Tải bản đầy đủ (.doc) (78 trang)

SỰ PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ CỦA NHẬT BẢN VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM ÁP DỤNG CHO VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH HIỆN NAY.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (488.04 KB, 78 trang )

Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp

1

LỜI MỞ ĐẦU
Trong những thập niên 50, 60 của thế kỉ trước cả thế giới đã phải kinh
ngạc trước sự “thần kì” của Nhật Bản. Thế giới chưa từng được chứng kiến
tốc độ phát triển kinh tế nhanh như vậy trước đó. Cũng kể từ đó phần còn lại
của thế giới đã phải nghiên cứu nhiều hơn về Nhật Bản, để đi tìm câu trả lời
lý giải nguyên nhân của sự “thần kì” đó. Một trong những yếu tố quan trọng
khiến Nhật Bản có thể duy trì tốc độ tăng trưởng nhanh trong nhiều năm của
thời kỳ này đó là chiến lược phát triển hệ thống doanh nghiệp vừa và nhỏ
(SMEs). Chính SMEs là động lực và là nền tảng vững chắc cho sự thăng hoa
của nền kinh tế Nhật. Mặc dù không thể phủ nhận vai trò to lớn của các tập
đoàn lớn, các công ty xuyên quốc gia hàng đầu thế giới của đất nước mặt trời
mọc nhưng rõ ràng sự ổn định và sự linh hoạt của cả nền kinh tế được tạo ra
từ hệ thống các doanh nghiệp vừa và nhỏ nhờ tính ưu việt về khả năng thích
ứng nhanh với những thay đổi lớn của môI trường. Đó có thể coi là một lớp
đệm của nền kinh tế giúp giảm nhẹ những cú sốc, những khủng hoảng. Cũng
chính bởi vậy, trong bối cảnh nước ta đang đẩy mạnh công nghiệp hóa- hiện
đại hoá, bên cạnh việc cần thành lập các tập đoàn mạnh đóng vai trò là đầu
tàu cho nền kinh tế , cũng rất cần thiết phảI xây dựng và phát triển hệ thống
SMEs mạnh ngoài lợi ích về kinh tế còn giúp ổn định kinh tế, xã hội.
Trên thực tế, vấn đề này chưa từng được đặt ra một cách bài bản trước
đó, chúng ta không tránh khỏi sự mới mẻ và thiếu kinh nghiệm. Vì vậy , việc
học hỏi một cách thông minh, có chọn lọc kinh nghiệm các nước đI trước là
việc làm cần thiết. Góp phần nhỏ vào mục đích chung đó, tài liệu này nghiên
cứu kinh nghiệm chính sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ của Nhật Bản
và rút ra các bài học có thể học hỏi đối với Việt Nam hiện nay. Để thực hiện ý
đồ đó, tài liệu bao gồm các phần sau:


T¹ Phóc §êng

Líp: QLKT 46A


Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp

2

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN
DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ CỦA NHẬT BẢN TỪ
SAU CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ II
1.1 . BỐI CẢNH CHUNG CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ (SMES) CỦA
NHẬT BẢN SAU CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ II

1.1.1 Bối cảnh
1.1.1.1. Bối cảnh trong nước
Bị thất bại trong chi tranh, bị tàn phá nặng n về kinh tế: 34% máy móc,
25% công trình dựng, 81tàu biển bị phá huỷ, sản xuất công nghiệp tháng 81945 tụt xuống còn vài phần trăm so với một năm trước đó, chỉ bằng khoảng
10% mức trước chiến tranh (1934-1936), nước Nhật chìm trong khủng hoảng
trầm trọng về mọi mặt. Những vấn đề kinh tế xã hội gay cấn nhất của Nhật
Bản lúc này là : thất nghiệp, thiếu nguyên liệu và lương thực , lạm phát.
Nhằm mục đích “thủ tiêu sức mạnh quân sự của Nhật Bản cả về mặt tâm lý
lẫn thể chế “, lực lượng chiếm đóng bắt tay ngay vào việc thực hiện đồng thời
ba cuộc cải cách lớn: thủ tiêu tập trung kinh tế mà trọng tâm là giải thể các
Zaibatsu, cải cách ruộng đất và dân chủ hoá lao động. Tuy mục đích của lực
lượng chiếm đóng nhằm chủ yếu vào tiêu diết cơ sở sức mạnh quân sự của
Nhật Bản, nhưng thực tế chúng có ý nghĩa kinh tế to lớn. Vì nhờ ba cuộc cải
cách này mà nền kinh tế thị trường đựơc xác lập, dân chủ hóa kinh tế được

