Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Nghiên cứu một số chỉ số sinh học của học sinh trường trung học phổ thông quế võ số 1, tỉnh bắc ninh (LV00620)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (675 KB, 107 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nghiên cứu các chỉ số sinh học người bình thường là công tác nghiên
cứu cơ bản, nhằm cung cấp thông tin khoa học cần thiết không chỉ cho các
nghiên cứu y sinh học phục vụ công tác bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ nhân
dân mà còn sử dụng trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, an ninh và quốc phòng.
Năm 1975, cuốn sách “Hằng số sinh học người Việt Nam” do Nguyễn
Tấn Gi Trọng, nguyên chủ nhiệm bộ môn sinh lý trường Đại học Y Hà Nội
làm chủ biên, được xuất bản lần đầu tiên ở nước ta [54]. Cuốn sách đã được
các nhà khoa học đón nhận và hoan nghênh vì đã đề cập đến hầu hết các giá
trị sinh học cơ bản của con người.
Năm 2003, cuốn “Các giá trị sinh học người Việt Nam bình thường thập
kỷ 90 - thế kỷ XX” được xuất bản do Lê Ngọc Trọng làm chủ biên [2]. Hai
cuốn sách trên đã được dùng làm tài liệu tham khảo cho nhiều công trình khoa
học trong và ngoài nước.
Tuy nhiên, với tốc độ phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ đòi
hỏi Việt nam phải cập nhật các giá trị sinh học người bình thường, trước mắt
theo từng thập kỷ. Hơn nữa, tình hình kinh tế xã hội của đất nước đang trên
đà phát triển, trình độ cán bộ khoa học ngày một nâng cao hơn, trang thiết
bị nghiên cứu hiện đại hơn, đó là những tiền đề chính để xác định sự cần
thiết phải có nghiên cứu cơ bản về các giá trị sinh học người Việt Nam qua
từng thập kỷ, trên nhiều đối tượng, lứa tuổi, vùng miền. Những nghiên cứu
đó nhằm phục vụ cho việc hoạch định chiến lược con người trong thế kỷ
XXI, góp phần thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại
hoá đất nước.


2
Đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về chỉ số sinh học người Việt


Nam, các công trình cho thấy các chỉ số sinh học có sự khác nhau theo lứa
tuổi, giới tính, dân tộc....Vì thế, nghiên cứu các chỉ số sinh học phải được tiến
hành thường xuyên.
Riêng với Bắc Ninh các công trình nghiên cứu về chỉ số sinh học của học
sinh trung học phổ thông và đặc biệt ở huyện Quế Võ còn rất ít. Vì vậy chúng
tôi thực hiện đề tài “Nghiên cứu một số chỉ số sinh học của học sinh
trường trung học phổ thông Quế Võ số 1, tỉnh Bắc Ninh”.
2. Mục tiêu
Xác định một số chỉ số sinh học của học sinh trường THPT Quế Võ 1,
tỉnh Bắc Ninh. Trên cơ sở đó tìm ra mối liên hệ giữa sự tăng trưởng hình thái
và chức năng sinh lý.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Nghiên cứu một số chỉ số hình thái thể lực của học sinh trường
THPT Quế Võ số 1,tỉnh Bắc Ninh tuổi từ 16 – 18.
3.2. Nghiên cứu một số chỉ số chức năng sinh lý của cơ quan tuần
hoàn, hô hấp của học sinh trường THPT Quế Võ số 1, tỉnh Bắc Ninh tuổi từ
16 – 18.
3.3. Nghiên cứu mối tương quan giữa một số chức năng hình thái và
sinh lý của học sinh theo lứa tuổi và giới tính.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn.
- Cho thấy thực trạng một số chỉ số sinh học của học sinh tuổi từ 16 đến
18 trường THPT Quế Võ số 1, tỉnh Bắc Ninh.
- Các kết quả thu được trong đề tài nghiên cứu này có thể sử dụng cho
việc nâng cao thể chất của học sinh.


3
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU


1.1. Các nghiên cứu về hình thái - thể lực cơ thể người
1.1.1. Các vấn đề chung về hình thái - thể lực cơ thể người
Tầm vóc và thể lực là những khái niệm phản ánh cấu trúc tổng hợp của
cơ thể đặc biệt có liên quan chặt chẽ đến khả năng, sức lao động và thẩm mỹ
của con người. Vì vậy, các chỉ số này từ lâu đã được nhiều nhà khoa học quan
tâm [23].
Trong mối quan hệ giữa môi trường và sức khoẻ, các đặc điểm hình thái
thể lực được coi là thước đo một mặt về sức khoẻ, mặt khác về khả năng lao
động. Cùng với sự phát triển của y học và sinh học, các công trình nghiên cứu
hình thái thể lực được bắt đầu từ rất sớm trong lịch sử và đến nay vẫn là vấn
đề thời sự khoa học về con người nên việc nghiên cứu hình thái thể lực ngày
càng phát triển mạnh mẽ [23].
Chiều cao đứng của cơ thể là dấu hiệu được nhận xét sớm nhất trong hầu
hết các lĩnh vực ứng dụng của nhân trắc học trước cả giai đoạn hình thành
khoa học nhân trắc. Ý nghĩa phổ biến hơn cả của chiều cao là ở chỗ được coi
như biểu hiện của thể lực và nó là một chỉ tiêu quan trọng trong công tác
tuyển chọn vào quân đội, tuyển học sinh, tuyển thợ... [23]
Cân nặng cũng được khảo sát thường xuyên trong các nghiên cứu thể lực
của con người. Cân nặng gồm hai phần: phần cố định chiếm 1/3 khối lượng
cơ thể gồm có xương, da, nội tạng, thần kinh...và phần không cố định chiếm
2/3 khối lượng cơ thể là khối lượng cơ, khối lượng mỡ và nước [46]. Ở người
trưởng thành, sự tăng cân chủ yếu là tăng phần không cố định và có liên quan
chặt chẽ đến chế độ dinh dưỡng [6], [16].


4
Vòng ngực cũng được coi là một đặc trưng cơ bản của thể lực. Những
người đầu tiên lưu ý đến số đo vòng ngực là các bác sĩ lâm sàng, ở đầu thế kỷ
XIX, khi họ nhận thấy có sự liên quan giữa mức độ phát triển của lồng ngực
và các bệnh hô hấp. Dần dần cuối thế kỷ XIX, vòng ngực trở thành chỉ tiêu

