh Thêu – K33C Văn
chất lượng dạy và học bài “Phong cách ngôn ngữ chính luận” nói riêng và các bài
phong cách chức năng ngôn ngữ nói chung.
2. Lịch sử vấn đề
2.1 Những công trình và tài liệu nghiên cứu đề cập đến vấn để phát huy tính
tích cực, chủ động của người học
Có thể nói, vấn đề phát huy tính tích cực, chủ động của người học trong dạy
học đã được đề cập đến từ rất lâu trong lịch sử. Hiện nay, vấn đề này được rất nhiều
người ở trong nước và trên thế giới quan tâm, nghiên cứu.
Ở nước ta, từ những năm 60 của thế kỉ XX, vấn đề phát huy tính tích cực,
chủ động của người học trong dạy học đã được đặt ra trong ngành giáo dục. Hiện
nay, vấn đề này ngày càng được nhiều người quan tâm và nó đã trở thành một trong
những yếu tố quan trọng góp phần vào sự nghiệp đổi mới nền giáo dục nước nhà.
Dưới đây, chúng tôi xin được giới thiệu sơ lược một số công trình, tài liệu nghiên
cứu tiêu biểu có đề cập đến vấn đề nói trên.
Trong cuốn “Phương pháp dạy học tích cực lấy người học làm trung tâm”,
tác giả Nguyễn Kì đã đưa ra những vấn đề lí luận chung nhất về phương pháp dạy
học theo hướng tích cực. Trong đó tác giả đã nêu ra bốn đặc trưng cơ bản về
phương pháp dạy học theo hướng tích cực; giới thiệu những thành tựu của thế giới
về hoạt động học của HS, hoạt động dạy của GV, mối quan hệ giữa hoạt động dạy
và học; đưa ra phương hướng, điều kiện để lựa chọn những phương pháp dạy học
thích hợp. Cũng trong cuốn sách này, tác giả giới thiệu cho người đọc biết về một
số mô hình dạy học tích cực và một số mẫu giáo án của nhiều môn học khác nhau.
Trong cuốn “Bàn về dạy học lấy người học làm trung tâm”, tác giả Trần Bá
Hoành đã đưa ra một số vấn đề như: bản chất của dạy học theo hướng tích cực;

3


Khoá luận tốt nghiệp


Phạm Thị Thanh Thêu – K33C Văn
mục tiêu, nội dung, phương pháp dạy học, hình thức dạy học và cách đánh giá
trong dạy học theo hướng tích cực.
Trong cuốn “Đổi mới phương pháp tích cực hóa hoạt động của học sinh”
của tác giả Lê A có đoạn: “Tư tưởng dạy học lấy người học làm trung tâm cần
được hiểu như một quan điểm, một cách tiếp cận quá trình dạy học. Quan điểm dạy
học lấy người học làm trung tâm không có nghĩa là chúng ta bỏ đi những phương
pháp dạy học truyền thống mà chúng ta cần phát triển nó, vận dụng nó” [ …37].
Trên tạp chí nghiên cứu Giáo dục số tháng 8 năm 1995 có bài viết “Bàn về
phương pháp giáo dục tích cực” của Giáo sư Phạm Viết Vượng đề cập đến quan
điểm dạy học lấy người học làm trung tâm. Ông nhấn mạnh rằng: “phải lấy người
học làm trung tâm như một quan điểm giáo dục đào tạo, cốt lõi của nó là vì học
sinh, bởi học sinh”[ …20].
Trên tạp chí Giáo dục số 223 tháng 10 năm 2009, tác giả Nguyễn Thành
Kỉnh với bài viết “Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa người
học” đã chỉ ra những vấn đề về tính tích cực hóa người học và quá trình học tập.
Cũng trong bài viết này, tác giả đã đề ra những biện pháp đổi mới phương pháp dạy
học theo hướng tích cực hóa của người học theo những nguyên tắc: tương tác; tham
gia và hợp tác; tính vấn đề của dạy học và các tình huống dạy học.
Trên tạp chí Dạy và học ngày nay số 4 năm 2010, tác giả Nguyễn Châu có
bài viết “Phương pháp dạy học “lấy giáo viên làm trung tâm” và phương pháp
dạy học “lấy học sinh làm trung tâm”. Trong bài viết này, tác giả đã nêu lên những
nét khác biệt cơ bản giữa phương pháp dạy học lấy HS làm trung tâm và phương
pháp dạy học lấy GV làm trung tâm; đồng thời tác giả cũng đưa ra yêu cầu phải
chuyển đổi một cách hợp lí từ dạy học lấy GV làm trung tâm sang lấy HS làm trung
tâm.


4

Khoá luận tốt nghiệp


Phạm Thị Thanh Thêu – K33C Văn
Trên tạp chí Giáo dục số 237 (tháng 5 năm 2010), tác giả Nguyễn Gia Cầu
có bài viết “Bồi dưỡng cho HS tính tích cực, chủ động trong quá trình tự học Văn”.
Trong bài viết này, tác giả đã chỉ ra một số tiền đề lí luận về tính tích cực trong quá
trình tự học của HS; những nguyên nhân dẫn đến tình trạng chán học Văn của HS
và nêu ra những biện pháp để bồi dưỡng tính tích cực, chủ động cho HS trong quá
trình tự học Văn.
Ngoài ra còn có một số công trình, tài liệu nghiên cứu khác nữa có để cập đến
vấn đề dạy học theo hướng tích cực. Nhưng nhìn chung đó chỉ là nhưng vấn đề lí
thuyết chung chung, chứ chưa thật sự đi sâu vào những phương pháp dạy học ứng
với từng bài học cụ thể để phát huy tính tích cực, chủ động của người học.
2.2 Sách giáo trình “Phương pháp dạy học tiếng Việt”, SGK và SGV Ngữ văn
11 (tập 2)
Trong cuốn giáo trình “Phương pháp dạy học tiếng Việt” ở phần “Các
nguyên tắc và phương pháp dạy tiếng Việt”, tác giả Lê A đã đưa ra các nguyên tắc
dạy tiếng Việt và những phương pháp, thủ pháp được sử dụng trong dạy học tiếng
Việt . Đây sẽ là cơ sở để chúng tôi lựa chọn những phương pháp, thủ pháp dạy học
phát huy tính tích cực, chủ động của HS.
Trong SGK Ngữ văn 11 (tập 2), bài “Phong cách ngôn ngữ chính luận” được
dạy trong hai tiết. Mỗi một tiết đều được soạn thành hai phần lí thuyết và thực hành
đan xen nhau. Việc biên soạn như vậy một mặt để tăng cường tính tự giác, sáng tạo
của học sinh; mặt khác nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ, đáp
ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.
Trong SGV Ngữ văn 11 (tập 2), phần phương pháp dạy học bài “Phong cách

