Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Đọc hiểu tuỳ bút người lái đò sông đà nguyễn tuân và bút kí ai đã đặt tên cho dòng sông hoàng phủ ngọc tường theo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (670.14 KB, 85 trang )

Kho¸ luËn tèt nghiÖp

Tr­êng §HSP Hµ Néi 2

ĐỌC HIỂU TÙY BÚT “NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ” –
NGUYỄN TUÂN VÀ BÚT KÍ “AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG
SÔNG” – HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG THEO ĐĂC TRƯNG
THỂ LOẠI

SVTH: Trần Thị Oanh

1

Líp: – K33B. Ngữ Văn


Kho¸ luËn tèt nghiÖp

Tr­êng §HSP Hµ Néi 2

LỜI CẢM ƠN

Nghiên cứu khoa học vừa là niềm say mê, vừa là nhiệm vụ của người
sinh viên đang ngồi trên ghế nhà trường. Đặc biệt với sinh viên cuối khóa thì
đây là một cơ hội tốt để vận dụng những kiến thức và kĩ năng đã lĩnh hội
trong quá trình học tập và thực tế nghiên cứu, nhằm mở rộng kiến thức của
bản thân.
Nhận thấy tầm quan trọng đó, người viết đã tiến hành nghiên cứu với
đề tài: Đọc – hiểu tùy bút “Người lái đò sông Đà” – Nguyễn Tuân và bút kí
“Ai đã đặt tên cho dòng sông” – Hoàng Phủ Ngọc Tường theo đặc trưng
thể loại. Để hoàn thành khóa luận này, người thực hiện đã nhận được sự giúp


đỡ nhiệt tình của các thầy cô giáo trong tổ bộ môn phương pháp cũng như các
thầy cô trong khoa Ngữ văn. Đặc biệt là sự dẫn dắt, chỉ bảo tận tình của thầy
giáo: Th.S – GVC. Vũ Ngọc Doanh - giáo viên hướng dẫn. Tôi xin được bày
tỏ lòng biết ơn chân thành đối với các thầy cô - những người đã tạo điều kiện
tốt nhất để tôi hoàn thành khóa luận này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 08 tháng 05 năm 2011
Người thực hiện

Trần Thị Oanh

SVTH: Trần Thị Oanh

2

Líp: – K33B. Ngữ Văn


Kho¸ luËn tèt nghiÖp

Tr­êng §HSP Hµ Néi 2

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan khóa luận này là kết quả nghiên cứu của bản thân tôi,
không trùng với tác giả khác. Những kết quả thu được là hoàn toàn chân thực
và chưa có trong một đề tài nào.

Hà Nội, ngày 08 tháng 05 năm 2011
Sinh viên


Trần Thị Oanh

SVTH: Trần Thị Oanh

3

Líp: – K33B. Ngữ Văn


Kho¸ luËn tèt nghiÖp

Tr­êng §HSP Hµ Néi 2

DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU VIẾT TẮT

Học sinh: HS
Giáo viên: GV
Phổ thông trung học: PTTH
Sách giáo khoa: SGK
Nhà xuất bản: Nxb

SVTH: Trần Thị Oanh

4

Líp: – K33B. Ngữ Văn


Kho¸ luËn tèt nghiÖp


Tr­êng §HSP Hµ Néi 2

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài......................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................... 2
3. Mục đích ngiên cứu .................................................................................... 2
4. Nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................. 3
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.............................................................. 3
6. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................... 3
7. Cấu trúc của khóa luận .............................................................................. 3
NỘI DUNG
Chương 1: Những vấn đề chung................................................................... 4
1.1. Cơ sở lí luận ............................................................................................ 4
1.1.1. Vấn đề tiếp nhận văn học...................................................................... 4
1.1.1.1. Khái niệm ......................................................................................... 4
1.1.1.2. Cơ sở tiếp nhận.................................................................................. 5
1.1.2. Loại thể và vấn đề tiếp nhận ................................................................ 7
1.1.2.1. Khái niệm loại thể ............................................................................. 7
1.1.2.2. Tiếp nhận văn học theo loại thể ........................................................ 7
1.2. Cơ sở thực tiễn ....................................................................................... 8
1.2.1. Dạy học tác phẩm trong nhà trường PTTH ........................................... 8
1.2.2. Những hạn chế và hướng khắc phục trong việc tổ chức học sinh tiếp
nhận văn bản kí trong nhà trường PTTH ........................................................ 9

SVTH: Trần Thị Oanh

5


Líp: – K33B. Ngữ Văn


Kho¸ luËn tèt nghiÖp

Tr­êng §HSP Hµ Néi 2

Chương 2: Đọc – hiểu tùy bút “Người lái đò sông Đà” – Nguyễn Tuân và
bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông” – Hoàng Phủ Ngọc Tường theo đặc
trưng thể loại ............................................................................................... 10
2.1. Vài nét sơ lược về loại hình kí văn học.................................................. 10
2.1.1. Sự hình thành loại hình kí .................................................................. 10
2.1.2. Khái niệm chung về thể kí văn học .................................................... 11
2.1.3. Phân loại kí......................................................................................... 13
2.2. Đặc trưng thể loại kí .............................................................................. 18
2.2.1. Tôn trọng sự thật khách quan và tính xác thực của đời sống ............... 18
2.2.2. Nhân vật trần thuật trong kí thường là chính tác giả ........................... 21
2.2.3. Đặc điểm về văn phong, ngôn từ nghệ thuật kí ................................... 23
2.3. Đọc – hiểu tùy bút “Người lái đò sông Đà” (trích) – Nguyễn Tuân và bút
kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông” (trích) – Hoàng Phủ Ngọc Tường
..................................................................................................................... 26
2.3.1. Hướng dẫn học sinh tìm hiểu hiện thực được phản ánh trong tác
phẩm ........................................................................................................... 26
2.3.2. Hướng dẫn học sinh tìm hiểu hình tượng tác giả trong tác phẩm ........ 31
2.3.3. Hướng dẫn học sinh phát hiện những đặc điểm nghệ thuật độc đáo của
tác phẩm và phong cách nghệ thuật của tác giả ............................................ 35
Chương 3: Giáo án thực nghiệm ............................................................... 42
3.3.1. “Người lái đò sông Đà” (trích) – Nguyễn Tuân .................................. 42
3.3.2. “Ai đã đặt tên cho dòng sông” (trích) – Hoàng Phủ Ngọc Tường ....... 59

KẾT LUẬN.................................................................................................. 76
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................... 78