quan trọng trong các cuộc tuyển chọn binh lính và nhân công lao động [23].
Trong khi tiếp tục khảo sát những đặc điểm hình thái có liên quan đến
việc đánh giá mức độ tăng trưởng và phát triển thể lực, người ta dần dần nhận
ra rằng ở mức độ khác nhau trong những hoàn cảnh khác nhau, với các loại
hình cơ thể khác nhau, các chỉ tiêu hình thái có tương quan theo nhiều mức
độ. Thể lực không chỉ thể hiện đồng nhất ở từng loại chỉ tiêu riêng rẽ, ngược
lại là tổng hoà của một số yếu tố cấu thành. Người ta bắt đầu suy nghĩ đến
việc tính các chỉ số dựa trên một số chỉ tiêu quan trọng nhất và phương pháp
đánh giá thể lực bằng các chỉ số ra đời. Chỉ số thể lực là tổng hợp các tương
quan của các dấu hiệu nhân trắc được biểu thị dưới dạng công thức toán học.
Các chỉ số khác nhau bao gồm các dấu hiệu khác nhau [23].
Nhiều công trình nghiên cứu về thể lực đã cho thấy sự khác nhau giữa trẻ
em thành phố và trẻ em nông thôn, giữa nam và nữ. Trên thực tế, sự phát triển
thể lực của trẻ em phụ thuộc rất nhiều yếu tố và là kết quả của sự tác động qua
lại giữa cơ thể và môi trường [33], [37], [50].
1.1.2. Nghiên cứu chỉ số hình thái - thể lực trên thế giới
Từ thế kỷ XIII, Tenon đã coi cân nặng là một chỉ số quan trọng để đánh
giá thể lực. Sau này các nhà giải phẫu học kiêm hoạ sỹ thời phục hưng
(Leonard de Vinci; Mikenlangielo; Raphael) đã tìm hiểu rất kỹ cấu trúc và
mối tương quan giữa các bộ phận trong cơ thể người để đưa vào tác phẩm hội
hoạ của mình. Mối quan hệ giữa hình thái với môi trường sống cũng đã được
nghiên cứu tương đối sớm mà đại diện cho nó là các nhà nhân trắc học
Ludman, Nold và Volanski (theo [25] ).


5
Rudolf Martin, người đặt nền móng cho nhân trắc học hiện đại qua hai
tác phẩm nổi tiếng “Giáo trình về nhân trắc học” và “Kim chỉ nam đo đạc cơ
thể và xử lý thống kê”. Trong các công trình này, ông đã đề xuất một số
phương pháp và dụng cụ đo đạc các kích thước của cơ thể, cho đến nay vẫn

được sử dụng [24]. Sau Rudolf Martin đã có nhiều công trình bổ sung và hoàn
thiện thêm các đề xuất của ông cho phù hợp với từng nước. Vấn đề nhân trắc
học còn được thể hiện qua các công trình của P.N Baskirov- “Nhân trắc học”,
Evan Dervael- “Nhân trắc học”, công trình của Bunak, A.M Uruxon. Song
song với sự phát triển của các bộ môn di truyền, sinh lý học, toán học...việc
nghiên cứu nhân trắc học ngày càng hoàn chỉnh và đa dạng hơn. Vấn đề này
được thể hiện qua các công trình của X. Galperin, Tomiewicz, Tarasov,
Tomner, M.Sempé, G.Pédron, M.P. Rog-Pernot (theo [25]).
Nghiên cứu cắt ngang là một hướng đi sâu trong quá trình nghiên cứu sự
tăng trưởng về mặt hình thái, đó là nghiên cứu sự tăng trưởng của cơ thể và
các đại lượng có thể đo lường được bằng kỹ thuật nhân trắc [51]. Công trình
đầu tiên trên thế giới cho thấy, sự tăng trưởng một cách hoàn chỉnh ở các lớp
tuổi từ 1 đến 25 là luận án tiến sỹ của Christian Fridrich Jumpert người Đức
vào năm 1754. Công trình này được nghiên cứu theo phương pháp cắt ngang
(Cross - sectional study) được dùng phổ biến do có ưu điểm là rẻ tiền, nhanh
và thực hiện được trên nhiều đối tượng cùng một lúc (theo [25]).
Nghiên cứu dọc đầu tiên về chiều cao của Philiuert Guéneau de
Montbeilard thực hiện trên con trai mình từ năm 1759 đến năm 1777. Trong
18 năm liên tục, mỗi năm được đo 2 lần, cách nhau 6 tháng. Đây là một
nghiên cứu tốt nhất được tiến hành cho đến nay và được trích dẫn trong các
nghiên cứu về tăng trưởng trong suốt thế kỷ XIX (theo [51]).
Sau đó còn có nhiều công trình khác của Edwin Chadwick ở Anh,
Carlschule ở Đức, H.P. Bowditch ở Mỹ; Paul Godin ở Pháp... Năm 1977, hiệp


6
hội các nhà tăng trưởng học đã được thành lập đánh dấu một bước phát triển
mới của việc nghiên cứu vấn đề này trên thế giới (theo [25]) .
Như vậy, từ nhiều năm nay trên thế giới đã có nhiều công trình nghiên
cứu về thể lực trong đó có cả vấn đề đánh giá chung mức độ béo gầy. Song

việc nghiên cứu cụ thể về bề dày lớp mỡ dưới da, khối nạc khối mỡ lại chỉ
mới được đặt ra trong những năm gần đây. Năm 1955, Tanner và Whitehouse
đã giới thiệu một thước đo bề dày lớp mỡ dưới da một cách chính xác được
gọi là Harpenden Skinfold caliper. Với thước đo này, nhiều công trình nghiên
cứu về vấn đề này đã ra đời (theo [14]).
Năm 1969 Wilmore và Behnke đã đưa ra công thức đánh giá tỷ trọng cơ
thể, từ đó tác giả đề nghị công thức tính khối mỡ (Fat body mass), khối nạc
(Lean body mass) (theo [14]).
1.1.3. Nghiên cứu chỉ số hình thái - thể lực ở Việt Nam
Ở Việt Nam, nhân trắc học được bắt đầu từ những năm 30 của thế kỷ
trước tại Ban nhân trắc học thuộc Viện Viễn đông Bác cổ. Kết quả nghiên cứu
nhân trắc đã được công bố trong các công trình nghiên cứu của Viện giải phẫu
học, Đại học Y khoa Đông Dương 1936 – 1944. Cuốn “Hình thái học và giải
phẫu học mỹ thuật” là một trong những tác phẩm đầu tiên của bác sĩ Đỗ Xuân
Hợp (cộng tác với Huard) (theo [25]).
Từ năm 1975 đến nay, việc nghiên cứu hình thái học đã được đẩy mạnh
và chuyên môn hoá, thể hiện qua việc thành lập bộ môn hình thái học ở một
số trường đại học và viện nghiên cứu. Các hội nghị về lĩnh vực này đã được tổ
chức nhiều lần, đặc biệt là vào các năm 1967 và 1972, nhiều chương trình cấp
quốc gia và địa phương được thực hiện. Đó là công trình “Hằng số sinh học
người Việt Nam” năm 1975 do Nguyễn Tấn Gi Trọng chủ biên [54]. Đây
cũng là công trình đầu tiên nêu khá đầy đủ các thông số về thể lực người Việt
Nam ở mọi lứa tuổi, trong đó có lớp tuổi từ 16 đến 18. Đây mới là các chỉ số


7
sinh học của người miền Bắc (do hoàn cảnh lịch sử), song nó thực sự là chỗ
dựa đáng tin cậy cho các nghiên cứu sau này trên người Việt Nam. Sau này
cũng đã có một số công trình nghiên cứu về các đặc điểm sinh thể người Việt
Nam [55], [59].