ngôn ngữ chính luận” được định hướng như sau: “GV kết hợp cách trình bày vừa

5

Khoá luận tốt nghiệp


Phạm Thị Thanh Thêu – K33C Văn
diễn giảng vừa đàm thoại và hướng dẫn HS trả lời các câu hỏi đã chuẩn bị trước”.
Mặc dù đây chỉ là phần định hướng chung chung nhưng phần nào giúp chúng tôi
lựa chọn được những phương pháp dạy học phát huy tính tích cực, chủ động của
HS.
Nhìn chung những công trình nghiên cứu hay những bài viết nói trên phần nào
đã đề cập đến vấn đề phát huy tính tích cực, chủ động của người học. Tuy nhiên,
việc nghiên cứu, tìm hiểu cụ thể cách tổ chức dạy học bài Phong cách ngôn ngữ
chính luận trong SGK Ngữ văn 11 theo hướng tích cực lại chưa được quan tâm, chú
ý nhiều. Chính vì vậy, chúng tôi nhận thấy cần thiết đi sâu nghiên cứu đề tài: “Dạy
học bài “Phong cách ngôn ngữ chính luận” trong SGK Ngữ văn 11 theo hướng
tích cực”.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này, người viết nhằm hai mục đích sau:
- Tìm ra hướng đi mới cho việc tổ chức hoạt động dạy và học bài

“Phong

cách ngôn ngữ chính luận” đáp ứng nhu cầu đổi mới của xã hội, phù hợp với thực
tiễn đất nước.
- Vận dụng các phương pháp phát huy tính tích cực của HS để nâng cao chất
lượng dạy và học bài “Phong cách ngôn ngữ chính luận” nói riêng và các bài

phong cách chức năng ngôn ngữ nói chung.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, cần phải hoàn thành những nhiệm vụ sau:

6

Khoá luận tốt nghiệp


Phạm Thị Thanh Thêu – K33C Văn
+ Hệ thống hóa các tài liệu có liên quan đến đề tài cần nghiên cứu. Trên cơ
sở đó, kế thừa những thành tựu của các tài liệu để vận dụng và giải quyết đề tài một
cách hợp lí.
+ Cần xác định được cơ sở lí luận và thực tiễn của đề tài.
+ Vận dụng các phương pháp dạy học theo hướng tích cực vào dạy học bài
“Phong cách ngôn ngữ chính luận ”.
+ Tiến hành thực nghiệm bằng việc thiết kế giáo án và rút ra kết luận chung.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Xuất phát từ nội dung của đề tài, người viết tập trung nghiên cứu những vấn đề
lí luận về phương pháp dạy học theo hướng tích cực của học sinh trong dạy học bài
“Phong cách ngôn ngữ chính luận”. Trên cơ sở đó, vận dụng những phương pháp
ấy vào thực tế giảng dạy bài “Phong cách ngôn ngữ chính luận” trong chương
trình Ngữ văn lớp 11.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi cho phép của đề tài, chúng tôi chỉ nghiên cứu việc dạy học bài
“Phong cách ngôn ngữ chính luận” trong sách giáo khoa Ngữ văn lớp 11 theo
hướng tích cực.
5. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này, chúng tôi lựa chọn sử dụng những phương pháp sau:

5.1 Phương pháp thống kê
Sử dụng phương pháp này nhằm để phân loại, phân tích kết quả khảo sát thực
trạng HS trước khi tiến hành thực nghiệm, phân tích kết quả thực nghiệm.

7

Khoá luận tốt nghiệp


Phạm Thị Thanh Thêu – K33C Văn
5.2 Phương pháp hệ thống hóa
Sử dụng phương pháp này nhằm hệ thống hóa những vấn đề lí luận về dạy học
theo hướng tích cực, về “Phong cách ngôn ngữ chính luận” dưới góc độ nghiên
cứu của ngôn ngữ học và trong sách giáo khoa Ngữ văn lớp 11.
5.3 Phương pháp thực nghiệm
Sử dụng phương pháp này nhằm để kiểm chứng quá trình dạy và học bài
“Phong cách ngôn ngữ chính luận” theo hướng tích cực. Từ đó rút ra được kết
luận chung.
6. Đóng góp của khóa luận
Được thể hiện trên hai phương diện:
- Phương diện lí luận: Khóa luận tập trung trình bày những vấn đề lí luận có
liên quan đến việc dạy học bài “Phong cách ngôn ngữ chính luận” trong sách giáo
khoa Ngữ văn lớp 11.
- Phương diện thực tiễn: Khóa luận một mặt giúp cho người dạy phát huy
được năng lực tổ chức dạy học; mặt khác giúp học sinh phát huy được sự chủ động,
khả năng tìm tòi, sáng tạo trong học tập.
7. Bố cục của khóa luận
Khóa luận được triển khai theo bố cục ba phần:
- Phần mở đầu
- Phần nội dung: Gồm 3 chương:

+ Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc dạy học theo quan điểm tích
cực.

8

Khoá luận tốt nghiệp


Phạm Thị Thanh Thêu – K33C Văn
+ Chương 2: Dạy học bài “Phong cách ngôn ngữ chính luận” theo hướng
tích cực.
+ Chương 3: Thực nghiệm
- Phần kết luận

9

Khoá luận tốt nghiệp


Phạm Thị Thanh Thêu – K33C Văn
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC DẠY HỌC
THEO HƯỚNG TÍCH CỰC

