Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Bài tiểu luận lạm phát có ảnh hưởng tới tất cả các đối tượng từ người tiêu dùng, doanh nghiệp, đến chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế hay không để kiềm chế lạm phát chính phủ các nước thường sử dụng các biện pháp nào

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 31 trang )

[Type text]

Tiểu luận
Lạm phát có ảnh hưởng tới tất cả các đối tượng từ người tiêu dùng, doanh nghiệp, đến chỉ tiêu
tăng trưởng kinh tế hay không? Để kiềm chế lạm phát chính phủ các nước thường sử dụng các
biện pháp nào? Ở Việt Nam hiện nay có lạm phát không? Nếu có thì chính phủ Việt Nam sử
dụng những biện pháp nào?

MỤC LỤC BIỂU ĐỒ
Đồ thị 1: Tăng trưởng kinh tế Việt Nam 2003-2008
Đồ thị 2:Lạm phát Việt Nam giai đoạn 2003-2007
Đồ thị 3: Thể hiện CPI, USD, Vàng 2007-2008
Đồ thị 4 : so sánh mức cung tiền của việt Nam so với Trung Quốc và Thái Lan
Đồ thị 5: tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán
Đồ thị 6: tăng trưởng dư nợ cho vay ngành ngân hàng 2004-2007

14
15
17
18
19
20

LỜI MỞ ĐẦU
Lạm phát có ảnh hưởng tới tất cả các đối tượng từ người tiêu dùng, doanh nghiệp, đến chỉ tiêu
tăng trưởng kinh tế năm 2008, thế giới rơi vào cuộc khủng hoảng kinh tế tồi tệ nhất kể từ cuộc Đại
suy thoái 1929-1933. Bắt đầu từ cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ, thế giới chứng kiển sự sụp đổ của
những định chế tài chính khổng lồ. Lý do sâu xa của nó là sự mất cân bằng quốc tế của các khu vực
kinh tế trụ cột trên thế giới và những vấn đề nội tại của hệ thống ngân hàng Mỹ và Châu Âu. Cho đến
thời điểm này, hàng loạt ngân hàng tên tuổi đã phải tuyên bố phá sản hoặc nhờ chính phủ cứu trợ. Thị
trường tài chính nhiều nước gần như đóng băng, kéo theo là nền kinh tế thực sự suy thoái.Nạn thất


nghiệp tăng đến mức báo động, nhất là trong tầng lớp dân nghèo ở các nền kinh tế mới nổi và các
nước đang phát triển Thương mại quốc tế giảm mạnh, sự sụt giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế vẫn chưa
có dấu hiệu ngừng lại, lạm phát xảy ra ở khắp nơi. Mặc dù nhiều nước đã đưa ra những gói kích cầu
lớn, với tổng số tiền công bố toàn cầu xấp xỉ 2000 tỉ USD.
Việt Nam cũng không nằm ngoài vòng xoáy đó. 2008 là năm nền kinh tế Việt Nam phải đối mặt
với những vấn đề phức tạp cũng như những tác động khó lường từ tình hình thế giới. Đặc biệt là nạn
lạm phát tăng cao khiến nền kinh tế nước ta không tránh khỏi rơi vào tình trạng khủng hoảng trầm
trọng, ngân sách Chính phủ thâm hụt, đời sống người dân gặp nhiều khó khăn.
Chính vì thế, lạm phát hiện nay đã trở thành vấn đề nhức nhối của toàn xã hội. Ổn định lạm phát
1


[Type text]
là một vấn đề cực kỳ quan trọng, bởi lẽ lạm phát là một trong những chỉ tiêu vĩ mô quan trọng đánh
giá “tình hình sức khỏe” của một nền kinh tế bên cạnh các chỉ tiêu tăng trưởng và thất nghiệp . Lạm
phát có ảnh hưởng tới tất cả các đối tượng từ người tiêu dùng, doanh nghiệp, đến chỉ tiêu tăng trưởng
kinh tế .Bên cạnh đó, lạm phát luôn luôn là kết quả của sự tác động tổng hợp từ các yếu tố kinh tế
khác nhau, và rất khó nhận ra đâu là nguyên nhân chủ yếu, nên việc kiềm chế lạm phát thường gặp rất
nhiều khó khăn.
Theo báo cáo, Việt Nam chỉ là một nền kinh tế nhỏ trong khu vực châu Á vì GDP của Việt Nam chỉ
chiếm xấp xỉ 1% so với toàn khu vực, trừ Nhật Bản. Trong những năm gần đây, Việt Nam gây ấn
tưởng bởi tốc độ tăng trưởng kinh tế tăng liên tục. Mặc dù vậy, Việt Nam đang chịu tác động từ chính
thành công quá lớn và quá nhanh chóng của mình. Đặc biệt, đối với Việt Nam, một nước đi theo con
đường kinh tế thị trường chưa lâu, cuộc khủng hoảng kinh tế lần này có thể làm xói mòn niềm tin vào
thị trường, nhất là khi vai trò của Nhà Nước đã được nhấn mạnh trở lại ngay cả ở Mỹ và các nền kinh
tế phát triển khác. Tuy nhiên, sẽ là sai lầm lớn nếu Việt Nam không tiếp tục con đường đang đi. Nên
coi cuộc khủng hoảng lần này như một cơ hội tái cơ cấu lại nền kinh tế và nâng cao năng lực cạnh
tranh của mình. Cùng với các trào lưu biến đổi của thế giới đang diễn ra mạnh mẽ, Việt Nam cần lựa
chọn cho mình một chiến lược phát triển khôn ngoan và bền vững.
PHẦN I: CƠ SỞ LÝ LUẬN

1.1. Tổng quan về lạm phát
1.1.1. Khái niệm về lạm phát
Trong kinh tế học, lạm phát là sự tăng lên theo thời gian của mức giá chung của nền kinh tế. Trong
một nền kinh tế, lạm phát là sự mất giá trị thị trường hay giảm sức mua của đồng tiền. Khi so sánh với
các nền kinh tế khác thì lạm phát là sự phá giá tiền tệ của một loại tiền tệ so với các loại tiền tệ khác.
Thông thường theo nghĩa đầu tiên thì người ta hiểu là lạm phát của đơn vị tiền tệ trong phạm vi nền
kinh tế của một quốc gia, còn theo nghĩa thứ hai thì người ta hiểu là lạm phát của một loại tiền tệ
trong phạm vi thị trường toàn cầu. Phạm vi ảnh hưởng của hai thành phần này vẫn là một chủ đề gây
tranh cãi giữa các nhà kinh tế học vĩ mô. Ngược lại với lạm phát là giảm phát. Một chỉ số lạm phát
bằng 0 hay một chỉ số dương nhỏ thì được người ta gọi là sự ổn định giá cả.
Một khái niệm khác về lạm phát là khối lượng tiền được lưu hành trong dân chúng tăng lên do
nhà nước in và phát hành thêm tiền vì những nhu cầu cấp thiết (chiến tranh, nội chiến, thâm thủng
ngân sách v.v...). Trong khi đó, số lượng hàng hoá không tăng khiến dân chúng cầm trong tay nhiều
tiền quá sẽ tranh mua khiến giá cả tăng vọt có khi đưa đến siêu lạm phát.
1.1.2 Phân loại lạm phát
Lạm phát do cầu kéo:
Kinh tế học Keynes cho rằng nếu tổng cầu cao hơn tổng cung ở mức toàn dụng lao động, thì sẽ sinh
ra lạm phát. Điều này có thể giải thích qua sơ đồ AD-AS. Đường AD dịch sang phải trong khi đường
AS giữ nguyên sẽ khiến cho mức giá và sản lượng cùng tăng.Trong khi đó, chủ nghĩa tiền tệ giải thích
rằng do tổng cầu cao hơn tổng cung, người ta có cầu về tiền mặt cao hơn, dẫn tới cung tiền phải tăng
lên để đáp ứng. Do đó có lạm phát.
2


[Type text]

Nguyên nhân dẫn đến cầu kéo: do hàng hóa ngày càng trở nên khan hiếm trong khi nhu cầu ko tăng
hay do nhu cầu ngày càng tăng trong khi hàng hóa ko tăng hoặc tăng chậm hay do cả nhu cầu tăng
trong khi hàng hóa thì có xu hướng ngày càng khan hiếm (các giả sử chỉ là tương đối). Do các nguyên
nhân trên tất yếu làm cho giá cả thị trường tăng cao. chúng ta đã tìm ra nguyên nhân gây tăng giá do

cầu kéo và để giải quyết nó cần tìm ra các biện pháp tăng lượng hàng hóa đáp ứng nhu cầu trên thị
trường, có rất nhiều cách trong đó phần lớn nhờ cách giải quyết của chính phủ về các chính sách về
đầu tư ... nhằm tăng hiệu quả sx nhằm đưa sp vào thị trường. Ngoài chính phủ tất cả các yếu tố khác
trên thị trường cạnh tranh tự do đều góp phần làm giảm tăng giá trên thị trường như làm thế nào để
thay đổi thói quen tiêu dùng hay nhu cầu ngày càng tăng của người tiêu dùng, ...
Lạm phát do cầu thay đổi
Giả dụ lượng cầu về một mặt hàng giảm đi, trong khi lượng cầu về một mặt hàng khác lại tăng lên.
Nếu thị trường có người cung cấp độc quyền và giá cả có tính chất cứng nhắc phía dưới (chỉ có thể
tăng mà không thể giảm), thì mặt hàng mà lượng cầu giảm vẫn không giảm giá. Trong khi đó mặt
hàng có lượng cầu tăng thì lại tăng giá. Kết quả là mức giá chung tăng lên, nghĩa là lạm phát.
Lạm phát do chi phí đẩy
Nếu tiền công danh nghĩa tăng lên, thì chi phí sản xuất của các xí nghiệp tăng. Các xí nghiệp vì muốn
bảo toàn mức lợi nhuận của mình sẽ tăng giá thành sản phẩm. Mức giá chung của toàn thể nền kinh tế
cũng tăng.
Nguyên nhân dẫn đến chi phí đẩy: Trong hàng loạt các yếu tố tác động đến chi phí đầu vào của một
sản phẩm như giá cả nguyên vật liệu, chi phí lao động, chi phí mua sắm tài sản cố định, cho đến các
chính sách của nhà nước đều ảnh hưởng trực tiếp đến giá cả của sản phẩm; mà khi các yếu tố này cao
đương nhiên sẽ đẩy chi phí đầu vào tăng và làm tăng giá sản phẩm ... . Để giải quyết chúng cần đặc
biệt chú ý tới các chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước mà đặc biệt là các chính sách về thuế. chúng
ta đã biết các nguyên nhân dẫn đến chi phí tăng từ đó sẽ biết biện pháp giải quyết, bản thân từng dn
sản xuất hàng hóa tự tìm cách hạ bớt chi phí đầu vào như tìm mua các yếu tố đầu vào thuận tiện để
giảm thiểu chi phí phát sinh, tính toán hao phí nguyên vật liệu chính xác để dự trữ cho phù hợp tránh
chi phí sử dụng vốn tăng... tận dụng giảm thiểu lãng phí do sử dụng nguyên vật liệu, tận dụng nguồn
lao động sẵn có tăng năng suất tối đa, tránh lãng phí những chi tiêu ko cần thiết hay tinh giảm hệ
thống quản lý cồng kềnh ko hiệu quả .Hay các chính sách vĩ mô của nhà nước như giảm các loại thuế
3


[Type text]
đầu vào, giảm thuế thu nhập .