đảm bảo ; chúng không chỉ góp phần khôi phục nền kinh tế mà còn tạo điều
kiện quan trọng cho thời kỳ tăng trưởng tiếp theo.
1.1.1.2. Bối cảnh quốc tế

T¹ Phóc §êng

Líp: QLKT 46A


Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp

3

- Thế giới vừa bước ra từ cuộc chiến tranh khốc liệt nhất trong lịch sử,
gây ra thiệt hại to lớn cả về người và của cho hầu hết các nước trừ nước Mỹ.
Sau chiến tranh nước nổi lên như một siêu cường lớn nhất thế giới và đang ấp
ủ âm mưa bá chủ thế giới. Nhằm đạt được mục tiêu đó, Mỹ đã thực hiện một
số chính sách, theo đó Mỹ đã tài trợ cho một số nước, trong đó có Nhật Bản
để xây dựng các nước này thành mũi tiền tiêu chống lại cộng sản. Nước Nhật
đã nhận được một khoản tiền không nhỏ rất quý giá phục vụ cho công cuộc
khôi phục và phát triển kinh tế.
-Cũng với mục tiêu thực hiện ý đồ trên, Mỹ đã tiến hành cuộc chiến
tranh Triều Tiên và Việt Nam. Chính nhờ hai cuộc chiến này nước Nhật đã
tận dụng triệt để phát triển kinh tế. Các đơn đặt hàng phục vụ chiến tranh của
Mỹ đã tạo cơ hội cho Nhật phát triển các ngành công nghiệp của mình.
- Qúa trình toàn cầu hóa, khu vực hóa đang diễn ra một cách khẩn
trương vào thời kỳ này với sự ra đời của các tổ chức kinh tế toàn cầu như:
IMF, GATT, Workbank…Nhật Bản cũng không nằm ngoài tiến trình chung
này. Nhật tham gia GATT năm 1955, trở thành thành viên đầy đủ vào năm
1962, tham gia IMF cùng thời gian này, Các sự kiện này đã làm thay các

ngành kinh tế của Nhật Bản. Nó tạo cho các doanh nghiệp Nhật Bản cơ hội
tiếp cận thị trường rộng lớn của thế giới, đẩy mạnh xuất khẩu.
1.1.2. Tình hình phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Nhật Bản từ
sau chiến tranh thế giới thứ 2
Ở Nhật Bản có rất nhiều các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động trong
nhiều lĩnh vực, đặc biệt trong công nghiệp chế biến, thuơng nghiệp bán buôn
và bán lẻ và lĩnh vực dịch vụ. Hiện tượng này không có gì khác thường đối
với nền kinh tế Nhật Bản, ngoại trừ việc SMEs chiếm tỷ trọng lớn trong sản
lượng và năng suất trong SMEs so với các doanh nghiệp lớn. Vì những đặc
trưng này nên trong thời kỳ hậu chiến, việc thúc đẩy quá trình “hiện đại hóa”

T¹ Phóc §êng

Líp: QLKT 46A


Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp

4

SMEs đã trở thành một nhiệm vụ quan trọng và một loạt những biện pháp
chính sách đa dạng đã được áp dụng. Hiện nay (2001), số lượng doanh nghiệp
vừa và nhỏ ở Nhật chiếm tỷ trọng lớn (4,69 triệu doanh nghiệp) trong tổng số
4,703 triệu các doanh nghiệp, tức chiếm khoảng 99,7%, các doanh nghiệp lớn
chỉ chiếm 0,3% về số lượng (Biểu đồ 1). Như vậy có thể nói số lượng các
SMEs chiếm tuyệt đại đa số các doanh nghiệp trong nền kinh tế Nhật Bản.
Biểu đồ 1: Tỷ trọng số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ so với doanh
nghiệp lớn năm 2001(đơn vị: nghìn doanh nghiệp)

Nguồn: (trang web của

Small and Medium Enterprises Agency)

Các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng chiếm tỷ trọng lớn về số lượng
nhân công. Năm 2001, số nhân công trong các SMEs là 29,96 triệu lao động,
chiếm 70,2% tổng số lao động được sử dụng trong các doanh nghiệp. Trong
khi đó, số lượng lao động trong các doanh nghiệp lớn là 13 710 nghìn lao
động, chiếm 30,5%. Như vậy, các SMEs đã tạo ra số lượng việc làm rất quan
trọng trong nền kinh tế Nhật Bản.

