Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Tiểu luận Tìm hiểu các chế định về quyền sở hữu trong Bộ luật dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.32 KB, 26 trang )

Phần mở đầu
Sự cần thiết của việc nghiên cứu đề tài
I. Mục đích nghiên cứu:
Bộ luật dân sự Việt Nam đợc kỳ họp quốc hội khoá IX thông qua ngày
28/10/1995, công bố ngày 9/11/1995 và có hiệu lực thi hành ngày 1/7/1996. Pháp
luật dân sự là công cụ pháp lý thúc đẩy giao lu dân sự, môi trờng thuận lợi cho sự
phát triển kinh tế - xã hội của đất nớc.
Trên cơ sở thừa kế và phát triển pháp luật dân sự Việt Nam có từ trớc đến
nay, cụ thể hoá Hiến pháp năm 1992, BLDS có vị trí quan trọng trong hệ thống
pháp luật nớc nhà, tạo cơ sở pháp lý nhằm tiếp tục giải phóng mọi năng lực sản
xuất, phát huy dân chủ, bảo đảm công bằng xã hội, quyền con ngời về dân sự.
Đó là thành quả trí tuệ của nhân dân ta trong nhiều năm xây dựng và hoàn thiện
một cách có hệ thống những quy định pháp lý cơ bản về các quan hệ dân sự. Việc
ban hành BLDS là một yếu tố khách quan nhằm thiết lập một trật tự pháp lý trong
lĩnh vực dân sự, tạo điều kiện cho các quan hệ dân sự phát triển trong cuộc sống,
thống nhất pháp điểm hoá và các quy định của pháp luật dân sự trong nhiều văn
bản.
BLDS góp phần đảm bảo cuộc sống cộng đồng ổn định, lành mạnh, giữ gìn
và pháp huy truyền thống đoàn kết tơng thân, tơng ái, thuần phòng mỹ tục và bản
sắc văn hoá dân tộc hình thành trong lịch sử lâu dài xây dựng và bảo vệ tổ quốc
Việt Nam góp phần xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế
thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc theo định hớng XHCN, thực hiện mục tiêu
dân giàu, nớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Từ sau cách mạng tháng tám và đặc biệt là trong giai đoạn cả nớc tiến
hành công cuộc đổi mới toàn diện trên tất cả các mặt của đời sống xã hội. Nhà
nớc ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật để điều chỉnh các quan hệ dân sự phù
hợp với từng giai đoạn của cách mạng cụ thể. Các văn bản pháp luật đợc ban
hành trong thời kỳ này thờng có hình thức pháp luật cao, có nhiều nội dung phù
hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội theo đờng lối đổi mới. Nhiều quy định
đã thể hiện đợc những nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự: kinh tế là tự
nguyện, bình đẳng, hợp tác tơng trợ giúp đỡ lẫn nhau phù hợp với thông lệ quốc


tế.

1


Tuy nhiên, so với nhu cầu của các giao lu dân sự trong xã hội cho thấy
còn không ít những vấn đề có ý nghĩa cơ bản trong các quan hệ dân sự cha đợc
pháp luật điều chỉnh đầy đủ nh: Các quan hệ về sở hữu tài sản, nghĩa vụ dân sự,
hợp đồng dân sựBên cạnh đó, do sự chuyển đổi cơ chế quản lý mới, nhiều quy
định trong các văn bản pháp luật hiện hành về dân sự không còn phù hợp. Đó là
vấn đề gây ra không ít khó khăn cho việc bảo vệ các quyền dân sự và lợi ích
chính đáng của cá nhân, pháp nhân cũng nh các chủ thể khác trong quan hệ pháp
luật dân sự, đặc biệt là các tranh chấp phát sinh đa dạng và phức tạp giữa các chủ
thể, gây khó khăn cho các cơ quan xét xử trong việc giải quyết kịp thời đúng đắn
các chủ tranh chấp đó. Đây là một tồn tại đã kéo dài nhiều năm, tạo ra một tình
hình không bình thờng, không phù hợp với nguyên tắc pháp chế xã hội chủ
nghĩa.
Trớc tình hình thực tế đó, Nhà nớc ta đã ban hành Bộ luật dân sự nhằm
bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, lợi ích của Nhà nớc,
lợi ích công cộng, bảo đảm sự bình đẳng và an toàn pháp lý trong quan hệ dân sự,
góp phần tạo điều kiện đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thanà của nhân dân, thúc
đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
Đảm bảo cuộc sống cộng đồng ổn định, lành mạnh, giữ gìn và phát huy
truyền thống đoàn kết, tơng thân, tơng ái, thuần phòng, mỹ tục và bản sắc văn
hoá dân tộc hình thành trong lịch sử lâu dài xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt
Nam, góp phần xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị
trờng có sự quản lý của Nhà nớc theo định hớng xã hội chủ nghĩa, thực hiện dân
giàu, nớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Tài sản và quyền sở hữu tài sản là một trong những cơ sở vật chất quan
trọng để phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm cuộc sống, an c lạc nghiệp của các

cá nhân, cộng đồng chế định về quyền sở hữu giữ vai trò trọng tâm trong các chế
định dân sự. Trong mọi xã hội, phơng thức chiếm hữu cơ sở vật chất và chế độ sở
hữu là điểm đặc trng có ý nghĩa quyết định. Qua thực tiễn những năm thực hiện
đờng lối đổi mới về phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị
trờng có sự quản lý của Nhà nớc theo định hớng xã hội chủ nghĩa, nhận thức của
chúng ta về chế độ sở hữu, vai trò của các chế độ sở hữu và hình thức sở hữu tồn
tại trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội không còn giản đơn nh trớc đây.
Ngoài việc tiếp tục khẳng định vai trò chỉ đạo, nền tảng của sở hữu toàn dân, Nhà