SVTH: Trần Thị Oanh

6

Líp: – K33B. Ngữ Văn


Kho¸ luËn tèt nghiÖp

Tr­êng §HSP Hµ Néi 2

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Ngữ văn là một trong những bộ môn cơ bản của chương trình giáo dục
trong nhà trường PTTH. Những tác phẩm văn học trong nhà trường phổ thông
chứa đựng những giá trị nội dung và nghệ thuật sâu sắc. Nó không chỉ cung
cấp tri thức, hiểu biết về cuộc sống mà còn có tác dụng giáo dục nhân cách,
đạo đức, thẩm mĩ cho học sinh. Bởi vậy, vai trò, nhiệm vụ của người giáo
viên là vô cùng quan trọng.
Chương trình Ngữ văn mới hiện nay được biên soạn theo hệ thống
nguyên tắc chặt chẽ trong đó có nguyên tắc thể loại. Các văn bản được lựa
chọn sắp xếp theo cụm thể loại. Trong mỗi thể loại, các văn bản vẫn được sắp
xếp theo tiến trình lịch sử . Vì thế cần dạy một cách thật kĩ lưỡng để học sinh
thấy được vẻ đẹp cụ thể của văn bản ấy, nhưng mặt khác giúp học sinh biết
cách đọc, cách phân tích một bài ca dao, một bài thơ, một truyện ngắn, hay
một bài kí văn học, … Vì vậy, vấn đề thể loại trong thực tế giảng dạy ở

trường phổ thông đặt ra không những như một vấn đề tri thức mà còn là một
vấn đề phương pháp.
Thể kí đóng góp vào nền văn học dân tộc nhiều tên tuổi nhà văn lớn với
những tác phẩm có giá trị. Kí hiện đại nổi bật với hai nhà văn lớn là Nguyễn
Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường. Hai văn bản kí “Người lái đò sông Đà” –
Nguyễn Tuân và “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” – Hoàng Phủ Ngọc Tường
là những văn bản kí rất có giá trị, được lựa chọn đưa vào chương trình Ngữ
văn 12. Hai nhà văn với hai tác phẩm của mình đã thể hiện những sáng tạo
mới mẻ, đóng góp quan trọng cho quá trình đổi mới loại thể này. Với đề tài
Đọc – hiểu tùy bút “Người lái đò sông Đà” – Nguyễn Tuân và bút kí “Ai đã
đặt tên cho dòng sông?” – Hoàng Phủ Ngọc Tường theo đặc trưng thể loại,
SVTH: Trần Thị Oanh

7

Líp: – K33B. Ngữ Văn


Kho¸ luËn tèt nghiÖp

Tr­êng §HSP Hµ Néi 2

chúng tôi muốn góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy học thể loại kí
ở nhà trường phổ thông, mà cụ thể là hai văn bản kí như đã nêu.
2. Lịch sử vấn đề
Người đầu tiên đề cập cụ thể tới đặc trưng và việc giảng dạy văn bản kí
trong nhà trường phổ thông là tác giả Trần Thanh Đạm trong công trình
nghiên cứu “Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo thể loại”. Tiếp đó là
tác giả Trần Đình Chung trong “Dạy các văn bản theo đặc trưng thể loại”.
Nhóm tác giả viết giáo trình “Lí luận văn học” của trường Đại học Sư phạm

do Gs. Phương Lựu (chủ biên), nhóm viết giáo trình “Lí luận văn học” của
trường Đại học Sư phạm do Gs. Hà Minh Đức (chủ biên).
Về tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường và đặc biệt là bút kí “Ai đã đặt tên
cho dòng sông?” có một số bài viết, bài báo, bài nghiên cứu, tạp chí như : bài
viết “Ai đã đặt tên cho dòng sông?, bút kí sử thi của Hoàng Phủ Ngọc
Tường” của Gs.Trần Đình Sử trong cuốn “Lí luận và phê bình văn học”, bài
viết của Phạm Xuân Nguyên và Hoàng Cát trong cuốn “Hoàng Phủ Ngọc
Tường tuyển tập”, bài viết “Hình tượng sông Hương trong bút kí “Ai đã dặt
tên cho dòng sông ?” của Hoàng Phủ Ngọc Tường” của Th.s Bùi Minh Đức
(tạp chí Dạy và học ngày nay (tháng 2, 2007)), …
Về Nguyễn Tuân và tùy bút “sông Đà” có: “Nguyễn Tuân và sông
Đà” của Nam Mộc ; “Cảm tưởng đọc “Sông Đà”” của Trương Chính.
Những bài viết trên đều tập trung thể hiện sự thay đổi nhân sinh quan, thế giới
quan của nhà văn Nguyễn Tuân sau Cách mạng.
3. Mục đích nghiên cứu.
Thực hiện đề tài này, người nghiên cứu muốn góp phần nâng cao chất
lượng và hiệu quả dạy học thể loại kí ở nhà trường phổ thông, trong đó có tùy
bút “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân và bút kí trữ tình của Hoàng
Phủ Ngọc Tường – “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”.

SVTH: Trần Thị Oanh

8

Líp: – K33B. Ngữ Văn


Kho¸ luËn tèt nghiÖp

Tr­êng §HSP Hµ Néi 2


4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tìm hiểu cơ sở lí luận và thực tiễn dạy đọc – hiểu văn bản Ngữ văn nói
chung, văn bản kí nói riêng.
Từ việc xác định đặc trưng thể loại, kiểu văn bản và nhiệm vụ dạy học
Văn theo hướng đổi mới để hướng dẫn học sinh đọc hiểu văn bản kí ở bậc
PTTH.
5.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động dạy đọc hiểu văn bản kí ở bậc PTTH
và thực nghiệm thiết kế bài soạn.
Phạm vi nghiên cứu: Văn bản kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” –
Hoàng Phủ Ngọc Tường và “Người lái đò sông Đà” – Nguyễn Tuân.
6. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp khảo sát.
Phương pháp so sánh.
Phương pháp thực nghiệm.
7. Cấu trúc của khóa luận
Gồm 3 phần:
Phần mở đầu
Phần nội dung
Phần kết luận

SVTH: Trần Thị Oanh

9

Líp: – K33B. Ngữ Văn


Kho¸ luËn tèt nghiÖp


Tr­êng §HSP Hµ Néi 2

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Vấn đề tiếp nhận văn học
1.1.1.1. Khái niệm
Có rất nhiều quan niệm khác nhau về vấn đề tiếp nhận văn học. Bởi lẽ,
tiếp nhận văn học là một vấn đề rộng, chứa trong nó nhiều khía cạnh khác
nhau. Theo Từ điển tiếng Việt – Hoàng Phê (chủ biên), “tiếp nhận” là đón
nhận cái từ người khác, nơi khác chuyển giao cho.
“Tiếp nhận văn học”, theo Từ điển thuật ngữ văn học là “hoạt động
chiếm lĩnh các giá trị tư tưởng, thẩm mĩ của tác phẩm văn học, bắt đầu từ sự
cảm thụ ngôn từ, hình tượng nghệ thuật, tư tưởng, quan niệm nghệ thuật, tài
nghệ của tác giả cho đến sản phẩm sau khi đọc, cách hiểu, ấn tượng trong trí
nhớ, ảnh hưởng trong hoạt động sáng tạo, bản dịch, chuyển thể”.
Tiếp nhận văn học chính là cuộc trao đổi ngầm giữa bạn đọc – tác giả
văn học. Thực chất của tiếp nhận văn học là hoạt động nhận thức của bạn đọc
nhằm lĩnh hội tri thức vốn tồn tại khách quan với chủ thể tiếp nhận. Những tri
thức ấy sẽ làm phong phú đời sống tư tưởng, làm nảy sinh những tình cảm
thẩm mĩ nơi bạn đọc. Trong “Đọc và tiếp nhận văn chương”, Nguyễn Thanh
Hùng khẳng định: “Tiếp nhận tác phẩm văn học là quá trình đem lại cho
người đọc sự hưởng thụ và hứng thú trí tuệ hướng vào hoạt động để củng cố
và phát triển một cách phong phú những khả năng thuộc thế giới tinh thần và
năng lực cảm xúc của con người trước đời sống”. Đi từ nhận thức đến tình
cảm, cao hơn sẽ có những hành động tương ứng ở mỗi cá nhân. Tất cả ảnh
hưởng trực tiếp đến việc hình thành và phát triển nhân cách mỗi người. Với
dạy học Ngữ văn trong nhà trường PTTH cũng vậy, mục đích cuối cùng là