Lạm phát do cơ cấu
Ngành kinh doanh có hiệu quả tăng tiền công danh nghĩa cho người lao động. Ngành kinh doanh
không hiệu quả, vì thế, không thể không tăng tiền công cho người lao động trong ngành mình. Nhưng
để đảm bảo mức lợi nhuận, ngành kinh doanh kém hiệu quả sẽ tăng giá thành sản phẩm. Lạm phát
nảy sinh vì điều đó.
Lạm phát do xuất khẩu
Xuất khẩu tăng dẫn tới tổng cầu tăng cao hơn tổng cung, hoặc sản phẩm được huy động cho xuất khẩu
khiến lượng cung sản phẩm cho thị trường trong nước giảm khiến tổng cung thấp hơn tổng cầu. Lạm
phát nảy sinh do tổng cung và tổng cầu mất cân bằng.
Lạm phát do nhập khẩu
Sản phẩm không tự sản xuất trong nước được mà phải nhập khẩu. Khi giá nhập khẩu tăng (do nhà
cung cấp nước ngoài tăng giá như trong trường OPEC quyết định tăng giá dầu, hay do đồng tiền trong
nước xuống giá) thì giá bán sản phẩm đó trong nước cũng tăng. Lạm phát hình thành khi mức giá
chung bị giá nhập khẩu đội lên.
Lạm phát tiền tệ
Cung tiền tăng (chẳng hạn do ngân hàng trung ương mua ngoại tệ vào để giữ cho đồng tiền ngoại tệ
khỏi mất giá so với trong nước; hay chẳng hạn do ngân hàng trung ương mua công trái theo yêu cầu
của nhà nước) khiến cho lượng tiền trong lưu thông tăng lên là nguyên nhân gây ra lạm phát.
Lạm phát sinh ra lạm phát
Khi nhận thấy có lạm phát, cá nhân với dự tính duy lý sẽ cho rằng tới đây giá cả hàng hóa sẽ còn tăng,
nên đẩy mạnh tiêu dùng hiện tại. Tổng cầu trở nên cao hơn tổng cung, gây ra lạm phát.
1.2. Cách tính lạm phát
Lạm phát được đo lường bằng tỷ lệ lạm phát , là suất tăng của mức giá tổng quát theo thời gian. Và
mức giá tổng quát được tính toán bằng thước đo chỉ số giá tiêu dùng CPI .Chỉ số giá tiêu dùng CPI là
một chỉ tiêu thống kê phản ánh xu hướng và mức độ biến động giá cả chung của một số lượng cố định
các loại hàng hóa dịch vụ ( Được gọi là rổ hàng hóa) đã được chọn đại diện cho tiêu dùng , phục vụ
đời sống bình thường của người dân , qua thời gian
Bảng 1.1: Tóm tắt các thành phần tác động chủ yếu đối với các mặt hàng trong CPI
Giá
lương

thực
Tác động
42.7
trực tiếp
Tác động
5.2
gián tiếp
Tổng cộng

47.9

Giá
phân
bón

Giá
thép

Tỷ giá Giá
hối đoái thuốc

Giá
dầu

0

3.1

27.6


1.7

3.3

0

42.7

0.3

1.1

0.7

2.6

0.2

42.7

3.4

28.7

2.4

5.9

0.2


xăng
Giá đất

Theo cách tiếp cận của học thuyết trọng tiền giải thích “lạm phát” là một hiện tượng thuộc về tiền tệ,
biểu thị thông qua phương trình : M*V=P*Q . Theo đó, với giả định với tốc độ lưu thông tiền tệ (V)
4


[Type text]
không đổi thì lạm phát (P) sẽ không xảy ra nếu cung tiền (MS) không tăng (MS = P*Q / V)
Theo thông thường, tỷ lệ lạm phát tháng hay quý có thể so sánh với các kỳ gốc khác nhau
Chẳng hạn gọi :

π i,kt

= k -1 * ( Pi,t – P i,t-k ) / Pi,t-k ; với :

π i,kt

: là tốc độ biến động giá hàng i so với kì so sánh k
K:
kỳ so sánh k
Pi,t : giá hàng i kỳ t
P i,t-k : giá hàng i kỳ k
- Khi đó tỷ lệ lạm phát CPI sẽ là
∏ i,k t

= k-1 Σ wi * (Pi,t – Pi,t-k) / Pi,t-k (I)

∏ i,k t


: lạm phát CPI
Wi : tỷ trọng hàng hóa i
Trong đó K thường nhận giá trị 1,3,12 … Tỷ lệ lạm phát ở đây chính là số bình quân giản đơn của các
tỷ lệ lạm phát tháng của k tháng
Giả sử chúng ta có thể phân tích tỷ lệ lạm phát của nhóm hay mặt hàng thứ i thành tỷ lệ lạm phát
trung bình ( ∏ t

CPI

π i,t

) và các sốc đối với giá mặt hàng thứ i (Vi,t ), ta có :

CPI
= ∏ t + Vi,t ; khi đó tỷ lệ lạm phát mặt hàng i ở kỳ t so với kỳ k là :

π i,t

CPI
= ∏ t + 1/k Σ Vi,t (II)
Từ (II) có thể thấy K càng lớn thì độ biến thiên của tỷ lệ lạm phát càng bé, do các phần nhiễu sẽ khử
trừ nhau.Vì vậy việc công bố phân tích lạm phát tháng bình quân quý (K=3), bình quân năm (K=12)
sẽ cho thấy rõ xu thế lạm phát và ít bị nhiễu hơn so với (K=1), cách tính lạm phát này tương đương tỷ
lệ lạm phát so với tháng cùng kỳ chia cho 12 hoặc 3
Tính lạm phát theo tỷ lệ phần trăm giữa bình quân CPI 12 tháng liên tục đến tháng hiện tại và tỷ lệ
lạm phát tính bình quân CPI các tháng cùng kỳ trừ đi 100. Các chỉ số này phải là chỉ số định gốc hay
chung gốc so sánh (1995=100). Cách tính này có ý nghĩa về mặt thống kê.
Theo một cách tính khác : tỷ lệ lạm phát trung bình chung ( IICPIt) có thể phân tích hai cấu phần tác


P
π
t
động xu thế lâu dài hay thường trực, thường xuyên, ổn định (
) và tác động nhiễu nhất thời, tức
CPI
π
π
thời ( ε Tt) là : ∏ t = t + ε Tt . Khi đó t thể hiện xu thế lâu dài, thường trực do áp lực của
cầu được gọi là lạm phát xu thế dài hạn hay lạm phát cơ bản

P

P

Khi lạm phát CPI nhiễu cần chọn cách tách lọc khử nhiễu để lấy ra cấu phần xu thế dài hạn

π tP , nếu

nhiễu ε Tt của biến động giá các nhóm hàng thuộc cấu phần CPI có chung phân bố chuẩn N ( µ δ 2
) thì lạm phát CPI có thể coi là lạm phát cơ bản. Khi đó giá trị trung bình là ước lượng không chêch
với phương sai bé nhất.
Khi CPI bị nhiễu nhiều nhất thời đến chừng mực mà ( Pi,t – Pi,t-k) /Pi,t-k khơng còn tuân theo phân
5


[Type text]
bố chuẩn . Khi đó CPI sẽ không còn là ước lượng tốt nhất và sẽ phản ánh sai lệch xu thế lâu dài của
lạm phát.
Để hoạch định chính sách tiền tệ, ngân hàng nhà nước cần một thước đo phản ánh xu thế lâu dài của

lạm phát. Chỉ tiêu này được gọi là lạm phát cơ bản hay lạm phát tiền tệ. Lạm phát cơ bản là chỉ tiêu
phản ảnh tác động của chính sách tiền tệ, đo lường được các tác động hay áp lực lâu dài ổn định của
cầu đến sự biến động của giá cả.Vì vậy chỉ tiêu này cần được tính toán sao cho loại trừ được tác động
của các sốc cung nhất thời, điều chỉnh giá không đều, thuế gián thu hay việc gán “giá không đổi “khi
hàng hóa tạm thời vắng…
1.3. Lạm phát cơ bản
1.3.1. Khái niệm lạm phát cơ bản
Lạm phát cơ bản (Core Inflation): là tỷ lệ lạm phát thể hiện sự thay đổi mức giá mang tính chất lâu dài
mà loại bỏ những thay đổi mang tính tạm thời nên lạm phát cơ bản chính là lạm phát xuất phát từ
nguyên nhân tiền tệ (hay chính lạm phát theo quan niệm của Friedman). Do đó không phải là CPI mà
Lạm phát cơ bản là một công cụ đắc lực giúp Ngân hàng trung ương có con mắt đánh giá đúng đắn
về lạm phát, qua đó mới có thể chỉ dẫn cho mục tiêu chính sách tiền tệ trong tương lai và một khi giá
cả ổn định sẽ là tiền đề cho các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô khác ổn định và phát triển. Tuy nhiên, cũng cần
phải lưu ý rằng các tác động của chính sách tiền tệ sau một độ trễ thời gian mới có hiệu lực, do đó sẽ
là quá muộn nếu các ngân hàng trung ương đợi cho đến khi tỷ lệ Lạm phát cơ bản bắt đầu tăng thì
mới bắt đầu cố gắng làm giảm sức ép lạm phát.
Tùy vào các phương pháp đo lường khác nhau, các nước công nghiệp tiên tiến có phân biệt rõ ràng
giữa tỷ lệ lạm phát được công bố rộng rãi theo thông lệ (thường là CPI, chỉ số giảm phát GDP) và tỷ
lệ Lạm phát cơ bản (có thể công bố hoặc không công bố mà chỉ để sử dụng nội bộ tuỳ từng quốc gia).
1.3.2. Các phương pháp tính lạm phát cơ bản
Tùy theo đặc thù ở một số nước mà người ta sử dụng một số phương pháp khác nhau để xây dựng
phương pháp tính, các phương pháp phổ biến được dùng như :
Phương pháp loại trừ chủ quan
Đầu thập niên 70, nhiều nước bắt đầu áp dụng tính lạm phát cơ bản theo phương pháp loại trừ một số
nhóm hàng, mặt hàng dễ bị sốc bởi cung như hàng hóa thuộc loại lương thực thực phẩm, nhiên liệu
năng lượng, điện năng thuế gián thu. Cách tính này chỉ cần loại bỏ một số mặt hàng thuộc loại lương
thực thực phẩm, nhiên liệu năng lượng, thuế gián thu sau đó tính lại quyền số rồi tính bình quân gia
quyền. Tuy nhiên việc xác định mặt hàng loại trừ trên khá máy móc, không có kiểm định .Hiện
phương pháp loại trừ chủ quan (CPI-FET) vẫn được áp dụng ở nhiều nước.
Phương pháp tinh theo trung vị gia quyền (WM-CPI)

Là ước lượng thô nhất khi trung bình gia quyền không còn là ước lượng tốt nhất cho xu thế trọng
tâm.Trung vị là ước lượng tốt hơn ước lượng trung bình do nó không chịu ảnh hưởng của các sốc tăng
giá tạm thời. Đây cũng là ước lượng khoa học không tùy tiện như phương pháp CPI-FET .
Phương pháp trung bình lược bỏ (TM-CPI)
Cuối thập kỷ 80 trở lại đây, phương pháp tính giá trị trung bình lược bỏ ngày càng được sử dụng rộng
rãi. Khi phân bố xác suất của phần nhiễu của biến động giá của nhóm ngành hàng có chung kỳ vọng
6