2


nớc ta còn khuyến khích, bảo đảm phát triển kinh tế - xã hội theo chủ trơng đờng lối của Đảng.
Tuy nhiên trong thực tế hiện nay, việc áp dụng các chế định pháp luật về
quyền sở hữu vẫn đang gặp khó khăn, các tranh chấp về quyền sở hữu diễn ra rất
phức tạp. Việc giải quyết liên quan đến rất nhiều các chế định pháp lý khác, đặc
biệt là các chế định về thừa kế. Đây là vấn đề bức xúc mà việc giải quyết cũng
gặp rất nhiều khó khăn, vớng mắc. Do đó, việc "Tìm hiểu các chế định về quyền
sở hữu trong Bộ luật dân sự" có ý nghĩa quan trọng, cần thiết nhằm đa ra các giải
pháp cụ thể cho các cơ quan có chức năng giải quyết các tranh chấp về quyền sở
hữu, góp phần quan trọng vào việc đa pháp luật vào đời sống, phát triển nền kinh
tế - xã hội.
II. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu các chế định về quyền sở hữu trong BLDS Việt Nam chúng ta
chủ yếu tập trung nghiên cứu về quyền sở hữu đối với tài sản. Đây là đối tợng
chủ yếu của quyền sở hữu nói chung và là khách thể của phần lớn các quan hệ
pháp luật dân sự. Do đó trong phạm vi nhỏ này tôi chỉ nghiên cứ về quyền sở hữu
đối với tài sản trên cơ sở các quy định của pháp luật dân sự nhằm làm rõ nội
dung của các chế định pháp lý về quyền sở hữu trong BLDS Việt Nam.
III. Phơng pháp nghiên cứu

Trong phạm vi đề tài nghiên cứu, trên cơ sở những kiến thức lý luận và
thực tiễn của bản thân, tôi đã nghiên cứu đề tài dựa trên cơ sở phơng pháp duy vật
biện chứng với các biện pháp: Phân tích, tổng hợp, điều tra xã hội học. Bên cạnh
đó, tham khảo một số giáo trình, tài liệu, các tạp chí có liên quan đến nh: Tạp
chí toà án, tạp chí luật học. Quá trình nghiên cứ có sự trao đổi, thảo luận với thầy
cô giáo bộ môn và qua thực tiễn công tác.
IV. Tài liệu tham khảo và nghiên cứu:
1. Bình luận khoa học một số vấn đề cơ bản của Bộ luật dân sự. NXB chính
trị Quốc Gia.
2. Những nội dung cơ bản của Bộ luật dân sự Việt Nam. NXB TP Hồ Chí
Minh.
3. Giáo trình luật dân sự Việt Nam. Học viện CSND
4. Bộ luật dân sự Việt Nam.
5. Tạp chí toà án và một số tạp chí, tài liệu tham khảo khác.

3


Phần nội dung:
I. Nhận thức chung về quyền sở hữu trong Bộ luật
dân sự Việt Nam
1. Khái niệm và cơ sở pháp lý của chế định về quyền sở hữu trong Bộ
luật dân sự Việt Nam.
Khái niệm sở hữu vừa là phạm trù kinh tế vừa là phạm trù pháp lý. Quyền
sở hữu đợc hiểu theo phạm trù kinh tế bởi nó gắn liền với một phơng thức sản
xuất trong một hình thái kinh tế - xã hội nhất định. Sở hữu thể hiện trong các
quan hệ sản xuất, đó là sở hữu đối với t liệu sản xuất, sở hữu đối với sản phẩm
làm ra và trong phân phối sản phẩm. Đối với một nền kinh tế thì sở hữu đối với
t liệu sản xuất có ý nghĩa quyết định đến toàn bộ hoạt động kinh tế nh việc tổ
chức quản lý sản xuất và vấn đề phân phối sản phẩm. Với t cách là một chế định

pháp lý, quyền sở hữu mang tính chất chủ quan vì nó là sự ghi nhận của Nhà nớc,
nhng Nhà nớc không thể đặt ra quyền sở hữu thgeo ý chí chủ quan của mình và
quyền sở hữu đợc quy định trớc hết bởi nội dung kinh tế của sở hữu. Nhà nớc quy
định quyền sở hữu tức là thể chế hoá những quan hệ chiếm hữu, sử dụng, định
đoạt những sản phẩm do con ngời tạo ra và phân phối sản phẩm đó trong xã hội.
Do đó quyền sở hữu là một chế định pháp lý quan trọng trong Bộ luật dân sự,
phản ánh đầy đủ quan hệ sở hữu ở nớc ta. Quyền sở hữu không những bao hàm
các quyền sở hữu, sử dụng, định đoạt đối với tài sản mà tính pháp lý còn thể hiện
quyền xác lập, chấm dứt quyền sở hữu và bảo vệ quyền sở hữu hợp pháp.
ở nớc ta quyền sở hữu gắn liền với các hình thức sở hữu và gắn liền với
chế định xã hội chủ nghĩa. Do đó, Bộ luật dân sự phải quy định các hình thức
pháp lý phù hợp để các quan hệ sở hữu tồn tại vận động và phát triển theo quy
luật khách quan của phát triển kinh tế - xã hội.
2. Những nguyên tắc cơ bản của quyền sở hữu.
Nguyên tắc là những t tởng mang tính chủ đạo mà một chế định pháp lý
phải tuân theo khi thực hiện nhiệm vụ điều chỉnh các quan hệ xã hội. Các
nguyên tắc cơ bản của quyền sở hữu đợc quy định trong chơng 1 phần II của Bộ
luật dân sự. Những nguyên tắc này là cơ sở cho các quy định ở chơng sau. Các
nguyên tắc đó là:
- Chủ sở hữu có quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản của mình
theo quy định của pháp luật (Điều 173).