SVTH: Trần Thị Oanh

10

Líp: – K33B. Ngữ Văn


Kho¸ luËn tèt nghiÖp

Tr­êng §HSP Hµ Néi 2

góp phần hoàn thiện nhân cách cho học sinh trên cơ sở các em hiểu và cảm
thụ sâu sắc các tác phẩm văn chương.
Tiếp nhận văn học trong nhà trường phổ thông trong mối quan hệ với
tiếp nhận văn học trong đời sống mang đặc thù riêng: nếu trong đời sống, tiếp
nhận văn học thường do sự tự phát, bị chi phối bởi thị hiếu thẩm mĩ, mục đích
tiếp nhận của cá nhân là không giống nhau…, thì tiếp nhận văn học trong nhà
trường phổ thông là hoạt động mang tính tự giác cao và có mục đích rõ ràng.
1.1.1.2. Cơ sở tiếp nhận
* Con đường nhà văn làm ra tác phẩm.
Sáng tác văn học nghệ thuật thuộc lĩnh vực sản xuất tinh thần, theo
phương thức “cá thể” được diễn ra muôn màu muôn vẻ. Tố Hữu nói “mỗi
người có cách làm của mình, cách sáng tạo của mình, không bắt chước của ai
được”. Song, trong sự đa dạng này, ta vẫn bắt gặp những nét chung cơ bản.
Yếu tố đầu tiên bắt nguồn cho sự ra đời của tác phẩm là chứng sáng
tạo, cảm hứng phải mãnh liệt. Bởi viết văn là gan ruột, tâm huyết, không thể
cho ra những sản phẩm của một tâm hồn bình lặng, vô vị, miễn cưỡng.
Khát vọng chủ quan của người nghệ sĩ, nung nấu ý định viết ra một tác
phẩm khi bắt gặp cảm hứng sẽ hình thành ý đồ sáng tạo. Nó chỉ một ý định và
động cơ cụ thể có tác dụng xác định phương hướng chung cho một quá trình

sáng tác cụ thể . Ý đồ sáng tạo mang tính khả biến.
Ý đồ vốn đã phải dựa trên cơ sở ít nhiều tư liệu nhất định. Khi ý đồ đã
hình thành thì tư liệu được tổ chức lại và có sự bổ sung. Đây chính là lúc nhà
văn thu thập tài liệu, hệ thống hóa và lập sơ đồ. Sơ đồ là bản phác thảo của
nhà văn trước khi viết.
Sau khi mọi sự chuẩn bị chu tất, nhà văn bắt đầu viết. Đây là công việc
khó khăn, phức tạp, một quá trình lao động căng thẳng với đầy đủ trạng thái
cung bậc cảm xúc cùng băn khoăn, suy tính “trong hàng tấn quặng chữ mới
có một chữ vàng”.

SVTH: Trần Thị Oanh

11

Líp: – K33B. Ngữ Văn


Kho¸ luËn tèt nghiÖp

Tr­êng §HSP Hµ Néi 2

Chặng đường cuối – sửa chữa. Nó giúp nhà văn nhìn lại đứa con tinh
thần một cách bao quát, xem xét lại các yếu tố để bổ sung hoặc loại bỏ các chi
tiết thừa. Tác phẩm được hoàn thiện.
* Con đường bạn đọc chiếm lĩnh tác phẩm.
Nói đến tác phẩm văn chương là nói đến một văn bản trong chỉnh thể.
Tác phẩm văn chương được cấu tạo bằng ngôn ngữ nghệ thuật nhằm xây
dựng nên một thế giới nghệ thuật riêng được kết cấu một cách chặt chẽ trong
những quan hệ: giữa nội dung và hình thức, giữa bộ phận và tổng thể, giữa
yếu tố hữu hình và vô hình, giữa văn bản và tiền văn bản…

Có nhiều con đường để tiếp nhận tác phẩm văn học. Đặc biệt trong thời
đại ngày nay, người ta có thể chiếm lĩnh tác phẩm văn học bằng cách xem các
bộ phim được chuyển thể từ các tác phẩm văn học¸ hoặc có thể nghe người
khác đọc lại tác phẩm hay trực tiếp đọc tác phẩm. Song, những cách tiếp cận
khác có nhiều hạn chế, chỉ có con đường đọc – hiểu mới đúng với bản chất
của văn học – loại hình nghệ thuật ngôn từ. Thông tin nghệ thuật trong tác
phẩm văn học được thể hiện ở hệ thống ngôn từ tạo thành cấu trúc văn bản tác
phẩm. Trong văn bản văn học bao giờ cũng có những khoảng trống buộc
người đọc phải liên tưởng, tưởng tượng tạo cơ sở hình thành tác phẩm của
riêng mình.
Đọc – hiểu là con đường đặc trưng để bạn đọc chiếm lĩnh giá trị thẩm
mĩ, sự muôn màu muôn vẻ của đời sống xã hội mà tác phẩm mang tải. Điều
này chi phối đến dạy học Ngữ văn trong nhà trường phổ thông. Trong dạy
học, giáo viên phải giúp học sinh đọc văn, từ đó hình thành năng lực đọc, dần
dần nâng cao thành văn hóa đọc cho học sinh. Và, tổ chức cho học sinh đọc
văn đồng nghĩa với việc giáo viên tổ chức cho các em tìm hiểu thế giới nghệ
thuật, nhận thức về đời sống tạo sự đồng điệu, đồng sáng tạo giữa tác giả và
bạn đọc. Đây cũng chính là cơ sở để người nghệ sĩ tìm được những tri âm, tri
kỉ giữa đông đảo độc giả yêu mến tác phẩm văn chương của mình.

