Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Rèn luyện một số kỹ năng sống cho học sinh thông qua dạy học môn tự nhiên và xã hội ở lớp 3 (KL03759)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (592.52 KB, 86 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC TIỂU HỌC

PHẠM THỊ HƯƠNG THẢO

RÈN LUYỆN MỘT SỐ KỸ NĂNG SỐNG CHO
HỌC SINH THÔNG QUA DẠY HỌC MÔN
TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI LỚP 3
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Phương pháp dạy học Tự nhiên và xã hội

HÀ NỘI, 2011


PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Sự nghiệp giáo dục với mục tiêu trọng tâm, xuyên suốt là hướng tới đào tạo
con người Việt Nam phát triển toàn diện (về nhận thức, trí tuệ, phẩm chất đạo
đức...); trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành
và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân; đáp ứng yêu cầu
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (theo điều 2, chương 1, Luật Giáo dục 2005). Mục
tiêu của GDTH là nhằm “hình thành ở HS những cơ sở ban đầu của sự phát triển
đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ…” (theo điều 27, Luật
Giáo dục 2005). Có thể nói, chất lượng giáo dục bậc Tiểu học không chỉ quyết
định nền tảng cho sự hình thành nhân cách cá nhân mà còn là căn cứ quan trọng
để đánh giá chất lượng giáo dục của mỗi quốc gia. Vì vậy, nâng cao hiệu quả và
chất lượng GDTH đã và đang là mối quan tâm hàng đầu của các tổ chức, cá nhân
và toàn xã hội.
Tốc độ phát triển nhanh chóng của xã hội trên mọi lĩnh vực (kinh tế, văn hóa,
thương mại, trao đổi và hợp tác quốc tế...) kéo theo những thay đổi trong cuộc


sống của mỗi người. Con người có nhiều sự lựa chọn hơn về công việc theo năng
lực và sở thích của cá nhân. Những dịch vụ đáp ứng các nhu cầu của cuộc sống
cũng đa dạng hơn, chuyên nghiệp hơn. Tuy nhiên, khi chất lượng cuộc sống
ngày càng được nâng cao, con người đồng thời cũng phải đối diện với nhiều vấn
đề phát sinh hơn so với trước đây. Trong đó có những vấn đề con người chưa
từng gặp, chưa từng trải nghiệm song vẫn phải đương đầu để có thể tồn tại và
phát triển. Đó là stress, áp lực của công việc (thu nhập càng cao thì trách nhiệm
của cá nhân với hiệu quả công việc càng lớn), tỷ lệ ly hôn tăng, bệnh tật, thảm


họa thiên nhiên như sóng thần, động đất, chiến tranh, khủng bố... Để đối phó với
tất cả những điều này đỏi hỏi con người không chỉ có tri thức mà phải được trang
bị những kĩ năng nhất định - những kĩ năng để có thể tồn tại và phát triển một
cách tích cực trong xã hội hiện đại. Điều này cho thấy việc GD KNS là rất quan
trọng và cần thiết.
KNS đã trở thành một phần quan trọng thuộc nhân cách con người trong xã hội
hiện đại. Lewis L.Dunnington đã phát biểu rằng: “Ý nghĩa của cuộc sống không
phải ở chỗ nó đem đến cho ta điều gì, mà ở chỗ ta có thái độ với nó ra sao;
không phải ở chỗ điều gì xảy ra với ta, mà ở chỗ ta phản ứng với những điều đó
như thế nào: “Nếu con người có kiến thức, có thái độ tích cực THÌ mới đảm bảo
50% sự thành công, 50% còn lại là những kỹ năng cần cho cuộc sống mà ta
thường gọi là KNS.” KNS có vai trò vô cùng quan trọng trong sự hình thành và
phát triển nhân cách học sinh, đặc biệt là học sinh tiểu học. KNS giúp biến kiến
thức thành những hành động cụ thể, những thói quen lành mạnh. Những học sinh
có kỹ năng sống là những em biết làm cho mình và người xung quanh cùng hạnh
phúc. Những học sinh này thường thành công hơn trong học tập, trong cuộc sống
cũng như trong lao động. GD KNS cho HS đã và đang đưa vào các nội dung
chương trình của môn học và thông qua các hoạt động giáo dục.
Môn Tn & XH lớp 3 là môn học tích hợp của nhiều lĩnh vực khoa học như Vật
lý, Hóa học, Sinh học… bao gồm các chủ đề: Con người và sức khỏe, Xã hội, Tự

nhiên. Có thể nói đây là môn học có nhiều ưu thế trong việc giáo dục KNS cho
HSTH, nhất là chủ đề “Con người sức khỏe” với các bài cụ thể như vệ sinh cá
nhân, vệ sinh môi trường, phòng chữa bệnh, dinh dưỡng, an toàn ở nhà, ở trường
và nơi công cộng,... là những bài có nội dung liên quan trực tiếp đến cuộc sống
hàng ngày của các em, giúp các em biết được vị trí của mình trong các mối quan


hệ xã hội và biết cách xử lý các mối quan hệ (từ góc độ xã hội học). Hình thức
tích hợp tùy thuộc vào mục tiêu và từng nội dung của từng bài học. Qua đó giúp
các em có bản lĩnh chống lại sự cám dỗ hay tác động xấu cuả môi trường xung
quanh.
GD KNS là vấn đề cần thiết cho mọi đối tượng, ở mọi nơi. Đây là vấn đề đặc
biệt quan trọng và cần thiết với học sinh Tiểu học. Việc tiếp cận KNS qua dạy
học trong đổi mới giáo dục trong thực tế chưa được như mong đợi, vì nội dung
bài học còn dài và cách thiết bài học chưa phản ánh tiếp cận KNS của giáo viên
còn hạn chế. Để giáo dục KNS có hiệu quả cần tăng cường tích hợp nội dung
giáo dục KNS và tiếp cận KNS trong quá trình đào tạo thông qua các môn học
trong chương trình học tiểu học.
Trên thế giới và trong nước đã có nhiều tác giả nghiên cứu về lĩnh vực KNS
với nhiều góc độ khác nhau như: Nguyễn Thanh Bình “GD KNS ở Việt Nam”,
Chu Shiu – Kee – Understanding Life skills, Báo cáo tại hội thảo “Chất lượng
giáo dục và KNS”… Tuy nhiên, khi nói đến việc GD KNS cho HSTH, các tác
giả chỉ mới đề cập đến sự cần thiết phải GD KNS cho HS, các quan niệm, các
phương pháp GD KNS như thế nào mà chưa đi sâu tìm hiểu thực trạng thực hiện
GD KNS cho học sinh trong các nhà trường phổ thông.
Những lí do trên là căn cứ để người nghiên cứu lựa chọn đề tài: “Rèn luyện một
số KNS cho HS thông qua dạy học môn TN & XH ở lớp 3”.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả việc rèn luyện KNS cho HS thông
qua dạy học môn TN & XH ở lớp 3.