[Type text]
2
µ nhưng lại có phương sai khác nhau ( δ I2 ≠ δ J ) thi trung bình mẫu ( CPI) là ước lượng không
chệch đối với phương sai không bé nhất . Khi đó cần loại trừ các nhóm hàng rơi lệch hẳn về hai phía
của đồ thị phân bố tần suất của biến động giá của các nhóm hàng .Tỷ lệ phần trăm số nhóm lược bỏ (
α ) được chia đều hoặc không chia đều cho cả 2 phía . Khi loại trừ xong trung bình mẫu được tính
cho các quan sát còn lại. TM-CPI có thể là bình quân giản đơn hay gia quyền.
Phương pháp bình quân gia quyền nghịch đảo độ lệch chuẩn và phương sai
Ngoài ba phương pháp trên còn có : Phương pháp bình quân gia quyền nghịch đảo độ lệch chuẩn hoặc
phương sai, phương sai ở đây được tính riêng cho từng nhóm hàng theo thời gian .Mô hình kinh tế
lượng : tự hồi quy vecto VAR hay mô hình tính toán lạm phát Quah-Vahey…cũng đã được tính thử
tại một số nước. Mô hình này có ưu thế là dựa trên lý thuyết tiền tệ nhưng các giả thuyết xây dựng mô
hình lại không sát với thực tế.
Phương pháp tính lạm phát cơ bản cũng cần tính thử, kiểm nghiệm bằng dự báo ngắn hạn và trung
hạn cho các phương pháp như :
Phương pháp điều chỉnh cụ thể : điều chỉnh thời vụ, thuế gián thu và các mặt hàng nhà nước quản lý,
ngoài ra có thể áp dụng kết hợp với phương pháp loại trừ mặt hàng do nhà nước quản lý giá, lương
thực phẩm, nhiện liệu , năng lượng ra khỏi rổ tính hàng hóa CPI ( phương pháp này thường dùng để
công bố);
Một số phương pháp thống kê thuần túy bao gồm : tính trung vị , trung bình lược bỏ có quyền
số/không có quyền số hay phương pháp tính lại quyền số mới hay phương pháp bình quân gia quyền

nghịch đảo độ lệch chuẩn hoặc phương sai ( những phương pháp này thường sử dụng nội bộ để
nghiên cứu và phân tích);Phương pháp sử dụng mô hình kinh tế lượng trong phân tích, tính toán và dự
báo lạm phát cơ bản cũng nên tính thử nghiệm sử dụng nội bộ để nghiên cứu và phân tích.
Khi tính toán, lựa chọn , dự báo được lạm phát cơ bản thì ngân hàng nhà nước có thể chủ động tiến
hành lượng hóa mục tiêu ổn định lạm phát gắn liền với thực thi chính sách tiền tệ.
1.4. Những ảnh hưởng của lạm phát đến nền kinh tế
Đối với các quốc gia đang phát triển:
Tác hại dễ thấy nhất là lạm phát phủ định (negate) tăng trưởng kinh tế nếu bằng hay cao hơn tăng
trưởng kinh tế. Ví dụ theo World Factbook, nếu một nền kinh tế tăng trưởng kinh tế ở mức 8.4%
nhưng tỉ lệ lạm phát lên tới 8.3%. Như vậy, trung bình người dân có thu nhập cao hơn 8.4% nhưng
đời sống sinh hoạt mắc hơn 8.3% cùng thời kỳ thì coi như cũng không tích lũy được gì. Tiêu chuẩn
đời sống không được cải thiện bao nhiêu. Nếu không có biện pháp ngăn chận, lạm phát sẽ làm tê liệt
dần bộ máy kinh tế vì doanh nhân sẽ không thiết tha hoạt động sản xuất nữa vì không có lợi nhuận.
Tâm lý chung sẽ chỉ mua bán “chụp giựt” và chuyển tài sản thành kim loại quý hay ngoại tệ mạnh để
tránh lạm phát. Điều này rõ ràng không có lợi cho sự xoay vòng của đồng tiền để phát triển nền kinh
tế.
Đối với các quốc gia công nghiệp (industrialized countries) mà xã hội đã chuyển qua dạng xã hội
tiêu thụ rồi thì lạm phát tác hại theo một qui trình ba bước:
Lạm phát (inflation) - Giảm phát (deflation) – Suy thoái kinh tế (economic recession).
Lạm phát không kiểm soát nổi sẽ đưa đến tình trạng giá thành các mặt hàng tăng cao. Giá hàng hóa

7


[Type text]
lên cao sẽ làm giảm nhu cầu tiêu thụ. Hàng hoá trở nên dư thừa và ế ẩm. Để sống còn, công ty sản
xuất phải chịu lỗ, hạ giá bán và thu nhỏ hoạt động lại. Một số hãng xưởng sẽ phải đóng cửa và công
nhân bị sa thải ra làm nhu cầu chung về tiêu thụ lại càng giảm nữa. Đến đây bắt đầu giai đoạn giảm
phát. Hàng hoá sẽ xuống giá cho đến khi nào tìm được một sự quân bình mới giữa cung cầu. Lúc đó
kinh tế đi vào giai đoạn suy thoái và tiêu chuẩn sống (standards of livings) của người dân bị giảm sút.

1.5. Các bài học trên thế giới về kiểm soát lạm phát
Lạm phát là hiện tượng vốn có của nền kinh tế sử sụng tiền tệ.Ngày nay không có một nền kinh tế nào
không dùng tiền, và do đó cũng không có một nền kinh tế nào có thể nói là không có lạm phát .Lạm
phát trong không ít trường hợp đã là một biện pháp phát triển kinh tế , làm tăng nhu cầu, thúc đẩy các
hướng đầu tư có lợi. Song khi lạm phát vượt quá một giới hạn nhất định, vượt quá mức tăng thu nhập
quốc dân thì nó trở thành một căn bệnh gây nhiều tác hại cho sự phát triển kinh tế- xã hội.
Ở các nước Tư Bản Chủ nghĩa phát triển, mức tăng thu nhập quốc dân trung bình hàng năm tuỳ theo
từng nước trong những năm 1970 vào khoảng 3-3.5%, mức lạm phát vào khoảng trên dưới 10%, có
nước đã tới trên 20%. Vào những năm 80 này, mức lạm phát ở các nước Tư Bản Chủ Nghĩa phát triển
nói chung đã giảm xuống trên dưới 3-4%, nghĩa là chỉ cao hơn mức tăng thu nhập quốc dân một chút
( khoảng trên dưới 3%). Lạm phát hai chữ số là hiện tượng cá biệt ở các nước này. Có thể nói những
nước Tư Bản chủ nghĩa phát triển đã đạt được những tiến bộ đáng kể trong việc chống lạm phát.
Ở các nước đang phát triển tình hình lạm phát nghiêm trọng hơn, ở nhiều nước Châu Phi thường
xuyên lạm phát ở mức hai con số, ở Châu Mỹ La Tinh – ba con số, ở Châu Á mức độ lạm phát thấp
hơn thường là ở một chữ số.
1.5.1. Hàn Quốc
Trước tình hình lạm phát đầu năm 2008 tại Hàn Quốc, Chính phủ đưa ra mục tiêu bình ổn giá tiêu
dùng và hỗ trợ các gia đình có thu nhập thấp. Một ủy ban chống tăng giá và chống đầu cơ được thành
lập do thứ trưởng Choi Joong Kyung đứng đầu. Chính phủ Hàn Quốc giảm giá điện sinh hoạt và duy
trì cho đến năm 2010. Chính phủ cũng quyết định miễn, giảm một số dòng thuế tiêu thụ và nhập khẩu;
tiến hành hỗ trợ trên 1,0 tỷ USD cho nông dân vay vốn ưu đãi nhằm tăng mức cung lương thực và
thực phẩm; giảm 50% mức phí giao thông vận tải trên các tuyến đường cao tốc trong một số giờ...
Các biện pháp tiết kiệm sử dụng năng lượng của Chính phủ, cải cách mạng lưới phân phối và dịch vụ,
giảm phí dịch vụ y tế, viễn thông... đã được đưa ra, nhằm giảm chi phí cho người dân.
1.5.2. Trung Quốc
Lạm phát tăng cao vào đầu năm 2008 tại Trung Quốc, cao nhất trong 11 năm qua.Nguyên nhân chính
là giá lương thực - thực phẩm tăng tới 23,3% so với mức 18,2% đến hết tháng 1/2008. Để chống lạm
phát, Chính phủ Trung Quốc chủ trương ưu tiên thực hiện chính sách tài chính ổn định, minh bạch và
siết chặt chính sách tiền tệ trong năm 2008, hạn chế cung ứng tiền. Chính phủ cũng ưu tiên các lĩnh
vực liên quan trực tiếp tới đời sống nhân dân, cho phép đồng nhân dân tệ biến động linh hoạt hơn.

Thực ra Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (Trung ương) đã thực thi chính sách tiền tệ thắt chặt ngay
từ năm 2007 với các biện pháp nới lỏng quy định giao dịch ngoại tệ, tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc tới 10
lần và thực hiện 6 lần tăng lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại, với mức
tăng không lớn, để thị trường tiền tệ không bị tác động cũng như không gây khó khăn cho hoạt động
ngân hàng.
8


[Type text]
Quyết định nới rộng biên độ giao dịch của đồng Nhân Dân tệ so với Đô la Mỹ nhằm kiểm soát lưu
thông tiền tệ và kiềm chế tốc độ cho vay quá mạnh của các ngân hàng thương mại vào bất động sản.
Biện pháp này được phối hợp với quy định tăng mức đặt cọc khi vay tiền mua ngôi nhà thứ hai, tăng
lãi suất cho vay và tăng thuế lợi tức tiền gửi ngân hàng, hạn chế tiền đầu tư vào thị trường chứng
khoán. Theo sau các biện pháp trên, Chính phủ Trung Quốc cũng phát hành tín phiếu đối với các ngân
hàng thương mại nhằm thu hút tiền từ lưu thông về.
Kinh nghiệm của Trung Quốc
Để kiềm chế lạm phát, Chính phủ Trung Quốc thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp cả về tiền tệ, thị
trường, sản xuất... Báo cáo tại kỳ họp Quốc hội Trung Quốc đưa ra các nhóm giải pháp cấp bách để
kiềm chế chỉ số giá tiêu dùng (CPI).
Hỗ trợ thúc đẩy phát triển sản xuất, nhất là sản xuất các mặt hàng thiết yếu như: lương thực, thực
phẩm, dầu thực vật, thịt,...
Kiểm soát chặt chẽ ngành công nghiệp sử dụng nguyên liệu là lương thực - thực phẩm.
Đẩy mạnh và kiện toàn hệ thống dự trữ, điều tiết xuất nhập khẩu, bình ổn giá thị trường trong nước.
Thực hiện tốt khâu quản lý và điều tiết, điều hành giá cả, ngăn chặn tình trạng đua nhau tăng giá.
Giám sát việc thu phí và lệ phí giáo dục, y tế, giá cả mặt hàng dược phẩm và nguyên nhiên vật liệu
phục vụ nông nghiệp... kiên quyết xử lý các trường hợp liên kết đầu cơ trục lợi.
Hoàn thiện và thực hiện các biện pháp trợ cấp đối với người có thu nhập thấp.
Ngặn chặn kịp thời tình trạng giá cả nguyên nhiên vật liệu leo thang.
1.5.3. Các nước khác trên thế giới
Các ngân hàng trung ương mỗi quốc gia như Cục Dự trữ Liên bang Mỹ có thể tác động đến lạm phát

ở một mức độ đáng kể thông qua việc thiết lập các lãi suất. Các lãi suất cao (và sự tăng chậm của
cung ứng tiền tệ) là cách thức truyền thống để các ngân hàng trung ương kiềm chế lạm phát, sử dụng
thất nghiệp và suy giảm sản xuất để hạn chế tăng giá. Tuy nhiên, các ngân hàng trung ương xem xét
các phương thức kiểm soát lạm phát rất khác nhau. Ví dụ, một số ngân hàng theo dõi chỉ tiêu lạm phát
một cách cân xứng trong khi các ngân hàng khác chỉ kiểm soát lạm phát khi nó ở mức cao. Bên cạnh
đó cần xét tới các giải pháp như giảm thuế nhằm giảm chi phí sản xuất để tăng đầu tư và đẩy mạnh
hoạt động xuất khẩu
So sánh Chính sách mục tiêu lạm phát của một số nước trên thế giới
Hơn một chục năm qua kể từ khi chính sách mô tả lạm phát được biết đến, đã có rất nhiều
quốc gia áp dụng nó. Tuy có những điểm giống nhau vì cùng dựa trên những lý thuyết cơ sở nhưng
chính sách mục tiêu lạm phát của mỗi nước lại mang những mầu sắc khác nhau. Để có cái nhìn tương
đồng cũng như cở sở so sánh về chính sách mục tiêu lạm phát của các nước này, chúng ta có thể nhìn
vào bảng dưới đây với những tiêu chí hết sức cơ bản tương ứng với một số vấn đề đã đặt ra .