4


- Không ai có thể bị hạn chế, tớc đoạt trái pháp luật quyền sở hữu đối với
tài sản của mình (Điều 175). Một khi pháp luật công nhận quyền sở hữu của một
chủ sở hữu nào đó thì cũng phải quy định nghĩa vụ của những ngời khác không
đợc xâm phạm quyền của chủ sở hữu. Chủ sở hữu có quyền bảo vệ, ngăn cản bất
kỳ ngời nào có hành vi xâm phạm quyền sở hữu của mình. Khi quyền sở hữu bị

xâm phạm, chủ sở hữu có quyền truy tìm, đòi lại tài sản bị ngời khác chiếm hữu,
sử dụng và định đoạt không có căn cứ pháp luật.
- Chỉ trong trờng hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh và lợi ích quốc
gia Nhà nớc mới trng mua hoặc trng dụng có bồi thờng tài sản của cá nhân, pháp
nhân hoặc của chủ thể khác theo quy định của pháp luật (Điều 157).
- Chủ sở hữu thực hiện mọi hành vị theo ý chí của mình đối với tài sản nhng không làm thiệt hại và ảnh hởng đến lợi ích của Nhà nớc, lợi ích công cộng,
lợi ích của ngời khác (Điều 178). Nguyên tắc này rất quan trọng, vừa nêu lên đợc
sự độc lập tự do ý chí của chủ sở hữu, vừa quy định giới hạn của quyền sở hữu là
không đợc làm thiệt hại và ảnh hởng đến lợi ích của cộng đồng.
- Chủ sở hữu cũng có quyền uỷ nhiệm, giao cho ngời khác chiếm hữu, sử
dụng và định đoạt tài sản của mình. Điều này có nghĩa là không phải là chủ sở
hữu cũng có quyền chiếm hữu, sử dụng và định đạt tài sản không thuộc sở hữu
của mình theo thoả thuận với chủ sở hữu hoặc theo quy định của pháp luật (Điều
180).
3. Đối tợng của quyền sở hữu.
Tài sản là một đối tợng quan trọng chủ yếu của quyền sở hữu. Đây là
khách thể của phần lớn các quan hệ pháp luật dân sự. Song chúng ta cần phân
biệt tài sản trong quan hệ luật dân sự và tài sản trong quan niệm thông thờng.
Yêu cầu cơ bản nhất đặt ra đối với tài sản trong Bộ luật dân sự là tài sản phải đ a
đợc vào trong giao lu dân sự.
Tài sản trong quan hệ luật dân sự bao gồm:
1. Vật có thực
2. Tiền
3. Các giấy tờ trị giá đợc bằng tiền
4. Các quyền tài sản
Căn cứ vào bản chất và tính năng sử dụng của tài sản, Bộ luật dân sự đã
phân chia tài sản thành các loại sau:
1. Bất động sản và động sản
5



2. Hoa lợi và lợi tức
3. Vật chính và vật phụ
4. Vật chia đợc và không chia đợc
5. Vật tiêu hao và không tiêu hao
6. Vật cùng loại và vật đặc định
7. Vật đồng bộ
Việc phân loại tài sản trong Bộ luật dân sự không chỉ giúp chúng ta xác
định, đánh giá giá trị của các tài sản là đối tợng của quan hệ pháp luật dân sự mà
chính việc phân chia đó sẽ tạo điều kiện thuận lợi để các cơ quan bảo vệ pháp
luật xử lý các vụ việc vi phạm, những tranh chấp có liên quan đến các quyền sở
hữu về tài sản.
4. Các hình thức sở hữu.
Chế định về quyền sở hữu và các hình thức sở hữu có mối quan hệ mất
thiết với nhau thể hiện bản chất giai cấp, chế độ kinh tế - chính trị - xã hội của
mỗi quốc gia. Việc quy định các hình thức sở hữu khác nhau trong Bộ luật dân sự
là một yêu cầu khách quan nhằm cụ thể hoá chế độ sở hữu đã đợc quy định trong
Hiến pháp 1992 của nớc ta. Với việc quy định các hình thức sở hữu, chúng ta có
điều kiện quy định phơng thức tồn tại vận động của sở hữu gắn liền với các chủ
sở hữu cụ thể, với chế định pháp lý có tính đặc thù của từng hình thức sở hữu, Bộ
luật dân sự Việt Nam quy định có 7 hình thức sở hữu.
- Sở hữu toàn dân (Điều 205 đến 213)
- Sở hữu của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội (Điều 214 đến
216)
- Sở hữu tập thể (Điều 217 - 219)
- Sở hữu t nhân (Điều 220 đến 222)
- Sở hữu tổ chức xã hội nghề nghiệp (Điều 223 điều 225)
- Sở hữu hỗn hợp (Điều 226 đến 228)
- Sở hữu chung (Điều 229 đến 240)
4.1. Sở hữu toàn dân:

Bộ luật dân sự Việt Nam (Điều 205 đến 213) quy định về hình thức sở hữu
toàn dân. Điều 205 BLDS quy định: Đất đai, rừng núi, sông hồ, nguồn nớc, tài
nguyên trong lòng đất, nguồn lợi ở vùng biển, thềm lục địa và vùng thuộc các
ngành và các lĩnh vực kinh tế, văn hoá xã hội, khoa học kỹ thuật, ngoại giao,
quốc phòng, an ninh cùng các tài sản khác mà pháp luật quy định là của Nhà nớc
6


đều thuộc quyền sở hữu toàn dân. Nhà nớc là đại diện chủ sở hữu toàn dân. Nhà
nớc càng thực sự là Nhà nớc của dân, do dân, vì dân bao nhiêu thì thẩm quyền
đại diện càng lớn. Có nh vậy thì Nhà nớc mới có quyền định đoạt các tài sản
thuộc quyền sở hữu toàn dân và phải chịu trách nhiệm về số phận của tài sản trớc
nhân dân.
Đối với sở hữu toàn dân thì việc quản lý sử dụng định đoạt nh thế nào là
vấn đề quan trọng có ý nghĩa quyết định trong sự phát huy tính u việt của hình
thức sở hữu nhằm phát huy có hiệu lực, sử dụng mức độ sinh lợi của tài sản.
Khắc phục tình trạng "vô chủ" lãng phí hoặc sử dụng tài sản mà không mang lại
hiệu quả. Việc quản lý sử dụng định đoạt tài sản thuộc sở hữu toàn dân đợc thực
hiện trong phạm vi và theo trình tự của pháp luật quy định.
Bộ luật dân sự quy định việc thực hiện là quyền sở hữu toàn dân đối với
các tài sản đợc giao cho các chủ thể là cơ quan Nhà nớc, đơn vị vũ trang, tổ chức
chính trị, tổ chức chính trị xã hội nghề nghiệp. Các cơ quan Nhà nớc, đơn vị vũ
trang, tổ chức chính trị, tổ chứccó quyền quản lý đúng luật và chịu sự quản lý,
kiểm tra giám sát của Nhà nớc.
Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, hộ gia đình, tổ hợp tác xã cá
nhân đợc sử dụng đất, khai thác nguồn thuỷ sản và các tài nguyên khác thuộc sở
hữu toàn dân phải khai thác và sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả, thực hiện
nghĩa vụ đối với Nhà nớc, chịu sự quản lý trực tiếp của Nhà nớc.
4.2. Sở hữu tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội (Điều 214 đến
216, BLDS)

BLDS khẳng định các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị
xã hội nớc ta có tài sản riêng để phục vụ cho các hoạt động theo mục đích chung
và đợc quy định theo điều lệ. Đây là vấn đề trong quan niệm về sở hữu của các tổ
chức này. Trong quá trình đổi mới ở nớc ta, các tổ chức chính trị xã hội có tài sản
riêng từ các nguồn khác nhau nh đợc tặng, cho, thừa kế, viện trợmột số đợc
Nhà nớc giao cho quyền sở hữu đối với một số loại tài sản. Việc chiếm hữu sử
dụng và định đoạt tài sản thuộc sở hữu của tổ chức chính trị, tổ chức đó đợc quy
định trong điều lệ (Điều 216 BLDS)
4.3. Sở hữu tập thể (Điều 217 đến 219)
Sở hữu tập thể là sở hữu của các hợp tác xã hoặc các hình thức kinh tế tập
thể ổn định khác do cá nhân, hộ gia đình cùng góp vốn, góp sức hợp tác tái sản
7


xuất, kinh doanh nhằm thực hiện mục đích chung đợc quy định trong điều lệ theo
nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng dân chủ cùng quản lý và cùng hởng (Điều 217
BLDS).
Tài sản thuộc sở hữu tập thể đợc hình thành từ nguồn đóng góp của các
thành viên, thu nhập hợp pháp do sản xuất kinh doanh đợc Nhà nớc hỗ trợ hoặc
từ các nguồn khác phù hợp với quy định của pháp luật là tài sản thuộc sở hữu của
tập thể đó (Điều 218).
Việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản thuộc sở hữu tập thể phải
tuân theo pháp luật phù hợp với điều lệ của tập thể đó, bảo đảm sự phát triển phù
hợp với điều lệ của tập thể đó, bảo đảm sự phát triển ổn định của sở hữu tập thể.
Tài sản thuộc sở hữu tập thể đợc giao cho các thành viên khai thác công
dụng bằng sức lao động của mình trong hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm mở
rộng phục vụ nhu cầu mửo rộng sản xuất, phát triển kinh tế nói chung và lợi ích,
nhu cầu của các thành viên.
Việc chiếm hữu sử dụng, định đoạt tài sản thuộc sở hữu tập thể do chính
tập thể đó quyết định phù hợp với quy định của pháp luật và điều lệ của chính tập