3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn phải giải quyết những nhiệm vụ sau:


- Tìm hiểu cơ sở lý luận về việc rèn luyện KNS cho HSTH.
- Nghiên cứu thực trạng của việc rèn luyện KNS cho HS thông qua môn TN &
XH ở lớp 3.
- Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả rèn luyện KNS cho HSTH thông
qua dạy học môn TN & XH ở lớp 3.
- Tiến hành thực nghiệm sự phạm để kiểm chứng tính khả thi của một số biện
pháp đã đề xuất.
4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Việc rèn luyện KNS cho HS thông qua dạy học môn
TN & XH ở lớp 3.
Khách thể nghiên cứu: Quá trình dạy học môn TN & XH ở lớp 3.
5. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu thực trạng và thực nghiệm được tiến hành ở một số trường tiểu
học thuộc khu vực thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương và trường tiểu học
Xuân hòa A, Phúc Yên, Vĩnh Phúc.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp nghiên cứu lí luận
Người nghiên cứu đã tổng hợp, phân tích để hệ thống hóa các vấn đề lí luận
có liên quan đến phạm vi nghiên cứu của đề tài trong các loại sách, giáo trình,
tạp chí, luận văn, các báo cáo khoa học...
6.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
6.2.1. Quan sát


Thông qua dự giờ, quan sát các hoạt động dạy học của GV và HS (kết hợp
phỏng vấn GV), đề tài đã có những đánh giá chung về thực tiễn dạy học và việc

rèn KNS cho HSTH hiện nay.
6.2.2. Điều tra
Người nghiên cứu sử dụng các phiếu khảo sát để điều tra thực trạng rèn luyện
KNS cho HS thông qua dạy học môn Tự nhiên và Xã hội ở lớp 3; dựa vào đó để
xác định các hướng đề xuất của luận văn.
6.2.3. Phỏng vấn
Việc phỏng vấn GV nhằm bổ sung các thông tin về thực tiễn rèn luyện KNS
cho HS, lấy đó làm một trong các căn cứ cho những đề xuất của luận văn.
6.2.3. Thực nghiệm khoa học
Thực nghiệm sư phạm được tiến hành nhằm đánh giá hiệu quả những đề xuất
của đề tài với việc nâng cao chất lượng rèn luyện KNS cho HS.
6.3. Phương pháp thống kê toán học
Sử dụng thống kê toán học để xử lý, phân tích các số liệu đã điều tra, khảo sát.
7. Giả thuyết khoa học
Nếu xây dựng được một số biện pháp rèn luyện KNS cho HS thông qua dạy
học môn TN & XH ở lớp 3 dựa trên con đường hình thành kỹ năng nói chung và
phù hợp với đặc điểm của HS từng lứa tuổi thì sẽ góp phần nâng cao hiệu quả
GD KNS cho HS.
8. Cấu trúc đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chính của đề tài bao gồm những
chương sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận của việc rèn luyện kỹ năng sống cho HSTH.


Chương 2: Thực trạng rèn luyện KNS cho HS thông qua dạy học môn TN &
XH ở lớp 3 .
Chương 3: Một số đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả rèn luyện KNS cho HS
thông qua dạy học môn Tn & XH ở lớp 3



NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC RÈN LUYỆN KNS CHO HS

1.1. Sự cần thiết phải GD KNS cho HS tiểu học
Thế kỷ XXI với những thành tựu to lớn về mọi mặt của đời sống xã hội được
đánh giá là thế kỷ của nền tri thức. Nhân tố quyết định cho sự phát triển đó chính
là con người. Yêu cầu của xã hội đối với con người ngày càng cao. Con người
trong xã hội hiện đại không chỉ học để có tri thức, thẩm mỹ, nhân văn đúng đắn
mà còn phải học để có những kỹ năng sống nhất định.
Mục đích của giáo GC KNS là GD cách sống tích cực trong xã hội hiện đại.
GD trong xã hội hiện đại ngoài nhiệm vụ trang bị kiến thức, kĩ năng nghề nghiệp
cho con người để họ có thể thích ứng với sự phát triển nhanh chóng của xã hội,
song song với đó việc GD KNS cho con người cũng được quan tâm và chú trọng
ở mọi cấp học. KNS có quan hệ mật thiết đối với sự phát triển toàn diện của con
người, cụ thể là:
- Trong quan hệ với bản thân: GD KNS giúp con người biến kiến thức thành
những thói quen, hành động cụ thể, lành mạnh để luôn vững vàng trước khó
khăn, thử thách, làm chủ cuộc sống của bản thân.
- Trong quan hệ với gia đình: GD KNS giúp HS biết yêu thương và kính trọng
trọng ông bà, hiếu thảo với cha mẹ, quan tâm chăm sóc người thân khi ốm đau,
động viên, an ủi nhau khi người thân có chuyện không vui,…
- Trong quan hệ với xã hội: GD KNS góp phần thúc đẩy những hành vi mang
tính xã hội tích cực, giúp con người biết cách ứng xử đúng đắn với bản thân, với
cộng đồng, với môi trường tự nhiên xung quanh. Do đó, góp phần giảm bớt các