Bảng 1.2
Quốc gia

New Zealand

Canada
9

EU


[Type text]
Thời điểm áp dụng chính sách
4/1990
mục tiêu lạm phát


26/2/1991

1/1/1999

Chỉ số lạm phát mục tiêu

1% - 3%

nhỏ hơn và gần
2%

0% - 3%

Tính độc lập của ngân hàng
Đối tượng của học thuyết
Tương đối
Tuyệt đối
trung ương
“trách nhiệm tay đôi”
Sự thoả thuận giữa Bộ tài chính và ngân Ngân hàng trung
Cơ quan công bố lạm phát mục
Bộ tài chính và hàng trung ương phối ương Châu Âu
tiêu
chính phủ .
hợp công bố
ECB
Công cụ đo lường lạm phát
CPI
CPI
HICP

HICP loại trừ
CPI loại trừ tác động giá
CPI loại trừ tác động
tác động của
Chỉ số lạm phát cơ bản
lương thực và năng
của lãi suất
thực phẩm chưa
lượng
chế biến
Công bố báo cáo
Hàng quý từ 3/1990 Nửa năm từ 5/1995
Hàng tháng
Dự báo lạm phát

Không
Không
Rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Việc nghiên cứu chính sách mục tiêu lạm phát của các nước này có thể gợi ý cho chúng ta một số
vấn đề:
Lựa chọn chính sách mục tiêu lạm phát phải trên cơ sở sau một thời kỳ kiềm chế lạm phát thành
công. Điều này sẽ giúp tạo ra niềm tin của công chúng vào khả năng của ngân hàng trung ương trong
việc thực thi các mục tiêu mình đã định ra cũng như tạo tiền đề cở sở cho việc kiểm soát lạm phát về
sau. Còn việc sau bao nhiêu năm thì phải phụ thuộc vào điều kiện của từng quốc gia cụ thể, khi thấy
mình đã hội tụ đầy đủ những yếu tố có thể thực hiện thành công chính sách mô tả lạm phát thì chính
thức công bố. Bởi vì một khi đã công khai công bố thì phải bằng mọi cách đạt được, nếu không sẽ gây
mất niềm tin với công chúng.
Chỉ số CPI và chỉ số lạm phát cơ bản – song song sử dụng. Mặc dù như đã nói ở trên chỉ số CPI
có nhiều ưu điểm nhưng một nhược điểm lớn là nó lại bao gồm cả những yếu tố khiến giá cả biến
động trong ngắn hạn mà có thể nhanh chóng mất đi sau đó nên bên cạnh đó các ngân hàng trung ương

đều sử dụng thêm chỉ số lạm phát cơ bản vì cho rằng chỉ số này mới thể hiện bản chất xu hướng biến
động của giá cả và giúp ngân hàng trung ương có thể nhìn nhận về tình trạng lạm phát chính xác hơn.
Chính sách mục tiêu lạm phát phải có tính linh hoạt cao. Đây là một vấn đề quan trọng, bởi vì
các biến cố kinh tế, chính trị, xã hội biến đổi không lường, dẫn đến những phản ứng khác nhau của
nền kinh tế vào từng thời kỳ, rất cần thiết phải cho ngân hàng trung ương những sự linh hoạt nhất định
để họ có thể phản ứng lại các biến động này một cách có hiệu quả.
Chính sách mục tiêu lạm phát phải có sự công khai minh bạch và gắn liền với trách nhiệm cao
của ngân hàng trung ương. Điều này có tác dụng là khi mà các chủ thể khác trong nền kinh tế biết
được ngân hàng trung ương đang làm gì, chính sách tiền tệ đang ở đâu thì những sự dự tính của họ về
các nhân tố có liên quan đến lạm phát sẽ gần hơn với những gì mà ngân hàng trung ương mong muốn
và tỷ lệ lạm phát trong dài hạn sẽ rơi vào khung mục tiêu đã đặt ra.
10


[Type text]
Chính sách mục tiêu lạm phát không được phép xung đột với các chính sách kinh tế vĩ mô khác.
Ngoài chính sách tiền tệ, bất cứ quốc gia nào cũng còn phải thực hiện nhiều các chính sách kinh tế vĩ
mô khác. Việc đặt ra các chính sách chồng chéo và xung đột lẫn nhau tất sẽ gây ra những khó khăn
cho các cơ quan chủ quản trong việc thực thi các chính sách này. Vì vậy ngay từ khi hoạch định
chúng ta đã phải cố gắng làm sao cho các chính sách này không có xung đột với nhau mới tạo ra
những thuận tiện trong quá trình thực hiện sau này.
Dự báo lạm phát - nhân tố góp phần trong thành công của chính sách mục tiêu lạm phát. Tất
nhiên không phải bất cứ quốc gia nào cũng thực hiện dự báo lạm phát, và cũng không phải bắt buộc
phải dự báo lạm phát mới đem đến thành công cho chính sách mô tả lạm phát , nhưng có thể dự báo
trước được những gì có thể xẩy ra cũng không phải là tồi. Nó sẽ góp phần giúp ngân hàng trung ương
có được cái nhìn tốt hơn và không bị bất ngờ trước những gì mà mình sẽ phải đối mặt và vì thế đưa ra
được những biện pháp ứng phó.
PHẦN II: THỰC TRẠNG VỀ TÌNH HÌNH LẠM PHÁT CỦA VIỆT NAM TRONG THỜI
GIAN QUA
2.1. Tổng quan về tình hình phát triển kinh tế của VN trong thời gian vừa qua.

Tốc độ tăng GDP có thể nói là khởi sắc. Nợ nước ngoài thấp. Khả năng trả nợ không có vấn đề.
Việc Việt Nam gia nhập WTO đã mở rộng thêm khả năng gắn bó và mở rộng thị trường với kinh tế
thế giới mà không còn bị vấn đề chính trị ngăn cản. Sự hồ hởi của người nước ngoài với nền kinh tế
Việt Nam là chưa từng thấy. Điều này đã phản ánh qua luồng ngoại tệ đổ vào Việt Nam cao nhất từ
xưa đến nay từ đầu tư trực tiếp đến đầu tư gián tiếp qua việc mua cổ phiếu và trái phiếu Việt Nam.
Bảng 2.1: Tốc độ tăng trưởng Việt Nam 2003-2008
Năm
2003
Tốc
độ 7.3%
tăng GDP

2004
7.8%

2005
8.4%

2006
8.2%

Đồ thị 1: Tăng trưởng kinh tế Việt Nam 2003-2008

11

2007
8.3%

2008
8.2%



[Type text]

( Nguồn tổng cục thống kê)
Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam luôn đạt mức cao (trung bình xấp xỉ 8%/năm) và
luôn là một trong những nước có tốc độ tăng trưởng cao nhất thế giới.
Bảng 2.2 : Tốc độ tăng nguồn vốn FDI
Năm
2003
2004
2005
2006
2007
2008
FDI
2.6
2.8
6
12
20.3
(Tỷ USD)
Nguồn: Ministry of Foreign Affairs (Bộ ngoại giao)
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng vọt kể từ năm 2006, năm đánh dấu sự kiện Việt Nam gia
nhập WTO, trong vòng 3 năm từ năm 2004-2007, FDI đổ vào Việt Nam đã tăng lên gấp 8 lần. Khi
các hoạt động đầu tư tăng lên mạnh mẽ, trong giai đoạn đầu, hoạt động nhập khẩu nguyên vật liệu,
thiết bị cần thiết cũng sẽ theo đó tăng mạnh. Và sau đó, khi giai đoạn bùng nổ đầu tư tạm lắng xuống,
các kết quả (sản phẩm) phần lớn sẽ được xuất khẩu ngược lại thị trường nước ngoài.
Việc các doanh nghiệp nước ngoài đẩy mạnh đầu tư vào Việt Nam thông qua FDI là yếu tố hết
sức quan trọng đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu từ đó mở ra cơ hội kinh doanh khổng lồ cho các

công ty hoạt động trong lĩnh vực vận chuyển.
Bảng 2.3 : Tình hình cán cân thương mại 2003-2008
Năm
2003
2004
2005
2006
2007
2008
Cán cân thương mại
-4.9% -3.4% -0.9% -0.3% -3.2% -3.2%
Nguồn: Ministry of Foreign Affairs (Bộ ngoại giao)
Năm 2007 số ngoại tệ đưa vào Việt Nam mà ngân hàng nhà nước mua vào đã trên 9 tỉ đô la. Việt
Nam đang tìm cách quản lý tình hình phức tạo này.Ngoại tệ vào nhiều đã tạo ra hai vấn đề :
Số cung ngoại tệ nhiều sẽ làm ngoại tệ mất giá , hay nói cách khác, tiền đồng lên giá đối với
ngoại tệ . Làm ảnh hưởng đến xuất khẩu , mất cân đối cán cân thương mại.
Việc phát hành tiền đồng để đổi ngoại tệ sang tiền đồng đã làm tăng số cung tiền đồng trên thị
trường dẫn đến lạm phát tăng cao, vấn đề phát hành lượng lớn tiền đồng ra thị trường nhằm mục đích
tăng chi tiêu nhà nước, nhất là vào đầu tư để chạy đua lập thành tích đạt con số tăng GDP cao. Do đó
không thể đánh đồng tỷ lệ tăng GDP cao với tỷ lệ phát triển kinh tế. GDP cao nhưng tình hình lạm
12


[Type text]
phát còn tăng cao hơn, chất lượng xây dựng thấp kém, ô nhiễm môi trường nặng nề, tăng tỷ lệ nghèo
2.2. Tình hình lạm phát ở Việt Nam trong thời gian qua
Bảng 2.4 : Tình hình lạm phát giai đoạn 2003 – 2007
2003
2004
2005

2006
2007
Năm
lạm
9.50%
9.40% 8.40%
6.60%
12.60%
phát
Đồ thị 2 :Lạm phát Việt Nam giai đoạn 2003-2007

( nguồn bộ tài chính)
Từ năm 2003 đến đầu năm 2006 .Năm 2003-2004 tỷ lệ lạm phát nước ta 9.5%- 9.4%, cao hơn mức
tăng trưởng kinh tế (7.3%-7.8%) .Trong 6 tháng đầu năm 2004 có thể thấy rõ được lạm phát ở nước ta
là lạm phát tiền tệ hay lạm phát giá cả, cũng như hiểu thêm về tình hình lạm phát chung của khu vực.
Trong bối cảnh giá cả một số mặt hàng nhạy cảm của thế giới, đặc biệt là trong khu vực tăng đáng kể
trong thời gian gần đây, như giá xăng dầu tăng cao nhất trong nhiều năm qua, giá phôi thép biến động
mạnh, giá gạo xuất khẩu tăng khá, tới mức 43% trong vòng 1 năm. Giá các mặt hàng khác, như: phân
bón, nguyên liệu nhựa, bột giấy, cao su, ... cũng tăng lên. Nhiều quốc gia trong khu vực bị ảnh hưởng
của tình hình biến động của thị trường, nên lạm phát cũng gia tăng. Cùng với dịch cúm gia cầm làm
cho lạm phát năm 2004 vẫn cao, bước sang năm 2005 tỷ lệ lạm phát chỉ còn 1 con số .Ngân hàng Thế
giới tại Việt Nam (WB) công bố Báo cáo cho rằng việc kết thúc thành công các cuộc đàm phán gia
nhập Tổ chức Thương mại Thế giới của Việt Nam (WTO) là điều chủ yếu để giữ vững đà tăng
trưởng. Nó giúp Việt Nam giảm thiểu khó khăn đối với ngành dệt may - vẫn còn chịu hạn ngạch xuất
khẩu trong năm 2005 trong khi các đối thủ cạnh tranh khác đã là thành viên của WTO rồi lại không
phải theo hạn ngạch. Cùng với việc sử dụng chính sách thắt chặt tiền tệ hiệu quả của nhà nước và
chính phủ lạm phát vào năm 2005 là 8.4% , và tốc độ tăng trưởng vào năm 2005 là 9.4% cao hơn so
với tỷ lệ lạm phát đó là một dấu hiệu khởi sắc cho nền kinh tế.Vào bốn tháng đầu năm 2006 tốc độ
tăng giá tiêu dùng cao hơn nhiều so với cùng kỳ năm ngoái dẫn đến tình trạng cảnh báo lạm phát ở
nước ta , từ đó tìm những biện pháp tích cực để kiềm chế lạm phát.