Ở miền Bắc trong những năm 1975 và 1976, Nguyễn Quang Quyền và
Lê Gia Vinh [42], [43], [44] đã tiến hành nghiên cứu tầm vóc thể lực của
2100 người (816 nam và 1284 nữ), tuổi từ 16-70 theo những kỹ thuật và
phương pháp tiêu chuẩn trong nhân trắc học. Qua nghiên cứu, các tác giả rút
ra nhận định về sự tăng trưởng tầm vóc thể lực theo lứa tuổi như sau: ở nam,
các biểu hiện tuổi dậy thì xuất hiện lúc 15-16 tuổi, trong lớp tuổi 16-25 tầm
vóc thể lực phát triển mạnh và đạt cao nhất ở lớp tuổi 26-40. Ở nữ, quy luật
tăng trưởng hơi khác, dậy thì sớm hơn (trước tuổi 15) rồi tầm vóc thể lực phát
triển mạnh và đạt cực đại vào lớp tuổi từ 16-25. Như vậy nữ dậy thì sớm hơn
và cũng già sớm hơn so với nam giới [47].
Năm 1977, lần đầu tiên ở Việt Nam, Nguyễn Quang Quyền, Lê Gia Vinh
và Trịnh Hùng Cường [45] đã nghiên cứu một cách hệ thống bề dày lớp mỡ
dưới da bằng compas Harpenden Skinfold Caliper theo sơ đồ 36 điểm đo của
Erdheim, cùng với các chỉ số khối nạc, khối mỡ, khối cơ thể…bề dày lớp mỡ
dưới da là một chỉ số đánh giá tình trạng dinh dưỡng. Các chỉ số này phần nào
cũng phản ánh tầm vóc thể lực của cơ thể.
Năm 1989, Thẩm Thị Hoàng Điệp và cộng sự [20] đã nghiên cứu về sự
phát triển chiều cao đứng, vòng đầu, vòng ngực của người Việt Nam từ 1 đến
55 tuổi ở 8 tỉnh thuộc 3 miền của đất nước. Kết quả nghiên cứu cho thấy, các
chỉ số thu được trong công trình này đều cao hơn hẳn so với các chỉ số nghiên
cứu trước đó. Các tác giả cho thấy chiều cao đứng ở trẻ nam lứa tuổi 16-18
tăng từ 159,94 ÷ 162,15 cm; ở nữ chiều cao đứng tăng từ 151,5 ÷ 152,73 cm;
vòng ngực của nam tăng từ 74,89 ÷ 77,9 cm, của nữ tăng từ 75,42 ÷ 79,09


8
cm. Như vậy, ở lứa tuổi từ 16÷18 chiều cao đứngcủa nam vượt lên hẳn so với
nữ, có lẽ do thời kỳ này nam đã bước vào tuổi dậy thì. Theo khoa học, vì nam
dậy thì muộn hơn nữ nên lứa tuổi 15÷18 chiều cao đứng của nam vượt trội so
với nữ. Trong khi đó kích thước vòng ngực của trẻ nữ luôn cao hơn trẻ nam,

điều này cũng phù hợp với sự xuất hiện của các đặc điểm sinh dục thứ cấp ở
cơ thể nữ khác với cơ thể nam.
Năm 1992, bằng phương pháp nghiên cứu dọc đối với 31 chỉ số nhân trắc
học của 100 học sinh phổ thông từ 16-17 tuổi ở Hà Nội, Thẩm Thị Hoàng
Điệp [19] đã đưa ra những kết luận rất đáng chú ý về đặc điểm hình thái và
thể lực của học sinh phổ thông. Tác giả kết luận rằng chiều cao đứng của học
sinh phát triển mạnh nhất lúc 11-12 tuổi ở nữ và 13-15 tuổi ở nam; còn cân
nặng phát triển mạnh nhất lúc 13 tuổi ở nữ và 15 tuổi ở nam. Tác giả cũng
nhận thấy rằng, quy luật phát triển theo giai đoạn chỉ phù hợp với quy luật
chiều cao còn quy luật phát triển kích thước các vòng gần giống với quy luật
phát triển cân nặng.
Năm 1994, Trịnh Văn Minh, Trần Sinh Vương và cộng sự [38] đã nghiên
cứu một số chỉ tiêu nhân trắc của cư dân trưởng thành (từ 16 tuổi trở lên tại
phường Thượng Đình và xã Định Công- Hà Nội) gồm 595 nam và 841 nữ.
Kết quả cho thấy về chiều cao trong mỗi giới đều có xu hướng tăng trong đó
nam cao hơn nữ rõ rệt ở mọi lứa tuổi. Tương tự, với chỉ số cân nặng, nam
cũng tăng hơn nữ ở mọi lứa tuổi. Vòng ngực trung bình và vòng cánh tay
phải co cũng cao hơn nữ, chứng tỏ sức mạnh về thể lực và cơ bắp. Các chỉ
số BMI, QVC, Pignet của nữ tốt hơn nam (do lợi thế về dinh dưỡng cộng với
chiều cao thấp). Như vậy, cả hai chỉ số Pignet và QVC đều chưa đánh giá
đầy đủ sức mạnh cơ bắp mà vẫn chịu sự ảnh hưởng của sự tích mỡ. Đặc biệt
QVC của nữ tốt hơn của nam nhiều do nữ có chiều cao thấp và vòng đùi lớn
hơn nam.


9
Năm 1995, Nguyễn Đức Hồng đã nghiên cứu “Đặc điểm nhân trắc người
Việt Nam lứa tuổi lao động giai đoạn 1981-1985” [24] và đi đến kết luận là
người Việt Nam trong lứa tuổi lao động có chiều cao thuộc loại trung bình
thấp của thế giới, nhẹ cân, có phần thân trên thuộc loại trung bình hơi dài, một

số chỉ số nhân trắc hình thái có số đo trung bình tăng dần từ bắc vào nam.
Từ năm 1991-1995, nhóm tác giả Trần Văn Dần và cộng sự [10] đã
nghiên cứu trên học sinh một số tỉnh thành Hà Nội, Vĩnh Phúc, Thái Bình và
nhận thấy so với dẫn liệu trong cuốn “Hằng số sinh học người Việt Nam” [54]
thì sự phát triển chiều cao của trẻ em 8-14 tuổi tốt hơn, đặc biệt là trẻ em
thành phố, thị xã; còn ở khu vực nông thôn chưa thấy có sự thay đổi đáng kể.
Năm 1996, nhóm tác giả A. Goran, Nguyễn Công Khanh và cộng sự [22]
nghiên cứu trên học sinh Hà Nội về chiều cao, cân nặng, BMI cho thấy cả 3
chỉ số này đều tăng theo tuổi. Điều này cũng thể hiện trong các nghiên cứu
khác [1], [28], [34].
Trần Thị Loan [33] từ năm 1999 đến 2002 nghiên cứu trên học sinh Hà
Nội từ 6-17 tuổi đã nhận thấy các chỉ số hình thái gồm chiều cao đứng, cân
nặng, vòng ngực của học sinh lớn hơn so với kết quả nghiên cứu của các tác
giả từ thập kỷ 80 trở về trước và lớn hơn so với học sinh các tỉnh Thái Bình,
Hà Tây, ngoại thành Hải Phòng. Điều này chứng tỏ điều kiện sống đã ảnh
hưởng đến các chỉ số hình thái thể lực của học sinh.
Trong quyển “Các giá trị sinh học người Việt Nam bình thường thập kỷ
90- thế kỷ XX” [2] các nghiên cứu cũng cho thấy ở lứa tuổi 16-18 có sự khác
biệt khá rõ về nhiều chỉ số hình thái, nhân trắc giữa nam và nữ. Cụ thể là
chiều cao đứng của nam tăng từ 160,29÷163,4 cm, của nữ tăng từ
152,45÷152,77 cm. Cân nặng của nam tăng từ 45,33÷49,71 kg, của nữ tăng từ
42,13÷43,84 kg. Vòng ngực trung bình của nam tăng từ 71,44÷75,08 cm, của
nữ tăng từ 69,18÷72,61 cm. Vòng cánh tay phải co của nam tăng từ