T¹ Phóc §êng

Líp: QLKT 46A


Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp

5

Biểu đồ 2: Tỷ trọng số lượng nhân công trong các doanh nghiệp SMEs và
các doanh nghiệp lớn năm 2001(đơn vị: nghìn công nhân)

Nguồn: (trang web của
Small and Medium Enterprises Agency)

Về giá trị sản xuất, các SME cũng tạo ra giá trị lớn hơn so với các
doanh nghiệp lớn, 51,1% so với 48,9% của các doanh nghiệp lớn.
Biểu đồ 3: Tỷ trọng giá trị sản xuất của các doanh nghiệp SMEs và các
doanh nghiệp lớn năm 2001(đơn vị: Tỷ Yên).

Nguồn: (trang web của

Small and Medium Enterprises Agency)

Như vậy, qua sự so sánh về 3 khía cạnh trên, có thể khẳng định các
SMEs đang đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế Nhật. Trong mục

T¹ Phóc §êng

Líp: QLKT 46A


Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp

6

này, chúng ta sẽ tiếp tục bàn về vai trò của Các SMEs cũng như tình hình
phát triển của chúng khi xem xét các chỉ tiêu khác và trong các giai đoạn
phát triển của nền kinh tế.
Số liệu trong bảng 1 cho thấy các SMEs tập trung chủ yếu vào 3 lĩnh
vực: Sản xuất, bán lẻ và dịch vụ. Trong đó, các SMEs trong lĩnh vực bán lẻ
là đông đảo nhất với trên 1,7 triệu doanh nghiệp. Tiếp đó là lĩnh vực sản
xuất với 1,5 triệu doanh nghiệp và bán buôn là lĩnh vực thu hút ít nhất các
doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Bảng 1: Số lượng các SMEs theo các ngành

SMEs

Công nghiệp

Số doanh
nghiệp


Sản xuất
Bán buôn
Bán lẻ
Dịch vụ

1,498,35
1
255,587
1,743,84
8
1,191,82
3

4,689,60

Tổng

9

Doanh nghiệp lớn
%
trong
tổng

Số doanh
nghiệp

%
trong

tổng

Tổng
Số doanh
nghiệp

%
trong
tổng

99.8

3,294

0.2

99.1

2,394

0.9

99.8

4,000

0.2

1,747,848 100.0


99.7

3,742

0.3

1,195,565 100.0

99.7

13,430

0.3

1,501,645 100.0
257,981

4,703,039

100.0

100.
0

Nguồn: Compiled from Ministry of Public Management, Home Affairs, Posts and
telecommunications, Establishment and Enterprise Census of Japan (2001)

T¹ Phóc §êng

Líp: QLKT 46A



Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp

7

Bảng 2: Giá trị gia tăng và hiệu suất của giá trị gia tăng của SMEs và các
doanh nghiệp lớn giai đoạn 1995-2002

Quy mô
Giá trị gia

SMEs

1995
1996
1997
1998
1999
2000
158,715 147,384 152,907 153,151 148,034 153,404

tăng

Large

(57.2%) (54.6%) (55.5%) (56.6%) (55.3%) (55.5%)
118,558 122,336 122,754 117,262 119,697 123,225

(tỷ yên)


Enterprises (42.8%) (45.4%) (44.5%) (43.4%) (44.7%) (44.5%)

Năng suất
giá trị gia

SMEs

4,993

4,840

4,894

4,837

4,602

4,573

tăng

Large

10,032

10,287

10,265


9,696

9,831

10,425

(nghìnyên/la Enterprises
ođộng)
Nguồn: Ministry of Finance, Financial Statement Statistics of Corporations by
Industry

Bảng 2 cho chúng ta thấy sự đóng góp của SMEs về giá trị gia tăng giai
đoạn 1995-2002. Tỷ trọng đóng góp này của các doanh nghiệp vừa và nhỏ,
giao động không đáng kể chiếm khoảng 55% giá trị gia tăng của doanh
nghiệp, trong khi các doanh nghiệp lớn đóng góp 45%. Như vậy, Mặc dù
nước Nhật có rất nhiều các tập đoàn, các hãng lớn tầm cõ thế giới nhưng vai
trò của hệ thống các doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn là rất quan trọng trong việc
thúc đẩy tăng trưởng tạo thu nhập cho nền kinh tế.
Tuy nhiên, chỉ số hiệu suất gia tăng ở Bảng 2 cũng chỉ cho chúng ta
thấy rằng các SMEs không thể so sánh với các doanh nghiệp lớn. Chỉ số này
được đo bằng (giá trị gia tăng/ số lao động), tức nó phản ánh năng suất lao
động của doanh nghiệp. Khi so sánh chỉ số này giữa SMEs với các doanh
nghiệp lớn thì ta thấy hiệu suất gia tăng của các SMEs chỉ bằng nửa so với
của các doanh nghiệp lớn. Điều này phản ánh một thực tế của sự thua thiệt về