thể. Các thành viên trong tập thể có quyền u tiên mua, thuê, khoán tài sản thuộc
sở hữu tập thể cũng nh có quyền thoả thuận và uỷ quyền định đoạt chiếm giữ tài
sản đó.
4.4. Sở hữu t nhân (Điều 220 đến 222)
Hiến pháp 1992 (Điều 25 và điều 21) đã thừa nhận sự tồn tại của sở hữu t
nhân, cho phép sở hữu t nhân phát triển dới mọi hình thức, không hạn chế về quy
mô và lĩnh vực hoạt động theo quy định của pháp luật.
Sở hữu t nhân la sở hữu của cá nhân đối với tài sản hợp pháp của mình. Sở
hữu t nhân bao gồm: Sở hữu cá thể, sở hữu tiểu chủ, sở hữu t bản, sở hữu t nhân
(Điều 220 BLDS).
Tài sản thuộc sở hữu t nhân gồm: Thu nhập hợp pháp, của cải để giành,
nhà ở, t liệu sinh hoạt, t liệu sản xuất, vốn, hoa lợi, lợi tức và các tài sản hợp pháp
khác của các nhân mà tài sản thuộc sở hữu t nhân. Tài sản hợp pháp thuộc sở hữu
t nhân không bị hạn chế về số lợng, giá trị. Cá nhân không đợc sở hữu đối với tài
sản mà pháp luật quy định không thể thuộc sở hữu t nhân. Chủ sở hữu đợc quyền
làm chủ đối với tài sản của mình, tự do định đoạt tài sản đó nhng không đợc gây
thiệt hại và ảnh hởng đến lợi ích của Nhà nớc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích
hợp pháp của ngời khác.
8


Đặc điểm cơ bản của chủ sở hữu t nhân là sự chi phối trực tiếp có ý thức
của ngời chủ đối với t liệu sản xuất. Vì vậy chủ sở hữu đơng nhiên coi t liệu sản
xuất của mình là điều kiện để mình thu về toàn bộ lợi ích kinh tế trong quá trình
sản xuất đã có nhiều thay đổi trong hình thức chiếm hữu lợi ích kinh tế, vẫn là
nguồn gốc bất công trong xã hộiĐiều này có nghĩa là bên cạnh những mặt tích
cực thì sở hữu t nhân vẫn tiềm ẩn trong nó những vấn đề xã hội phức tạp. Đây là
vấn đề mang tính tất yếu khách quan. Điều quan trọng là phải xác định cho đợc
vấn đề mang tính tất yếu khách quan. Điều quan trọng là phải xác định cho đợc
những điều kiện phải có khi phát triển sở hữu t nhân về t liệu sản xuất trong tình

hình mới. Đây chính là nhân tố để đảm bảo việc phát triển nền kinh tế xã hội
không bị chệch hớng.
4.5. Sở hữu tổ chức, tổ chức xã hội - nghề nghiệp (Điều 223 đến 225):
Sở hữu của tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp là sở hữu của cả tổ
chức đó nhằm thực hiện mục đích chung của các thành viên đợc quy định trong
điều lệ.
Tài sản thuộc sở hữu của tổ chức, tổ chức xã hội - nghề nghiệp thực hiện
quyền chiếm hữu, sử dụng định đoạt tài sản thuộc sơ hữu của mình theo quy định
của pháp luật và phù hợp với mục đích hoạt động của tổ chức đó đợc quy định
theo điều lệ.
4.6. Sở hữu hỗn hợp (Điều 226 đến 228)
Sở hữu hỗn hợp là sở hữu chung đối với tài sản do các chủ sở hữu thuộc
các thành phần kinh tế khác nhau góp vốn để sản xuất kinh doanh thu lợi nhuận.
Tài sản thuộc sở hữu hỗn hợp đợc hình thành từ nguồn vốn góp của các
chủ sở hữu, lợi nhuận hợp pháp thu đợc từ hoạt động sản xuất, kinh doanh hoặc
từ các nguồn khác phù hợp với quy định của pháp luật là tài sản thuộc sở hữu hỗn
hợp.
VIệc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc sở hữu hỗn hợp phải tuân
theo các quy định của BLDS về sở hữu chung và các quy định của pháp luật
cóliên quan đến việc góp vốn, tổ chức, hoạt động sản xuất kinh doanh, quản lý,
điều hành, trách nhiệm về tài sản và phân chia lợi nhuận.
4.7. Sở hữu chung (Điều 229 đến 240)
BLDS quy định sở hữu chung là sở hữ của nhiều chủ sở hữu đối với tài
sản. Do đó, việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc sở hữu chung phụ

9


thuộc vào ý chí của tất cả chủ sở hữu chung trừ trờng hợp có thoả thuận khác
hoặc pháp luật có quy định khác.