SVTH: Trần Thị Oanh

12

Líp: – K33B. Ngữ Văn


Kho¸ luËn tèt nghiÖp

Tr­êng §HSP Hµ Néi 2


1.1.2. Loại thể và vấn đề tiếp nhận
1.1.2.1. Khái niệm loại thể
Loại thể (thể loại): Là một khái niệm kép bao gồm hai khái niệm có
quan hệ bao chứa.
Loại (loại hình): là phương thức người nghệ sĩ sử dụng để nhận thức,
khám phá đời sống khách quan, tái hiện đời sống và sáng tạo hình tượng nghệ
thuật, thông qua hình tượng nghệ thuật để biểu hiện tư tưởng, tình cảm.
Thể (thể tài): Là hình thức tổ chức ngôn ngữ của tác phẩm.
Trong đời sống văn học, loại thể được dùng như một khái niệm kép.
Trong nghiên cứu, chúng được phân tách rạch ròi. Mỗi một loại bao gồm
nhiều thể. Số lượng thể nhiều hơn loại, sự biến động và thay đổi cũng lớn
hơn.
1.1.2.2. Tiếp nhận văn học theo loại thể
Nếu vấn đề thể loại văn học phụ thuộc phạm trù lí luận văn học thì hoạt
động tiếp nhận là cơ sở lí thuyết của phương pháp dạy học, thuộc về khoa học
giáo dục. Nói chung giữa chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau. Bất kì
một tác phẩm nào cũng chuyển tải một nội dung nào đó và được tổ chức trong
một hình thức đặc thù nhất định. Nội dung và hình thức ấy qui định cách thức
chiếm lĩnh của bạn đọc.
Chương trình sách giáo khoa Ngữ văn PTTH được xây dựng hướng tới
mục tiêu người học Ngữ văn phải có năng lực học văn và làm văn. Đặc điểm
này yêu cầu trong dạy học, giáo viên phải bám sát đặc trưng loại thể, giúp học
sinh vận dụng tri thức từ một bài học cụ thể trở thành phương tiện để các em
có thể khai thác và lĩnh hội các tác phẩm khác thuộc cùng thể loại. Khi đó
giáo viên đã dạy cho các em cách thức để chiếm lĩnh tri thức chứ không đơn
thuần là dạy tri thức cho các em.

SVTH: Trần Thị Oanh


13

Líp: – K33B. Ngữ Văn


Kho¸ luËn tèt nghiÖp

Tr­êng §HSP Hµ Néi 2

1.2 Cơ sở thực tiễn
1.2.1 Dạy học tác phẩm trong nhà trường PTTH
Nhận xét về thực trạng dạy học Ngữ Văn trong nhà trường phổ thông
trung học, Phúc Nguyên trong báo văn nghệ - số 36 (ra ngày 09 / 09 / 2006) có
viết: “Theo một lối mòn quá cũ, giáo viên chỉ làm nhiệm vụ” rót kiến thức vào
bình chứa học sinh mà không cần biết các em có tiêu hóa được kiến thức đó
không. Học sinh thì tiếp thu kiến thức một cách thụ động để rồi trả bài cho thầy
một cách nguyên si như thế và làm theo những ý tưởng của thầy, theo những bài
mẫu khuôn sáo. Cách dạy học kiểu này đã thủ tiêu vai trò chủ động sáng tạo của
học sinh trong học văn, không khơi dạy được tiềm năng văn học nơi các em.
Thực trạng ấy có căn nguyên một phần từ chỗ lâu nay giáo viên quen
giảng dạy các tác phẩm theo chủ đề, không bám sát vào đặc trưng loại thể. Tệ
hại hơn, một bộ phận không nhỏ giáo viên còn mơ hồ về đặc trưng của từng
loại thể nói chung và của thể kí nói riêng dẫn đến hệ quả giáo viên coi nhẹ giá
trị thẩm mĩ của tác phẩm, yêu cầu và rèn luyện kĩ năng cho học sinh chưa
được quan tâm đúng mực. Thực trạng ấy trái chiều với mục tiêu “dạy học văn
không chỉ nhằm đạt đến những rung động thẩm mĩ mà còn là quá trình phát
triển về trí tuệ, về kiến thức, về kĩ năng được qui định” (Phan Trọng Luận).
Khắc phục thực trạng trên, hiện nay trong giáo dục đã thực hiện đổi
mới phương pháp dạy học. Với việc dạy các tác phẩm văn chương, một yêu
cầu cơ bản đặt ra là phải bám sát đặc trưng thể loại, từ đó tạo điều kiện cho

học sinh phát huy tài năng và sự sáng tạo.
1.2.2. Những hạn chế và hướng khắc phục trong việc tổ chức học sinh tiếp
nhận văn bản kí trong nhà trường PTTH
Văn học là phương thức phản ánh đời sống, song mỗi thể loại lại mang
những đặc điểm riêng không thể trộn lẫn. Chẳng hạn với thơ đặc trưng hàng đầu
là cảm xúc; với kịch là các mâu thuẫn, xung đột; thì ở kí là tính xác thực. Nếu

SVTH: Trần Thị Oanh

14

Líp: – K33B. Ngữ Văn


Kho¸ luËn tèt nghiÖp

Tr­êng §HSP Hµ Néi 2

giáo viên không nắm vững những đặc trưng ấy thì sẽ dẫn tới đồng nhất trong
cách giảng dạy các tác phẩm dù bản thân chúng thuộc những loại thể khác
nhau.
Một tồn tại khác nữa là hiện nay, trong khi yêu cầu cơ bản đầu tiên khi các
em tiếp nhận văn bản văn học là phải đọc văn bản thì học sinh lại đọc văn bản
không nghiêm túc. Hệ lụy tất yếu là khi đi vào tìm hiểu văn bản kí các em không
nắm được các chi tiết, hiện thực, những hình tượng được phản ánh trong tác
phẩm. Do đó việc tiếp nhận văn bản kí với các em càng trở nên khó khăn hơn.
Nhằm khắc phục những tồn tại trên, chúng tôi xin đưa ra một số giải
pháp để nâng cao hiệu quả học Ngữ văn của học sinh PTTH.
Trước hết về phía giáo viên: bên cạnh yêu cầu về kĩ năng, nghiệp vụ sư
phạm, về mặt kiến thức, giáo viên phải nắm vững đặc trưng từng loại thể, từ đó

dạy học tác phẩm văn chương phải bám sát các đặc trưng này để có được sự
định hướng sát hợp và thực tế.
Về phía học sinh: là chủ thể của hoạt động học tập, các em phải phát huy
vai trò chủ động tích cực của mình, phải có thái độ tiếp nhận nghiêm túc được
thể hiện trước tiên ở việc đọc và nắm vững tác phẩm. Từ những tri thức về đặc
trưng loại thể nói chung và đặc trưng của thể kí nói riêng các em có thể áp
dụng vào việc tìm hiểu các tác phẩm cụ thể. Có như vậy việc đọc - hiểu tác
phẩm Ngữ văn nói chung, tác phẩm kí nói riêng của các em mới có hiệu quả.
Như vậy, có thể thấy, giải pháp hữu hiệu để khắc phục những hạn chế đó
chính là sự kết hợp chặt chẽ giữa giáo viên và học sinh. Trong đó, học sinh
đóng vai trò là trung tâm, chủ động trong mọi hoạt động còn giáo viên chỉ là
người tổ chức, định hướng, hướng dẫn học sinh. Có như vậy, giờ học Ngữ văn
nói chung cũng như học tác phẩm kí nói riêng mới đạt kết quả tốt. Và đọc –
hiểu văn bản kí theo đặc trưng thể loại là một phương pháp sẽ giúp học sinh
cũng như giáo viên đạt được mục tiêu bài học một cách tốt hơn, điều đó sẽ
được lí giải rõ ở chương 2.