T¹ Phóc §êng

Líp: QLKT 46A



Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp

8

các yếu tố tạo ra năng suất lao động như: trình độ công nhân, công nghệ, cũng
như trình độ quản lý của các SMEs nói chung so với các doanh nghiệp lớn.
Năm 1981, SMEs chiếm tới 99,4% trong tổng số các cơ sở sản xuất
kinh doanh và 81,4% số lượng nhân công. SMES trong ba khu vực là công
nghiệp chế biến, thương nghiệp (phân phối) bán buôn và bán lẻ, và dịch vụ
chiếm 83,6% tổng số SMEs và 75,6% lượng nhân công, và do vậy việc các
khu vực này chiếm tỷ trọng lớn là một điều rõ ràng. Nếu nhìn vào số lượng
các cơ sở sản xuất kinh doanh thì có thể thấy tỷ trọng của SMEs không có
biến động lớn, nhưng xét về mặt nhân công thì năm 1969 được coi là thời
điểm bước ngoặt với việc tỷ trọng nhân công từ xu hướng giảm chuyển sang
xu hướng tăng lên. Cho nên trong những năm gần đây tỷ trọng của SMEs có
lẽ đang tăng dần. Tuy nhiên, trong khi tỷ trọng của SMEs trong lĩnh vực phân
phối, dịch vụ, xây dựng và bất động sản tăng lên thì tỷ trọng của khu vực
công nghiệp chế biến lại liên tục giảm xuống.
Nếu xem xét chi tiết hơn về biến động trong khu vực công nghiệp chế
biến, phân phối và dịch vụ thì có thể lưu ý một số điểm sau đây. Tỷ trọng của
SMEs trong giá trị sản lượng của ngành công nghiệp chế biến giảm xuống
trong giai đoạn 1955-1960, và sau khi tăng lên trong giai đoạn 1960-1965, đã
tiếp tục tăng trong những năm 1970. Sở dĩ có sự biến động vào cuối những
năm 1950 và đầu những năm 1960 là do dịch chuyển trong cơ cấu cầu cuối
cùng. Do đó việc mở rộng đầu tư tư nhân và sự suy giảm tương đối chi tiêu
cho tiêu dụng cá nhân vào cuối những năm 1950 đã làm giảm tỷ trọng của
ngành công nghiệp nhẹ (mà phần lớn thuộc về SMEs), nhưng sang đầu những
năm 1960 thì khuynh hướng đó được đảo ngược: chỉ têu cho tiêu dụng các
nhân gia tăng nên tỷ trọng ngành công nghiệp nhẹ lại tăng lên. Trong những
năm 1970, ngành chế tạo mày và các ngành công nghiệp chế biến khác đã

phát triển một cách nhanh chóng, nhưng đồng thời cũng có xu hướng gia tăng

T¹ Phóc §êng

Líp: QLKT 46A


Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp

9

số lượng SMEs trong các ngành công nghiệp chế biến, và điều này chứng tỏ
rằng SMEs có khả năng thích ứng với những thay đổi trong cơ cấu công
nghiệp.
Trong thương nghiệp bán lẻ, các doanh nghiệp bán lẻ vừa và nhỏ chiếm
tới 99,6% thị trường bán lẻ, 88,4% nhân công , và 79,9% doanh số bán lẻ.
Trong số đó các cơ sở bán lẻ có quy mô rất nhỏ (chỉ gồm bấn công nhân hoặc
ít hơn) lại chiếm tới 84,1% thị trường bán lẻ, 47,9% nhân công , và 32,8%
doanh số bán của năm 1982. Phản ánh những thay đổi về cơ cấu chi tiêu của
người tiêu dùng và hành vi mua sắm của người tiêu dụng, những mức độ thay
đổi có thể được xem xét ở mức độ ít tổng quát hơn, nhưng nói chung là tỷ
trọng trong doanh số bán của các doanh nghiệp bán lẻ có quy mô vừa và nhỏ
có xu hướng giảm xuống, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp có quy mô rất
nhỏ.
Trong lĩnh vực dịch vụ, so mức cơ cấu gia tăng nên số lượng các doanh
nghiệp và nhân công cũng tăng đáng kể. Trong năm 1981, SMEs chiếm
khoảng 70% số nhân công , nhưng theo số liệu thì tỷ trọng này có xu hướng
giảm đi. Lý do là vì mức cầu đối với các hình thức dịch vụ các nhân có nhiều
SMEs tham gia cung ứng như giặt là, cắt tóc, nhà tắm công cộng tăng chậm
hơn so với mức cầu đối với các dịch vụ kinh doanh phần lớn do các doanh