1.1 Cơ sở lí luận
1.1.1 Sự đổi mới phương pháp dạy học hiện nay
Trong xu thế hội nhập toàn cầu, đổi mới để tồn tại và phát triển là một tất
yếu khách quan. Giáo dục cũng không nằm ngoài quy luật đó, thậm chí là một yêu
cầu hết sức cấp bách trong chính sách đổi mới toàn diện của Đảng và Nhà nước ta.
Đổi mới giáo dục là cả một quá trình, bao gồm nhiều nội dung, giải pháp,

theo một lộ trình hợp lí, phù hợp với thực tiễn, trong đó đổi mới phương pháp dạy
học là một khâu đột phá, là bước đi giải quyết việc nâng cao chất lượng đào tạo
theo yêu cầu của thời đại.
Đổi mới phương pháp dạy học không phải là một khái niệm mới. Từ những
năm 60 của thế kỉ trước, yêu cầu của việc cải tiến phương pháp giảng dạy đối với
người dạy và yêu cầu tự học đối với người học đã được đặt ra. Tuy nhiên, chỉ từ
khi nền giáo dục nước ta chuyển mình từng bước hội nhập với giáo dục khu vực và
thế giới, đổi mới phương pháp dạy học mới thực sự trở thành một yêu cầu bức thiết
cho sự tồn tại và phát triển nước nhà.
Từ những năm đầu của công cuộc đổi mới đất nước, Đảng và Nhà nước ta
rất quan tâm đến sự phát triển giáo dục. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX của Đảng đã chỉ rõ: “Đổi mới phương pháp dạy và học, phát huy tư duy
sáng tạo và năng lực tự đào tạo của người học, coi trọng thực hành, thực nghiệm,
ngoại khóa, làm chủ kiến thức, tránh nhồi nhét, học vẹt, học chay”. Hay trong báo
cáo của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về các Văn kiện đại hội X của
Đảng do đồng chí Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh trình bày có đoạn: “Về giáo dục và
đào tạo, chúng ta phấn đấu để lĩnh vực này cùng với khoa học và công nghệ thực
10

Khoá luận tốt nghiệp


Phạm Thị Thanh Thêu – K33C Văn
sự là quốc sách hàng đầu, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, chấn hưng
nền giáo dục Việt Nam. Những biện pháp cụ thể là: đổi mới cơ cấu tổ chức, nội
dung, phương pháp dạy và học theo hướng “ chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa”;
phát huy trí sáng tạo, khả năng vận dụng, thực hành của người học…”
Thực hiện theo Nghị quyết của Đảng và Nhà nước, chương trình Ngữ văn
hiện nay đã được đổi mới một cách toàn diện từ sách giáo khoa đến nội dung,
phương pháp, cách thức đánh giá... Và có thể nhận thấy rõ rằng đổi mới phương

pháp dạy học là một trong những trọng tâm của đổi mới chương trình lần này. Đổi
mới phương pháp dạy học trong môn Ngữ văn không hạ thấp vai trò của người GV
mà ngược lại GV chính là người tổ chức, thiết kế, điều hành giờ học. Phương pháp
dạy học mới hạn chế tối đa lối dạy lí thuyết, một chiều, chuyển quá trình thuyết
giảng của GV thành những cuộc trao đổi, đàm thoại giữa thầy và trò, giữa HS và
HS giúp các em tự tìm hiểu và đánh giá được mức độ tìm hiểu bài học của mình.
Đổi mới phương pháp dạy học thực chất là một quá trình nâng cao hiệu quả
của việc dạy và học; phát triển tư duy độc lập, chủ động, sáng tạo; tạo niềm vui và
hứng thú học tập cho HS; góp phần làm cho việc dạy học gắn bó, phục vụ tốt hơn,
ngày càng nâng cao hơn cho việc hình thành và phát triển nhân cách và phẩm chất
của người Việt Nam trong hiện tại cũng như trong tương lai.
1.1.2 Quan điểm tích cực trong dạy học
1.1.2.1 Một số vấn đề về tính tích cực học tập
Tính tích cực là phẩm chất vốn có của con người. Con người không chỉ là
khách thể mà còn là chủ thể của các quan hệ xã hội, thể hiện ở chỗ tích cực tiếp thu
có chọn lọc tất cả những tác động bên ngoài để sáng tạo và xây dựng nhân cách
riêng của mình. Để tồn tại và phát triển, con người luôn phải chủ động, tích cực cải
biến môi trường tự nhiên, cải tạo xã hội. Vì vậy, hình thành và phát triển tính tích
cực xã hội là một trong những nhiệm vụ của giáo dục.

11

Khoá luận tốt nghiệp


Phạm Thị Thanh Thêu – K33C Văn
Tính tích cực học tập về thực chất là tính tích cực nhận thức. Tính tích cực
trong hoạt động học tập liên quan trước hết với động cơ học tập. Động cơ đúng tạo
ra hứng thú. Hứng thú là tiền đề của tự giác. Hứng thú và tự giác là hai yếu tố tạo
nên tính tích cực. Tính tích cực sản sinh lớp tư duy độc lập. Suy nghĩ độc lập là

mầm mống của sáng tạo . Ngược lại, phong cách học tập tích cực độc lập sáng tạo
sẽ phát triển tự giác, hứng thú, bồi dưỡng động cơ học tập. Tính tích cực học tập
biểu hiện ở những dấu hiệu như: hăng hái trả lời câu hỏi của giáo viên, bổ sung các
câu trả lời của bạn, thích phát biểu ý kiến của mình trước vấn đề nêu ra; hay nêu
thắc mắc, đòi hỏi giải thích cặn kẽ những vấn đề chưa đủ rõ; chủ động vận dụng
kiến thức, kĩ năng đã học để nhận thức vấn đề mới; tập trung chú ý vào vấn đề đang
học; kiên trì hoàn thành các bài tập; không nản trước những tình huống khó khăn.
Tính tích cực học tập thể hiện qua các cấp độ từ thấp lên cao như:
- Bắt chước: gắng sức làm theo mẫu hành động của thầy, của bạn
- Tìm tòi: độc lập giải quyết vấn đề nêu ra, tìm kiếm cách giải quyết khác
nhau về một số vấn đề…
- Sáng tạo: tìm ra cách giải quyết mới, độc đáo, hữu hiệu
1.1.2.2 Phương pháp dạy học tích cực
1.1.2.2.1 Quan niệm về phương pháp dạy học tích cực
Phương pháp dạy học tích cực là một thuật ngữ rút gọn, được dùng ở nhiều
nước để chỉ những phương pháp giáo dục, dạy học theo hướng phát huy tính tích
cực, chủ động, sáng tạo của người học.
Xét một cách khái quát, có thể xem phương pháp dạy học tích cực là
phương pháp khơi dậy, phát huy tính chủ động, sáng tạo và tích cực của cả người
dạy và người học, trong đó lấy người học làm trung tâm trên cơ sở phát huy vai trò
định hướng, tổ chức của người thầy, vai trò thực hiện, thi công của trò và sức mạnh
của các phương tiện kĩ thuật hiện đại nhằm chinh phục chân lí trên cả ba phương
diện: kiến thức, kĩ năng, thái độ.
12