Xuất phát từ đặc thù hay BLDS đã quy định cụ thể thực hiện các quyền của
chủ sở hữu chung, vừa đảm bảo sự độc lập tơng đối của từng chủ sở hữu cũng nh
quyền, nghĩa vụ của mỗi chủ sở hữu.
Xét về phạm vi quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữ chung, BLDS phân biệt sở
hữu chung theo phần và sở hữu chung hợp nhất. Sở hữu chung theo phần là sở
hữu chung mà trong đó quyền sở hữu của mỗi chủ sở hữu đợc xác định đối với tài
sản chung và các chủ sở hữu chung hợp nhất có quyền, nghĩa vụ ngang nhau đối
với tài sản thuộc sở hữu chung. Sở hữu chung hợp nhất bao gồm sở hữu chung
của vợ chồng là sở hữu chung hợp nhất. Tài sản chung vợ chồng có thể phân chia
theo sự thoả thuận hoặc theo quyết định của toà án.
BLDS quy định sở hữu chung của cộng đồng. Đây là sở hữu của dòng họ,
thôn, ấp, làng, bản, cộng đồng tôn giáo và các cộng đồng dân c khác. Thành viên
của cộng đồng cùng nhau đóng góp, đợc tặng chung, cho chung hoặc từ các
nguồn hợp pháp. Tài sản chung của cộng đồng là tài sản chung hợp nhất không
thể phân chia.
BLDS quy định các nguyên tắc trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt
và phân chia tài sản thuộc sở hữu chung.
- Các chủ sở hữu chung cùng quản lý tài sản theo nguyên tắc nhất trí trừ trờng hợp có thoả thuận khác.
- Mỗi chủ sở hữu chung theo phần có quyền khai thác công dụng, hởng
hoa lợi, lợi ích từ tài sản chung tơng ứng theo phần quyền sử dụng của mình. Nếu
là sở hữu chung hợp nhất thì các đồng sở hữu ngang quyền nhau.
- Mỗi chủ sở hữu chung theo phần có quyền định đoạt phần quyền sở hữu
của mình theo thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật.
- Mỗi chủ sở hữu chung đều có quyền yêu cầu chia tài sản chung nếu sở
hữu chung có quyền phân chia. Nếu các chủ sở hữu chung đã thoả thuận với
nhau là không phân chia tài sản chung trong một thời hạn thì phải hết thời hạn đó
mới có quyền phân chia.
Một điểm đáng lu ý là Bộ luật dân sự có quan điểm bảo vệ lợi ích của ngời
có quyền yêu cầu. Khoản 2 điều 238 quy định: "Khi ngời có yêu cầu trong các
chủ sở hữu chung thực hiện nghĩa vụ thanh toán thì ngời yêu cầu có quyền yêu


10


cầu chia tài sản chung để nhận tiền thanh toán và đợc tham gia vào chia tài sản
chung trừ trờng hợp pháp luật có quy định khác".
Sở hữu chung chấm dứt trong các trờng hợp sau:
1. Tài sản chung đã đợc chia
2. Một trong số các chủ sở hữu chung đợc hởng toàn bộ tài sản chung.
3. Tài sản chung không còn.
4. Các trờng hợp khác theo quy định của pháp luật.
Nh vậy, Bộ luật dân sự quy định 7 hình thức sở hữu tơng ứng với các thành
phần kinh tế Nhà nớc. việc quy định rõ 7 hình thức sở hữu thể hiện bản chất của
nền kinh tế xã hội Việt Nam đang phát triển phù hợp với quy định tất yếu của
thực tại khách quan, quán triệt đờng lối chủ trơng đờng lối lãnh đạo của Đảng và
sự quản lý chặt chẽ của Nhà nớc. Đây chính là một nhân tố quan trọng để xây
dựng thành công Nhà nớc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
II. Nội dung quyền sở hữu
Bộ luật dân sự Việt Nam quy định nội dung của quyền sở hữu bao gồm 3
quyền là: Quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt.
1. Quyền chiếm hữu (Điều 198)
Chiếm hữu là quyền của chủ sở hữu nắm giữ, quản lý tài sản thuộc quyền
sở hữu của mình. Trong trờng hợp chủ sở hữu tự mình chiếm giữ tài sản thuộc sở
hữu của mình thì chủ sở hữu đợc thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình để
nắm giữ, quản lý tài sản miễn là không phơng hại đến lợi ích của Nhà nớc, lợi ích
công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của ngời khác. Việc chiếm hữu của chủ sở
hữu là chiếm hữu có căn cứ vào pháp luật, không bị hạn chế, gián đoạn về thời
gian, phù hợp với những căn cứ do pháp luật quy định. Các căn cứ bao gồm:
- Đợc chủ sở hữu uỷ quyền quản lý tài sản. Trong trờng hợp này, ngời đợc
uỷ quyền thực hiện quyền chiếm hữu trong phạm vi, theo cách thức, thời hạn do

chủ sở hữu xác định (Điều 192)
- Đợc chuyển giao quyền sử dụng thông qua giao dịch dân sự phù hợp với
ý chí của ngời sở hữu. Trong trờng hợp này, ngời đợc giao phải thực hiện việc
chiếm hữu tài sản phù hợp với mục đích, nội dung giao dịch. Ngời đợc giao
quyền sở hữu chỉ đợc sử dụng tài sản và chuyển giao quyền chiếm hữu tài sản đó
cho ngời khác nếu đợc chủ sở hữu đồng ý (Điều 193).
- Phát hiện và giữ tài sản vô chủ, tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị chôn
giấu, bị chìm đắm phù hợp với các điều kiện với pháp luật quy định. Trong trờng
11