nghiệp lớn đảm nhiệm như dịch vụ thông tin và cho thuê.
Tóm lại, trong khi có những biến động đối với SMEs trong các khu vực
khác nhau nhưng nhìn chung số lượng của các doanh nghiệp này tiếp tục tăng
lên , và tỷ trọng trong tổng số doanh nghiệp và nhân công vẫn được duy trì.

1.2. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP
VỪA VÀ NHỎ

T¹ Phóc §êng

Líp: QLKT 46A


Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp

10

1.2.1. Khái niệm về Chính sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ
Chính sách công nghiệp nói chung thường đặt trọng tâm vào các ngành
công nghiệp cụ thể, nhưng đối với SMEs chính sách có khác ở chỗ mục tiêu
mà nó nhằm tới là một nhóm các doanh nghiệp có quy mô đặc trưng.
1.2.2.Khái niệm về doanh nghiệp vừa và nhỏ
Hiện nay khái niệm về các doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa có sự thống
nhất cả về không gian và thời gian. Ở mỗi nước khác nhau quy định những
cách định nghĩa khác nhau. Sự khác nhau ở đây chủ yếu do sự khác nhau
trong quy định về quy mô của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. ở Nhật Bản, các
doanh nghiệp vừa và nhỏ được quy đinh trong luật về kinh doanh nhỏ, năm là
những doanh nghiệp có quy mô vốn không lớn hơn 300 000 000 triệu Yên
hoặc có quy mô lực lượng lao động không quá 300 người.
1.2.3. Đặc điểm của các doanh nghiệp vừa và nhỏ

Các SMEs, do sự vừa và nhỏ về quy mô vốn và lao động nên bản thân
chúng mang các đặc điểm sau:
- Vốn nhỏ.
- Lực lượng lao động, chủ yếu là lao động có trình độ không cao, do
ngân quỹ trả lương nhỏ, phí đào tạo thiếu.
- Công nghệ trong các SMEs thưòng không phải là những công nghệ
tiên tiến nhất, do ngân quỹ dành cho việc mua hoặc nghiên cứu ứng
dụng công nghệ mới hạn hẹp.
- Khó tiếp cận các khoản vay từ các tổ chức tư nhân do khó đáp ứng
được các đòi hỏi về tín dụng
- Do có quy mô nhỏ cộng với tính không hoàn hảo của thị trường nên
tiếng nói của các doanh nghiệp loại này thường không có nhiều
trọng lượng, cũng bởi vậy, chúng thường bị các doanh nghiệp lớn
hơn chèn ép về nhiều mặt.

T¹ Phóc §êng

Líp: QLKT 46A


Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp

11

1.3. CƠ SỞ CỦA CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ

Chính sách phát triển SMEs khác với các dạng chính sách công nghiệp
khác ở chỗ tiêu thức để xem xét là quy mô, chứ không phải lĩnh vực linh
động, của doanh nghiệp. Chính sách đối với SMEs xét về tổng thể là cần thiết
khi biện pháp can thiệp. Chính sách tỏ ra có hiệu quả trong việc đối phó với

những vấn đề nảy sinh từ sự khác biệt về quy mô giữa các doanh nghiệp và
hơn nữa, khi các chính sách dựa trên tiêu thức quy mô lại tỏ ra hữu hiệu hơn
so với các chính sách dựa trên cách tiếp cận theo ngành cụ thể.
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ và các doanh nghiệp quy mô lớn trên thị
trường có 2 mối liên hệ sau: cạnh tranh với nhau hoặc đối tác của nhau. Từ
các mối quan hệ này dẫn đến các khả năng sau. Trong trường hợp thứ nhất,
khi cả hai doanh nghiệp cùng là người mua hay bán thì sẽ nảy sinh vấn đề,
đặc biệt là khi các doanh nghiệp lớn xâm nhập vào lĩnh vực hoạt đông chủ
yếu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Khi cả hai đều là người mua, cụng tìm
kiếm lao động, tài chính, công nghệ, thông tin, và nguyên liệu, thì SMEs
thường ở vị thế yếu thế hơn so với các doanh nghiệp lớn. Trong trường hợp
thứ hai khi có sự chuyển dịch giữa SMEs và các hãng lớn thì các doanh
nghiệp lớn sẽ có khả năng thống trị trên thị trường với tư cách là người mua
hoặc người bán.
Nguyên nhân của vấn đề nằm ở tính chất không hoàn hảo trên các thị
trường lao động, tài chính, hàng hóa và thông tin. Chính các yếu tố này đã tạo
ra sự yếu thế tương đối của các SMEs so với các doanh nghiệp lớn hơn. Nói
cách khác, nếu nhìn vào thị trường lao động thì có thể thấy rằng đâu là thị
trường có tính nhị nghuyên, một dành cho các doanh nghiệp lớn và một danh
cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ và sự di chuyển lao động giữa hai thị trường
này là không nhiều. Một khía cạnh cần lưu ý ở đây là, so với các doanh
nghiệp lớn, SMEs thường sử dụng nhân công với tiền lương thấp. Điều này