Khoá luận tốt nghiệp


Phạm Thị Thanh Thêu – K33C Văn
Như vậy, thuật ngữ phương pháp dạy học tích cực bao hàm cả phương pháp

dạy và phương pháp học. Muốn hoạt động dạy và hoạt động học đạt hiệu quả, cần
gắn việc lựa chọn phương pháp với sự hợp tác của cả thầy và trò.
1.1.2.2.2 Dạy tích cực – học tích cực
Dạy tích cực: GV với vai trò là trọng tài, cố vấn điều khiển tiến trình giờ dạy
cần phải hướng dẫn, gợi ý, tổ chức, giúp cho người học tự tìm kiếm, khám phá
những tri thức mới theo kiểu tranh luận, hội thảo theo nhóm. Thường xuyên điều
chỉnh các hoạt động học tập của HS, động viên và luôn tạo điều kiện cho các em
tham gia tích cực, chủ động, sáng tạo trong quá trình tiếp nhận, giải mã và sản sinh
văn bản. Song song đó, GV phải biết sử dụng và hướng dẫn HS sử dụng các thiết bị
đồ dùng và ứng dụng công nghệ thông tin để khai thác và vận dụng kiến thức có
hiệu quả. Bằng mọi cách, GV phải tạo điều kiện cho học sinh rèn luyện kĩ năng học
tập tích cực, chủ động, hình thành thói quen vận dụng kiến thức đã học vào giải
quyết các vấn đề thực tiễn. Trong giảng dạy, cần chú ý khai thác vốn kiến thức,
kinh nghiệm, kĩ năng nghe – nói – đọc – viết mà HS đã có.
Học tích cực: HS chuẩn bị bài kĩ ở nhà trước khi đến lớp và phải mạnh dạn,
tự tin bộc lộ ý kiến, quan điểm của mình. Hơn thế, các em phải luôn tích cực suy
nghĩ, chủ động thời gian các hoạt động học tập để tự khám phá và lĩnh hội kiến
thức, rèn luyện thái độ và tình cảm đúng đắn. Biết đánh giá và tự đánh giá các quan
điểm của bản thân, của nhóm. Tích cực, sáng tạo trong vận dụng kiến thức, kĩ năng
để giải quyết các tình huống và các vấn đề đặt ra từ thực tiễn. Bên cạnh đó, HS phải
biết chủ động trong xây dựng và thực hiện kế hoạch học tập phù hợp với năng lực
và điều kiện học tập của cá nhân. Biết sưu tầm và tìm hiểu các tài liệu có liên quan
đến bài học bằng các hình thức khác nhau. Có ý thức sử dụng đồ dùng học tập và
các ứng dụng công nghệ thông tin để học tập có hiệu quả.
1.1.2.2.3 Những phương pháp dạy học phát huy tính tích cực, chủ động của
học sinh
13

Khoá luận tốt nghiệp



Phạm Thị Thanh Thêu – K33C Văn
Mỗi phương pháp dạy học dù là truyền thống hay hiện đại cũng đều có
những đặc điểm riêng. Nếu xét bản thân các phương pháp thì không có phương
pháp nào là phương pháp tồi, không có phương pháp nào là tích cực hay thụ động,
mà phương pháp ấy trở nên tồi, thụ động khi người ta không khai thác hết tiềm
năng của nó hoặc sử dụng nó không đúng lúc, đúng chỗ, đúng đối tượng. Để phát
huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học, GV phải khai thác triệt để ưu
điểm của các phương pháp cũ và vận dụng linh hoạt một số phương pháp mới. Hay
nói một cách cụ thể hơn thì GV phải hiểu cho đúng cách làm, cách tiến hành các
phương pháp dạy học và linh hoạt sáng tạo trong sử dụng nó ở những tình huống và
hoàn cảnh khác nhau, để các phương pháp dạy học ấy có tác động tích cực đến
người học.
Dưới đây, chúng tôi giới thiệu một số phương pháp dạy học tính tích cực cần
được phát triển ở trường phổ thông:
- Phương pháp vấn đáp:
Đây là phương pháp GV đưa ra những câu hỏi đã được chuẩn bị sẵn để HS
trả lời, hoặc HS có thể tranh luận với nhau và với cả GV. Thông qua đó HS lĩnh hội
được nội dung bài học.
Có ba hình thức vấn đáp: vấn đáp tái hiện, vấn đáp giải thích, minh họa, vấn
đáp tìm tòi sáng tạo.
- Phương pháp nêu và giải quyết vấn đề:
Đây là phương pháp GV đưa ra các vấn đề, cung cấp thêm thông tin có liên
quan đến bài học của HS. Phương pháp này giúp HS vừa nắm được tri thức mới,
vừa nắm được phương pháp chiếm lĩnh các tri thức đó, phát triển tư duy tích cực,
sáng tạo, tăng khả năng áp dụng lí thuyết vào giải quyết vấn đề.
Áp dụng phương pháp này, GV phải chuẩn bị trước vấn đề. Vấn đề đưa ra
phải mang tính thực tế, điển hình, phù hợp với nội dung của bài học; đồng thời GV
phải chuẩn bị tốt kiến thức lí luận và thực tiễn để giải quyết vấn đề.
14


Khoá luận tốt nghiệp


Phạm Thị Thanh Thêu – K33C Văn
- Phương pháp thảo luận nhóm:
Đây là phương pháp GV tổ chức cho HS trao đổi, bàn bạc với nhau, bộc lộ
quan điểm về một chủ đề hay vấn đề nào đó để làm rõ và làm giàu sự hiểu biết của
cá nhân theo yêu cầu của mục tiêu và nhiệm vụ dạy học. Sử dụng phương pháp này
sẽ giúp cho các thành viên trong nhóm chia nhỏ những băn khoăn, thắc mắc, kinh
nghiệm của bản thân, cùng nhau xây dựng nhận thức mới qua cách nói ra những
điều đang nghĩ. Bài học trở thành quá trình học hỏi lẫn nhau chứ không phải chỉ là
sự tiếp nhận thụ động từ phía GV.
- Phương pháp dạy học trực quan:
Đây là phương pháp GV sử dụng tranh ảnh, sơ đồ, bảng biểu…vào bài học.
Việc sử dụng tranh ảnh, bảng biểu, sơ đồ...sẽ gây hứng thú cho HS, tránh sự nhàm
chán trong học tập. Thông qua đó, HS nhanh chóng ghi nhớ và hiểu bài tốt hơn.
- Phương pháp dạy học theo dự án:
Đây là phương pháp GV giao cho HS thực hiện một nhiệm vụ học tập thích
hợp gắn với thực tiễn, kết hợp lý thuyết với thực hành, tự lực lập kế hoạch, tự thực
hiện kế hoạch và tự đánh giá kết quả đạt được.
Trên đây là một số phương pháp dạy học phát huy tính tích cực, chủ động
của HS. Tùy từng môn học, từng bài học cụ thể mà GV có cách lựa chọn các
phương pháp dạy học phù hợp.
1.1.3 Đặc điểm tâm lí lứa tuổi học sinh THPT với phương pháp dạy học theo
hướng tích cực
Lứa tuổi học sinh THPT thường mang lại nhiều bận tâm cho các thầy cô và
cha mẹ. Bởi lúc này, các em đang ở độ tuổi mới lớn, tâm lí rất phức tạp. Vì vậy,
muốn cho hoạt động dạy và học đạt hiệu quả, GV cần đi sâu vào thế giới nội tâm
của các em để tìm ra những phương thức đúng đắn.