Cuối năm 2006 đến cuối năm 2007 đô-la Mỹ bị mất giá mạnh trên thị trường thế giới, lãi suất của nó
liên tục giảm; trong thời gian đó Việt Nam vẫn theo đuổi chính sách duy trì tỷ giá tiền đồng thấp; đầu
13


[Type text]
năm 2007 nước ta chính thức gia nhập WTO. Đầu năm 2008 do biến đổi về khí hậu đã gây thiệt hại
cho cây trồng và gia súc đẩy giá lương thực thực phẩm lên cao.Cùng lúc đó chính phủ đã tăng giá
xăng dầu lên 36%.Để đối phó với áp lực lạm phát gây ra thì tiền lương của công nhân viên chức cũng
đã được tăng lên vào tháng giêng 2008.Giá lương thực và nhà ở leo thang đã làm cho lạm phát đạt tới
mức 19.4% năm qua ,vào tháng 3 mức cao nhất trong hơn 1 thập kỉ qua. Chính sách thắt chặt tiền tệ
được áp dụng để dần dần đẩy lạm phát về mức ổn định hơn trong quý 2 năm 2008. Nhưng có lẽ lạm
phát còn nằm trong phạm vi 16% vào tháng 12 .Mức lạm phát trung bình được dự báo là khoảng
18.3% năm 2008 và 10.2% năm 2009
2.3. Những nguyên nhân dẫn đến lạm phát
Trong những năm qua lạm phát ở Việt Nam diễn biến rất phức tạp .Có thể nói lạm phát lên đến
mức hai con số vào năm 2007 là cao nhất trong 12 năm qua mà nguyên nhân sâu xa là do việc điề
hành chính sách tài chính và tiền tệ có nhiều bất ổn, trong điều kiện kinh tế thị trường chưa phát triển
đẩy đủ, có thể tóm tắt nguyên nhân dẫn đến lạm phát ở Việt Nam như sau :
2.3.1 Việc áp dụng phương pháp tính chỉ số CPI ở Việt Nam
Chỉ số giá tiêu dùng là một tỷ số phản ánh giá của rổ hàng hóa trong nhiều năm khác nhau so với
gia của cùng rổ hàng hóa đó trong năm gốc. Chỉ số giá này phụ thuộc vào năm được chọn rổ hàng hóa
tiêu dùng. Nhược điểm chính của chỉ số này là mức độ bao phủ cũng như sử dụng trọng số cố định
trong bài toán .Mức độ bao phủ của chỉ số giá này chỉ giới hạn đối với một số hàng hóa tiêu dùng và
trọng số cố định dựa vào tỷ phần chi tiêu đối với một số hàng hóa cơ bản của người dân thành thị mua
vào năm gốc. Những nhược điểm mà chỉ số này gặp phải khi phản ánh giá cả sinh hoạt là không phản
ánh sự biến động của giá hàng hóa tư bản ; không phản ánh sự biến đổi trong cơ cấu hàng tiêu dùng
cuãng như sự thay đổi trong phân bổ chi tiêu của người tiêu dùng cho những hàng hóa khác nhau theo
thời gian.
Việt Nam trong những năm qua cũng sử dụng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) để tính tỷ lệ lạm phát

và sử dụng nó cho mục đích điều hành chính sách tiền tệ .Ngoài những nhược điểm như đã phân tích
ở trên , việc điều hành chính sách tiền tệ , chỉ số này không phản ánh được tình hình lạm phát vì nó
thường xuyên dao động. Sự giao động trong ngắn hạn đôi khi không có liên quan gì đến áp lực lạm
phát căn bản trong nền kinh tế và việc sử dụng chỉ số này làm mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ có
thể dẫn đến sai lệch trong chính sách.
Ở Việt Nam theo phương pháp tính CPI hiện nay, giá cả của nhóm hàng lương thực chiếm
quyền số lớn nhất, tới 47.9% trong rổ hàng hóa tính CPI .Trong các năm trước đây , mặc dù nhiều
nhóm mặt hàng khác có biến động tăng đáng kể, nhưng nhóm mặt hàng lương thực thực phẩm , nhất
là lúa gạo , giá cao su, cà phê , hạt đều , thịt heo, rau hoa quả biến động thất thường. Trong các năm
1997, 1999, 2000, các mặt hàng lương thực thực phẩm giảm thấp, khó tiêu thụ, nên đã làm cho chỉ số
CPI ở mức thấp , thậm chí là âm .Nhưng trong năm 2007 nhóm mặt hàng lương thực phẩm tăng…đã
tác động làm gia tăng chỉ số CPI nói chung => Do đó nếu loại bớt được sự tăng giá đột biến gây nên
những tác động lớn trong tính toán, thì rõ ràng chỉ số lạm phát không cao như đã công bố.Ta có biểu
đồ chỉ số giá tiêu dùng , chỉ số giá vàng và USD của các tháng năm 2007-2008so với kỳ gốc 2005
(%).
Đồ thị 3 : Thể hiện CPI, USD, Vàng 2007-2008
14


[Type text]

2.3.2. Mức cung tiền tăng cao vào năm 2007
Năm 2007 Việt Nam gia nhập WTO gia nhập vào môi trường mới , áp dụng nhiều chính sách mở cửa
thương mại quốc tế .Thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đẩy lượng cung ngoại tệ lên
cao. Để thu hồi số ngoại tệ về ngân hàng trung ương chính quyền đã bỏ tiền Việt Nam ra mua ngoại tệ
. Số tiền đó quá lớn dẫn đến tình trạng dư thừa nội tệ trên thị trường và là nguyên nhân dẫn đến lạm
phát .
Từ năm 2003-2007 số lượng tiền ở Việt Nam tăng quá nhanh so với số lượng hàng hóa và dịch vụ .Số
tiền lưu hành tăng khoảng 25% mỗi năm, số tín dụng tức số tiền cho vay tăng khoảng trên 35%
.Trong khi đó số lượng hàng hóa dịch vụ mà dân chúng có thể mua chỉ tăng dưới 10 % một năm.

Trong năm ngân hàng nhà nước đã bỏ một lượng lớn nội tệ để mua ngoại tệ ( đầu tư trực tiếp và đặc
biệt là đầu tư vào thị trường chứng khoán) đã làm cho mức cung tiền tăng cao.

Đồ thị 4 : so sánh mức cung tiền của việt Nam với Trung Quốc và Thái Lan
15


[Type text]

(Nguồn: Số liệu Thống kê tài chính quốc tế của Tổ chức Tiền tệ Quốc tế, riêng số liệu tăng trưởng
GDP 6 tháng đầu năm 2007 của Việt Nam và Trung Quốc lấy từ nguồn Economist Intelligent Unit.)
Trong khoảng thời gian 2 năm rưỡi, tính từ đầu năm 2005 cho đến cuối tháng 6 năm 2007, GDP
của Việt Nam tăng 22%, còn mức cung tiền mặt cho lưu thông và tiền gửi ngân hàng đã tăng lên đến
110%. Trong cùng giai đoạn này, GDP của Trung Quốc tăng 29%, nhưng mức cung tiền chỉ tăng
50%. Chênh lệch giữa tăng GDP và tăng cung tiền của Thái Lan hầu như không đáng kể.
Việt Nam tăng trưởng kinh tế thấp hơn so với Trung Quốc, nhưng tăng cung tiền lại cao hơn rất
nhiều. Đó chính là lý do chính để giải thích tại sao lạm phát ở Việt Nam cao hơn hẳn những nước
khác. Giá gạo hay giá dầu thế giới có tăng cao bao nhiêu, thì sức ép của các yếu tố này tới lạm phát ở
Việt Nam, Trung Quốc và Thái Lan không thể khác nhau nhiều.
2.3.3. Thất thoát, lãng phí trong đầu tư công.
Đối với đầu tư công thì đây là một vấn đề lớn tồn tại hàng chục năm chưa giải quyết được. khi nói
đến lạm phát người ta thường nhắc đến yếu tố tiền tệ mà không chú ý đến vấn đề đầu tư, đặc biệt là
đầu tư công, tức là đầu tư của nhà nước, sử dụng tiền rất lớn nhưng đa số lại không phát huy hiệu quả
cũng như làm thất thoát rất nhiều theo số liệu thống kê cho thấy năm 2007 đầu tư công chiếm 200.000
tỷ trong số 461.000 tỷ đồng đầu tư của toàn xã hội. vì vậy một trong những nguyên nhân sâu xa của
tình trạng lạm phát hiện nay là sự thất thoát và lãng phí trong đầu tư công, hàng năm các chuyên gia
đều có khuyến cáo nhưng những nhà làm chính sách hình như coi nhẹ vấn đề này. Nguyên nhân nữa
là các khoảng đầu tư không hiệu quả của nhiều công ty quốc doanh lớn hoạt động trên nhiều lĩnh vực.
Nếu con số này chính xác thì tronh năm qua đã có 60.000 tỷ đồng lãng phí đang nằm trong lưu thông,
làm trầm trọng thêm tình hình lạm phát. Thâm hụt ngân sách 5,8% GDP trong khi theo kinh nghiệm

quốc tế, thâm hụt 3% đã đáng lo ngại. thâm hụt thương mại ước chừng 12 tỷ USD, tức khoảng 16%
GDP trong khi mức 5-10% đã là đáng lo ngại đối với quốc tế.
Chưa kể những khoản đầu tư nước ngoài được rót vào những dự án mà hiệu suất kinh tế khá thấp.Một
nghiên cứu gần đây của các nhà kinh tế học harvard (mỹ) chỉ số ICOP của Việt Nam năm 2007 là
4.7 ; nghĩa là trong nền kinh tế của chúng ta muốn tăng 1% GDP thì phải tăng 4.7% vốn đầu tư. Đó là
chỉ số quá cao so với ICOP thông thường của nước, chỉ từ 1.2 đến 2 mà thôi. Việc sử dụng vốn không
hiệu quả cũng góp phần làm gia tăng lạm phát như hiện nay. Vì mục tiêu phải duy trì tăng trưởng Việt
Nam đã phải đầu tư nhiều hơn các nước khác và tăng cung tiền nhiều hơn.và đương nhiên lạm phát
cũng vì đó mà tăng lên. Có thể nói, lạm phát hiện nay là kết quả của chính sách tìm mọi biện pháp
ngắn hạn (mà chủ yếu là thông qua gia tăng chi tiêu công và đầu tư) để kích thích tăng trưởng của
nhiều năm trước trong khi ICOP không được cải thiện.
16


[Type text]
2.3.4. Tổng phương tiện thanh toán và dư nợ tín dụng của các ngân hàng tăng mạnh.
Tổng phương tiện thanh toán tăng 20% - 30% và dư nợ cho vay nền kinh tế tăng 18-22% so với năm
2006 cùng với nhiều cơ chế, chính sách đi kèm.Tổng phương tiện thanh toán cả năm 2007 tăng cao
hơn nhiều năm trước: tăng khoản 37% so với năm 2006, cao hơn mức tăng trung bình của thời kỳ
2001- 2007 (xem đồ thị 2.1.2). Như vậy, nếu so với chỉ tiêu đề ra đầu năm thì tốc độ tăng tổng
phương tiện thanh toán năm 2007 quá cao, vượt 80% so với kế hoạch. Đây là con số nói lên lượng
cung tiền tệ tăng quá mức cần thiết của nền kinh tế.Tuy nhiên, trong vấn đề này, có thể khẳng định là
cả nguyên nhân khách quan và chủ quan. Nguyên nhân khách quan là do năm 2007, lượng ngoại tệ
vào nhiều thông qua con đường FDI, FII và kiều hối chuyển về, xuất khẩu tăng… về nguyên nhân chủ
quan phải thừa nhận chúng ta chưa chú trọng đúng mức việc thắt chặt tiền tệ ngay từ đầu năm mà đôi
khi lại áp dụng chính sách có phần nới lỏng như phát hành tiền ra quá mức để mua ngoại tệ, tăng dự
trữ ngoại tệ một cách ồ ạt như trong 6 tháng đầu năm 2007.
Theo kinh nghiệm nhiều năm trước đây thì tổng phương tiện thanh toán tăng ở mức 20 – 30% so với
năm 2006 Như kế hoạch đề ra là phù hợp. nếu có sự tăng đột biến cung ngoại tệ vào nền hinh tế thì
nên có giải pháp khác, không phải phát hành tiền ra mua ngoại tệ thì sẽ tốt hơn.