T¹ Phóc §êng

Líp: QLKT 46A


Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp


12

một mặt tạo nên lợi thế của loại hình doanh nghiệp này. Mặt khác, vấn đề sẽ
nảy sinh nếu doanh nghiệp muốn sử dụng lao động có trình độ công nghệ cao.
Trong các doanh nghiệp lớn thì đội ngũ lao động có tya nghề cao đuộc hình
thành nhờ quá trình đào tạo ngay trong nội bộ doanh nghiệp, và đây là hình
thức có hiệu quả bởi vì phần lớn công nhân đều gắn bó lâu dài với doanh
nghiệp. Ngược lại, công nhân trong SMEs ít có xu hướng gắn bó lâu dài với
doanh nghiệp hơn so với công nhân trong các doanh nghiệp lớn. Đặc điểm
này càng được thể hiện rõ đối với các doanh nghiệp vó quy mô càng nhỏ, dẫn
đến hạn chế việc hình thành đội ngũ công nhân có tay nghề cao. Khi thị
trường lao động là không hoàn hảo thì sẽ nảy sinh sự phân hóa giữa các doanh
nghiệp lớn và SMEs về khả năng hình thành nguồn nhân lực.
Liên quan đến vấn đề tài chính, SMEs thường gặp phải những trở ngại
về mặt thể chế trong quá trình tạo ra vốn thông qua phát hành cổ phiếu và trái
phiếu, và ngay cả khi vay mượn từ các tổ chức tài chính thì chi phí vay cũng
có sự khác biệt tùy thuộc vao quy mô giao dịch, và do vậy mức lãi suất áp
dụng đối với SMEs thường cao hơn so với các doanh nghiệp lớn. Hơn nữa,
xét theo giác độ hạn chế rủi ro trong giao dịch của các tổ chức tài chính (đặc
biệt đối với nguồn vốn dài hạn), các ngân hàng thường mong muốn tiến hành
giao dịch với các doanh nghiệp lớn. Xu hướng lựa chọn người vay của các tổ
chức tài chính còn mạnh hơn nữa trong điều kiện thị trường vốn đang gặp
phải tình trạng khan hiếm. Các thị trường vốn là không hoàn hảo do các hạn
chế về mặt thể chế, và thị trường cho vay là không hoàn hảo do tính hiệu suất
theo quy mô và tính bất định trong các giao dịch. Các nhân tố này khiến cho
việc tiếp cận nguồn vốn (đặc biệt là vốn dài hạn) của SMEs trở nên khó khăn,
từ đó mà tạo ra sự bất định (việc tài trợ trở nên khó hăn trong giai đoạn khan
hiếm vốn). Điều này cũng làm cho các điều kiện vay mượn trở nên kém thuận