10
23,13÷25,71 cm, của nữ tăng từ 22,48÷23,87 cm. Công trình này cũng đã tiến
hành nghiên cứu một số chỉ số nhân trắc của trẻ lứa tuổi 16-18 và cho thấy
BMI ở nam tăng từ 17,67÷18,64 cm, ở nữ tăng từ 18,14÷19,05 cm. Chỉ số
Pignet ở nam giảm từ 43,29÷41,27; ở nữ giảm từ 41,19÷36,35. Chỉ số QVC ở

nam giảm từ 16,63÷11,44, ở nữ giảm từ 9,05÷6,04.
Năm 2006, Trung tâm tâm lý học và sinh lý lứa tuổi thuộc Viện chiến
lược và Chương trình giáo dục [57] đã tiến hành nghiên cứu các chỉ số cơ bản
về sinh lý và tâm lý của học sinh phổ thông lứa tuổi từ 8-20. Kết quả nghiên
cứu chiều cao đứng ở học sinh nam và nữ ở mọi lứa tuổi 11-15 và nữ ở mọi
lứa tuổi (trừ 16 và 18) đã thoát khỏi trạng thái còi cọc. Các số liệu về cân
nặng cho thấy sự phân hoá sâu sắc ngay trong nhóm trẻ cùng độ tuổi, bên
cạnh trẻ nhẹ cân đã xuất hiện những trẻ có dấu hiện béo phì, đặc biệt là các trẻ
ở các thành phố lớn, chỉ số Pignet cũng tăng. Như vậy là đã có sự chuyển biến
tích cực về mặt thể lực của học sinh trong giai đoạn hiện nay. Đồng thời, các
tác giả cũng lưu ý đến BMI ở học sinh nông thôn và nhận thấy tình trạng dinh
dưỡng ở nông thôn còn hạn chế.
Nhìn chung, các nghiên cứu gần đây của học sinh, sinh viên và thanh
niên Việt Nam đều cho thấy sự tăng lên đáng kể so với số liệu trong các
nghiên cứu từ những năm trước. Đặc biệt là từ sau năm 1975 đến nay, tình
hình kinh tế, văn hoá, xã hội của nước ta có nhiều thay đổi tốt hơn chắc chắn
đã ảnh hưởng đến tầm vóc, sức khoẻ của con người Việt Nam. Học sinh thành
phố thường có các chỉ số nhân trắc tốt hơn ở nông thôn [5], [9], [10]. Để giải
thích sự khác biệt này có tác giả [31] cho rằng, yếu tố cơ bản làm xuất hiện
hiện tượng này là chất lượng cuộc sống. Do điều kiện sống ở thành phố được
cải thiện nên học sinh thành phố thường có chiều cao, cân nặng tốt hơn học
sinh nông thôn cùng lứa tuổi.


11
Những nghiên cứu ở các dân tộc khác nhau, có các điều kiện sống và rèn
luyện thân thể khác nhau cho thấy sự khác biệt về chủng tộc cũng là yếu tố
tác động đến hình thái- thể lực của học sinh [41]. Nguyễn Quang Mai và cộng
sự [37] năm 1998 đã nghiên cứu trên nữ sinh các dân tộc ít người cho thấy:
Chiều cao, cân nặng trung bình của nữ sinh các dân tộc thiểu số thấp hơn nữ

sinh ở vùng đồng bằng và thành thị. Năm 2000, Đào Mai Luyến [36] nghiên
cứu thể thể lực của người Êđê và người Kinh định cư ở Đắc Lắc cho thấy,
hình thái thể lực của người Êđê tốt hơn của người Kinh. Tác giả cho đây là
điểm khác biệt mang tính dân tộc và do môi trường sống ảnh hưởng nhất định
đến khả năng tăng trưởng các chỉ số hình thái. Đoàn Văn Huyền và các cộng
sự cũng cho rằng, giữa cơ thể và môi trường có mối liên quan chặt chẽ với
nhau. Môi trường sống ảnh hưởng đến trao đổi chất và điều hoà thân nhiệt
nên ảnh hưởng đến các chỉ số thể lực của cá thể. Ngoài ra, sự rèn luyện thể
lực cũng tác động đến chiều cao, cân nặng và kích thước một số vòng của cơ
thể [40]. Các yếu tố xã hội cũng ảnh hưởng đến sự phát triển của cơ thể, đặc
biệt là ở tuổi dậy thì [58]. Năm 2008, Đỗ Hồng Cường [7] nghiên cứu các chỉ
số chiều cao, cân nặng của các học sinh THCS ở tỉnh Hoà Bình thuộc các dân
tộc Mường; Thái; Kinh; Tày; Dao và nhận thấy các chỉ số này ở học sinh
Mường; Thái; Kinh cao hơn rõ ràng so với học sinh Tày; Dao. Tác giả cho
rằng điều này liên quan tới nơi cư trú của các em. Học sinh các dân tộc
Mường; Thái; Kinh sống ở vùng đồng bằng, thành phố và thị trấn, còn đa số
học sinh các dân tộc Tày; Dao sống ở các vùng sâu, vùng xa thuộc huyện Đà
Bắc, nơi có các điều kiện kinh tế- xã hội kém phát triển hơn so với thành phố
và đồng bằng.


12
1.2. Nghiên cứu về các chức năng sinh lý
1.2.1. Tổng quan về một số đặc điểm chức năng sinh lý
Trong các loại thông số chức năng sinh lý phải kể đến chức năng sinh lý
của phổi. Các trị số thể tích phổi không chỉ phụ thuộc những yếu tố thể chất
như tuổi, giới tính, chiều cao mà còn phụ thuộc vào trình độ học vấn văn hoá
để hiểu cách thở, phụ thuộc tâm lý, phụ thuộc lối sống… Người ta gọi các
thông số hô hấp là loại thông số phụ thuộc vào đối tượng (subject dependent),
hoặc phụ thuộc vào sự nỗ lực của đối tượng (effort dependent) (theo [17]).

Dung tích sống, ký hiệu là VC (vital capacity), là số lít tối đa thở ra được
sau khi đã hít vào hết sức. Nói cách khác, đó là thể tích khí qua miệng, từ vị trí
hít vào hoàn toàn đến vị trí thở ra hoàn toàn. Dung tích sống thở mạnh, ký hiệu
là FVC (forced vital capacity), là dung tích sống đo bằng phương pháp thở ra
mạnh (forced expiration). Đối tượng hít vào cho đến vị trí hít vào hoàn toàn, rồi
thở ra một hơi mạnh hết sức, nhanh hết sức, liên tục như vậy cho đến khi kết
thúc ở vị trí thở ra hoàn toàn. Thể tích thở ra tối đa trong 1,0 giây, ký hiệu là
FEV1 (forced expiratory volume in one second) là thể tích khí thở ra trong giây
đầu của động tác thở mạnh FVC (theo [17]). Ngoài ra người ta còn tính các chỉ
số Tiffeneau, Demeny dựa vào các chỉ số VC, FVC, FEV1 và cân nặng.
Có những thông số hô hấp của người Việt Nam thấp hơn của người ÂuMỹ đó là dung tích sống, các thể tích hô hấp, biến thiên dung tích sống theo
chiều cao, độ dẻo phổi ngực, hệ số sử dụng ôxy, các dự trữ hô hấp tĩnh và
động, các lưu lượng tối đa. Ý nghĩa của đặc điểm này được phân tích chủ yếu
không phải là dấu hiệu của thể lực yếu, mà chủ yếu là liên quan với cơ thể
nhỏ và mảnh dẻ (theo [16]).
Lại có những thông số hô hấp của người Việt Nam cao hơn người ÂuMỹ đã được phân tích ý nghĩa, chủ yếu không phải là chỉ tiêu của thể lực khoẻ
hơn người Âu- Mỹ, mà chủ yếu là liên quan đến cấu trúc cơ thể hoặc với chức