hợp đó, ngời phát hiện trớc hết phải trả lại cho chủ sở hữu. Nếu không biết ai là
chủ sở hữu thì phải thông báo hoặc nộp cho UBND xã, phờng, thị trấnTừ thời
điểm phát hiện tài sản cho đến khi trả lại cho chủ sở hữu hoặc nộp cho cơ quan
Nhà nớc có thẩm quyền, sự chiếm hữu của ngời phát hiện đợc xác định là hợp
pháp. Quyền chiếm hữu hợp pháp của ngời không phải là chủ sở hữu cũng thuộc
đối tợng tôn trọng và bảo vệ của pháp luật. Trờng hợp ngời không phải là chủ sở
hữu chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật nhng ngay tình, liên tục, công
khai trong một thời hạn do luật định thì sau thời hạn đó có thể trở thành chủ sở
hữu đối với tài sản trừ tài sản thuộc sở hữu toàn dân. Do đó, pháp luật dân sự
cũng quy định rõ nh thế nào là chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhng ngay
tình (Điều 195), chiếm hữu liên tục (Điều 196), chiếm hữu công khai (Điều
197).
2. Quyền sử dụng (Điều 198)
Sử dụng là quyền của chủ sở hữu khai thác công dụng, hởng hoa lợi, lợi tức
từ tài sản. Điều này có nghĩa là chủ sở hữu có quyền khai thác giá trị của tài sản
theo ý chí của mình bằng cách thức khác nhằm thoả mãn nhu cầu về vật chất và
tinh thần của bản thân miễn là không phơng hại đến lợi ích Nhà nớc, lợi ích công
cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của ngời khác.
Ngời không phải là chủ sở hữu cũng có quyền sử dụng tài sản nếu đợc chủ

sở hữu chuyển giao quyền sử dụng hoặc theo quy định của pháp luật. Nghĩa là,
ngời không phải là chủ sở hữu trong trờng hợp này cũng có quyền khai thác công
dụng tài sản đúng phơng thức thoả thuận hay theo quy định của pháp luật. Ngời
chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhng ngay tình cũng cũng có quyền tác
động công dụng, hởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản theo quy định của pháp luật
(Điều 200).

12


3. Quyền định đoạt (Điều 201).
Định đoạt là quyền của chủ sở hữu chuyển giao quyền sở hữu tài sản của
mình cho ngời khác hoặc từ bỏ quyền sở hữu đó. Chủ sở hữu thực hiện quyền
định đoạt cuả mình bằng hai phơng thức:
- Định đoạt số phận pháp lý của tài sản, tức là chuyển quyền sở hữu của
mình cho ngời khác thông qua giao dịch dân sự: bán, trao đổi, tặng, cho, cho vay,
đề thừa kế.
- Định đoạt số phận thực tế của tài sản, tức là chủ sở hữu có quyền bằng
hành vi của mình làm cho tài sản không còn trong thực tế. Ví dụ nh: tiêu dùng
hết, huỷ bỏ tài sản, từ bỏ quyền sở hữu đối với tài sản.
Chủ sở hữu có thể tự mình thực hiện quyền định đoạt tài sản hoặc có thể
uỷ quyền cho ngời khác. Ngời đợc uỷ quyền phải thực hiện việc định đoạt phù
hợp với ý chí của chủ sở hữu.
Điều kiện thực hiện quyền định đoạt đợc quy định tài điều 202 BLDS.
Việc định đoạt tài sản phải do ngời đủ năng lực hành vi dân sự thực hiện quy
định của pháp luật. Đồng thời, BLDS cũng quy định quyền định đoạt hạn chế
trong những trờng hợp sau:
- Đối với tài sản bị kê biên, cầm cố, thế chấp.
- Khi tài sản đem bán là cổ vật, là di tích lịch sử Nhà nớc có quyền u tiên
mua.

Trờng hợp pháp luật quy định quyền u tiên mua cho cá nhân, tổ chức với
một số tài sản nhất định thì khi bán tài sản đó chủ sở hữu phải dành quyền u tiên
mua một số cá nhân. Ví dụ Điều 237, 446, 494.
Nh vậy, quyền sở hữu đối với tài sản đợc thể hiện trên cả 3 mặt: Quyền
chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt. Cả 3 mặt này có mối quan hệ mật
thiết, thống nhất, có sự ràng buộc lẫn nhau tạo ra quyền sở hữu toàn diện đối với
tài sản của mình cho chủ sở hữu.

13


Phần kết luận
I. Thực tế áp dụng các chế định pháp luật về quyền
sở hữu.
Chế định pháp luật về quyền sở hữu trong BLDS Việt Nam là một chế định
quan trọng, giữ vị trí trung tâm, có ảnh hởng nhất định đối với một số pháp lý
khác. Chế định pháp luật về quyền sở hữu có phạm vi nghiên cứu tơng đối rộng,
vì vậy khi nghiên cứu đề tài này, trong phạm vi nhỏ tôi không thể đi sâu phân tích
đợc hết thực trạng phức tạp đang diễn ra của việc áp dụng các chế định pháp lý
về quyền sở hữu. ở đây tôi chỉ đề cập đến một số vấn đề nh sau:
Thứ nhất, Việc áp dụng các chế định pháp luật về quyền sở hữu trong
BLDS diễn ra trong sự vận động phát triển không ngừng của nền kinh tế xã hội.
Các quan hệ pháp luật dân sự ngày càng trở nên phức tạp hơn, đòi hỏi sự can
thiệp sâu rộng của các cơ quan bảo vệ pháp luật trong việc giải quyết tranh chấp,
ngăn chặn phát sinh các mâu thuẫn giữa các chủ thể khi thực hiện nội dung của
chế định pháp luật về quyền sở hữu.
Thứ hai: Các chế định về quyền sở hữu trong BLDS vẫn cha quy định rõ
ràng về đối tợng áp dụng, phạm vi các khái niệm đợc sử dụng. Văn bản hớng dẫn
thực hiện có nhiều điểm cha bao quát hết thực tế, việc triển khai áp dụng còn
chậm chạp và thiếu thống nhất ở các địa phơng, các cơ quan, các tổ chức xã hội.