SVTH: Trần Thị Oanh

15

Líp: – K33B. Ngữ Văn


Kho¸ luËn tèt nghiÖp

Tr­êng §HSP Hµ Néi 2

CHƯƠNG 2
ĐỌC HIỂU TÙY BÚT “NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ” –

NGUYỄN TUÂN VÀ BÚT KÍ “AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG
SÔNG?” – HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG THEO
ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI
2.1. Vài nét sơ lược về loại hình kí văn học
2.1.1. Sự hình thành loại hình kí
Trong văn xuôi, bên cạnh tiểu thuyết thì kí là thể loại văn học có tầm
quan trọng đặc biệt. Đây là thể loại cơ động, nhạy bén trong việc phản ánh
hiện thực, đáp ứng những nhu cầu bức thiết của thời đại song vẫn giữ được
tiếng vang sâu sắc của nghệ thuật.
Kí vốn là tên gọi của một thể văn đã xuất hiện từ trước đời Hán ở
Trung Quốc. Đời Đường có nhiều tác phẩm kí dùng để ghi việc xen lẫn với
lời bình. Kí ngày càng phát triển và được ý thức về đặc điểm thể loại. Theo
học giả Ngô Nạp đời Minh “thể kí nói chung nhằm ghi nhớ không quên… sau
khi kể việc, bàn qua để kết lại, đó là chỉnh thể” [11, tr.241].
Riêng ở Việt Nam tình hình cũng tương tự như vậy. Dù chủ yếu mang
hình thức kí đời Đường, Tống ví dụ như các tác phẩm kí của thời Lý, Trần,
đầu đời Nguyễn… hay đã có sự phá cách, sáng tạo như các loại tạp kí ở thế kỉ
XVIII đến XIX, các tác phẩm kí, kí sự, lục, chí, tùy bút,… thời trung đại Việt
Nam đều thuộc loại ghi chép, nặng tính chất lịch sử về nhân vật, sông núi, đền
chùa, chuyện lạ,… tính chất văn học đậm đà hơn của thế kỷ thể hiện ở các tác
phẩm như: “Vũ trung tùy bút” của Phạm Đình Hổ, “Thượng kinh kí sự” của
Lê Hữu Trác…
Trong văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945, kí có mặt với các tác
phẩm phơi bày hiện thực của Ngô Tất Tố như phóng sự: Việc làng; Tập án cái
SVTH: Trần Thị Oanh

16

Líp: – K33B. Ngữ Văn



Kho¸ luËn tèt nghiÖp

Tr­êng §HSP Hµ Néi 2

Đình của Vũ Trọng Phụng như: Cơm thầy cơm cô; Lục xì; Kĩ nghệ lấy
Tây,… Từ sau cách mạng tháng Tám, kí giữ một vai trò đặc biệt quan trọng.
Nhiều tác phẩm kí có giá trị lần lượt xuất hiện, góp phần tạo nên bộ mặt đa
dạng của đời sống văn học. Những tác phẩm ấy đã phản ánh kịp thời nhiều
mặt của hiện thực đời sống bề bộn, phong phú, xứng đáng là “Bộ đội tiền
tiêu” của văn học nghệ thuật. Trong thời kì kháng chiến, các nhà văn – chiến
sĩ đã ghi chép, miêu tả sự việc cũng như con người có thật trong cuộc kháng
chiến và cách mạng của dân tộc như: “Truyện và kí” của Trần Đăng, “Ở
rừng” của Nam Cao, “Kí sự Cao Lạng” của Nguyễn Huy Tưởng và sau này
là “ Sông Đà”, “Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi” của Nguyễn Tuân; “Những ngày
nổi giận” của Chế Lan Viên và rất nhiều tác phẩm kí có giá trị khác. Nói
chung, kí là những ghi chép nhanh, nhạy, nối liền cuộc sống với người đọc.
Như vậy, trải qua một quá trình hình thành và phát triển lâu dài kí đã
trở thành thể loại quan trọng trong văn xuôi. Sự có mặt của các thể kí văn học
đã góp phần làm cho nền văn học trở nên cân đối, nhiều màu sắc và giàu tính
chiến đấu.
2.1.2. Khái niệm chung về thể kí văn học
Lí luận văn học hiện đại vẫn có những ý kiến khác nhau về khái niệm
và đặc trưng của thể kí. Có nhà nghiên cứu nhận xét “Về kí, thực tế là không
thể nói đến cái gì xác định được đặc trưng của nó” [11, tr.275], lại có người
cho kí là “Loại thể văn học đặc biệt và phức tạp” [11, tr.277]. Các cuộc trao
đổi về thể kí trên tạp chí văn học, các bài báo, các công trình nghiên cứu, các
giáo trình lí luận văn học cũng cho thấy sự không đồng nhất trong quan niệm
về kí.
Tuy nhiên kí có cái hạt nhân làm thành đặc trưng riêng của nó. Đó là

các sự kiện, hoàn cảnh lịch sử, đời sống xã hội cũng như cá tính sáng tạo của
các tác giả. Lê Minh trong “Nghệ thuật truyện ngắn và kí” viết: “Với thể loại

SVTH: Trần Thị Oanh

17

Líp: – K33B. Ngữ Văn


Kho¸ luËn tèt nghiÖp

Tr­êng §HSP Hµ Néi 2

kí, từ sự thôi thúc của cuộc sống mà tác giả có nhu cầu công bố kịp thời
những nhận xét, những ý tưởng… kí ghi được rất rõ những nét mang được
những dấu ấn của một sự kiện, của một thời kỳ, của một lớp người, một vùng
miền”. Chính vì các tính chất nói trên mà loại kí có một phạm vi biểu hiện đời
sống rất rộng. Kí có thể thiên về ghi chép sự việc, hiện tượng như: phóng sự,
kí sự; có thể thiên về biểu hiện những cảm xúc trữ tình như: tùy bút, tản văn;
có thể nghiêng về nghị luận như chính luận; có thể nghiêng về ghi chép kiến
văn, tri thức như tạp kí lịch sử,…
Theo “Từ điển thuật ngữ văn học” thì kí là: “Một loại hình văn học
trung gian nằm giữa báo chí và văn học, gồm nhiều thể, chủ yếu là văn xuôi
tự sự như: Bút kí, hồi kí, du kí, phóng sự, kí sự, nhật kí, tùy bút,… do tính chất
trung gian mà có người liệt kí vào cận văn học” [14,tr.165].
Nhưng không nên căn cứ vào cách gọi tên của nhà văn đối với tác
phẩm để xác định thể loại. Chẳng hạn “Tây sương kí” của Vương Thực Phủ
thực ra là một vở kịch, “Tây du kí” của Ngô Thừa Ân là tiểu thuyết, “Nhật kí
người điên” của Lỗ Tấn là truyện ngắn. Kí có đặc trưng riêng do nội dung và