Đồ thị 5 : tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán

(nguồn : trang web ngân hàng nhà nước)
Bên cạnh đó có thể thấy dư nợ của hệ thống ngân hàng cho vay toàn nền kinh tế năm 2007 cũng tăng
khá mạnh, tăng 37,8%; cao đột biến so với nhiều năm trước đây. Tính chung trong cả nước, tính đến
hết tháng 11/2007, tổng dư nợ cho vay và đầu tư đối với nền kinh tế của hệ thống NH tăng gần 34%
và ước tính hết năm 2007 tăng tới 37-38% so với cuối năm 2006 và tăng gấp khoảng 2 lần so với mức
dự kiến từ đầu năm là 17-21%. Những lĩnh vực thu hút khối lượng lớn vốn tín dụng NH trong năm
2007 đó là đầu tư các dự án cơ sở hạ tầng, đầu tư bất động sản mà đặc biệt là các dự án khu nhà ở mới
và khu đô thị mới, đầu tư vốn trong lĩnh vực xuất khẩu và dịch vụ, nuôi trồng hải sản… bên cạnh đó,
đối tượng đầu tư chứng khoán, vàng,tiêu dung… cũng thu hút một khối lượng rất lớn vốn tín dụng.
đây là chỉ tiêu quan trọng đối với kiềm chế lạm phát và phát triển nền kinh tế. vấn đề chuyển dịch cơ
cấu tín dụng còn chưa đúng hướng và có diễn biến phức tạp, thể hiện ở chỗ cho vay đối với lĩnh vực
phi sản xuất có xu hướng tăng mạnh, trong khi lĩnh vực sản xuất lại chưa đáp ứng được nhu cầu( xem
đồ thị 2.1.3), cụ thể, giá điện tăng 7%, nhiên liệu tăng 7,8%. Tuy nhiên, đây chỉ là hiệu ứng một lần,
17


[Type text]
không phải là liên tục.
Đồ thị 6 : tăng trưởng dư nợ cho vay ngành ngân hàng 2004-2007

( Nguồn : ESP research)
Theo tin từ ngân hàng nhà nước chi nhánh TP.HCM , dư nợ bất động sản của các ngân hàng cổ phần
trên địa bàn đang được ở mức khá cao, xấp xỉ 10% trên tổng dư nợ, số liệu chưa đầy đủ cho thấy
khoảng 40.000 tỉ đồng đã đổ vào thị trường bất động sản trong năm qua vì vậy, nếu không thận trọng
nguy cơ “bong bóng” tín dụng bất động sản có thể xảy ra.
2.3.5. Do cầu kéo
Đầu tư công và đầu tư của các doanh nghiệp tăng, làm nhu cầu về nguyên liệu, nhiên liệu và thiết bị
công nghệ tăng; thu nhập dân cư, kể cả thu nhập do xuất khẩu lao động và người thân từ nước ngoài

gửi về không được tính vào tổng sản phẩm quốc nội (GDP) cũng tăng, làm xuất hiện trong một bộ
phận dân cư nhũng nhu cầu mới cao hơn. Tuy nhiên, trong nước hai năm 2006-2007, thiên tai, dịch
bệnh gây thiệt hại rất nặng nề (thiệt hại kinh tế khoảng 33.600.000 tỷ đồng) đã làm ảnh hưởng lớn đến
giá lương thực, thực phẩm. trong khi đó nhu cầu thực phẩm tiếp tục tăng, làm cho mặt bằng giá cả của
nước tăng đột biến. mặt khác, do biến động mạnh của bất động sản vào năm 2007, nhu cầu xây dựng
tăng cao, dẫn đến giá cả của nguyên vật liệu xây dựng, sắt thép, các mặt hàng trang trí nội thất tăng
giá. Một diễn biến khác xét từ nhân tố cầu kéo, có thể thấy do giá xuất khẩu gạo của Việt Nam được
cải thiện, khối lượng gạo xuất khẩu gia tăng, thị trường xuất khẩu thuỷ sản ổn định và được mở rộng.
Do đó giá cả của các mặt hàng lương thực thuỷ sản tăng lên.
Tất cả các yếu tố nói trên gây ra lạm phát cầu kéo, đẩy giá một số hàng hoá và dịch vụ, nhất là lương
thực thực phẩm tăng theo. Giá lương thực, thưc phẩm cuối năm 2007 tăng 18,92% so với cuối năm
2006. Đây lại là nhóm hàng chiếm tỷ trọng 42,85%, tỉ trọng lớn nhất, trong rổ giá hàng hoá được khảo
sát.
Biểu hiện rõ nhất của lạm phát cầu kéo là nhhu cầu nhập khẩu lương thực trên thị trường thế
giới tăng, làm giá xuất khẩu tăng (giá xuất khẩu gạo bình quân của nước ta năm 2007 tăng lên 15% so
với năm 2006) kéo theo cầu về lương thực trong nước cho xuất khẩu tăng. Tong khi đó, nguồn cung
trong nước do tác động của thiên tai, dịch bênh không thể tăng kịp =>Tất cả các yếu tố nói trên gây
ra lạm phát cầu kéo, đẩy giá một số hàng hoá và dịch vụ, nhất là lương thực thực phẩm tăng thêm.
Cuối năm 2007, giá lương thực thực phẩm tăng 18,92% so với cuối năm 2006. đây lại là nhóm hàng
chiếm tỉ trọng lớn 42,85% trong rổ giá hàng hoá được khảo sát.
18


[Type text]
2.3.6. Do chi phí đẩy.
Nhân tố chủ yếu do giá cả các mặt hàng mà Việt Nam nhập khẩu trên thị trường Thế Giới tăng lên,
tập trung là giá xăng dầu, phôi thép, phân đạm ure, bột giấy, thuốc chữa bệnh, dụng cụ y tế …, giá sắt
thép tăng là do ngành xây dựng và cơ khí chế tạo tăng chi phí. Nguyên vật liệu tăng giá nên một loạt
sản phẩm phải tăng giá bán lên. Đặc biệt là sự biến động lớn của thị trường bất động sản năm 2007,
hệ luỵ của nó là vô cùng lớn. đáng lẽ các nguồn tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế đặc biệt là trong dân

cư phải được tập trung để đầu tư phát triển sản xuất thì nay, mọi người dùng tiền để kinh doanh bất
động sản gây rối loạn thị trường, đẩy giá bất động sản tăng cao. Do vậy giá thuê mặt bằng để sản xuất,
thuê cửa hàng để kinh doanh tăng lên tương ứng, đẩy chi phí sản xuất lên cao.
Bên cạnh đó, dưới tác động của quá trình ngày càng hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới nên ảnh
hưởng từ giá thế giới đến Việt Nam cũng nhanh và rất rõ nét. Việt nam đang nhập khẩu nhiều nguyên
liệu đầu vào cho sản xuất như 100% xăng dầu, 70% nguyên liệu dệt may, nhiều vật tư cơ bản khác
như phôi thép, phân bón …Đây là những mặt hàng tăng giá mạnh trong thời gian qua.
2.3.7. Do công tác dự báo chưa tốt
Một yêu cầu hêt sức cơ bản của dự báo là sự rạch ròi giữa tính khách quan của công tác này với mục
tiêu chủ quan của các chính sách. Thế nhưng, thực tế lại không diễn ra như vậy. rất dễ nhận thấy thời
gian qua công tác dự báo trở thành công cụ minh hoạ, lập lại và làm an lòng các giới chức trong quyết
tâm hoàn thành kế hoạch kinh tế do chính họ đề ra.
Tuy nhiên, vẫn còn một số bất cập trong công tác điều hành. Điều này dẫn tối tình trạng số liệu CPI
thự so với số liệu CPI mà tổ này dự báo luôn cao hơn tới 20-30%. Sai số đó mới chỉ được cải thiện
trong thời gian gần đây. Dẫn tới hậu quả của việc dự báo không hết, không đúng với các tình huống
và độ chính xác không cao là làm giảm sự chủ động trong công tác kiểm soát lạm phát. Sự thiếu rạch
ròi này đã trở thành nguyên nhân quan trọng khiến chính phủ liên tục bất ngờ, thậm chí lúng túng
trong giải các động thái giá cả thị trường. từ đó làm giảm tính chủ động và hiệu quả của các giải pháp
kiềm chế lạm phát được lựa chọn.
Một nguyên nhân nữa là chính phủ chưa coi trọng công tác dự báo về tác động hai mặt của những
chính sách được đưa ra theo yêu cầu quản lí kinh tế thị trường.
Cuối cùng là thiếu sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng, công vụ dự báo và các tổ chức thực
hiện. Dự báo tốt giúp cơ quan quản lí nhà nước nâng cao hiệu quả điều hành thực tiễn. còn việc bám
sát thực tiễn điều hành của các cơ quan quản lí nhà nước sẽ giúp cho công tác dự báo thêm cơ sở tin
cậy và mềm dẻo, chính xác hơn…
2.3.8. Tỉ giá cố định trong thời gian dài
Tỉ giá cố định trong một thời gian quá lâu là một trong những nhân tố được nhiều nhà nghiên cứu đề
cập như một nguyên nhân gây lạm phát. Do tỉ giá giữa USD/VND rất ít thay đổi trong nhiều nam
(bình quân thay đổi khoảng 1-2%/năm) và không linh hoạt nên hiệu ứng hấp thụ lạm phát từ bên
ngoài vào của tỉ giá hoàn toàn bị mất đi. Khi tỉ giá không linh hoạt thì lạm phát ở các nước khác cao

sẽ kéo theo lạm phát ở Việt Nam cao.
Vì vậy, nhiều đề xuất cho rằng linh hoạt tỉ giá sẽ giúp chống lạm phát. Nhưng cũng nên xác định là
linh hoạt tỉ giá hoàn toàn không đồng nghĩa với việc cho đồng tiền tăng giá để chống lạm phát. VND
càng tăng giá thì dầu tư vào trái phiếu Việt Nam sẽ càng có lợi, như vậy dòng vốn quốc tế đổ vào sẽ
19


[Type text]
càng nhiều.Còn nếu như hạn chế dòng vốn vào thì lấy gì bù đắp cho khoản nhập siêu đang tăng lên, rõ
ràng năm nay kinh tế các nước đang suy thoái thì kiều hối có duy trì được mấy tỉ USD nữa không?
Mà như thế không nhờ vào dòng vốn vào bù đắp thâm hụt thương mại thì nhờ cái gì? Siết chặt tiền tệ
mà không cho vốn vào sẽ giết mất thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán không khởi sắc
thì vốn vào sẽ giảm => chính vì vậy, để đảm bảo có nguồn ngoại tệ bù đắp thâm hụt thương mại,
không nên siết chặt tiền tệ quá mức và hạn chế dòng vốn vào ( trừ vốn ngắn hạn, nhưng dùng biện
pháp hạn chế ngắn hạn lại có thể gây ra mất lòng tin cho cả nhà đầu tư dài hạn, khi đó sẽ gây ra hậu
quả không mong đợi rất nguy hiểm).
2.3.9. Lúng túng trong điều hành
Một điều cũng góp phần khiến tình hình lạm phát ngày càng nghiêm trọng là sự lúng túng trong điều
hành chính sách chống lạm phát của chính phủ. Nhiều chính sách tỏ ra mang tính tình thế, bí đâu gỡ
đấy, ví dụ như cung tiền tăng nhiều quá rồi thắt chặt cung tiền bằng mọi giá, bao gồm cung tiền ra
mua USD vào. Điều này giống như làm đổ một bình nước rồi giờ tiết kiệm từng giọt nước một, trong
khi cơ thể thì vẫn cần nước để sống.
Điều này do việc quy hoạch chính sách của chính phủ còn thiếu tính dự báo, thiếu việc ứng dụng các
mô hình định lượng trong ra quyết định nên đề xuất nào cũng không có cơ sở định lượng khoa học.
hiện giờ ai đề xuất dùng lý thuyết nào chống lạm phát cũng được, vì cơ sở đánh giá hiệu quả là không
hề có. Đây là hệ quả của những yếu kém trong công tác thống kê kinh tế thời gian qua, cũng như có
chiến lược đặt hàng nghiên cứu khoa học phục vụ chính sách hiệu quả ( phần lớn là đề tài nói suông
không có cơ sở định lượng ).
2.4. Ảnh hưởng của lạm phát đến nền kinh tế Việt Nam
Lạm phát tăng cao và kéo dài sẽ có những ảnh hưởng tiêu cực đến toàn bộ nền kinh tế. Những

tác động chủ yếu bao gồm: Giá cả tăng mạnh sẽ làm tăng chi phí sản xuất kinh doanh, ảnh hưởng đến
khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế. Lạm phát cao làm giảm giá trị đồng
tiền trong nước. Khi các mức giá cả trong tương lai khó dự đoán hơn thì các kế hoạch chi tiêu và tiết
kiệm hợp lý sẽ trở nên khó thực hiện hơn. Người dân ngày càng lo ngại về việc sức mua trong tương
lai của họ bị giảm xuống và mức sống của họ cũng vì vậy mà kém đi. Lạm phát cao khuyến khích các
hoạt động đầu tư mang tính đầu cơ trục lợi hơn là đầu tư vào các hoạt động sản xuất. Lạm phát cao
đặc biệt ảnh hưởng xấu đến những người có thu nhập không tăng kịp mức tăng của giá cả, đặc biệt là
những người sống bằng thu nhập cố định như là những người hưởng lương hưu hay công chức. Phúc
lợi và mức sống của họ sẽ bị giảm đi. Lạm phát làm khổ toàn dân, nhưng giới lao động bị đe dọa trực
tiếp.
2.4.1. Tác động của lạm phát đến người tiêu dùng
Trong khu vực tiêu dùng, người tiêu những người hàng ngày thấy được tác động của sự tăng giá. Với
mức lương không đổi giá cả các mặt hàng lương thự thực phẩm lại tăng cao đã đẩy những người tiêu
dùng rơi vào tình trạng rất khó khăn. Như vậy, lạm phát như một loại thuế vô hình đánh vào người
tiêu dùng, và những người phải chịu hậu quả nặng nề nhất của thứ thuế này là những người có thu
nhập cố định, không được điều chỉnh theo mức tăng giá, chẳng hạn như người về hưu, những người
trong diện chính sách, người hưởng lương cố định theo ngạch lương của nhà nước, sinh viên v.v.
2.4.2. Tác động của lạm phát tới người nông dân
20