Ví dụ nh việc quy định với tài sản khi đem bán là cổ vật, là di tích lịch sử văn hoá
thì Nhà nớc có quyền u tiên mua. song trên thực tế lại cha quy định rõ nh thế nào
thì đợc gọi là cổ vật, là di tích lịch sử, văn hoá, chế độ đãi ngộ với những vi phạm
cha rõ ràng, công minh.
Thứ ba: Dân trí nớc ta còn hạn chế, vì vậy việc thực hiện các chế định
pháp lý về quyền sở hữu còn bộc lọ những tồn tại nhất định, đòi hỏi cần có những
biện pháp khắc phục kịp thời.
Nghiên cứu thực trạng của việc áp dụng các chế định pháp lý về quyền sở
hữu một cách khách quan, toàn diện tôi xin mạnh dạn đa ra một số kiến nghị và
giải pháp sau đây:
2. Quán triệt quan điểm, đờng lối của Đảng trong việc phát triển kinh tế xã hội, cụ thể là việc trong quy định các hình thức sở hữu đảm bảo sự phát triển
của nền kinh tế nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nớc theo định hớng xã
hội chủ nghĩa.

14


2. Hoàn thiện và bổ sung các văn bản hớng dẫn thi hành, quy định cụ thể
vi phạm áp dụng đối với từng điều luật.
3. Tổ chức hớng dẫn thực hiện, triển khai một cách đồng bộ , thống nhất
trong các địa phơng trên toàn quốc. Việc xử lý các vi phạm, tranh chấp phải dựa
trên các điều khoản cụ thể của pháp luật, tránh lối làm việc qua loa, theo kinh
nghiệm.
4. Tổ chức tuyên truyền pháp luật sâu rộng trong nhân dân bằng nhiều hình
thức khác nhau, đặc biệt phải tiến hành một cách thờng xuyên, liên tục để cho
pháp luật trở thành tiềm thức một cách thờng xuyên, liên tục để cho pháp luật trở
thành tiềm thức trong mỗi ngời, xây dựng ý thức pháp luật tốt trong nhân dân.
5. Xử lý nghiêm minh các trờng hợp vi phạm các chế định về quyền sở
hữu. Các cơ quan chức năng phải thực hiện tố nhiệm vụ quản lý, kiểm tra và
giám sát của mình, bảo đảm pháp luật đợc đa vào cuộc sống một cách có hiệu

quả nhất.
II. Kết luận
Có thể nói, thực hiện các chế định pháp lý về quyền sở hữu là một vấn đề
mang tính nguyên tắc trong quá trình đa pháp luật dân sự áp dụng vào thực tiễn
cuộc sống. Quan hệ pháp luật dân sự nói chung và quan hệ pháp luật dân sự về
quyền sở hữu nói riêng trên thực tế áp dụng đã phát sinh rất nhiều vấn đề phức
tạp mà việc giải quyết không đơn giản chút nào. Những tranh chấp mà nguyên
nhân chính là xác định quyền sở hữu, xác định chủ sở hữu đang nhức nhối đối
với cơ quan là chủ thể trực tiếp giải quyết.
Với kiến thức về lý luận và thực tiễn pháp luật còn hạn chế, do đó việc
nghiên cứu của tôi về "Tìm hiểu các chế định về quyền sở hữu trong BLDS Việt
Nam" chắc chắn vẫn còn những thiếu sót nhất định. Tôi hy vọng nhận đợc sự góp
ý từ phía các thầy cô giáo, các đồng chí và các bạn để đề tài đợc hoàn thiện hơn,
góp một phần nhỏ vào công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nớc trong thời đại ngày
nay.

15


Mục lục
1
Phần mở đầu
1
I. Mục đích nghiên cứu đề tài
3
II. Đối tợng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu
4
III. Phơng pháp nghiên cứu
4
IV. Tài liệu tham khảo và nghiên cứ

5
Phần nội dung
5
I. Nhận thức chung về quyền sở hữu trong bộ luật dân sự
1. Khái niệm và cơ sở lý luận của chế định về quyền sở hữu trong Bộ luật 5
dân sự Việt Nam
2. Nguyên tắc cơ bản của quyền sở hữu
6
3. Đối tợng của quyền sở hữu
7
4. Các hình thức sở hữu
8
4.1. Sở hữu toàn dân
8
4.2. Sở hữu tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội
9
4.3. Sở hữu tập thể
10
4.4. Sở hữu t nhân
10
4.5. Sở hữu tổ chức, tổ chức xã hội - nghề nghiệp
11
4.6. Sở hữu hồn hợp
12
4.7. Sở hữu chung
12
14
II. Nội dung quyền sở hữu
1. Quyền chiếm hữu
14

2. Quyền sử dụng
15
3. Quyền định đoạt
16
17
Phần kết luận
`I. Thực tế áp dụng các chế định pháp luật về quyền sở hữu
II. Kết luận

16



×