13
năng khác. Lưu lượng thông khí/ phút cao do chức năng điều nhiệt [14]. Tỷ lệ
FEV 1/VC tức tỷ số Tiffeneau hơi cao, đặc biệt nhất là chỉ số thể lực Demeny
cao rõ rệt, có liên quan với cơ thể mảnh dẻ có tỷ lệ cơ học cao [14].
Để có luận cứ vững chắc cho bàn luận về đặc điểm chỉ số nhỏ của thông
khí phổi trong điều kiện mọi phòng thí nghiệm trên thế giới đều nhận định
rằng thông khí phổi là thông số phụ thuộc vào sự nỗ lực của đối tượng (effortdependent, subject-dependent) (theo [16]). Các tác giả Việt Nam đã đề cập tới
điều quan tâm của các phòng thí nghiệm hô hấp trên thế giới về trình độ kỹ
thuật viên và mức cộng tác của đối tượng và từ năm 1972 đã sơ kết kinh
nghiệm và độ tin cậy của kết quả về mặt này. Điều này phù hợp với tinh thần
Hội thảo quốc tế gần đây ở Florida về hô hấp và cũng là điều chúng ta cần

quan tâm trong thời gian tới. Hơn nữa, các tác giả của ta đã đưa luận cứ về trị
số cao của chỉ số thể lực Demeny và tỷ lệ FEV1/VC (tức tỷ số Tiffeneau) để
có thể nghĩ rằng các thể tích hô hấp tĩnh mà thấp như vậy là có thể tin cậy
được [14].
Tóm lại trong phạm trù hô hấp, nếu như các khí trong máu có thành phần
ổn định và giống của người Âu-Mỹ thì các thông số liên quan đến thông khí
phổi rất biến động và có những thông số chắc chắn là khác biệt rõ so với
người Âu- Mỹ. Sự khác biệt đó thể hiện đặc điểm của cơ thể người Việt Nam
là nhỏ, nhẹ, mảnh dẻ, ít mỡ (nên tỷ lệ cơ nạc tức khối gầy cao), và ở môi
trường nhiệt đới, nóng ẩm) (theo [16]).
Chức năng cơ bản đảm bảo cung cấp ôxy và các chất dinh dưỡng cho
toàn bộ cơ thể là hoạt động của hệ tuần hoàn. Trong đó tần số tim và huyết áp
động mạch là những chỉ số cơ bản biểu hiện hoạt động của hệ tuần hoàn [53].
Tim có chức năng vừa hút máu vừa đẩy máu, là động lực chính của hệ
tuần hoàn. Công suất của tim phụ thuộc vào tần số co bóp và thể tích cơ tim.


14
Bởi vậy, tần số tim là một trong các chỉ số dùng để đánh giá hoạt động của hệ
tuần hoàn và tình trạng sức khoẻ của con người.
Tim co bóp tạo nên lực đẩy máu trong động mạch lại chịu lực cản của
mạch máu. Tuần hoàn máu có thể coi là kết quả của hai loại lực đối lập nhau:
lực đẩy máu của tim và lực cản của động mạch. Trong đó lực đẩy của tim đã
thắng nên máu chảy trong động mạch với một áp suất nhất định gọi là huyết áp.
Nói một cách khác, huyết áp là áp lực của máu tác động lên thành mạch máu.
Huyết áp khi tim co và khi tim giãn không giống nhau. Huyết áp khi tim
giãn là huyết áp tối thiểu hay huyết áp tâm trương vì áp suất đẩy máu đi trong
động mạch tăng cao khi tâm thất co và giảm khi tâm thất giãn. Huyết áp trong
giai đoạn tim co có trị số lớn nhất nên gọi là huyết áp tối đa. Ngược lại, khi
tim giãn không có sức đẩy của tim nhưng tính đàn hồi của thành động mạch

gây áp lực đẩy máu đi. Vì vậy huyết áp trong giai đoạn tim giãn có trị số thấp
nhất nên gọi là huyết áp tối thiểu.
Mức độ chênh lệch giữa huyết áp tối đa và huyết áp tối thiểu là huyết áp
hiệu số. Đó là điều kiện cần thiết cho sự tuần hoàn máu. Khi huyết áp hiệu số
giảm xuống thấp thì tuần hoàn máu bị ứ trệ, huyết áp hiệu số lớn nhất ở các
động mạch chủ và các động mạch lớn.
Năm 1982, Trịnh Bình Dy đưa dẫn cứ [14] huyết áp người Việt Nam
thấp hơn người Âu- Mỹ (số thường gặp 110/70 mmHg so với 120/80 mmHg
ở người Âu- Mỹ) tăng theo tuổi chậm hơn người Âu- Mỹ và cho rằng đặc
điểm này liên quan với cơ thể ít mỡ Cholesterol thấp của người Việt Nam,
đồng thời minh hoạ đặc điểm sinh lý đó bằng thực tế lâm sàng Việt Nam với
tiêu chuẩn tăng huyết áp của ngành tim học Việt Nam thấp hơn tiêu chuẩn
quốc tế. Đặc điểm sinh lý này có thể là cơ sở của nhiều đặc điểm trong hình
ảnh điều tra dịch tễ học về bệnh và tử vong ở Việt Nam so với các nước công
nghiệp phát triển.


15
1.2.2. Những nghiên cứu về một số chức năng sinh lý trên thế giới
1.2.2.1. Những nghiên cứu về chức năng tuần hoàn
Các chỉ số chức năng hệ tuần hoàn được nghiên cứu thường tập trung
vào nhịp tim và huyết áp. Theo một số tác giả (Arshavski và Tur, Waldo và
Edmun) (theo [7]) nhịp tim của trẻ trong vài ngày đầu sau khi sinh khoảng
120- 140 nhịp/phút, ở trẻ đang bú mẹ khoảng 110- 160 nhịp/phút, ở trẻ trước
tuổi đi học khoảng 85- 100 nhịp/phút, ở học sinh khoảng 70-74 nhịp/phút.
Các tác giả trên cho rằng sự giảm nhịp tim trong quá trình phát triển của trẻ là
do sự thay đổi mức chuyển hoá và giảm tính hưng phấn của nút xoang cũng
như do tăng ảnh hưởng trương lực của dây thần kinh số X lên tim (theo [7]).
Chỉ tiêu tiếp theo được nhiều người quan tâm là huyết áp động mạch.
Huyết áp động mạch đã được nghiên cứu từ thế kỷ 19 do nhiều tác giả tiến

hành [65], [66], [67], [68]. Huyết áp đã được Korotkow xác định bằng
phương pháp đo gián tiếp, phương pháp này hiện vẫn đang được dùng phổ
biến (theo [25])
Nhiều công trình nghiên cứu cho thấy có sự biến đổi huyết áp theo các
giai đoạn khác nhau trong quá trình phát triển của trẻ. Điều này thấy rõ qua
bảng 1.1 về huyết áp động mạch của trẻ ở các lứa tuổi khác nhau (theo [7]).
Bảng 1.1. Huyết áp tâm thu và tâm trương ở trẻ thuộc các lứa tuổi khác nhau
Lứa tuổi