1.1.3.1 Đặc điểm hoạt động học tập

15

Khoá luận tốt nghiệp


Phạm Thị Thanh Thêu – K33C Văn
So với lứa tuổi HS THCS, hoạt động học tập của HS THPT phức tạp hơn rất
nhiều. Khối lượng tri thức tăng lên ở các môn học, ở từng bài, từng tiết; nội dung
các khái niệm được mở rộng; xuất hiện nhiều khái niệm, quy luật mới ở các môn
học. Phương pháp học tập đã có nhiều thay đổi. Thái độ của các em đối với các
môn học trở nên có lựa chọn hơn. Ở các em đã hình thành hứng thú học tập gắn
liền với khuynh hướng nghề nghiệp. Các em tích cực học các môn cần thiết cho
hoạt động tương lai của mình. Tất cả những điều đó đòi hỏi các em không chỉ phát
triển mạnh tư duy trừu tượng, kĩ năng tự học, mà còn phải độc lập cao hơn.
Để các em có động cơ học tập tốt và thái độ học tập đúng đắn, GV phải biết
tạo hứng thú; sử dụng linh hoạt, sáng tạo các phương pháp dạy học phát huy tính
tích cực, chủ động của HS.
1.1.3.2 Đặc điểm của sự phát triển trí tuệ
Nhìn chung, hoạt động trí tuệ của HS THPT ổn định, bền vững hơn so với
lứa tuổi trước.
- Tính chủ định được phát triển mạnh ở quá trình nhận thức, nghĩa là HS xác
định được đối tượng của hoạt động trí tuệ, ý thức được và sử dụng được các thao
tác trí tuệ để giải quyết nhiệm vụ học tập.
- Quan sát có mục đích, có hệ thống và toàn diện hơn so với lứa tuổi trước.
- Ghi nhớ có chủ định giữ vai trò chủ đạo trong hoạt động trí tuệ, đồng thời
vai trò của ghi nhớ lôgic trừu tượng, ghi nhớ ý nghĩa ngày một tăng rõ rệt (các em
biết sử dụng tốt hơn các phương pháp ghi nhớ: tóm tắt ý chính, so sánh đối chiếu..).
Đặc biệt các em đã tạo được tâm thế phân hóa trong ghi nhớ. Các em biêt tài liệu

nào cần nhớ từng câu, từng chữ, cái gì cần hiểu mà không cần nhớ…
- Khối lượng chú ý tăng lên, tính bền vững của chú ý và sự tập trung của chú
ý tăng lên rõ rệt. Học sinh có kĩ năng phân phối chú ý, nghĩa là có khả năng chú ý
nhiều đối tượng, nhiều hành động diễn ra cùng một lúc.

16

Khoá luận tốt nghiệp


Phạm Thị Thanh Thêu – K33C Văn
- Tư duy trừu tượng, tư duy lí luận của các em bắt đầu chiếm ưu thế. Tính
độc lập, tính nhất quán, tính phê phán của tư duy tăng lên.
Nhìn chung, ở lứa tuổi này, các em đã ý thức được và sử dụng các thao tác trí
tuệ để giải quyết nhiệm vụ học tập của mình.Vì vậy, GV cần tổ chức giờ học sao
cho nội dung thích hợp, phù hợp với nhận thức của HS. Đặc biệt, GV nên sử dụng
các phương pháp phát huy được tính độc lập, tính tích cực trí tuệ của HS như:
phương pháp nêu vấn đề, phương pháp thảo luận nhóm…
1.1.3.3. Đặc điểm về giao tiếp
Tuổi thanh niên mới lớn là lứa tuổi mang tính chất tập thể nhất. Vì vậy, ở lứa
tuổi này quan hệ với bạn bè chiếm vị trí lớn hơn hẳn so với người lớn tuổi hơn hoặc
ít tuổi hơn.
- Trong quan hệ bạn bè, các em mong muốn được sinh hoạt với các bạn cùng
lứa tuổi, mong muốn mình là người có uy tín và có vị trí nhất định trong nhóm. Tuy
nhiên, ở lứa tuổi này, nhóm tự phát ngoài nhà trường có ảnh hưởng rất lớn. Vì vậy,
trong công tác giáo dục HS, GV phải chú ý tới các hội tự phát ngoài nhà trường.
GV có thể tránh được hậu quả xấu của nhóm tự phát bằng cách tổ chức hoạt động
của các tập thể thật phong phú, sinh động...khiến cho các hoạt động ấy phát huy
được tính tích cực của HS.
- Trong quan hệ với người lớn tuổi, các em luôn mong muốn người lớn thừa

nhận mình là người trưởng thành. Vì thế, các em không muốn người lớn can thiệp
quá sâu vào đời sống riêng tư của mình. Điều này do lòng khao khát muốn có vị trí
bình đẳng trong cuộc sống chi phối. Nếu người lớn can thiệp quá sâu thì các em sẽ
không nghe lời, thậm chí tìm cách xa lánh...Do đó, trong quá trình dạy học, GV cần
tạo điều kiện giúp các em phát triển quan hệ giao tiếp, đặc biệt cần hướng các em
vào các hoạt động hợp tác tập thể.
Tóm lại, để HS phát huy được tính tích cực, chủ động của mình khi học bài
"Phong cách ngôn ngữ chính luận", GV cần chú ý khai thác những yếu tố thuận lợi
17

