Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

Thống nhất vị trí đặt dấu thanh điệu 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (83.96 KB, 4 trang )

Thống nhất vị trí đặt dấu thanh điệu
1.1. Các nguyên tắc chung cho việc đặt dấu thanh điệu
1.1.1. Các mô hình vần trong tiếng Việt
Có thể nhận thấy ngay là các dấu thanh điệu hiện nay đều được đặt hoặc là ở vị trí âm
chính, hoặc là ở vị trí âm đệm. Nghĩa là nó nằm ở trong phạm vi phần vần. Xét theo giải pháp
âm vị học của hệ thống chữ quốc ngữ, chúng ta có mô hình chung của vần tiếng Việt:
ÂM ĐỆM + NGUYÊN ÂM CHÍNH + ÂM CUỐI
Và các biến thể của mô hình này là:

1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.
10.
11.
12.

Âm đệm zero + Nguyên âm chính + Âm cuối /zero/
(Chúng tôi gọi tắt là mô hình 010)
Ví dụ: a (ta), ô (tô), i (ti)… (12 vần, 1162 âm tiết).
Âm đệm zero + Nguyên âm chính + Âm cuối không /zero/
(mô hình 011)
Ví dụ: ac (tác), ôc (tốc), ich (tích)… (110 vần, 4874 âm tiết).
/W/ + Nguyên âm chính + Âm cuối /zero/
(mô hình 110)
Ví dụ: oa (toa), uy (tuy)… (6 vần, 152 âm tiết).


/W/ + Nguyên âm chính + Âm cuối không /zero/
(mô hình 111)
Ví dụ: oac (toác), uyt (tuýt)… (38 vần, 463 âm tiết)

1.1.2. Mô hình một âm tiết tiếng Việt khi được biểu diễn bằng chữ quốc ngữ
Chữ quốc ngữ là chữ ghi âm, phản ánh tương đối chính xác cấu trúc âm tiết tiếng Việt. Về
cơ bản, một âm tiết tiếng Việt khi được biểu diễn bằng chữ quốc ngữ sẽ có dạng tổng quát như
sau:
(C) (C) (C) (w) V (v) (c) (c)
Trong đó:


o
o
o

C là chữ cái trong tổ hợp chữ cái biểu diễn cho âm đầu:
gồm 1 chữ cái (C): b, c , d, đ, g, k, l, m, n, q, r, s, t, v, x
gồm 2 chữ cái (CC): ch, gh, gi, ng, nh, ph, th, tr
gồm 3 chữ cái (CCC): ngh
Như vậy, C ở vị trí thứ hai chỉ có thể là “h, i, r”; còn C ở vị trí thứ 3 duy nhất chỉ có thể là
“h”.





o
o
o

o

w là chữ cái biểu diễn cho âm đệm, bao gồm “o” và “u”.
V và v là chữ cái biểu diễn cho âm chính. Bao gồm các tổ hợp sau:
một chữ cái (V): a, ă, â, e, ê, i, o, ô, ơ, u, ư, y
hai chữ cái (Vv): ia, iê, ya, yê, ua, uô, ưa, ươ
c là chữ cái biểu diễn cho âm cuối. Bao gồm các tổ hợp sau:
một chữ cái (c): c, i, m, n, o, p, t, u, y
hai chữ cái (cc): ch, ng, nh


Các thành phần được đặt trong dấu ngoặc đơn () là các thành phần có thể vắng mặt. Như
vậy, về mặt lí thuyết thì âm tiết tiếng Việt có thể được biểu diễn bằng từ 1 đến 8 chữ cái,
nhưng trên thực tế, con số tối đa là 7.
Dưới đây là các biến thể của mô hình trên (phân theo số lượng chữ cái có trong mô hình)
và các ví dụ tương ứng:
Số lượng chữ cái Biến thể