Huyết áp tâm thu (mmHg) Huyết áp tâm trương (mmHg)

11 ngày- 6 tháng

70-109

40-70

7 tháng -2 năm

70-129

40-74

3-14 tuổi

106±1,07

64±1,13

15-17 tuổi


116±1,26

67±1,33

Huyết áp tâm thu và huyết áp tâm trương ở trẻ em 7- 17 tuổi tăng dần
theo tuổi, nhưng tăng không đều. Thời điểm huyết áp tăng nhanh ở nữ là 9-12


16
tuổi, ở nam là 9, 12 và 13 tuổi (theo [7]). Một số tác giả cho thấy có sự khác
biệt về huyết áp theo giới tính trong quá trình phá triển, huyết áp tâm thu và
huyết áp âm trương của trẻ nam luôn cao hơn so với trẻ nữ (theo [7]). Các tác
giả này còn cho biết có sự khác biệt về huyết áp động mạch của các trẻ sống ở
những vùng miền khác nhau. Điều này phụ thuộc vào điều kiện sống và thể
lực của từng người.
Kết quả nghiên cứu của nhiều tác giả cho thấy, huyết áp của nam thường
cao hơn nữ và huyết áp còn chịu ảnh hưởng của môi trường con người đang
sinh sống (theo [25]).
1.2.2.2. Những nghiên cứu về chức năng hô hấp phổi
Năm 1846 ra đời máy hô hấp kế (sprometer) do Hutchinson thiết kế (theo
[17]), đặt nền móng cho việc xét nghiệm chức năng phổi. Từ đó trở đi, công
tác này phát triển tương đối tiệm tiến, nhưng đến đầu thập kỷ 80 của thế kỷ
trước, việc nghiên cứu chức năng phổi đã có những bước thay đổi về chất
[61], [62], [63], [64]. Giữa thế kỷ 20 đã có hàng loạt máy đo thể tích phổi ra
đời, cho phép ghi và tính chính xác các thể tích, dung tích và lưu lượng khí
trong thông khí phổi. Bước ngoặt trong việc nghiên cứu này được đánh dấu
bằng việc xuất bản toàn văn bộ “Tiêu chuẩn xét nghiệm chức năng phổi” vào
năm 1983 do Cộng đồng Than thép Châu Âu đề xuất và được Tổ chức Y tế
thế giới ủng hộ (theo [18]).

Các nghiên cứu về chỉ số chức năng phổi cho thấy dung tích sống của
trẻ em phụ thuộc vào sự phát triển của phổi (số lượng, kích thước phế
quản, phế nang). Thể tích khí lưu thông ở trẻ 11- 12 tuổi khoảng 280- 350
ml, ở trẻ 12-14 tuổi khoảng 300- 460 ml, ở trẻ 15-16 tuổi khoảng 300- 560
ml (theo [7]).


17
Theo một số tác giả, dung tích sống ở trẻ em tăng mạnh vào thời kỳ dậy
thì (theo [59]). Có sự khác biệt về dung tích sống theo giới và chỉ số này ở
nam luôn cao hơn nữ.
1.2.3. Những nghiên cứu về một số chức năng sinh lý ở Việt Nam
1.2.3.1.Những nghiên cứu về chức năng tuần hoàn
Chức năng của tim mạch người Việt Nam cũng được nhiều tác giả Việt Nam
nghiên cứu liên tục trong mấy chục năm nay [2], [16], [21], [52], [54].
Trong quyển “Hằng số sinh học người Việt Nam” [54], các nhà khoa học
đã cho thấy huyết áp động mạch thay đổi theo lứa tuổi, trong đó ở nhóm trẻ
lớn hơn 15 tuổi huyết áp tâm thu là 110 mmHg và huyết áp tâm trương là 70
mmHg. Công trình cũng nhận thấy một số yếu tố làm thay đổi huyết áp như vị
trí đo, tư thế đo, thời điểm đo và giới tính. Các tác giả cũng tiến hành đếm
mạch cổ tay, ở cổ hoặc nghe tim trong 1 phút và tính trung bình trong cả cộng
đồng các đối tượng nghiên cứu và cho thấy tần số tim ở nam trưởng thành là
70-80 lần/phút và ở nữ trưởng thành là 75-85 lần/phút.
Các kết quả nghiên cứu về huyết áp động mạch trên người Việt Nam của
Trịnh Bỉnh Dy trình bày trong cuốn “Về những thông số sinh học người Việt
Nam” [14] cho thấy, huyết áp của người Việt Nam không những thấp mà còn
tăng chậm theo tuổi.
Theo tác giả Phạm Thị Minh Đức [21] huyết áp tối đa bình thường có trị
số là 90- 110 mmHg, nếu trên 140 mmHg được coi là tăng huyết áp và dưới
90 là hạ huyết áp. Huyết áp tối thiểu bình thường có trị số là từ 50-70 mmHg,

nếu vượt quá 90 mmHg được coi là tăng huyết áp và dưới 50 mmHg được coi
là hạ huyết áp.
Năm 1993, Đoàn Yên và cộng sự [59] đã nghiên cứu tần số tim và huyết
áp của người Việt Nam, nhận thấy từ sau khi sinh, tần số tim và huyết áp
động mạch biến đổi có tính chất chu kỳ. Huyết áp động mạch tăng đến 18


18
tuổi, sau đó ổn định đến 49 tuổi rồi lại tăng dần, còn tần số tim lại giảm dần
cho đến 25 tuổi, sau đó ổn định đến 69 tuổi. Huyết áp động mạch trên người
Việt Nam ở mọi lứa tuổi đều thấp hơn so với người Âu, Mỹ.
Nghiêm Xuân Thăng [48] đã nghiên cứu mối tương quan giữa hoạt động
tim mạch và huyết áp với khí hậu của cư dân vùng Nghệ An, Hà Tĩnh ở hai
nhóm tuổi 12-15 và 18-25. Kết quả nghiên cứu cho thấy tần số tim và huyết
áp ở bất cứ độ tuổi nào cũng chịu ảnh hưởng của khí hậu. Tần số tim tăng
theo sự tăng nhiệt độ môi trường và biến đổi theo ngày, theo mùa, theo mức
độ bức xạ. Trong một ngày, tần số tim tăng dần từ sáng đến trưa, cao nhất lúc
12-14 giờ, sau đó giảm dần và thấp nhất lúc 22- 24 giờ. Cùng một thời điểm,
tần số tim về mùa hè thường cao hơn mùa đông. Ngoài ra, tần số tim còn bị
chi phối bởi các yếu tố như lao động và trạng thái tâm lý.
Trần Đỗ Trinh và cộng sự [52] đã tiến hành nghiên cứu trị số huyết áp
người Việt Nam và công bố trong chương trình nghiên cứu một số chỉ số sinh
học người Việt Nam thập kỷ 90. Công trình được tiến hành tại 20 tỉnh thuộc 7
vùng địa lý trong cả nước từ lứa tuổi 15 trở lên. Kết quả cho thấy, trị số huyết
áp tăng dần theo tuổi ở cả nam và nữ, mức tăng chậm nhất ở nhóm tuổi từ 1519. Huyết áp ở nam giới cao hơn so với ở nữ giới, dù chênh lệch trung bình
của hai giới không nhiều, chỉ khoảng 1-3 mmHg, nhưng khác biệt có ý nghĩa
thống kê.
Đào Mai Luyến [36] qua nghiên cứu huyết áp của các dân tộc Tây
Nguyên nhận thấy, dân tộc Êđê, Bana, Giarai có tần số tim và trị số huyết áp
động mạch khác nhau, song các chỉ số này vẫn trong giới hạn sinh lý bình

thường. Trong số các dân tộc này thì dân tộc Êđê có các chỉ số huyết áp tốt
hơn cả. Cũng giống như người Kinh, ở cả 3 dân tộc huyết áp đều tăng dần
theo tuổi.