vấn đề về sức khỏe, về tệ nạn xã hội, đồng thời giải quyết hài hòa mối quan hệ
giữa nhu cầu với quyền lợi của con người, của công dân.
Sự phát triển nhanh chóng của xã hội hiện đại trên tất cả các lĩnh vực đã có tác
động to lớn đến cuộc sống của mỗi gia đình theo cả hai chiều tích cực và tiêu

cực. Điều đó làm ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của học sinh tiểu học nói
riêng và học sinh nói chung. Một số gia đình mải mê với công việc mà bỏ bê, sao
nhãng tới việc quan tâm, chăm sóc con cái khiến trẻ bị thiếu hụt về tinh thần.
Một số khác lại thiếu sự hiểu biết, chia sẻ với nhau giữa bố mẹ và con cái buộc
chúng phải tìm đến bạn bè mà chúng cho là có thể tìm thấy lời khuyên. Hoặc có
một số gia đình do hoàn cảnh khó khăn, trẻ phải lang thang kiếm sống. Tỉ lệ li
hôn , bạo lực gia đình tăng, bố mẹ vướng vào các tệ nạn xã hội ngày càng nhiều
đã khiến nhiều trẻ bị bỏ rơi và bị khủng hoảng tinh thần.
Lứa tuổi HSTH bao gồm trể em có độ tuổi 6 – 7 tuổi đến 11 – 12 tuổi. Mỗi
HSTH là một nhân cách đang hình thành, đang phát triển. Các em đều có những
đặc điểm chung của lứa tuổi tiểu học nhưng cũng có những đặc điểm riêng từ cá
tính, tâm lí, trí tuệ, thể chất,…cho đến những nhu cầu khả năng tiềm ẩn. Nhà
trường cần có những chiến lược khơi dậy và phát triển đầy đủ tiềm năng đó.
Theo chương trình mới, GV tập trung vào dạy cách học và HS học cách học,
cách nhận biết nhu cầu và học phương pháp tự học. GV coi trọng và khuyến
khích HS học tập tích cực, chủ động, sáng tạo, tự phát hiện và giải quyết yêu cầu
của bài học. Do đó HS có thể tự chiếm lĩnh các kiến thức: bước đầu biết vận
dụng kiến thức vào việc giải bài tập trên lớp sau đó biết vận dụng sáng tạo vào
việc giải quyết một cách hợp lý các tình huống diễn ra trong đời sống của bản
thân, gia đình và cộng đồng theo cách riêng của mình. Ở lứa tuổi này, hành vi
của các em dễ có tính tự phát, tính cách của các em thường biểu hiện thất


thường, bướng bỉnh. Phần lớn các em có những phẩm chất tốt như vị tha, ham
hiểu biết, hiếu học, hồn nhiên, chân thật,…các em sống hồn nhiên, cả tin trong
các mối quan hệ với bạn bè đồng trang lứa, với người lớn, đặc biệt với thầy cô
giáo. Đến cuối bậc học các en dần chuyển sang lứa tuổi vị thành niên, vì thế tính
cách có sự thay đổi lớn như có xu hướng tò mò, thích khám phá những điều mới
lạ, thích được khẳng định mình, thích làm người lớn. Tuy nhiên, kinh nghiệm
sống còn ít ỏi, suy nghĩ chưa đủ chín chắn để các em trở thành người lớn, dẫn

đến các em có những ứng phó không tích cực trước những hành vi lôi kéo của
một só bạn chưa ngoan từ một số người xấu trong cộng động xã hội như: sa vào
tệ nạn xã hội, sớm bị lợi dung tình dục hoặc có những hành vi phạm pháp một
cách vô thức…
Đối với sự phát triển của học sinh tiểu học, những ảnh hưởng tiêu cực của nền
kinh tế thị trường, sự bùng nổ của khoa học, thông tin đã dẫn đến sự du nhập của
lối sống thực dụng, buông thả và đang từng ngày ảnh hưởng mạnh mẽ tới các
em. Do đó, nếu không được trang bị kỹ năng sống cần thiết để có lối sống lành
mạnh với niềm tin và bản lĩnh vững vàng thì các em dễ bị sa ngã vào cạm bẫy
cuộc sống. Từ đó các em sẽ trở nên bi quan, tự ti, mặc cảm và khó hòa đồng với
xã hội. Vì vậy, việc GD KNS sống có vai trò rất quan trong đối với lứa tuổi
HSTH, nhằm giúp các em rèn luyện hành vi có trách nhiệm đối với bản thân, gia
đình và cộng đồng. Đồng thời trước sức ép của cuộc sống và sự lôi kéo thiếu
lành mạnh của bạn bè cùng trang lứa, các em biết tự bảo vệ mình. Ngoài ra, nó
còn giúp tăng cường khả năng tâm lí xã hội của các em, giúp các em sống khỏe
mạnh về thể chất, tinh thần và xã hội. Nó sẽ góp phần tạo ra nền tảng cho cả tiến
trình phát triển về sau của các em.
1.2. Một số vấn đề về KNS và GD KNS cho HSTH


1.2.1. Khái niệm và phân loại KNS
a. Khái niệm:
Thuật ngữ kĩ năng sống (KNS) bắt đầu xuất hiện trong các nhà trường phổ
thông Việt Nam từ những năm 1995 – 1996, thông qua Dự án “GD KNS để bảo
vệ sức khỏe và phòng chống HIV / AIDS cho thanh thiếu niên trong và ngoài
nhà trường” do Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc (UNICEF) phối hợp với Bộ Giáo
Dục và Đào tạo cùng Hội Chữ thập đỏ Việt Nam thực hiện. Giáo dục phổ thông
nước ta những năm vừa qua đã có nhiều đổi mới cả về mục tiêu, nội dung và
phương pháp dạy học gắn với bốn trụ cột của thế kỉ XXI: Học để biết, học để
làm, học để tự khẳng định, học để cùng chung sống, mà thực chất là một cách để