T¹ Phóc §êng


Líp: QLKT 46A


Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp

13

lợi hơn đối với SMEs, và nói chung là việc vay mượn vốn phụ thuộc vào sự
khác biệt về quy mô của các doanh nghiệp.
Khi SMEs và các doanh nghiệp lớn cùng tồn tại trong cùng một ngành
thì các yếu tố không hoàn hảo trên thị trường hàng hóa sẽ giúp SMEs tìm
được vị trí của mình thông qua việc phân hóa sản phẩm và các công cụ khác.
Nhưng, cũng không thể bỏ qua một thực tế là năng lực marketing và năng lực
mua của cá doanh nghiệp lớn lại tạo ra sự bất lợi đối với SMEs khi hai nhóm
này thực hiện các giao dịch bán hoặc mua lẫn nhau. Khi các doanh nghiệp lớn
có quyền lực thị trường và thực hiện bán cho SMEs với mức giá cao, thì
SMEs sẽ phải đối đầu với tình trạng mua với giá cao nhưng lại phải bán với
giá thấp. Hơn nữa, trong các giao dịch với các doanh nghiệp công nghiệp vừa
và nhỏ có cửa hàng tiêu thu riêng, các siêu thị lớn, các doanh nghiệp thương
mại, các nhà bán buôn, cũng như mối quan hệ hợp đồng phụ giữa các nhà sản
xuất lớn và nhỏ, thì doanh nghiệp lớn có được khả năng sử dụng sức mạnh thị
trường với tư cách là người mua.Tính chất không không hoàn hảo trong thị
trường hàng hóa do sức mạnh thị trường của các doanh nghiệp lớn tạo ra sẽ
dẫn đến sự bất lợi của SMEs trong các giao dịch với các doanh nghiệp lớn.
Đối với các giao dịch liên quan đến thông tin thì khó khăn đầu tiên là
việc phải chuẩn hóa được chất lượng hoặc nội dung của thông tin. Có thể xảy
ra tình huống người bán nắm rõ được chất lượng thông tin, còn người mua thì
không. Do yếu tố không hoàn hảo này trên thị trường thông tin có thể dẫn đến
kết quả là các doanh nghiệp có khuynh hướng tạo ra và sử dụng thông tin

trong phạm vi nội bộ, chứ không phải tìm kiếm nó từ bên ngoài. Trong trường
hợp doanh nghiệp tiếp cận được với công nghiệ hoặc thông tin từ bên ngoài
do các tổ chức nghiên cứu trên thị trường tạo ra, thì nguồn lực bên trong của
doanh nghiệp sẽ được đầu tư vào hoạt động R&D đối với sản phẩm và phát
triển công nghệ sản xuất, và vào việc thu nhận thông tin trên thị trường. Do

T¹ Phóc §êng

Líp: QLKT 46A


Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp

14

tính hiệu suất theo quy mô và những hạn chế về tài chính và nguồn nhân lực
nên SMEs cũng gặp phải bất lợi trong việc nội hóa quá trình tạo ra và sử dụng
thông tin.
Như vậy, cơ sở của chính sách áp dụng đối với SMEs là thủ tiêu các
nhân tố không hoàn hảo trên các thị trường lao động, tiền tệ, hàng hóa, và
thông tin. Các biện pháp chính sách này bao gồm việc trợ cấp thông tin. Hơn
nữa, do những khó khăn của SMEs trong việc tiến tới và xây dựng sự quản lý
các nguồn lực khiến cho các doanh nghiệp này khó thích ứng với những biến
động nhanh chóng trong môi trường xung quanh, cho nên chính sách được coi
là một công cụ kết nối cần thiết trong cơ chế phối hợp nội bộ ngành khi quá
trình điều chỉnh gặp phải những chấn động lớn. Việc sử dụng các khoản trợ
cấp để giúp SMEs điều chỉnh hoạt động kinh doanh của mình chính là phản
ứng đáp lại sự cần thiết phải thay đổi của SMEs dưới tác động suy thoái cơ
cấu đó, ví dụ, khủng hoảng của đồng đôla, sự lên giá của đồng nội tệ, và việc
gia tăng nhanh nhập khẩu từ. Để khắc phục những bất lợi trong các giao dịch

với các doanh nghiệp lớn các biện pháp chính sách phải nhắm tới sự điều tiết
quyền lực thị trường của các doanh nghiệp lớn và gia tăng khả năng đối phó
của SMEs bằng cách thiết lập các cơ chế tổ chức riêng của mình. Các quy
định trong các chính sách chống độc quyền nhằm hạn chế các doanh nghiệp
lớn lạm dụng vị thế vượt trội của mình (các giao dịch không lạnh mạnh) và
việc tách các tổ chức như các hợp tác xã của SMEs ra khỏi phạm vi điều
chỉnh của Luật chống độc quyền là những minh họa cho chính sách nói trên.
Các cơ sở đó của chính sách đối với SMEs bao gồm các biện pháp khắc
phục những bất lợi do các nhân tố không khoàn hảo trên thị trường mạng lại,
nhưng cũng cần phải bổ sung thêm một số điểm sau đây. Thứ nhất, cũng có
những trường hợp mạng lại lợi thế cho SMEs. Đó là các yếu tố phi kinh tế
xuất hiện trong các tổ chức lớn, các lĩnh vực trong đó tính hiệu quả theo quy