19
Nghiên cứu của Trần Thị Loan [32] cho thấy ở lớp tuổi học sinh phổ
thông tần số tim giảm dần theo lớp tuổi, sự biến đổi tần số tim của nam và nữ
khác nhau.
Năm 2006, Trần Trọng Thuỷ và cộng sự [49] đã tiến hành nghiên cứu
huyết áp tối đa và huyết áp tối thiểu của học sinh phổ thông từ 8 đến 20 tuổi.
Các tác giả nhận thấy đối với nam nhóm tuổi từ 16 đến 18 huyết áp tối đa của
học sinh nam tăng từ 117,36 mmHg lên 120,32 mmHg, ở học sinh nữ tăng từ
113,51 mmHg lên 113,79 mmHg, huyết áp tối thiểu ở học sinh nam tăng từ
74,78 mmHg lên 76,31 mmHg, ở học sinh nữ tăng từ 73,46 mmHg lên 73,63
mmHg. Kết quả cho thấy cả hai chỉ số này ở học sinh nông thôn đều cao hơn
so với học sinh thành phố và vẫn thấp hơn so với chuẩn về huyết áp theo độ
tuổi của tổ chức Y tế thế giới.
1.2.3.2. Những nghiên cứu về chức năng hô hấp phổi
Các nghiên cứu trên đối tượng là trẻ em Việt Nam trước đây tập trung
vào các thông số thông khí phổi như dung tích sống, khí lưu thông, khí bổ trợ,
khí dự trữ, lượng ôxy tiêu thụ… Các nghiên cứu này được các tác giả gắn liền
với sự biến đổi theo hai hướng quan trọng là lứa tuổi và giới tính [3], [4], [8],
[11], [15], [16], [18], [27].
Theo các số liệu được công bố trong cuốn “Hằng số sinh học người Việt
Nam” [54] các tác giả đã đưa ra 19 chỉ số liên quan đến đặc điểm sinh lý hô
hấp, trong đó dung tích sống đã được các tác giả nghiên cứu theo giới tính,
lứa tuổi và chiều cao. Bên cạnh dung tích sống, các chỉ số thông khí tối đa,
thể tích thở ra trong 1 giây… đã được các tác giả nghiên cứu trên các đối
tượng thuộc các nhóm tuổi khác nhau, trong đó có trẻ em. Cũng theo tài liệu

này thì dung tích sống của trẻ em biến đổi tỉ lệ thuận với lứa tuổi, phụ thuộc
vào chiều cao của đối tượng và dung tích sống của trẻ nam luôn cao hơn so
với ở trẻ nữ thuộc tất cả các nhóm tuổi.


20
Năm 1982, Trịnh Bỉnh Dy, Đỗ Đình Hồ, Phạm Khuê, Nguyễn Quang
Quyền và Lê Thanh Uyên [14] cho rằng người Việt Nam có chỉ số phổi (chỉ
số Demeny) cao, đó là số ml dung tích sống quy về 1 kg cân nặng.
Năm 1975, Nguyễn Đoàn Hồng và cộng sự đã đưa ra công thức tính
thông khí tối đa gián tiếp FEV 0,75 x 32. Tuy nhiên, đến năm 1993, Trần Thị
Dung, Kim Khánh khi phân tích số liệu đã cho rằng công thức MVV i x 30 là
phù hợp với người Việt Nam hơn cả (theo [17]).
Năm 1996, Trịnh Bỉnh Dy, Nguyễn Đình Hường, Nguyễn Văn Tường
[18] đã tập hợp 32 công trình nghiên cứu của 41 tác giả trên cả nước và đưa ra
các thông số về chức năng phổi, từ đó tiến tới xây dựng số lý thuyết chức
năng phổi người Việt Nam. Các tác giả đã đưa ra phương trình cho 20 thông
số trong xét nghiệm chức năng phổi ở nước ta. Các phương trình hồi quy này
có tính đại diện cho người Việt Nam, đó là kết quả của sự đóng góp từ 276
phương trình hồi quy gốc.
Năm 1996, Nguyễn Đình Hường, Trịnh Bỉnh Dy và cộng sự [27] đã tiến
hành nghiên cứu giá trị bình thường của 9 chỉ số thông khí phổi của người
Hà Nội từ 11 đến 80 tuổi. Các tác giả đã chia các đối tượng theo 4 nhóm tuổi
và xác định các chỉ số: dung tích sống thở mạnh, dung tích sống thở chậm,
thể tích thở ra tối đa giây đầu, chỉ số Tiffeneau… và nhận thấy các thông số
chức năng thông khí phổi này ở người Việt Nam đều thấp hơn so với người
châu Âu.
Nguyễn Văn Tường, Lê Nam Trà và các tác giả khác [56] đã tiến hành
nghiên cứu giá trị bình thường các chỉ số chức năng phổi tại Thanh Trì và
Thượng Đình, Hà Nội. Các đối tượng trong nghiên cứu này ở độ tuổi từ 12

đến 82 và được chia thành 7 nhóm tuổi. So sánh các chỉ số giữa nam và nữ
đều cho thấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Các tác giả đưa ra phương


21
trình hồi quy để tính số chuẩn của người bình thường làm cơ sở cho việc ứng
dụng vào lâm sàng.
Đoàn Yên và cộng sự [59] đã tiến hành nghiên cứu nhịp thở, dung tích
sống, thể tích khí lưu thông, thể tích phút của người Việt Nam từ 6 đến 79
tuổi. Các tác giả cho thấy chỉ số thông khí phổi ở trẻ biến động không đều.
Dung tích sống tăng nhanh đến khi 19 tuổi rồi đi vào ổn định ở cả hai giới, từ
30 tuổi chỉ số này bắt đầu giảm. So với người Âu- Mỹ, dung tích sống của
người Việt Nam luôn có trị số nhỏ hơn.
Nghiêm Xuân Thăng [48] tiến hành nghiên cứu ảnh hưởng của khí hậu
lên chức năng hô hấp của cư dân Nghệ An, Hà Tĩnh và nhận thấy tần số hô
hấp cũng như dung tích sống đều chịu ảnh hưởng của khí hậu. Dung tích sống
đạt giá trị lớn nhất ở nhiệt độ 30- 320C, độ ẩm không khí vào khoảng 70-80%.
trong cùng một điều kiện thì dung tích sống ở nam luôn cao hơn ở nữ giới.