quan điểm thể loại của kí qui định.
Kí không nhằm vào việc miêu tả quá trình hình thành tính cách của các
cá nhân trong tương quan với hoàn cảnh. Những câu chuyện đời tư khi chưa
nổi lên thành các vấn đề xã hội cũng không phải là đối tượng quan tâm của kí.
Đối tượng nhận thức thẩm mĩ của kí thường là một trạng thái đạo đức –
phong hóa xã hội (thể hiện qua những cá nhân riêng lẻ), một trạng thái tồn tại
của con người hay những vấn đề xã hội nóng bỏng. Khác với truyện ngắn,
truyện vừa, đặc biệt là tiểu thuyết, kí có quan điểm thể loại là tôn trọng sự thật
khách quan của đời sống, không hư cấu. Nhà văn viết kí luôn chú ý đảm bảo
cho tính xác thực của hiện thực đời sống được phản ánh trong tác phẩm. Kí
thường không có cốt truyện có tính hư cấu. Sự việc và con người trong kí phải

SVTH: Trần Thị Oanh

18

Líp: – K33B. Ngữ Văn


Kho¸ luËn tèt nghiÖp

Tr­êng §HSP Hµ Néi 2

xác thực hoàn toàn, có địa vị hẳn hoi. Đó là vì kí dựng lại những sự thật đời
sống cá biệt một cách sinh động, chứ không xây dựng các hình tượng mang
tính khái quát. Tính khái quát do tác giả kí thể hiện bằng suy tưởng.
2.1.3. Phân loại kí
a. Kí sự: Là một thể thuộc loại hình kí nhằm ghi chép một câu chuyện,
một sự kiện tương đối hoàn chỉnh, có quy mô gần với truyện ngắn hay truyện
vừa. Kí sự sử dụng nhiều biện pháp và phương tiện biểu đạt nghệ thuật để ghi

lại xác thực những diễn biến khách quan của cuộc sống và con người thông
qua bức tranh toàn cảnh của sự kiện, trong đó sự kiện và con người đan chéo
vào nhau, cốt truyện không chặt chẽ như trong truyện. Kí sự thiên về phản
ánh sự kiện, sự việc hơn là phản ánh con người. Tính cách và tâm hồn những
người trong cuộc cũng có khi hiện lên khá rõ nét nhưng đó chỉ là cách kí sự
ghi việc, gây ấn tượng về sự việc. Kí sự thường đậm yếu tố tự sự, giàu chất
sống thực tế. Song ở kí sự, phần bộc lộ cảm nghĩ của tác giả và những yếu tố
liên tưởng, nghị luận thường ít hơn ở bút kí, tùy bút. Người viết kí sự có
quyền bình luận, phân tích nhưng chủ yếu vẫn là tiếng nói của bản thân sự
kiện, đời sống khách quan đang vận động, phát triển. Chủ đề, tư tưởng của tác
phẩm toát lên từ việc ghi chép sinh động, cụ thể những sự kiện, hiện tượng có
thật. Tác giả kí sự thường chú ý phát hiện, chọn lọc để làm nổi lên những sự
việc giàu sức khái quát và ý nghĩa xã hội.
Ví dụ: Thượng kinh kí sự của Lê Hữu Trác; Trận phố Ràng của Trần
Đăng; Kí sự Cao Lạng của Nguyễn Huy Tưởng đều là những tác phẩm kí sự
tiêu biểu. Ngoài ra còn có: Họ sống và chiến đấu, Tháng Ba Tây Nguyên của
Nguyễn Khải; Miền đất lửa của Nguyễn Sinh và Vũ Kì Lân; kí sự của Bùi
Hiển;…Không chỉ phản ánh khá trọn vẹn phạm vi một sự kiện, kí sự còn có
thể mở ra, dự đoán một sự kiện khách quan tiếp theo.
b. Bút kí: “Là một thể loại phóng khoáng, tự do mà cá tính nghệ sĩ trực
tiếp tham gia vào đặc điểm của thể loại” [12, tr.253], thường có qui mô tương

SVTH: Trần Thị Oanh

19

Líp: – K33B. Ngữ Văn


Kho¸ luËn tèt nghiÖp


Tr­êng §HSP Hµ Néi 2

ứng với truyện ngắn. Nhưng bút kí khác với truyện ngắn ở chỗ, tác giả bút kí
không sử dụng hư cấu vào việc phản ánh hiện thực.
Bút kí ghi lại những con người thực và sự việc mà nhà văn đã tìm hiểu,
nghiên cứu cùng với những cảm nghĩ của mình nhằm thể hiện một tư tưởng
nào đó. Sức hấp dẫn và thuyết phục của bút kí tùy thuộc vào tài năng, trình độ
quan sát, nghiên cứu, khám phá, diễn đạt của tác giả đối với các sự kiện được
đề cập đến nhằm khám phá những khía cạnh có vấn đề, những ý nghĩa mới
mẻ, sâu sắc trong va chạm giữa tính cách và hoàn cảnh cá nhân và môi
trường. Nói cách khác, giá trị hàng đầu của bút kí là giá trị nhận thức.
Bút kí có thể thuộc về văn học, cũng có thể thuộc về báo chí tùy theo
mức độ biểu hiện cái riêng của tác giả và mức độ sử dụng các biện pháp nghệ
thuật cùng tính chất tác động của nó đối với công chúng.
Trong bút kí văn học tác giả thường khéo léo sử dụng các biện pháp
nghệ thuật để tô đậm những phát hiện, những nhận thức riêng của mình, tác
động đến độc giả. Bút kí có thể thiên về khái quát các hiện tượng có vấn đề
của đời sống (chú ý nhiều đến việc sử dụng các biện pháp nghệ thuật: Xây
dựng cốt truyện, sử dụng các yếu tố liên tưởng, trữ tình…để điển hình hóa
những tính cách), hoặc thiên về chính luận (mô tả các hiện tượng đời sống
một cách chính xác, sinh động, kèm theo những nhận xét riêng của mình hoặc
của nhân vật, phân tích, đánh giá, cuộc sống được mô tả; sử dụng yếu tố nghị
luận, châm biếm, hài hước).
Ví dụ: Bút kí Điện Biên Phủ, một danh từ Việt Nam của Thép Mới; Ai
đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Khi tác phẩm
nghiêng về yếu tố trữ tình, bút kí có hướng chuyển sang tùy bút.
c. Phóng sự: Là tiểu loại kí ghi chép kịp thời, cung cấp những tri thức
chính xác, phong phú, đầy đủ, nhằm làm sáng tỏ trước công luận một sự việc,
một vấn đề có ý nghĩa thời sự với địa phương hay toàn xã hội. Phóng sự được