Khoá luận tốt nghiệp


Phạm Thị Thanh Thêu – K33C Văn
và bất lợi trong đặc điểm tâm lí lứa tuổi HS THPT nói chung và HS lớp 11 nói
riêng.
1.1.4 Dạy học tiếng Việt theo phương pháp truyền thống
Trước đây, khi trình độ phát triển của xã hội chưa cao, lượng thông tin và
nguồn cung cấp thông tin chưa lớn. Vì thế, công nghệ dạy học không được chú
trọng nhiều và dạy học chủ yếu theo phương pháp truyền thống – một chiều. Dạy
học tiếng Việt cũng không nằm ngoài quan điểm đó.
Phương pháp dạy học truyền thống là những cách thức dạy học quen thuộc
được truyền từ lâu đời và được bảo tồn, duy trì qua nhiều thế hệ. Về cơ bản,
phương pháp dạy học này lấy hoạt động của người thầy làm trung tâm. Thực hiện
lối dạy này, GV là người thuyết trình, diễn giảng, là “ kho tri thức” sống, HS là
người nghe, nhớ, ghi chép và suy nghĩ theo. Với phương pháp dạy học truyền
thống, GV là chủ thể, là tâm điểm, HS là khách thể, là quỹ đạo. Giáo án dạy theo
phương pháp này được thiết kế kiểu đường thẳng theo hướng từ trên xuống. Theo
Frire - nhà Xã hội học, nhà Giáo dục học người Braxin đã gọi phương pháp dạy học
này là “Hệ thống ban phát kiến thức”, là quá trình chuyển tải thông tin từ đầu thầy

sang đầu trò.
Dạy học tiếng Việt theo phương pháp truyền thống có ưu điểm và nhược
điểm sau:
Về ưu điểm: tốn ít thời gian, kiến thức đến với HS một cách chính xác, lôgic
và có hệ thống.
Về nhược điểm: HS không phát huy được vai trò chủ thể, nên tiếp nhận kiến
thức một cách thụ động; tri thức đến với HS thường bị khúc xạ qua GV (GV hiểu
đúng thì HS hiểu đúng và ngược lại); giờ dạy dễ đơn điệu, buồn tẻ, kiến thức thiên
về lí luận, ít chú ý đến kĩ năng thực hành của người học; do đó kĩ năng hành dụng
vào thực tế bị hạn chế.

18

Khoá luận tốt nghiệp


Phạm Thị Thanh Thêu – K33C Văn
Như vậy, dạy học tiếng Việt theo phương pháp truyền thống chỉ thích hợp
với quá khứ. Ngày nay, với sự phát triển như vũ bão của khoa học và công nghệ,
cách dạy này sẽ không còn phù hợp nữa. Để đáp ứng yêu cầu của thời đại, thúc đẩy
xã hội phát triển, cần phải thay phương pháp dạy học truyền thống bằng phương
pháp dạy học hiện đại.
1.2 Cơ sở thực tiễn
1.2.1 Dự giờ giáo viên
Trong dạy học, người GV có vai trò vô cùng quan trọng. GV chính là người
tổ chức, điều khiển, định hướng quá trình lĩnh hội tri thức, hình thành kĩ năng cho
HS. Để tìm hiểu việc tổ chức dạy học bài “Phong cách ngôn ngữ chính luận” phát
huy tính tích cực của HS trong nhà trường phổ thông hiện nay, chúng tôi đã quyết
định dự giờ dạy của một số GV. Qua dự giờ, chúng tôi nhận thấy rằng:
- Hầu hết GV bám sát theo trình tự trong SGK: đưa ra ví dụ để HS phân tích,

từ đó rút ra kiến thức của bài học. Tuy nhiên, một số GV vẫn còn sử dụng nhiều
phương pháp thụ động. Chính vì vậy, HS chưa phát huy hết khả năng chủ động,
sáng tạo của mình, từ đó dẫn đến chất lượng bài học không cao.
- Đã có một số GV sử dụng các phương pháp dạy học phát huy tính tích cực,
chủ động của HS. Tuy nhiên, việc sử dụng các phương pháp dạy học này chưa thật
sự có hiệu quả. Bởi một số GV chưa hiểu đúng cách làm, cách tiến hành, và chưa
linh hoạt sáng tạo trong sử dụng các phương pháp dạy học ở những hoàn cảnh và
tình huống phù hợp.
- Phần lớn GV vẫn quá máy móc, áp đặt theo SGK, SGV, không lấy thêm ví
dụ ở ngoài cho HS.
- Luyện tập thực hành cho HS là công việc rất quan trọng. Nhưng trong quá
trình dạy học, một số GV không mấy quan tâm đến công việc này và chỉ chú trọng
tới việc dạy lí thuyết.

19

Khoá luận tốt nghiệp


Phạm Thị Thanh Thêu – K33C Văn
Trên đây là những vấn đề còn tồn tại của một số GV trong quá trình dạy học
bài “Phong cách ngôn ngữ chính luận”. Để khắc phục những tồn tại đó, cần phải
đề ra được những phương hướng thực sự xác đáng.
1.2.2 Điều tra, khảo sát đối tượng học sinh
Trong quá trình dạy học, HS là chủ thể của hoạt động học, là người tiếp nhận
trực tiếp những tri thức trong bài học. Để nghiên cứu tốt hơn cách tổ chức dạy học
bài “Phong cách ngôn ngữ chính luận” theo hướng tích cực, chúng tôi tiến hành
điều tra, khảo sát đối tượng HS về thái độ và không khí học tập.
Đối tượng điều tra, khảo sát là HS lớp 11 trường THPT Ỷ La – Tuyên
Quang.

Chúng tôi tiến hành điều tra, khảo sát về thái độ, không khí học tập của HS
trong quá trình dự giờ của GV dạy bài “Phong cách ngôn ngữ chính luận”. Qua dự
giờ, chúng tôi nhận thấy:
- HS phần lớn đã tích cực làm việc dưới sự hướng dẫn của GV. Nhưng bên
cạnh đó vẫn còn một số em tỏ ra thiếu thiện chí trong giờ học.
- Hầu hết HS vào giờ không hào hứng, không sôi nổi, có thái độ chây lười, ỷ
lại các bạn trong lớp, tranh thủ thời gian nói chuyện, nhất là khi thảo luận theo
nhóm.
- Hầu hết HS còn học theo hình thức chống đối, và dường như còn trong tình
trạng bắt buộc với tinh thần không thoải mái. Đặc biệt, các em chưa nghiêm túc
trong giờ học, chưa biết vận dụng những kiến thức đã học vào thực tế đời sống.