22
Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu bao gồm 618 học sinh trường THPT Quế Võ số 1,
huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh có độ tuổi từ 16-18 tuổi (đang học từ lớp 10
đến lớp 12) có trạng thái tâm lý và sức khỏe bình thường, không có các dị tật
bẩm sinh và bệnh mạn tính. Phân bố các đối tượng nghiên cứu theo tuổi và
giới tính thể hiện trong bảng sau:
Bảng 2.1. Phân bố học sinh theo tuổi và giới tính

STT

Tuổi

Nam

Nữ

Tổng

1

16

94

123

217

2

17

93

98

191


3

18

91

119

210

Tổng

278

340

618

2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Tổ chức nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành tại phòng y tế của trường THPT Quế Võ số 1,
huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.
2.2.2. Các chỉ số được nghiên cứu
Nghiên cứu các chỉ số hình thái của học sinh
+ Chiều cao đứng.
+ Cân nặng.
+ Vòng ngực trung bình.
+ Vòng đùi.
+ Vòng cánh tay phải co.
+ Vòng bụng.



23
Nghiên cứu các chỉ số thể lực của học sinh
+ Chỉ số pignet.
+ BMI.
+ Chỉ số QVC.
+ Khối mỡ, khối nạc, tỷ lệ % mỡ.
Nghiên cứu các chỉ số chức năng sinh lý
+ Chỉ số tuần hoàn: Nhịp tim, huyết áp động mạch, lưu lượng tim.
+ Thông số hô hấp: dung tích sống (VC), dung tích sống thở
mạnh (FVC), thể tích khí thở tối đa trong giây đầu (FEV 1), chỉ số Tiffeneau
(FEV1/VC), chỉ số Gaensler (FEV1/FVC), chỉ số Demeny.
Nghiên cứu mối tương quan giữa một số chỉ số hình thái và chức năng
sinh lý
+ Chiều cao đứng với tần số tim, huyết áp tối đa, huyết áp tối
thiểu.
+ Cân nặng với tần số tim, huyết áp tối đa, huyết áp tối thiểu.
+ VNTB với tần số tim, huyết áp tối đa, huyết áp tối thiểu.
+ Tương quan giữa VC, FVC, FEV1 với tuổi và chiều cao đứng.
2.2.3. Phương pháp xác định các chỉ số
Phương pháp xác định các chỉ số hình thái, thể lực
Các chỉ số hình thái, thể lực được xác định theo phương pháp được dùng
trong nghiên cứu y, sinh học [12].
+ Chiều cao đứng: Dụng cụ đo là thước hợp kim có độ chính xác đến
1mm. Đối tượng đo đứng thẳng trên nền phẳng hai gót chân chạm vào
nhau, hai tay buông thẳng, đầu để thẳng sao cho đuôi mắt và điểm giữa bờ
trên lỗ tai ngoài nằm trên đường thẳng ngang vuông góc với trục của cơ
thể, bốn điểm của cơ thể là chẩm, lưng, mông và gót chạm vào thước đo,
đơn vị đo là cm.



24
+ Cân nặng: Được xác định bằng cân bàn của Nhật Bản có độ chính
xác đến 0,1 kg. Khi cân, mỗi đối tượng chỉ mặc một bộ quần áo mỏng, không
mang giày dép, đứng yên ở vị trí giữa bàn cân, hai bàn chân sát nhau và cân
xa bữa ăn. Trước khi cân bất kỳ một học sinh nào cân đều được chỉnh để đảm
bảo độ chính xác, đơn vị đo là kg.
+ Vòng ngực trung bình (VNTB): Được xác định bằng thước vải không
co dãn của có độ chính xác đến 1 mm, đo ở tư thế thẳng đứng, vòng thước
dây quanh ngực vuông góc với cột sống đi qua xương bả vai ở phía sau và
qua mũi xương ức ở phía trước. Tiến hành đo lúc hít vào hết sức và thở ra hết
sức. VNTB chính là trung bình cộng của hai số đo vòng ngực lúc hít vào hết
sức và lúc thở ra hết sức, đơn vị đo là cm.
+ Vòng đùi: Được đo bằng thước dây dùng để đo vòng ngực. Khi đo
đối tượng ở tư thế đứng thẳng, hai chân dạng hơi rộng. Đo chu vi theo mặt
phẳng ngang qua nếp gấp mông – đùi, đơn vị đo là cm.
+ Vòng cánh tay phải co: Được đo bằng thước dây dùng để đo vòng
ngực. Khi đo đối tượng ở tư thế ngồi thẳng, tay phải giơ ngang về phía trước,
cánh tay gấp lại, bàn tay nắm, đo vòng tối đa của cánh tay, đơn vị đo là cm.
+ Vòng bụng: Được đo bằng thước dây nêu trên. Khi đo đối tượng ở tư
thế đứng thẳng, chân dạng hơi rộng. Đo chu vi theo mặt phẳng ngang dưới
rốn 2 cm, đơn vị đo là cm.
Để đánh giá thể lực của học sinh, dùng các loại chỉ số:
+ BMI (Body Mass Index) còn gọi là chỉ số khối cơ thể, được tính theo
công thức (theo [25]):
BMI = Cân nặng (kg)/[Chiều cao đứng (m)]2
Đánh giá BMI theo FAO (theo [25]).
BMI < 16 thiếu cân độ III.


BMI=25÷ 29,99: quá cân độ I.

BMI =16 ÷ 16,99: Thiếu cân độ II.

BMI=30÷ 39,99: quá cân độ II.


25
BMI =17 ÷ 18,45: Thiếu cân độ I.

BMI > 40: quá cân độ III.

BMI =18,5 ÷ 24,99: Bình thường.
+ Chỉ số Pignet được tính theo công thức (theo [25]):
Pignet = Chiều cao đứng (cm) – [Cân nặng (kg) + VNTB (cm)]
Đánh giá chỉ số pignet theo Nguyễn Quang Quyền.
Pignet = 0 ÷ 20,8: cường tráng.

Pignet = 34 ÷ 37,2: yếu.

Pignet = 20,9 ÷ 24,1: rất khỏe.

Pignet = 37,3 ÷ 40,5: rất yếu.

Pignet = 24,2 ÷ 27,4: khỏe.

Pignet  40,6: yếu kém.

Pignet = 27,5 ÷ 33,9: trung bình.
+ Chỉ số QVC được tính theo công thức

QVC =Chiều cao đứng (cm) - [ vòng ngực hít vào hết sức (cm) +
vòng đùi phải (cm) + vòng cánh tay phải co (cm) ]
Đánh giá chỉ số QVC theo Nguyễn Quang Quyền và Đỗ Như Cương [46].
QVC < 1

: cực khoẻ

QVC = 11,1 ÷ 20,0 : yếu

QVC = 1 ÷ 1,9 : rất khoẻ

QVC = 20,11 ÷ 26,0 : rất yếu

QVC = 2 ÷ 7,9 : khoẻ

QVC > 26

: yếu

QVC = 8 ÷ 11,0 : trung bình
+ Chỉ số khối mỡ và khối nạc được tính theo công thức của Nguyễn Quang
Quyền và Lê Gia Vinh (theo [14]):
Khối mỡ:
Nam giới : MGC = 6,16T x Pa2 +1,02
Nữ giới :

MGC = 8,29T x Pa2 +3,86

Khối nạc : MMC = P – MGC
Trong đó : T: Chiều cao đứng (m), Pa: vòng bụng (m), P: trọng lượng cơ

thể (kg).
Tỷ lệ % mỡ = Khối mỡ x 100/P
Phương pháp xác định các chỉ số tuần hoàn, hô hấp.


×