SVTH: Trần Thị Oanh

20

Líp: – K33B. Ngữ Văn


Kho¸ luËn tèt nghiÖp

Tr­êng §HSP Hµ Néi 2

sáng tác nhằm đáp ứng nhu cầu nhận thức của công chúng về một vấn đề, một
hiện tượng xã hội nào đó. Phóng sự rất xác thực trong việc ghi chép, phản ánh
sự viêc và chi tiết đời sống đang diễn ra hay vừa kết thúc nhưng có khuynh
hướng rõ rệt trong việc nêu bật một kết luận, đề xuất những vấn đề xã hội
nhất định, người viết phóng sự thường sử dụng những biện pháp nghiệp vụ
báo chí như: Điều tra, phỏng vấn, ghi chép tại chỗ, các phương tiện ghi âm,
ghi hình,… Sự phân biệt báo chí hay phóng sự văn học tùy thuộc ở mức độ sử
dụng một số phương tiện biểu đạt của văn học như các biện pháp tu từ, ngôn
ngữ giàu hình ảnh, hướng vào thế giới nội tâm của nhân vật…
Ví dụ: Kỹ nghệ lấy Tây, Cơm thầy cơm cô của “ông vua phóng sự đất
Bắc” Vũ Trọng Phụng. Ta cũng có thể hiểu thêm về tiểu loại phóng sự qua
sáng tác của nhiều tác giả khác: Ngô Tất Tố với các tập Việc làng và Tập án
cái đình viết về những hủ tục và tội ác của bọn hào lý trong đời sống nông
thôn; Nguyễn Đình Lạp với Ngoại ô và Ngõ hẻm viết về cuộc sống của
người dân nghèo thành thị; Tam Lang với Tôi kéo xe viết về người phu xe…
Trong văn học hiện đại, nhịp độ chuyển biến của xã hội rất đa dạng gấp gáp,
phóng sự vẫn là một tiểu loại kí nhanh nhạy đáp ứng nhu cầu nhận thức của
công chúng bạn đọc.

d. Nhật kí, hồi kí
Nhật kí là thể loại kí ghi chép sự việc, suy nghĩ, cảm xúc hàng ngày của
chính người viết, là những tư liệu có giá trị về tiểu sử và thời đại của người
viết. Đó là những tập nhật kí nổi tiếng như nhật kí của những nhà văn lớn như
Nhật kí Đôstoievki, Nhật kí Chekhov, Nhật kí Lỗ Tấn, hoặc nhật kí của các
nhân vật lịch sử như Nhật kí Đặng Thùy Trâm, Nhật kí Nguyễn Văn Thạc,
những người anh hùng trên chiến trường chống Mỹ ghi lại những sự kiện ác
liệt và những ước mơ cùng ý chí kiên cường của người trong cuộc. Giá trị
quan trọng nhất của nhật kí là tính chân thật do ghi chép sự việc đang xảy ra.

SVTH: Trần Thị Oanh

21

Líp: – K33B. Ngữ Văn


Kho¸ luËn tèt nghiÖp

Tr­êng §HSP Hµ Néi 2

Hồi kí là thể loại ghi chép các sự kiện quá khứ đã trải qua do đương sự
thực hiện, là một hình thức văn học mình tự nói về mình, là một kiểu tự
truyện của tác giả. Hồi kí cung cấp những tài liệu về quá khứ mà đương thới
chưa có điều kiện nói được. Tuy nhiên do thời gian lùi xa, nhiều sự kiện nhớ
không chính xác, nhớ nhầm hoặc tưởng tượng thêm. Hồi kí chỉ thực sự có giá
trị khi người ghi có địa vị xã hội được nhiều người quan tâm và có thái độ
trung thực, không tô vẽ cho mình và thêm thắt cho người khác. Ví dụ như các
tập hồi kí của các nhà văn hóa và các nhà cách mạng.
e. Tùy bút

Đây là thể loại kí thiên về trữ tình. Nhà văn phóng bút mà viết, tùy theo
cảm hứng của mình, tùy cảnh, tùy việc mà suy tưởng, nhận xét đánh giá, trình
bày… “tùy bút là tác phẩm văn xuôi cỡ nhỏ có cấu trúc tự do, biểu thị những
ấn tượng và suy nghĩ cá nhân về những sự việc, những vấn đề cụ thể và hoàn
toàn không tính tới việc đưa ra cách giải thích cố định và đầy đủ về đối
tượng”. Nét nổi bật của tùy bút so với các tiểu loại kí khác là những chi tiết
về con người và sự kiện cụ thể, có thực được ghi chép trong tác phẩm thường
chỉ là cớ, là tiền đề để bộc lộ cảm xúc, suy tư và nhận thức, đánh giá của tác
giả về con người và cuộc sống. Mỗi tác phẩm tùy bút có giá trị thường đem
lại cho người đọc một điều gì đó mới mẻ trong cách nhìn nhận, phát hiện và lí
giải các hiện tượng của đời sống. Yếu tố đóng vai trò thống nhất tổ chức của
tác phẩm, chi phối việc phản ánh trung thực cuộc sống, con người, chi phối ấn
tượng và sức tác động của tùy bút là chất trữ tình, những yếu tố suy tưởng,
triết lí, chính luận, là mạch tư tưởng của tác giả. Cái hay của tùy bút là qua tác
phẩm làm hiện lên một nhân cách, một chủ thể uyên bác, sắc sảo, tài hoa, giàu
có về tâm hồn, trí tuệ.
Cấu trúc của tùy bút nói chung ít bị ràng buộc câu thức bởi trình tự diễn
biến của sự việc hay quan hệ của những con người ngoài đời thực. Trong tùy

SVTH: Trần Thị Oanh

22

Líp: – K33B. Ngữ Văn


Kho¸ luËn tèt nghiÖp

Tr­êng §HSP Hµ Néi 2


bút, sự kiện khách quan thường không được trình bày liên tục do sự xen kẽ
của cảm xúc chủ quan, các yếu tố trữ tình của người viết hoặc vì những sự
kiện đó được khai thác từ nhiều địa điểm và thời gian khác nhau tùy theo
dòng liên tưởng, suy tưởng của tác giả, nhằm triển khai một cảm hứng chủ
đạo, một tư tưởng chủ đề nhất định. Người viết tùy bút phải làm nổi bật trong
tác phẩm bản lĩnh riêng, cách cảm nghĩ sâu sắc, độc đáo về cuộc sống và con
người.
Ngôn từ trong tùy bút thường giàu hình ảnh, chất thơ. Tác giả tùy bút
thường dùng hàng loạt từ đồng nghĩa để vừa đặc tả, xoáy sâu, vừa tô đậm ấn
tượng về những sự vật, hiện tượng trong cuộc sống. Cùng nói về một hạt cát
lọt vào lòng trai biển, Nguyễn Tuân đã dùng đến hàng chục cách gọi: hạt cát,
hạt bụi biển, hạt bụi bặm khách quan, cái hạt buốt sắc, hạt đau, hạt xót, hạt cát
khối tình con, một vết thương lòng …(Tờ hoa). Câu văn tùy bút thường giàu
nhịp điệu, âm điệu hài hòa, trầm bổng. Mỗi tác phẩm tùy bút thường rất độc
đáo cả về màu sắc thẩm mỹ và phong cách biểu hiện cần phải được cảm nhận
và phân tích cụ thể.
g. Du kí
Có thể hiểu du kí là thể loại ghi chép vẻ kì thú của cảnh vật thiên nhiên
và cuộc đời, những cảm nhận suy tưởng của con người trong những chuyến
du ngoạn, du lịch. Du kí phản ánh, truyền đạt những nhận biết, những cảm
tưởng, suy nghĩ mới mẻ của bản thân người du lịch về những điều mắt thấy
tai nghe ở những xứ sở xa lạ, những nơi mọi người ít có dịp đi đến, chứng
kiến. Hình thức của du kí rất đa dạng, có thể là ghi chép, kí sự, nhật kí, thư
tín, hồi tưởng, miễn là mang lại thông tin tri thức và cảm xúc tươi mới về
phong cảnh, phong tục, dân tình của xứ sở còn ít người biết đến, làm giàu cho
nhận thức, kinh nghiệm, tình cảm của người đọc. Ví dụ: Hành trình qua ba bể
của nhà văn Nga Nikitin viết về Ấn Độ thế kỉ XV, Chuyến đi thăm Bắc kỳ