20

Khoá luận tốt nghiệp


Phạm Thị Thanh Thêu – K33C Văn
CHƯƠNG 2: DẠY HỌC BÀI PHONG CÁCH NGÔN NGỮ CHÍNH LUẬN
TRONG SÁCH GIÁO KHOA NGỮ VĂN 11 THEO HƯỚNG TÍCH CỰC

2.1 Phong cách ngôn ngữ chính luận dưới góc độ nghiên cứu của ngôn ngữ học
2.1.1 Các phong cách chức năng ngôn ngữ
2.1.1.1 Khái niệm phong cách chức năng ngôn ngữ
Trong Phong cách học, phong cách chức năng ngôn ngữ là vấn đề luôn được
các nhà ngôn ngữ học quan tâm nghiên cứu. Vì nó chính là cơ sở quy định cho
việc lựa chọn và sử dụng ngôn ngữ đúng, hay, đạt hiệu quả giao tiếp.
Thực tế cho thấy, khái niệm về phong cách chức năng ngôn ngữ mà các nhà
nghiên cứu đưa ra vô cùng phong phú và phức tạp. Bởi mỗi nhà nghiên cứu lại có
quan niệm riêng và cách nhìn nhận khác nhau về phong cách chức năng ngôn ngữ.

Với đề tài “ Dạy học bài phong cách ngôn ngữ chính luận trong SGK Ngữ văn
11 theo hướng tích cực”, chúng tôi lựa chọn khái niệm của tác giả Cù Đình Tú.
Ông cho rằng: “ Phong cách chức năng là dạng tồn tại của ngôn ngữ dân tộc biểu
thị quy luật lựa chọn, sử dụng các phương tiện biểu hiện tùy thuộc vào tổng hợp
các nhân tố ngoài ngôn ngữ như hoàn cảnh giao tiếp, đề tài và mục đích giao tiếp,
đối tượng tham dự giao tiếp” [14,14].
Như vậy khái niệm trên đã chỉ rõ được đặc điểm nội dung phong cách chức
năng ngôn ngữ; đồng thời xác định rõ các nhân tố cấu thành của phong cách chức
năng ngôn ngữ và mối quan hệ giữa chúng.
2.1.1.2 Phân loại phong cách chức năng ngôn ngữ
Như đã nói, phong cách chức năng ngôn ngữ là vấn đề được nhiều nhà ngôn
ngữ học quan tâm nghiên cứu. Vì vậy mà cho đến nay đã có rất nhiều hướng phân
loại về vấn đề này. Dưới đây chúng tôi xin giới thiệu một số hướng phân chia như
sau:

21

Khoá luận tốt nghiệp


Phạm Thị Thanh Thêu – K33C Văn
Trong cuốn “ Giáo trình Việt Ngữ (tập III) Tu từ học” [285 – 289], tác giả
Đinh Trọng Lạc đã phân chia tiếng Việt ra hai phong cách lớn: phong cách khẩu
ngữ và phong cách văn học. Trong phong cách văn học lại được chia tiếp ra thành
năm phong cách nhỏ gồm: phong cách thư từ, phong cách ngôn ngữ hành chính,
phong cách ngôn ngữ chính luận, phong cách ngôn ngữ khoa học và phong cách
ngôn ngữ nghệ thuật.
Trong cuốn “ Phong cách học”, tác giả Đinh Trọng Lạc lại đưa ra hướng
phân chia mới. Hướng phân chia này đã chia phong cách chức năng tiếng Việt
thành sáu phong cách: phong cách ngôn ngữ hội thoại, phong cách ngôn ngữ hành

chính, phong cách ngôn ngữ khoa học, phong cách ngôn ngữ báo – công vụ, phong
cách ngôn ngữ chính luận và phong cách ngôn ngữ nghệ thuật.
Trong cuốn “ Tu từ học tiếng Việt hiện đại”, tác giả Cù Đình Tú đã phân loại
phong cách chức năng như sau: ngôn ngữ toàn dân được chia thành phong cách
ngôn ngữ nghệ thuật và ngôn ngữ trình bày. Ngôn ngữ nghệ thuật thực hiện chức
năng biểu hiện, còn phong cách ngôn ngữ trình bày thực hiện chức năng trình bày.
Trong phong cách ngôn ngữ trình bày lại được chia tiếp ra thành phong cách khẩu
ngữ tự do và phong cách ngôn ngữ gọt rũa. Cách phân chia này cho thấy tác giả có
khi dựa vào chức năng, có khi dựa vào phạm vi giao tiếp để phân loại.
Trên đây là một số cách phân loại phong cách chức năng ngôn ngữ. Ngoài ra
còn nhiều quan điểm phân chia khác nữa. Nhưng nhìn chung cách phân chia nào
cũng đã chỉ rõ được các chức năng và phạm vi sử dụng ngôn ngữ. Hiện nay, SGK
Ngữ văn THPT đã dựa vào những cách phân loại trên và phân chia phong cách
chức năng ngôn ngữ thành sáu loại phong cách: phong cách ngôn ngữ sinh hoạt,
phong cách ngôn ngữ nghệ thuật, phong cách ngôn ngữ báo chí, phong cách ngôn
ngữ chính luận, phong cách ngôn ngữ hành chính và phong cách ngôn ngữ khoa
học.
2.1.2 Phong cách ngôn ngữ chính luận
22

Khoá luận tốt nghiệp


Phạm Thị Thanh Thêu – K33C Văn
2.1.2.1 Khái niệm phong cách ngôn ngữ chính luận
Trong cuộc sống hàng ngày, con người luôn có nhu cầu phát biểu ý kiến, bày
tỏ lập trường, quan điểm của mình về các vấn đề chính trị, văn hóa, giáo dục... Từ
đó phong cách ngôn ngữ chính luận được hình thành và trở thành một trong những
phong cách chức năng ngôn ngữ cơ bản.
Tác giả Đinh Trọng Lạc đã đưa ra khái niệm về phong cách chính luận như