[Type text]
Nói nông dân và lạm phát là nói về ba vấn đề: những sản phẩm do nông dân làm ra đang có tốc độ
tăng giá cao nhất; nông dân là lực lượng đông nhất, nghèo nhất, nên tác động của lạm phát lên lực
lượng này là lớn nhất; nông dân cũng sẽ là lực lượng chống lạm phát có hiệu quả.
Về vấn đề thứ nhất : giá lương thực - thực phẩm do nông dân làm ra tăng cao hơn nhiều so với tốc
độ tăng của 9 nhóm hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng khác và cao gấp rưỡi tốc độ tăng chung (năm 2007
tăng 18,92% so với tăng 12,63%, 2 tháng đầu năm 2008 tăng 10,17% so với tăng 6,02%). Nhóm hàng
này hiện còn chiếm tới 42,85% tổng giá trị hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng của dân cư, nên tốc độ tăng
giá của nó trở thành bộ phận quyết định đến tốc độ tăng giá chung.

Về vấn đề thứ hai : nông dân hiện chiếm gần ba phần tư dân số cả nước, cũng tức là chiếm gần ba
phần tư tổng số người tiêu dùng cả nước. Chênh lệch giàu/nghèo lớn (lên đến 8,43 lần), trong khi tỷ
trọng chi tiêu cho lương thực, thực phẩm của người nghèo cao gấp đôi của người giàu, thì lạm phát
cao sẽ làm cho người nghèo bị khổ hơn.
Như vậy, xét về cả hai mặt (người tiêu dùng và người tiêu dùng nghèo) thì nông dân đều chiếm
tỷ trọng lớn nhất, nên lạm phát cao đã làm cho nông dân, nhất là nông dân nghèo càng bị khổ. Ở đây
xuất hiện một câu hỏi: giá lương thực, thực phẩm tăng thì nông dân sẽ được lợi chứ sao lại bị thiệt?
Đó là xét về đầu ra, nhưng ở đầu vào giá vật tư nông nghiệp còn tăng cao hơn (năm 2007 giá lương
thực tăng 15%, giá thực phẩm tăng 10%, thì giá nhập khẩu phân bón tăng 19,2%, giá thức ăn gia súc
và nguyên phụ liệu lên đến 30- 40%, giá thuốc trừ sâu tăng gần 20%; hai tháng đầu năm 2008 so với
cùng kỳ năm trước, giá lương thực tăng 17,4%, giá thực phẩm tăng 26,8%, thì giá nhập khẩu phân
bón tăng tới 71,3%, giá thức ăn gia súc và nguyên phụ liệu tăng trên 40%, giá thuốc trừ sâu tăng trên
50%,...). Giá đầu ra tăng như thế, nhưng đó là giá cuối cùng, bởi người nông dân không trực tiếp bán
cho người tiêu dùng mà còn phải chia cho thương lái, người nông dân chỉ được một phần nhỏ trong số
đó. Nếu vừa được mùa, vừa được giá thì mới có lợi, còn nếu được giá nhưng mất mùa thì có khi nhiều
nông dân còn khổ hơn.
Về vấn đề thứ ba : trước hết cần ngược lại lịch sử vài chục năm trước đây, khi nước ta rơi vào khủng
hoảng với lạm phát phi mã. Chính lúc đó, người nông dân sau khi được giải phóng bởi Nghị quyết 10
của Bộ Chính trị khóa VI, đã sản xuất ra một lượng lương thực không những đủ dùng trong nước mà
còn xuất khẩu với khối lượng lớn. Khi an ninh lương thực được bảo đảm đã làm cho nông nghiệp phát
triển toàn diện với nhiều nông sản xuất khẩu đứng thứ hạng cao trên thế giới.
Trong điều kiện có sự cộng hưởng giữa khó khăn ở trong nước và giá cả trên thế giới như đã nêu
trên, nếu không có sự ra tay của nông dân và sự hỗ trợ của Nhà nước, thì giá lương thực, thực phẩm sẽ
tiếp tục "lồng lên" và kéo tốc độ giá tiêu dùng lên theo. Nhưng để chống lạm phát, ngoài việc phải
tăng lượng, còn phải giảm chi phí để sản xuất ra sản phẩm. Nhà nước cần có chính sách giảm thuế
suất để giảm giá nhập khẩu đối với nguyên nhiên vật liệu nhập khẩu, nhất là phân bón, thức ăn gia
súc, thuốc trừ sâu, nhiên liệu...
2.4.3. Tác động của lạm phát đến thị trường chứng khoán
Trong lịch sử quản lý kinh tế vĩ mô của Việt Nam, kiểm soát lạm phát là một trong những thành công
được ghi nhận. Chúng ta đã giảm lạm phát từ 700% năm 1986 xuống thấp vào đầu những năm 1990

và ở mức kiểm soát được những năm sau này. Nếu lạm phát tiếp tục tăng cao trong thời gian tới,
21


[Type text]
Chính phủ có thể thực hiện các biện pháp mạnh để kiềm chế, nhưng có thể tác động tiêu cực tới thị
trường cổ phiếu trong ngắn hạn.
Tăng tỉ lệ dự trữ bắt buộc, điều này có tác dụng hút lượng tiền nhàn rỗi ngoài lưu thông về ngân hàng
nhà nước. Nếu lạm phát tiếp tục tăng cao, việc nâng tỉ lệ dự trữ bắt buộc của các ngân hàng thương
mại tại ngân hàng nhà nước từ 10% lên 15% chỉ còn là vấn đề thời gian, tỉ lệ này đã được điều chỉnh
từ 5% lên 10%.
2.4.4. Tác động của lạm phát đến tín dụng ngân hàng
Lạm phát làm cho sức mua của đồng tiền giảm , tốc độ lưu thông của thị trường tăng lên càng làm
cho sức mua của đồng tiền giảm xuống nhanh chóng .Hoạt động của hệ thống ngân hàng rơi vào tình
trạng khủng hoảng do lượng tiền gửi vào ngân hàng giảm mạnh, các ngân hàng thương mại chạy đua
lãi suất tăng lãi suất tiền gửi.Trên thị trường hầu như chỉ có người đi vay chứ không có người cho
vay, do chính sách thặt chặt tiền tệ của chính phủ. Gây ra thiếu nội tệ trên thị trường .Làm cho nhiều
ngân hàng bị phá sản do mất khả năng thanh toán , thua lỗ trong kinh doanh .Ngoài ra các ngân hàng
nhỏ không có khả năng thanh khoản cao nên đẩy lãi suất cao , cao nhất trong những năm qua rồi vay
lại trên thị trường liên ngân hàng , làm náo động thị trường .Tình hình đó làm cho hệ thống tiền tệ bị
rối loạn và không kiểm soát nổi.
2.4.5. Tác động của lạm phát tới hoạt động sản xuất kinh doanh
Do lạm phát giá cả hàng hóa nguyên liệu tăng làm cho việc sản xuất kinh doanh ngày càng giảm sút ,
dẫn tới sự phát triển không đồng đều , mất cân đối giữa các ngành.
Trong khu vực sản xuất công nghiệp, biểu hiện của tăng giá là sự gia tăng liên tục của một số
yếu tố đầu vào, đặc biệt là sắt thép và xăng dầu. Giá đầu vào tăng đẩy chi phí giá thành, và do vậy
khiến các công ty phải bán ở mức giá cao hơn, và do vậy khác hàng sẽ mua ít hơn. Một áp lực quan
trọng nữa đối với giá thành của các doanh nghiệp là sức ép đòi tăng lương từ phía người lao động. Vì
giá cả tăng cao nên nếu mức lương của người lao động vẫn giữ nguyên như cũ thì mức sống của họ sẽ
bị giảm sút. Để duy trì mức sinh hoạt như cũ buộc phải có mức lương cao hơn. Các doanh nghiệp có

nhu cầu vay vốn ngân hàng để đầu tư và mở rộng kinh doanh cũng gặp phải khó khăn do lãi suất tiền
vay có áp lực tăng. Nói tóm lại, khi mức giá trung bình của các sản phẩm tiêu dùng tăng cao, không
chỉ những lĩnh vực tiêu dùng những sản phẩm có mức giá tăng nhanh mới bị ảnh hưởng, mà ảnh
hưởng này có tính chất lan tỏa, tác động một cách toàn diện tới các lĩnh vực của sản xuất, dịch vụ và
tiêu dùng khác
2.4.6. Tác động của lạm phát tới tài chính nhà nước
Tuy lúc đầu lạm phát mang lại thu nhập chi ngân sách nhà nước qua cơ chế phân phối lại thu nhập và
kể cả qua cơ chế phát hành .Nhưng ảnh hưởng nặng nề và lâu dài của lạm phát lại làm giảm nguồn thu
của ngân sách , chủ yếu là thuế do sản xuất bị yếu kém nhiều doanh nghiệp, công ty bị phá sản , giải
thể,… Trật tự an toàn xã hội bị phá hoại nặng nề.
Tóm lại, hậu quả của lạm phát rất nặng nề và nghiêm trọng lạm phát gây hậu quả đến toàn bộ đời
sống kinh tế - xã hội của một đất nước .Lạm phát làm cho quá trình phân hóa giàu nghèo nghiêm
trọng hơn. Lạm phát làm cho nhóm này kiếm được lợi lộc nhưng lại làm cho nhóm khác thiệt hại
nặng nề , nhất là đối với người lao động.
2.5. Các chính sách kiềm chế lạm phát của chính phủ trong thời gian qua
22