tiếp cận KNS.
Hiện nay có khá nhiều quan niệm khác nhau về KNS. Tùy từng góc nhìn khác
nhau, người ta có những quan niệm về KNS khác nhau:
- Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), KNS là khả năng để có hành vi thích
ứng và tích cực, giúp các cá nhân có thể ứng xử hiệu quả trước các nhu cầu và
thách thức của cuộc sống hàng ngày.
(Chu Shiu Kee – Understanding Life Swkijlls, Báo cáo tại hội thảo “Chất
lượng giáo dục kỹ năng sống”, Hà Nội 23 – 25/10/2003)
Tương đồng với quan điểm này, Thuyết hành vi đưa ra khái niệm về KNS: Là
những kỹ năng tâm lỹ xã hội liên quan đến tri thức, giá trị, thái độ. Đó là những
hành vi làm cho cá nhân có thể thích nghi và giải quyết có hiệu quả các yêu cầu
và thách thức của cuộc sống. Quan niệm này nhấn mạnh kỹ năng ứng phó nhạy
bén của cá nhân trước những tình huống xảy ra trong cuộc sống.
(Lục Thị Nga: Tích hợp dạy KNS cho HSTH qua môn Khoa học và hoạt động
ngoài giờ lên lớp. NXB GD Việt Nam, 2009, Tr. 10)


- Theo Tổ chức UNICEF, KNS là cách tiếp cận giúp thay đổi hoặc hình thành
hành vi mới. Quan niệm này lưu ý đến sự cân bằng về tiếp thu kiến thức, hình
thành thái độ và kĩ năng.
- Theo Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc (UNESCO),
KNS là năng lực cá nhân để thực hiện đầy đủ các chức năng và tham gia vào
cuộc sống hàng ngày – đó là những kĩ năng cơ bản như kỹ năng đọc, viết, tính
toán,…
(UNESCO: Kỹ năng sống – Cầu nối tới khả năng con người. Tiểu ban giáo dục
UNESCO 2003)
Từ những quan niệm trên đây, có thể thấy KNS bao gồm một loạt các kĩ năng
cụ thể, cần thiết với cuộc sống hàng ngày của con người. Bản chất của KNS là kĩ
năng tự quản lý bản thân và kĩ năng xã hội để cá nhân tự lực trong cuộc sống,
học tập và làm việc hiệu quả.

Như vậy, nói đến KNS là đề cập đến những khả năng của mỗi cá nhân, bao
gồm: (1) khả năng làm chủ bản thân. (2) ứng xử phù hợp với những người xung
quanh và xã hội, (3) ứng phó tích cực trước các tình huống khác nhau của cuộc
sống.
Phân loại KNS:
Cũng như sự đa dạng trong quan niệm về KNS, đã có nhiều cách phân loại
KNS:
Theo cách phân loại xuất phát từ lĩnh vực sức khỏe (WHO) thì KNS chia làm
3 nhóm:
- Kĩ năng nhận thức bao gồm các kĩ năng cụ thể như: Tư duy phê phán, tư duy
phân tích, khả năng sáng tạo, giai quyết vấn đề, nhận thức hậu quả,…


- Kĩ năng đương đầu với xúc cảm, bao gồm: ý thức trách nhiệm, cam kết,
kiềm chế căng thăng, tự quản lí,…
- Kĩ năng xã hội hay kĩ năng tương tác bao gồm: Giao tiếp, tinh quyết đoán, từ
chối, hợp tác, sự cảm thông,…
Theo UNESCO, ngoài những kỹ năng chung thuộc 3 nhóm trên thì KNS còn
có những kỹ năng riêng thể hiện trong những vấn đề cụ thể khác nhau trong đời
sống xã hội như:
- Vệ sinh, vệ sinh thực phẩm, sức khỏe, dinh dưỡng
- Các vấn đề về giới, giới tính, sức khỏe sinh sản
- Ngăn ngừa và chăm sóc người bệnh HIV/AIDS
- Phòng tránh rượu, thuốc lá, ma túy
- Ngăn ngừa thiên tai, bạo lực và rủi ro
- Hòa bình và giải quyết xung đột
- Gia đình và cộng đồng
- Giáo dục công dân
- Bảo vệ thiên nhiên và môi trường
- Phòng tránh buôn bán trẻ em và phụ nữ…

Với mục đích giúp cho người học có những kĩ năng ứng phó với các vấn đề
của cuộc sống và tự hoàn thiện mình, UNICEF đưa ra cách phân loại KNS theo
các mối quan hệ như sau:
- Kĩ năng nhận biết và sống với chính mình bao gồm: kĩ năng tự nhận thức,
lòng tự trọng, sự kiên định, đương đầu với cảm xúc, đương đầu với căng thẳng.
- Những kĩ năng nhận biết và sống với người khác bao gồm: kĩ năng quan hệ tương tác liên nhân cách, sự cảm thông – thấu cảm, đứng vững trước áp lực tiêu
cực của bạn bè hoặc của người khác, thương lượng, giao tiếp có hiệu quả.


- Các kĩ năng ra quyết định một cách hiệu quả: Tư duy phê phán, tư duy sáng
tạo, ra quyết định, giải quyết vấn đề
Bloom đưa ra cách phân loại KNS dựa trên cách phân chia các lĩnh vực học tập:
- Nhóm kĩ năng thuộc lĩnh vực nhận thức bao gồm: kĩ năng sáng tạo và tư duy
phê phán.
- Nhóm kĩ năng thuộc lĩnh vực tình cảm là kĩ năng tự nhận thức và thấu cảm,
tự trọng và trách nhiệm xã hội.
- Nhóm kĩ năng thuộc lĩnh vực tâm vận động là kĩ năng quan hệ liên nhân
cách, giao tiếp có hiệu quả, ra quyết định, giải quyết vấn đề, đương đầu với cảm
xúc và căng thẳng.
Tùy thuộc vào những khía cạnh xem xét hoặc những góc độ nhìn nhận mà một
KNS có thể được xếp vào các nhóm KNS mang các tên gọi khác nhau. Có nhiều
cách phận loại như vậy, nhưng dù phân loại theo hình thức nào thì một số kĩ
năng vẫn được coi là những kĩ năng cốt lõi như
- Kĩ năng tự nhận thức
- Kĩ năng giao tiếp
- Kĩ năng xác định giá trị
- Kĩ năng ra quyết định
- Kĩ năng đặt mục tiêu…
Như vậy hướng nghiên cứu đề tài mà người nghiên cứu đưa ra chủ yếu sẽ chỉ
đề cập tới những kỹ năng cơ bản sau:

- Kỹ năng giáo tiếp
- Kỹ năng tự nhận thức
- Kỹ năng tự phục vụ và tự bảo vệ
- Kỹ năng kiên định và kỹ năng từ chối


- Kỹ năng ứng phó với tình huống căng thẳng
- Kỹ năng ra quyết định
1.2.2. Quan niệm về GD KNS cho HSTH
KNS bao gồm 3 kỹ năng cơ bản sau: Kỹ năng nền tảng, kỹ năng tâm lí xã hội
và kĩ năng giao tiếp ứng xử. Trong mỗi nhóm kỹ năng nêu trên lại gồm nhiều kỹ
năng khác, ví dụ như kỹ năng nhận thức, kỹ năng đương đầu với cảm xúc, kỹ
năng xử lí tình huống, kỹ năng tương tác, kỹ năng làm việc theo nhóm,…
Giáo dục kĩ năng sống có mục tiêu chính là làm thay đổi hành vi của nhười
học từ thói quen thụ động, có thể gây rủi ro, mang lại hậu quả tiêu cực chuyển
thành những hành vi mang tính xây dựng, tích cực và có hiệu quả để nâng cao
chất lượng cuộc sống cá nhân và phát triển bền vững cho xã hội. Đồng thời giáo
dục kỹ năng sống cần được thực hiện thống nhất trong nhiệm vụ giáo dục nhân
cách toàn diện ( theo các lĩnh vực văn hóa xã hội, theo các loại hình hoạt động
của con người, theo cả bốn trụ cột trong giáo dục thế kỉ XXI: học để biết, học để
làm, học để chung sống với mọi người, học để tự khẳng định mình) thông qua
quá trình dạy học và giáo dục vừa hướng tới mục tiêu hình thành khả năng tâm
lý xã hội để người học có thể vượt qua những thách thức của cuộc sống, vừa phát
triển toàn diện cuộc sống, vứa phát triển toàn diện kiến thức, thái độ, hành động,
phát triển toàn diện chỉ số thông minh và các lĩnh vực trí tuệ xúc cảm, trí tuệ xã
hội. Bên cạnh đó việc cùng sống và cùng hoạt động trong cộng đồng với nhiều
người khác đòi hỏi phải có sự chú ý đến quy luật xã hội và có sự chuẩn đoán phù
hợp về hành động của người khác để từ đó tổ chức, đặt kế hoạch và ra quyết định
của bản thân. Những yêu cầu này đòi hỏi con người phải có thành tố trí tuệ khác
nữa ngoài trí thông minh và trí sáng tạo, đó là trí xã hội. Trí tuệ xã hội là dạng trí



tuệ được định nghĩa là năng lực hoàn thành các nhiệm vụ trong hoàn cảnh có sự
tương tác với người khác.
Từ những phân tích về KNS và mục tiêu của GD KNS có thể rút ra quan niệm
về GD KNS như sau: “GD KNS là hình thành cách sống tích cực trong xã hội
hiện đại, là xây dựng những hành vi lành mạnh và thay đổi những thói quen hành
vi tiêu cực trên cơ sở giúp người học có cả kiến thức, thái độ, kĩ năng thích hợp”.
1.2.3. Các nguyên tắc GD KNS
1.2.3.1. Các nguyên tắc thay đổi hành vi
GD KNS có thể vận dụng các nguyên tắc thay đổi hành vi. Vì GD kỹ năng
sống chủ yếu hướng vào thay đổi thói quen, hành vi không tích cực của người
học. Thay đổi hành vi luôn là một việc khó. Viện hàn lâm khoa học Mỹ (NAS)
Đã nghiên cứu và giới thiệu mô hình bảy nguyên tắc thay đổi hành vi của con
người như sau:
(Nguyễn Thanh Bình, Giáo dục kỹ năng sống, giáo trình cao đẳng sư phạm,
NXB ĐHSP, 2007)
- Cung cấp thông tin là điểm khới đầu tất yếu của bất cứ sự cố gắng mong
muốn thay đổi hành vi nào. Thông tin cần dễ hiểu và phù hợp với người học
- Tập trung vào những thông điệp mang tính tích cực, hình thành, duy trì và
củng cố những hành vi mang tính tích cực. Từ đó hướng tới cuộc sống tốt hơn
cho mọi người trong cộng đồng.
- GD theo quy mô nhỏ và cần có một khoảng thời gian đủ lâu để động viên
người tham gia chấp nhận những hành vi mới, có điều kiện dạy mô hình các kỹ
năng cần thiết nhằm đạt được hành vi đó. Qua đó, tiếp tục củng cố những kỹ
năng mới cho đến khi người tham gia cảm thấy có thể thực hiện được những
hành vi lành mạnh.