Ví dụ

1

V

à, ớ

2

wV


oà/òa, uế/úê

Vc

án, ớn

Vv

ỉa, ủa

CV

tả, tớ

wVv

-

CVv

tỉa, tủa

CCV

thả, thở

Vvc

yến, ườn


Vcc

áng, ậng

wVc

oái, uất

CwV

toà/tòa, tuế/túê

CVc

tán, tợn

CCVv

thìa, thủa

CCCV

nghĩ, nghè

Vvcc

yểng, ưởng

CVvc


tiến, lượn

CCVc

thán, thớt

CVcc

táng, tầng

CwVv

tuya, xuya

CCwV

thoá/thóa, thuế/túê

wVvc

uyên, uyển

wVcc

oàng, uỵch

CwVc

toại, luận


CCCVv

nghía, nghĩa

CCVvc

thiến, thưỡn

CCCVc

nghìn, nghịt

CVvcc

tiếng, tưởng

CCVcc

tháng, thắng

CCwVv

khuya

CCCwV

-

wVvcc


-

CwVvc

tuyển, huyền

3

4

5


6

7

8

CwVcc

toáng, đoảng

CCwVc

khuỷu, thoái

CCCVvc

nghiến, nghiện


CCVvcc

thiềng, thường

CCCVcc

nghĩnh, nghếch

CCCwVv

-

CwVvcc

-

CCwVvc

thuyền, khuyến

CCwVcc

khuỳnh, khoàng

CCVvcc

nghiêng

CCwVVcc


-

CCCwVvcc -

1.1.3. Nguyên tắc đặt dấu thanh trong hệ thống chữ quốc ngữ
Trong bài “Một ý kiến nhỏ về cách ghi dấu thanh trên văn bản tiếng Việt” [6], tác giả Trần
Thị Thìn nêu ra ba nguyên tắc đặt dấu. Đó là:
1.

2.

3.

Nguyên tắc biểu trưng ngữ âm: “vị trí của các dấu thanh thường được đặt ở trên hoặc
dưới yếu tố đỉnh âm tiết, tức là nguyên âm hay âm hạt nhân. Sự định vị đó chính là xuất
phát từ nguyên tắc biểu trưng ngữ âm, bởi lẽ nguyên âm là yếu tố mang những đặc trưng
ngữ âm cơ bản của thanh điệu trong âm tiết. Ví dụ: gà, ngã, đặc, tính…”.
Nguyên tắc hợp lí: Tác giả so sánh giữa tiếng Việt và tiếng Mông, theo đó, do âm tiết
tiếng Mông hầu như chỉ có cấu trúc mở nên thanh điệu được biểu diễn bằng chữ cái và được
đặt ở cuối âm tiết. Còn tiếng Việt, ngược lại, do âm tiết tồn tại ở hai cấu trúc: mở và không
mở, nên để tránh gây nhầm lẫn với âm cuối, chữ quốc ngữ sử dụng dấu phụ thay cho chữ
cái. (Thực ra, nếu sử dụng các chữ cái để biểu diễn thanh điệu theo kiểu gõ telex: F huyền, X - ngã, R - hỏi, S - sắc, J - nặng thì sẽ không gây nhầm lẫn. Tuy nhiên, khoá luận
này không bàn tới việc cải tiến chữ viết, hơn nữa, việc thay đổi lớn như vậy là không đem
lại gì ngoài việc gây thêm phiền phức mà thôi).
Nguyên tắc thẩm mĩ: Đây là nguyên tắc đặt dấu sao cho con chữ trông cân đối, thuận
mắt. Cũng chính sử dụng tiêu chuẩn cân đối và thuận mắt này mà tuỳ vào từng (loại)
trường hợp cụ thể mà có cách cách bỏ dấu khác nhau:

“...

- Hoặc thuần tuý dựa vào trật tự của các con chữ, đánh dấu vào chữ cái ở giữa của các âm tiết
kiểu:
ÂĐ + NÂ đôi. Ví dụ: thìa, lựa…
- Hoặc theo cả hai nguyên tắc cân đối và biểu trưng ngữ âm, dấu thanh được đánh ở nguyên
âm trong những âm tiết kiểu:
ÂĐ + NÂ đơn + ÂC. Ví dụ: nhẵn, tép, sỏi…
- Hoặc dấu thanh được đánh ở con chữ thứ 2 trong tổ hợp chữ cái ghi nguyên âm đôi trong các
âm tiết không mở:
ÂĐ + NÂ đôi + ÂC. Ví dụ: thiền, lưỡi, cuống…
- Hoặc dấu thanh được đánh ở nguyên âm trong các âm tiết bắt đầu bằng âm đệm:
Bán NÂ + NÂ đơn + ÂC. Ví dụ: uế, oản, uất…
...”

* Tiên đề
Như vậy, chúng ta có thể khẳng định, trong chữ quốc ngữ hiện nay, dấu phụ biểu diễn
thanh điệu đa phần được đặt ở vị trí chữ cái biểu diễn nguyên âm chính, ngoài ra còn có một
số trường hợp đặt ở vị trí chữ cái biểu diễn âm đệm. Các trường hợp đặt ở âm đầu và âm cuối
là những lỗi kĩ thuật.


Ngoài ra, có một điều đáng chú ý, có một số chữ cái thường được dùng để biểu diễn
nguyên âm (“i, o, u, y”) lại nằm trong thành phần không phải để biểu diễn cho âm chính. Đây
là một “kẽ hở” của chữ quốc ngữ, tạo điều kiện phát sinh sự nhầm lẫn về vị trí dấu thanh điệu
ở các âm tiết có âm đầu được biểu diễn bằng tổ hợp “gi”, hoặc các âm tiết [+tròn môi] (“o, u”)
hoặc các âm tiết có bán nguyên âm cuối (“o, u, i, y”).



×