SVTH: Trần Thị Oanh


23

Líp: – K33B. Ngữ Văn


Kho¸ luËn tèt nghiÖp

Tr­êng §HSP Hµ Néi 2

năm Ất Hợi của Trương Vĩnh Ký; Những thưởng ngoạn, nhận xét về danh
lam thắng cảnh đất nước: Bao Thiên sơn kí của Vương An Thạch đời Tống,
Bút kí tháp Linh Tế núi Dục Thúy của Trương Hán Siêu, Bài kí chơi núi Phật
Tích của Nguyễn Án; Các tác phẩm có tính chất du kí: Nhị Thanh đô, Song
Tiên sơn động kí của Ngô Thì Sỹ; nhiều tác phẩm của Nguyễn Tuân cũng
đậm màu sắc du kí …
Tác giả du kí thường bộc lộ nỗi niềm say mê sơn thủy, thú phiêu liêu,
khao khát tìm hiểu, khám phá của mình. Du kí gắn với khả năng quan sát,
phát hiện, với độ xa rộng của tầm nhìn và trí tưởng tượng kì thú của tác giả.
Quả thật, ruộng đồng sông núi, những chốn danh lam thắng cảnh đã độc đáo,
đặc sắc với các tác phẩm du kí lại càng trở nên đẹp đẽ hữu tình.
2.2. Đặc trưng thể loại kí
2.2.1. Tôn trọng sự thật khách quan và tính xác thực của đời sống
Tác phẩm kí ra đời thường gắn với những biến cố lịch sử mang tính
thời sự, những vấn đề nóng bỏng của cuộc sống. Vì thế, các nhà viết kí trước
hết phải hướng đến tìm tòi, nghiên cứu, phát hiện và ghi lại những “người
thật, việc thật” của cuộc sống. Chính điều này làm cho kí văn học gần với kí
báo chí, đáp ứng yêu cầu thời sự của con người trong một xã hội mà công
nghệ thông tin rất phát triển. Hoàng Phủ Ngọc Tường cho rằng với thể kí
“Cõi thực vốn là bản gốc của tác phẩm” [10, tr. 40]. Sức hấp dẫn, sức thuyết
phục của tác phẩm kí thường gắn chặt với tính chất có thật, xác thực của việc

được phản ánh trong tác phẩm.
Viết về cái có thật trong cuộc sống, kí văn học có khả năng mạnh mẽ
trong việc tạo ra niềm tin, sức thuyết phục với người đọc. Chẳng hạn, đọc tác
phẩm kí “Người mẹ cầm súng” của Nguyễn Thi chúng ta ngưỡng mộ, cảm
phục đối với người anh hùng mà ta biết rằng chị đã sống thực và đánh giặc ở
một mảnh đất có thực của Tổ quốc – mảnh đất Trà Vinh. Nhiều tác phẩm kí

SVTH: Trần Thị Oanh

24

Líp: – K33B. Ngữ Văn


Kho¸ luËn tèt nghiÖp

Tr­êng §HSP Hµ Néi 2

văn học có giá trị như những tư liệu lịch sử quý giá, có ý nghĩa to lớn đối với
nhận thức của người đọc. Vì thế sự bịa đặt, thêm thắt sẽ làm mất đi sức thuyết
phục và cảm xúc thẩm mĩ đối với độc giả. Do trần thuật người thật, việc thật,
tác phẩm kí văn học có giá trị như những tư liệu lịch sử quý giá, có ý nghĩa và
tác dụng rất lớn ngay với sự sáng tạo nghệ thuật về sau.
Chi tiết, sự việc, con người được ghi lại trong kí đều có địa chỉ cụ thể
và đều có thể kiểm tra. Tuy nhiên, không thể coi viết kí như một công việc
chụp ảnh và ghi âm một cách máy móc, sao chép cuộc sống một cách nô lệ và
vai trò của người viết kí là hoàn toàn thụ động. Những người thật, việc thật,
những vấn đề của đời sống khách quan được tác giả kí lấy làm điểm tựa đều
được nhìn nhận, được lựa chọn, khái quát và được khai thác ở những nội
dung, những khía cạnh có ý nghĩa xã hội – thẩm mĩ nào đó. Trong tác phẩm

kí, các chi tiết, sự kiện của cuộc sống vừa giữ được phẩm chất cơ bản của sự
thật, của điển hình xã hội, lại vừa được nhìn nhận, cảm thụ, đánh giá theo
cách nhìn độc đáo của riêng nhà văn.
Như vậy, trên cơ sở gắn bó với cuộc sống, tác giả kí văn học có thể vận
dụng sức tưởng tượng, hư cấu để sáng tạo chỉ có điều vấn đề hư cấu cần được
đặt ra theo đặc trưng riêng của thể loại kí. Tôn trọng tính xác thực của đối
tượng miêu tả và vận dụng hư cấu để hỗ trợ trong sáng tạo là những yêu cầu
cần thiết và có thể kết hợp được trong phạm vi của thể loại kí. Người viết kí
không thể không loại bỏ nhiều yếu tố của cái có thật và bù đắp thêm những
giá trị sáng tạo mới. Hư cấu nghệ thuật là sự vận dụng năng lực tưởng tượng
để tổ chức, tái tạo lại hiện thực được miêu tả nhằm xây dựng những hình
tượng có ý nghĩa khái quát rộng rãi. Qua hoạt động hư cấu, nghệ sĩ nhào nặn,
tổ chức chất liệu được rút ra từ cuộc sống để tạo ra những tính cách, những số
phận, những hiện tượng mới, những “Sinh Mệnh” mới có giá trị điển hình,
vừa biểu hiện tập trung chân lí cuộc sống vừa biểu hiện cá tính sáng tạo của

SVTH: Trần Thị Oanh

25

Líp: – K33B. Ngữ Văn


×