- Khuyến khích tư duy phê phán trong các tình huống lựa chọn: Mỗi cá nhân

thường thích chấp nhận những hành vi mới nếu họ được lựa chọn nó trong số
những phương án có thể trên cơ sở tự phân tích, phê phán và tìm ra phương án
phù hợp với mình. Cho nên phương pháp giáo dục kỹ năng sống cần hướng tới
phát triển kỹ năng tư duy phê phán, giúp người tham gia có được nhiều sự lựa
chọn khi giải quyết những tình huống khó khăn.
- Tạo ra môi trường khuyến khích sự thay đổi hành vi: Đối với cá nhân sự thay
đổi sẽ dễ dàng hơn nếu môi trường cũng khuyến khích sự thay đổi. Điều đó đòi
hỏi các chương trình GD KNS cần chú trọng cộng tác với cộng đồng một cách
toàn diện để tạo ra môi trường khuyến khích sự thay đổi.
- Tăng cường sử dụng giáo dục đồng đẳng: Người mang ảnh hưởng có thể tạo
ra những thay đổi nên phương pháp đồng đẳng có thể được bổ sung vào các
chương trình GD KNS để tạo cơ sở thuận lợi cho sự thay đổi, cũng như chấp
nhận hành vi mẫu của người khác.
- Phòng ngừa sự lặp lại thói quen cũ, vì sự tái phạm có thể xảy ra, do đó cần
phải xây dựng theo con đường duy trì những hành mang tính tích cực sau khi họ
đã tái phạm.
1.2.3.2. Các nguyên tắc quan trọng đối với GD KNS
- Tổ chức các hoạt động cho người học để phản ánh tư tưởng trên suy nghĩ và
phân tích các trải ngiệm trong cuộc sống của hoc.
- Khuyến khích người học thay đổi giá trị, thái độ và cách ứng xử cũ để chấp
nhận những giá trị, thái độ, cách ứng xử mới.
- Đặt tầm quan trọng vào giải quyết vấn đề, không chỉ là ghi nhớ những thông
điệp hoặc các kỹ năng.


- Cung cấp cơ hội cho người học tóm tắt, tổng kết việc học của mình, giáo viên
không hướng dẫn thay họ.
- Người học vận dụng kỹ năng và kiến thức mới vào tình huống thực của cuộc
sống.
- Tổ chức các hoạt động học tập dựa trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau giữa người

dạy và người học.
1.2.4. Các con đường giáo dục kỹ năng sống
1.2.4.1.Giáo dục kỹ năng sống được thực hiện trước hết trong quá trình giáo
dục ở nhà trường
Năng lực tâm lý xã hội là một quá trình học tập được thực hiện thông qua
truyền thống văn hóa của gia đình và cộng đồng. Tuy nhiên tốc độ phát triển
kinh tế xã hội đã làm cho con người ngày càng biệt lập và mang tính cá nhân.
Gia đình trở nên nhỏ hơn và con người ít có cơ hội để học khả năng tâm lý xã
hội qua truyền thống và văn hóa cộng đồng hơn trước đây. Mọi người đều hiếu
khả năng tâm lý xã hội và phát triển. Vì vậy cần tăng cường năng lực tâm lý xã
hội cho người học ngay trong đời sống nhà trường thông qua GD KNS. Một số
nghiên cứu nhấn mạnh rằng KNS cần được dạy trong chương trình của nhà
trường hơn là nhiệm vụ biệt lập tách khỏi chương trình bình thường của nhà
trường.
(Brolin & Dalozen 1979, Cipani 1988, Cronin, Lord & Wending 1991, Lewis
& Taymens 1992)
Dạy KNS còn cần phải được chứa đựng trong tất cả các môn khoa học thông
qua nhấn mạnh mối quan hệ giữa học tập và các hoạt động diễn ra trong cuộc
sống hàng ngày. Đồng thời cần coi việc dạy kỹ năng xã hội với tư cách là một
khía cạnh của KNS.


1.2.4.2. GD KNS cho HS thông qua việc tiếp cận 4 trụ cột trong GD
Hội nghị giáo dục thế giới đã làm sáng tỏ một quan điểm rằng: GD muốn bồi
dưỡng năng khiếu và tiềm năng của cá nhân , phát triển cá tính của người học
giúp cải thiện đời sống của họ và thay đổi xã hội thì cần phải chú trọng đến việc
nắm được các kỹ năng. Bên cạnh các kỹ năng thực hành, kỹ năng thể chất, chúng
ta còn cần thêm các KNS – những kỹ năng làm cho con người có thể học và sử
dụng kiến thức để phát triển khả năng phân tích, phán đoán và từ đó con người
làm chủ được cảm xúc, cuộc sống và có quan hệ phù hợp với người khác.

(Nguyễn Thanh Bình. Giáo trình chuyên đề GD KNS, NXB ĐHSP, 2009,
Trang 40)
Chương trình hành động Dakar đã tuyên bố rằng: Tất cả thế hệ trẻ và những
người lớn có quyền được hưởng một nền GD đảm bảo cho người học “học để
biết, học để làm, học để chung sống với mọi người, học để tự khẳng định mình”.
Bốn trụ cột này chính là một cách tiếp cận KNS dựa trên sự kết hợp giữa khả
năng tâm lý xã hội (học để biết, học đẻ chung sỗng với mọi người, học để tự
khẳng định mình) với các kỹ năng thực hành, kỹ năng tâm vận động (học để
làm).
(Dakar Franmework for Action. World Education Forum. Senegan, 2000)
Do đó cần xác định rõ nội dung các vấn đề cần giáo dục theo cách tiếp cận
bốn trụ cột trong giáo dục thế kỷ XXI, nghĩa là cần xác định rõ những yêu cầu cụ
thể như những chỉ báo trong từng nội dung “học để biết”, “học đẻ chung sống
với mọi người”, “học để tự khẳng định mình” “học để làm” là gì để định hướng
hoạt động, đồng thời là cơ sở để đánh giá kết quả giáo dục kỹ năng sống.
1.2.4.3. Học KNS thông qua đào tạo chuyên biệt dưới hình thức hoạt động
ngoài giờ lên lớp


Mục tiêu của giáo dục KNS là nhằm giúp người học thay đổi cách ứng xử của
mình theo hướng tích cực, hiệu quả. Chỉ có cách học dựa trên tự khám phá bản
thân hoặc tự lĩnh hội thì mới giúp con người thay đổi căn bản hành vi của mình.
Bản chất của nó chính là sự trải nghiệm.
Hoạt động ngoài giờ lên lớp có ưu thế là điều kiện là thời gian thoải mái hơn
giờ lên lớp, nên vận dụng giáo dục trải nghiệm thuận lợi hơn. Chính vì vậy, khi
thiết kế nội dung và tổ chức giáo dục KNS qua hoạt động ngoài giờ lên lớp cần
quan tâm khai thác kiến thức, kinh nghiệm và kỹ năng đã có của học sinh.
Quá trình học nhấn mạnh đến kỹ năng sống được phân tích như sau:
(Guidelines for a Life Skills – Baseed Learning Approach to Develop Health
Related to and Pandemic Influenza)