sau: “ Phong cách chính luận là khuôn mẫu thích hợp để xây dựng lớp văn bản
trong đó thể hiện vai của người tham gia giao tiếp trong lĩnh vực chính trị - xã hội.
Nói cụ thể hơn, đó là vai của nhà lãnh đạo, nhà hoạt động chính trị xã hội, đảng
viên, đoàn viên, hội viên…tất cả những ai tham gia các hoạt động động viên, tuyên
truyền, giáo dục về các mặt chính trị - xã hội” [10,111].
2.1.2.2 Các dạng thức cơ bản của ngôn ngữ chính luận
Phong cách chính luận dựa chủ yếu trên kiểu ngôn ngữ viết – phi nghệ thuật,
nhưng có thể bao gồm rộng rãi những cấu trúc của các kiểu viết và miệng – nghệ
thuật của lời nói.
Ngôn ngữ được sử dụng trong phong cách chính luận tồn tại ở cả 2 dạng :
dạng nói và dạng viết.
Ở dạng nói, có thể kể đến một số loại như: diễn thuyết, phát biểu trong mít
tinh, phát biểu trong đón tiếp ngoại giao, báo cáo trong các hội nghị…
Ở dạng viết, có thể kể đến một số loại như: tuyên ngôn, lời kêu gọi, các báo
cáo chính trị, các bài xã luận, bình luận trên báo chí…
2.1.2.3 Các đặc trưng cơ bản của phong cách ngôn ngữ chính luận
Phong cách ngôn ngữ chính luận muốn thực hiện được chức năng thông báo
– chứng minh – tác động trong việc tuyên truyền, giáo dục, cổ động thì phải hướng
tới ba đặc trưng cơ bản sau: tính bình giá công khai, tính lập luận chặt chẽ, tính
tuyền cảm mạnh mẽ.
2.1.2.3.1 Tính bình giá công khai
23

Khoá luận tốt nghiệp


Phạm Thị Thanh Thêu – K33C Văn
Tính bình giá công khai trong phong cách ngôn ngữ chính luận thể hiện ở
chỗ biểu thị một cách rõ ràng, trực tiếp thái độ của tác giả đối với sự kiện.
Ví dụ: Văn bản “ Tuyên ngôn độc lập” của Hồ Chí Minh thể hiện rõ tính

bình giá công khai của người viết. Ở văn bản này, Bác đã trích dẫn lời văn bản
Tuyên ngôn độc lập của nước Mĩ và bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền
của Cách mạng Pháp để nói lên rằng có ba bản tuyên ngôn với ba nền độc lập, với
ba dân tộc ngang hàng nhau.
Trong bản Tuyên ngôn của nước Mĩ “ Tất cả các dân tộc trên thế giới…
quyền tự do”, Bác đã khẳng định quyền tự do, bình đẳng của nhân dân từ khi sinh
ra và không ai có quyền hành gì đối với nhân dân. Còn trong bản Tuyên ngôn Nhân
quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp “ Người ta sinh ra…quyền lợi”, Bác
khẳng định bất cứ một ai kể từ khi sinh ra đều được tự do, được công bằng và được
hưởng tất cả quyền lợi của một con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra ba bản
Tuyên ngôn ấy làm dẫn chứng và khẳng định “Đó là những lẽ phải không ai chối
cãi được”. Từ ngữ và lối diễn đạt của Bác trong đoạn văn trên rất giản dị, dễ hiểu,
gần với lối nói của quần chúng nhân dân.
Tính bình giá công khai là nét khu biệt của phong cách ngôn ngữ chính luận
so với lời nói nghệ thuật. Văn bản nghệ thuật cũng bao hàm thái độ bình giá nhưng
là bình giá ngầm, gián tiếp, thông qua hệ thống hình tượng.
2.1.2.3.2 Tính lập luận chặt chẽ
Đây là đặc trưng nổi bật của phong cách ngôn ngữ chính luận. Tính lập luận
chặt chẽ được thể hiện ở chỗ người nói (viết) phải đưa ra được những lí lẽ, dẫn
chứng hay những căn cứ vững chắc để thuyết phục người đọc (nghe). Nghĩa là phải
dựa trên cơ sở của những luận điểm, luận cứ khoa học. Đặc điểm này của phong
cách ngôn ngữ chính luận rất gần với phong cách ngôn ngữ khoa học.
Ví dụ: “Dao có mài mới sắc, nước có lọc mới sạch, người có tự phê bình mới
tiến bộ được”. (Tự phê bình – Hồ Chí Minh)
24

Khoá luận tốt nghiệp


Phạm Thị Thanh Thêu – K33C Văn

Ở VD trên, Hồ Chí Minh đã đưa ra cách lập luận hết sức chặt chẽ, thuyết
phục được người đọc, người nghe (đi từ cái cụ thể, dễ hiểu đến cái trừu tượng). Để
làm nổi bật tác dụng và ý nghĩa của “tự phê bình”, tác giả đã đưa ra hai luận cứ rất
xác thực, gần gũi với quần chúng nhân dân. Luận cứ thứ nhất: “dao có mài mới
sắc”. Luận cứ thứ hai “nước có lọc mới sạch”. Và từ hai luận cứ ấy, tác giả mới đi
đến kết luận: “người có tự phê bình mới tiến bộ được”.
2.1.2.3.2 Tính truyền cảm mạnh mẽ
Tính truyền cảm mạnh mẽ trong “Phong cách ngôn ngữ chính luận” thể
hiện ở sự diễn đạt hùng hồn, sinh động, có sức hấp dẫn và đạt hiệu quả cao, thuyết
phục người đọc (nghe) bằng cả lí trí, tình cảm, đạo đức.
Ví dụ: Văn bản “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” của Hồ Chí Minh
mang tính truyền cảm mạnh mẽ. Mở đầu lời kêu gọi, Bác đã phân tích tình thế bắt
buộc chúng ta phải chiến đấu: “chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng
lấn tới…”. Rồi Bác kêu gọi, hô hào mọi người chiến đấu bằng bất cứ vũ khí nào có
trong tay “Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng
cuốc, thuổng, gậy gộc”. Để kêu gọi quần chúng nhân dân đứng lên đấu tranh giành
tự do cho dân tộc, Người đã sử dụng hàng loạt kiểu câu hô hào, kêu gọi, khẳng
định, cầu khiến: “Hỡi đồng bào toàn quốc!”, “Chúng ta phải đứng lên”, “Kháng
chiến nhất định thắng lợi”…Tất cả những điều đó có tác động to lớn tới nhận thức,
tình cảm của người đọc (nghe), tạo được sự hấp dẫn, thuyết phục và làm lay động
hàng triệu trái tim người Việt Nam lúc bấy giờ. Từ đó mọi người tin tưởng và làm
theo.
Trên đây là ba đặc trưng cơ bản của phong cách ngôn ngữ chính luận. Ba đặc
trưng nêu trên của phong cách ngôn ngữ chính luận được biểu hiện rõ rệt trong
những đặc điểm ngôn ngữ của phong cách này. Và tất nhiên sự biểu hiện này có
những mức độ khác nhau trong những kiểu và thể loại văn bản khác nhau của
phong cách ngôn ngữ chính luận.
25

Khoá luận tốt nghiệp



×