[Type text]
Trong thời gian vừa qua chính phủ đã thống nhất xác định nhiệm vụ trọng tâm hiện nay là:
Phấn đáu kiềm chế lạm phát , ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững.
Trong đó, kiềm chế lạm phát là mục tiêu ưu tiên hàng đầu. Bởi lẽ, nếu không kiềm chế được lạm phát,
chẳng những sẽ ảnh hưởng đến phát triển sản xuất và đời sống của nhân dân, đến ổn định kinh tế vĩ
mô mà còn ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế trong trung và dài hạn, việc làm cũng giảm sút, môi
trường đầu tư kinh doanh cũng sẽ trở nên xấu hơn. Chính phủ đã và đang tập trung chỉ đạo điều hành
để thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm và mục tiêu ưu tiên hàng đầu này.
Để đạt được những nhiệm vụ và mục tiêu nêu trên, Chính phủ đã thống nhất chỉ đạo thực hiện quyết
liệt và đồng bộ các giải pháp chủ yếu sau đây:
Một là, thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt. Cho dù do nhiều nguyên nhân, nhưng lạm phát luôn có
nguyên nhân tiền tệ. Mức cung tiền trong lưu thông và dư nợ tín dụng tăng liên tục từ năm 2004 qua

các năm và tăng cao trong năm 2007 là nguyên nhân quan trọng gây lạm phát. Nhận thức được tình
hình đó, Chính phủ chủ trương kiểm soát chặt chẽ tổng phương tiện thanh toán và tổng dư nợ tín dụng
ngay từ đầu năm. Tạo điều kiện cho sản xuất hàng hoá và xuất khẩu phát triển.
Hai là, cắt giảm đầu tư công và chi phí thường xuyên của các cơ quan sử dụng ngân sách, kiểm soát
chặt chẽ đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước, cố gắng giảm tỷ lệ thâm hụt ngân sách. Đồng thời,
tạo điều kiện và tập trung vốn cho những công trình sắp hoàn thành, những công trình đầu tư sản xuất
hàng hoá thuộc mọi thành phần kinh tế đẩy nhanh tiến độ, sớm đưa vào sản xuất.
Ba là, tập trung sức phát triển sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, khắc phục nhanh hậu quả của thời
tiết và dịch bệnh để tăng sản lượng lương thực, thực phẩm. Để thực hiện vấn đề này, Chính phủ đã
giao nhiệm vụ cho các Bộ trưởng, Chủ tịch UBND các tỉnh và thành phố chỉ đạo quyết liệt, kịp thời
tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc về vốn, về thị trường, về thủ tục hành chính, thúc đẩy sản xuất phát
triển.
Bốn là, bảo đảm cân đối cung cầu về hàng hoá, đẩy mạnh xuất khẩu, giảm nhập siêu. Cân đối cung
cầu về hàng hoá, nhất là các mặt hàng thiết yếu cho sản xuất và đời sống nhân dân là tiền đề quyết
định để không gây ra đột biến về giá, ngăn chặn đầu cơ. Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng đã và sẽ
tiếp tục làm việc với các Hiệp hội ngành hàng, các doanh nghiệp kinh doanh các mặt hàng thiết yếu,
như: lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, xăng dầu, sắt thép, vật liệu xây dựng, phân bón... giao
nhiêm vụ cho các đơn vị này phải bảo đảm nguồn hàng, đồng thời có trách nhiệm cùng Chính phủ
kiềm giữ giá cả.
Năm là, triệt để tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng. Hiện nay, tình trạng lãng phí trong sản xuất và
tiêu dùng diễn ra khá phổ biến ở các cơ quan, đơn vị. Tiềm năng tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng
là rất lớn. Đây là giải pháp vừa có tác dụng giảm sức ép về cầu, giảm nhập siêu, vừa góp phần nâng
cao hiệu quả của cả nền sản xuất xã hội.
Sáu là, tăng cường công tác quản lý thị trường, kiểm soát việc chấp hành pháp luật nhà nước về giá.
Kiên quyết không để xảy ra tình trạng lạm dụng các biến động trên thị trường để đầu cơ, nâng giá,
nhất là các mặt hàng thiết yếu cho sản xuất và tiêu dùng, như: xăng dầu, sắt thép, xi măng, thuốc chữa
bệnh, lương thực, thực phẩm…; ngăn chặn tình trạng buôn lậu qua biên giới, đặc biệt là buôn lậu
xăng dầu, khoáng sản. Chính phủ cũng yêu cầu các Hiệp hội ngành hàng tham gia tích cực, ủng hộ
các chủ trương và giải pháp bình ổn thị trường, giá cả.
23



[Type text]
Bảy là, thực hiện các giải pháp, chính sách hỗ trợ người nghèo bị thiệt hại do thiên tai và do giá tăng
đột biến trong thời gian qua; tiếp tục tập trung thực hiện các biện pháp hỗ trợ nông dân bị thiệt hại
trong đợt rét đậm, rét hại vừa qua; hỗ trợ giải quyết một phần khó khăn cho sản xuất, đời sống nhân
dân do điều chỉnh tăng giá, trước hết là đối với người nghèo, vùng miền núi, vùng đồng bào các dân
tộc thiểu số và các vùng khó khăn khác; biến khó khăn thành các thời cơ thuận lợi để phát triển kinh
tế - xã hội bền vững.Trước tình hình giá cả tăng cao, ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân, nhất là
vùng nghèo, hộ nghèo, vùng bị thiên tai, người lao động có thu nhập thấp, Chính phủ đã chủ trương
mở rộng các chính sách về an sinh xã hội.
Tám là, các cấp các ngành, các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phải tích cực triển khai
thực hiện tốt các chính sách và giải pháp chống lạm phát, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống
đầu cơ tăng giá. Các phương tiện thông tin đại chúng phải đưa thông tin chính xác, tạo niềm tin, khí
thế trong nhân dân về các tiềm năng, lợi thế phát triển kinh tế - xã hội bền vững của nước ta.
Nhận xét:
Trong tám giải chính phủ đã nêu lên, nhìn chung được đánh giá cao là trúng vấn đề và có quyết tâm,
nhằm vào 3 cụm vấn đề (a) siết chặt tiền tệ, (b) loại bỏ đầu tư kém hiệu quả, (c) giảm sốc cho các biện
pháp của chính phủ. Về cơ bản Việt Nam vẫn đang ở trong bối cảnh quốc tế thuận lợi.
Bây giờ tất cả phụ thuộc vào sự thực hiện, những vấn đề sau đây:
Tình hình khẩn cấp, kiến nghị nên có một cơ quan làm việc khẩn cấp, dưới dạng một “task forces” với
sự giúp đỡ của một tập hợp cán bộ kỹ trị, có thể tham vấn ý kiến chuyên gia nước ngoài. Cơ quan này
tùy sự lựa chọn của Thủ tướng. Nhóm này có chức năng: thực hiện tổng rà soát các vấn đề liên quan
nhằm bảo đảm thực hiện 8 giải pháp, lên ngay chương trình hành động, trực tiếp chỉ huy thực hiện 8
giải pháp. Ủy ban giám sát tài chính Quốc gia đảm nhận mặt trận riêng của nó trong cuộc chiến chung
này song không thay thế được cơ quan chống lạm phát này.
Cơ quan này lên kế hoạch xét duyệt chương trình thực hiện 8 biện pháp của toàn thể các cấp Bộ,
ngành, địa phương (cấp tỉnh) và các tập đoàn lớn, quyết định xử lý ngay những vấn đề lớn; trực tiếp
hàng ngày đôn đốc và kiểm soát thực hiện chương trình 8 giải pháp của các ngành các cấp. Chương
trình thực hiện 8 điểm này phải được coi như một "bộ Luật khẩn cấp".

Vận dụng bàn tay của kỹ trị tập trung chỉ đạo đưa tỷ giá trở về sát thị trường, kiểm soát chặt chẽ
các dòng vốn theo hướng lái chúng vào sản xuất kinh doanh, làm thông suốt thị trường vốn. kiên
quyết tách các tập đoàn kinh tế lớn ra khỏi gia đình chúng: (1) ngân hàng thương mại, (2) kinh doanh
địa ốc. Nhà nước có thể tiếp tục cho phép các tập đoàn kinh doanh các ngành nghề khác với sản phẩm
chính của tập đoàn tới mức 30% tổng vốn để khỏi trái Luật hiện hành. Trực tiếp kiểm soát gắt gao
việc các doanh nghiệp và các địa phương thực hiện các biện pháp “giảm sốc”.
PHẦN III: CÁC GIẢI PHÁP KIỀM CHẾ LẠM PHÁP Ở VIỆT NAM
3.1. Định hướng phát triển của nền kinh tế Việt Nam
Định hướng phát triển của nền kinh tế Việt Nam là đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH, xây dựng
nền kinh tế hội nhập khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu
những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu của thị trường nội địa. Xét về mặt
24


[Type text]
tác dụng thì hướng về xuất khẩu không mâu thuẫn mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho thay thế nhập
khẩu. Bởi vì, các sản phẩm sản xuất ra, cho dù không đủ điều kiện để xuất khẩu thì cũng đã có thể đáp
ứng tốt hơn nhu cầu trong nước, từ đó góp phần hạn chế nhập khẩu.
Vấn đề đặt ra là, mở rộng thị trường ngoài nước được thực hiện ra sao cho có thể kết hợp giữa
thu hút vốn đầu tư bên ngoài, xuất khẩu và nhập khẩu, bảo đảm được quan hệ hài hoà giữa hai quá
trình ưu tiên hướng về xuất khẩu và thay thế nhập khẩu, kết hợp tốt lợi ích có được khi mở rộng thị
trường ngoài nước với yêu cầu củng cố và phát triển thị trường trong nước. Giải pháp cho vấn đề này
là: tất cả hàng hoá của ta đều phải có chất lượng cao, chi phí thấp, đạt trình độ xuất khẩu. Những hàng
hoá đó nếu xuất khẩu sẽ mở rộng thị trường ngoài nước, nếu không xuất khẩu, sẽ cạnh tranh được với
các hàng ngoại nhập, nhằm củng cố và phát triển thị trường trong nước.
Mở rộng thị trường ngoài nước là phù hợp với tiến trình đẩy mạnh CNH, HĐH hướng mạnh về
xuất khẩu. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX khẳng định kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm
2001-2005 là bước đầu quan trọng trong việc thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm
2001-2010 – Chiến lược đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng
nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Một trong những mục tiêu

của công nghiệp Việt Nam mà Đại hội Đảng lần thứ IX đã đề ra là, tới năm 2010, giá trị xuất khẩu
công nghiệp chiếm 70-75% tổng kim ngạch xuất khẩu. Có mở rộng thị trường ngoài nước mới tận
dụng được những lợi thế của Việt Nam so với các quốc gia khác.
Cần phải khai thác có hiệu quả những lợi thế so sánh của đất nước trong việc tham gia vào phân
công lao động quốc tế, làm cho sản phẩm của Việt Nam ngày càng gắn với thị trường thế giới, thu
hút được nhiều vốn, tranh thủ được công nghệ, kinh nghiệm quản lý tiên tiến của các nước để đẩy
nhanh nhịp độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.Căn cứ vào các nguồn lực phát triển của đất
nước, trong quan hệ kinh tế đối ngoại, Việt Nam có những lợi thế sau:
Về lao động: Dân số nước ta thuộc loại dân số trẻ. Nguồn nhân lực Việt Nam cần cù, thông minh, có
khả năng tiếp thu công nghệ mới tương đối nhanh. Nguồn lao động của đất nước là một trong những
lợi thế tăng sức cạnh tranh cho các sản phẩm Việt Nam.
Về tài nguyên: Tài nguyên thiên nhiên của Việt Nam về đất đai, khí hậu, tài nguyên, sinh vật vô cùng
đa dạng, và phong phú. Bờ biển nước ta dài 3260 km với nhiều đảo lớn nhỏ nhiều vùng vịnh và cảng
biển. Đây là một lợi thế rất lớn và vô cùng quan trọng.
Về vị trí địa lý: Nằm trong khu vực châu á- Thái Bình Dương, Việt Nam có vị trí địa lý rất thuận lợi
cho giao lưu quốc tế. Đây là một khu vực phát triển năng động của thế giới
Xuất khẩu có ý nghĩa lớn đối với các quốc gia có thu nhập thấp so mức trong khu vực và so với
mức chung của thế giới. Trong bối cảnh hội nhập, không phải chỉ sản phẩm xuất khẩu mà tất cả các
sản phẩm sản xuất trong nước phải có sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế và thị trường trong nước.
Song, ở các nước đang và chậm phát triển, do có mức thu nhập thấp nên sức mua yếu, làm cho thị
trường nội địa chật hẹp, không đủ trang trải cho các chi phí sản xuất các mặt hàng theo đúng tiêu
chuẩn chất lượng quốc tế. Điều này khiến sản xuất trong nước khó phát triển. Vì thế, mở rộng thị
trường ngoài nước giúp cho các nước này lợi dụng thu nhập cao, thị hiếu đa dạng... của người nước
ngoài để làm gia tăng nhu cầu về hàng hoá. Từ đó đẩy mạnh sản xuất ( tận dụng các nguồn lực,
nguyên vật liệu sẵn có trong nước và rẻ hơn...) để đáp ứng nhu cầu đó. Chỉ có như vậy sản xuất trong
25


×