Bước 1: Khám phá
- Mục tiêu: Khuyến khích người học xác định những khái niệm, kỹ năng liên
quan đến bài học.
- Tiến trình: Giáo viên và người học lập kế hoạch để tạo ra trải nghiệm. Giáo
viên giúp người học xử lý các kiến thức đó.
- Các kỹ thuật quan trọng bao gồm: Động não, phân loại, thảo luận, phản hồi,
những câu hỏi đóng mở. Vai trò của giáo viên là lập kế hoạch, bắt đầu, hỏi và
ghi nhận. Vai trò của người học là chia sẻ, trao đổi và phân tích kiến thức của
học bằng cách trả lời các câu hỏi quá trình và ghi nhận thông tin.
Bước 2: Kết nối
- Mục tiêu: Giới thiệu những thông tin và kỹ năng mới bằng cách xây dựng
cầu nối để gắn kết kinh nghiệm trước đó của người học (cái đã biết) và cái chưa
biết (thông tin mới). Kết nối kinh nghiệm của người học và chủ đề bài học.


- Tiến trình: Giáo viên giới thiệu mục tiêu của bài học và liên hệ với những
kiến thức thu nhập được chia sẻ trong bước khám phá. Giáo viên sau đó tổ chức
giới thiệu những thông tin mới và kiểm tra sự nắm bắt thông tin mới đồng thời
cung cấp ví dụ bổ sung ( nếu cần) để người học có thể hiểu được.
- Các kỹ thuật dạy học quan trọng bao gồm: Chia nhóm, trình bày của người
học, thảo luận nhóm, sử dụng các thông tin dạy học, sử dụng mẫu đóng vai…
Giáo viên giả định vai trò của nhà giáo dục, còn người học đóng vai trò của
người tiếp nhận và phản hồi quan điểm của mình, hỏi và trình bày thông tin.
Bước 3: Thực hành
- Mục tiêu: Tạo cơ hội cho người học thực hành sử dụng những kiến thức và
kỹ năng mới trong ngữ cảnh đầy đủ ý nghĩa. Giáo viên đưa ra những hướng dẫn
để người học tránh được những cách thực hiện không đúng do chưa hiểu.
- Tiến trình: Giáo viên giới thiệu hoạt động mà để thực hiện nó người học phải
sử dụng thông tin và kỹ năng mới. Người học làm việc theo nhóm, theo cặp hoặc
cá nhân để hoàn thành nhiệm vụ. Giáo viên hỏi các câu hỏi để người học phản

ánh họ học như thế nào.
- Các kỹ thuật dạy học quan trọng: Kỹ thuật rất đa dạng dựa trên các hoạt
động bao gồm các trò chơi ngắn, viết sáng kiến, mô phỏng, câu hỏi, trò chơi và
làm việc theo nhóm. Vai trò của giáo viên là đưa ra các hướng dẫn ,là người tạo
điều kiện và giúp đỡ. Người học đóng vai trò của người hoạt động và khám phá.
Bước 4: Vận dụng
- Mục tiêu: Cung cấp cơ hội cho người học thích hợp mở rộng và vận dụng
thông tin và kỹ năng mới vào tình huống mới.
- Tiến trình: Người dạy và người học lập kế hoạch hoạt động ở các lĩnh vực
nội dung môn học khác nhau mà nó đòi hỏi vận dụng kiến thức và kỹ năng mới.


Người học làm việc theo nhóm, theo cặp hoặc cá nhân để hoàn thành nhiệm vu.
Người dậy va người học đòi hỏi và trả lời các câu hỏi quá trình đánh giá kết quả
học tập.
- Kĩ thuật dậy học quan trọng: Bao gồm phương pháp học tập hợp tác, trình
bày nhóm hoặc cá nhân và hoạt động nhóm. Giáo viên đóng vai trò hỗ trợ và
đánh giá, người học đóng vai trò người lập kế hoạch, người sáng tạo, thành
nhóm, người giải quyết vấn đề, người trình bày và người đánh giá.
Giáo dục KNS là làm thay đổi thoái quen theo hướng tích cực, để co thoái qen
được thay đổi một cách bền vững thi nhà trường không chỉ cần giáo dục KNS
qua bài học, hoạt động ngoài giờ lên lớp mà còn cần phải phối hợp với cộng
đồng để tổ chức các hoạt động thông qua việc giải quyết vấn đề của cộng đồng.
1.2.4.4. Thông qua dịch vụ tham vấn
Đó là một quá trình trợ giúp trong đó người cán bộ được đào tạo về chuyên
môn sử dụng các kỹ năng để giúp đỡ thân chủ khai thác tình huống, xác định và
triển khai những giải pháp khả thi trong giới hạn cho phép để vượt qua những
khó khăn mình gặp phải.
Nhà GD dù có thành công trong việc học sinh nhận ra cách suy nghĩ của mình
có thể làm ảnh hưởng đến hành vi thành công của chính mình thì vẫn cần thử

thách niềm tin và những suy nghĩ không lành mạnh để từ đó phát triển một triết
lý sống niềm tin mới hiệu quả. Chính triết lý và niềm tin đó làm điểm tựa và chi
phối cho những thái độ và hành vi tích cực mang tính xây dựng làm cho bản thân
học sinh có KNS.
1.2.5.Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục kỹ năng sống
Để đảm bảo chất lượng GD nói chung và chất lượng GD KNS nói riêng cần
phải xem xét đến các yếu tố sau:


1.2.5.1. Tương tác giữa người dạy và người học
Nhìn chung, trung tâm của mọi việc trong GD là tương tác giữa người dạy và
người học. Điều đó có nghĩa là chất lượng được tạo ra trong quá trình tương tác
này.
(Life skills The bridge to human kapabilities, UNESCO euaton sector
positison paper, Draft 13 UNESCO 6/2003)
1.2.5.2. Nội dung chương trình và tài liệu dạy học
Nội dung GD cần phù hợp với kinh nghiệm, nhu cầu của cả HS nam, nữ cũng
như nhu cầu của xã hội. Các chương trình KNS về bất cứ chủ đề nào được coi là
hiệu quả thì cần phải đưa ra mô hình thực hành về kỹ năng tư duy phê phán, kỹ
năng giải quyết vấn đề , kỹ năng ra quyết định ( học để biết), các kỹ năng để tự
kiểm soát bản thân, đương đầu với những cú sốc, tình cảm (học để tự khẳng
định) và các kỹ năng giao tiếp liên nhân cách (học để chung sống với mọi người)
cũng như các kỹ năng thực hành (học để chung sống với mọi người) cũng như
các kỹ năng thực hành (học để làm) để thực hiện những hành vi mong muốn.
Chương trình và tài liệu day – học là những thành tố cốt lõi của giáo dục, là
một phần bổ trợ cho người giáo viên giỏi và người học muốn tìm tòi. Do đó, điều
quan trong với người biên soạn chương trình là phải tính đến cả người dạy và
người học khi xây dựng tài liệu dử dung cách tiếp cận KNS, gắn kết trực tiếp các
ví dụ, hình ảnh minh họa với các kinh nghiệm và hứng thú của cả học sinh nam
và nữ. Ngoài các tài liệu thông thường như: tranh ảnh, tạp chí, sách,… vẫn cần

những phương tiện day học như đĩa (CD Rom) và các đa phương tiện biểu đạt
khác (các chương trình vô tuyến và truyền thanh HS).
1.2.5.3. Quá trình và môi trường học tập


Môi trường học tập cần phải lành mạnh, an toàn và cần có khả năng bảo vệ.
Tiếp cận KNS là cách tiếp cận dựa trên cá nhân và hành động của người đó. Để
cách tiếp cận đạt hiệu quả tôt nhất thì cần phải coi trọng môi trường GD không
chỉ trong nhà trường mà còn ở gia đình và cộng đồng. Cần phải kết hợp đào tạo
kỹ năng sống với các điều kiện bổ sung như chính sách phát triển một môi
trường tâm lý xã hội thuận lợi và gắn với các dịch vụ của cộng đồng.
1.2.6. Giáo dục tiểu học với vấn đề GD KNS
“Trường tiểu học là cơ sở giáo dục phổ thông của hệ thống giáo dục quốc
dân, có tư cách pháp nhân, có tài khoản và con dấu riêng”.
(Điều lệ trường tiểu học, Điều 2, Chương 1)
Nhà trường phải thực hiện chức năng kép vừa dạy chữ, vừa dạy cách làm
người cho các em. Cụ thể, vừa trang bị cho các em kiến thức để hòa nhập, để tiếp
tục học lên lớp trên qua đó hình thành nhân cách, đạo đức cho các em để các em
có thể sống và phát triển được trong xã hội luôn biến động như hiện nay.
GD KNS trong nhà trường tiểu học không được biên soạn thành một môn học
đọc lập hay một lĩnh vực học tập cụ thể mà được tiếp cận thông qua việc thể hiện
những nét đổi mới trong chương trình tiểu học hiện nay và qua việc tích hợp
trong một số môn học có tiềm năng như: môn Đạo đức, môn TN & XH (ở các
lớp 1,2,3), môn Khoa học (ở các lớp 4,5) và trong các hoạt động ngoài giờ lên
lớp.
Môn Đạo đức, trên cơ sở hướng tới mục tiêu cao nhất là hình thành cho học
sinh tiểu học những kỹ năng và hành vi đúng đắn liên quan đến các chuẩn mực
đạo đức. Hơn thế các bài học đạo đức ở tiểu học cũng đã chứa đựng những nội
dung về GD KNS. Thêm vào đó để hình thành các hành vi và chuẩn mực đạo
đức cho học sinh thì các phương pháp học tập chủ động như: động não, sắm vai,



thảo luận nhóm, rèn luyện,…cũng thường xuyên được sử dụng khi dạy môn học
này, điều này góp phần làm cho việc giáo dục KNS trở nên dễ dàng và hiệu quả
hơn.
Môn TN & XH (lớp 1,2,3), môn Khoa học (lớp 4,5) cũng là những môn học
có chú trọng nhiều đến GD KNS . Trong đó, KNS chủ yếu được GD qua chủ đề
“Con người và sức khỏe” (lớp 1, 2,3,4,5) và chủ đề “Xã hội” (lớp 1, 2, 3).
Những KNS cụ thể mà người nghiên cứu đưa ra sau đây được tích hợp một
cách tương đối đầy đủ qua các môn học: Đạo đức, TN & XH, Khoa học, đó là:
a. Kỹ năng giao tiếp
Hiểu được các quy tắc giáo tiếp chung như: chào hỏi, cảm ơn, xin lỗi, nói lời
yêu cầu, đề nghị, biết cách ứng xử phù hợp, bày tỏ sự cảm thông, chia sẻ, giúp
đỡ,…với một số đối tượng gần gũi, quen thuộc với các em như: thầy cô giáo, bạn
bè, người thân trong gia đình hoặc đối với những đối tượng đặc biệt như phụ nữ
có thai, người già, người có hoàn cảnh khó khăn, người nước ngoài, người bị
nhiễm HIV/AIDS…
b. Kỹ năng tự nhận thức
Tự nhìn nhận, đánh giá bản thân để xác định được mặt mạnh, mặt yếu của
mình; nhận biết sự thay đổi về tâm lý và sinh lý của bản thân khi bước vào tuổi
vị thành niên. Từ đó hình thành những thái độ, hành vi đúng đắn như: không
hoảng hốt, không lo sợ khi có sự thay đổi về sinh lý, có ý thức giữ vệ sinh ở tuổi
dậy thì, có lối sống lành mạnh về thể chất và tinh thần; hiểu rõ vị trí của mình
trong các mối quan hệ ở nhà, ở trường cũng như ngoài xã hội thông qua các hoạt
động giao tiếp hàng ngày với các thầy cô giáo, bạn bè, người thân và những
người xung quanh.
c. Kỹ năng tự phục vụ và tự bảo vệ



×