T¹ Phóc §êng

Líp: QLKT 46A


Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp

15

mô không được thể hiện rõ và các khu vực trong đó thị trường đã được phân
chia rõ ràng dựa trên sự phân hóa sản phẩm. Thứ hai, lượng hóa việc các yếu
tố không hoàn hảo trên thường gây bất lợi cho SMEs đến mức độ nào là rất
khó khăn. Đặc biệt, việc xác định tới mức độ nào thì phải cần tới sự can thiệp
bằng chính sách lại càng khó hơn. Thứ ba, mức độ dẫn đến việc gây bất lợi
của các yếu tố không hoàn hảo trên thị trường sẽ thay đổi một khi các thị
trường liên quan có những biến đổi . Điều này cho thấy rằng nội dung (trọng
tâm) của chính sách đối với SMEs sẽ cần phải được điều chỉnh.


T¹ Phóc §êng

Líp: QLKT 46A


Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp

16

CHƯƠNG 2
NỘI DUNG CỦA CHÍNH SÁCH DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
CỦA NHẬT BẢN TỪ SAU CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ II
2.1. LỊCH SỬ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN SMES CỦA NHẬT BẢN

Chính sách đối với SMEs có nội dung nhằm đáp lại những biến động trong
môi trường và kèm theo đó là những mối quan tâm về mặt chính sách. Thời
kỳ từ khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc đến nay có thể chia thành ba
giai đoạn: (1) từ khi chiến tranh kết thúc đến giữa những năm 1950; (2) từ
giữa những năm 1950 đến hết những năm 1960; (3) từ những năm 1970 trở
đi. Nói một cách đại thể thì trong giai đoạn đầu tiên, các chính sách bảo hộ có
tính thụ động được đưa ra nhằm “cứu nguy” cho SMEs “ốm yếu”. Trong giai
đoạn thứ hai, các chính sách hiện đại hóa có tính “chủ động” hơn được áp
dụng để hiện đại hóa các nhà máy và “ thống nhất” (tăng quy mô) các doanh
nghiệp trong ngành công nghiệp chế biến. Trong giai đoạn thứ ba, một mặt,
trọng tâm được dành cho việc hình thành nguồn lực quản trị “mềm” nhằm gia
tăng “hàm lượng tri thức” các SMEs, mặt khác, có sự vận dụng các chính
sách điều chỉnh công nghiệp, chẳng hạn như chính sách hỗ trợ các doanh
nghiệp thay đổi hướng kinh doanh của mình. Trong giai đoạn cuối này, quan
niệm về SMEs có sự thay đổi ở chỗ vai trò của các doanh nghiệp này được

đánh giá một cách tích cực hơn.
Cho đến giữa những năm 1950, các nhân tố cơ bản của chính sách đối với
SMEs là các chính sách tài chính và các chính sách tổ chức SMEs. Trong điều
kiện khó khăn về vốn thì chính sách tài chính đối với SMEs chủ yếu bao gồm
việc hình thành cá tổ chức tài chính của chính phủ có chức năng chuyên cấp
vốn cho SMEs và thiết lập các tổ chức tín dụng bổ sung. Vào năm 1949, Công
ty cho vay đối với các doanh nghiệp có quy mô rất nhỏ, trong khi đó công ty

T¹ Phóc §êng

Líp: QLKT 46A


Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp

17

tài chính kinh doanh nhỏ được hình thành vào năm 1953 với chức năng cung
cấp các khoản cho vay dài hạn. Nguồn vốn từ ngân sách được chuyển tới các
tổ chức tài chính mới này của chính phủ, kể cả Ngân hàng Shoko Chukin
(Ngân hàng trung tâm của các hợp tác xã công thương), được thành lập vào
năm 1936. Một chương trình bảo lãnh tín dụng đã ra đời trên cơ sở Luật công
ty bảo lãnh tín dụng (1953) nhằm tăng cường khả năng cấp vốn cho SMEs ,
đồng thời bảo lãnh cho các khoản vay từ các tổ chức tài chính tư nhân.
Chương trình bảo hiểm tín dụng cũng đã được thành lập vào năm 1950 nhằm
đảm bảo việc thực thi nghĩa vụ của các hiệp hội bảo lãnh tín dụng.
Vào năm 1949 Luật về hiệp hội các doanh nghiệp hợp tác xã vừa và nhỏ
được thông qua nhằm đáp lại phong trào dân chủ hóa thời hậu chiến, từ đó
đẩy mạnh hoạt động hợp tác trong các hiệp hội mà không cần phải chấn chỉnh
lại sự kiểm soát kinh tế chặt chẽ của các tổ chức vào giai đoạn này là sự ổn

định của SMEs được tạo lập thông qua các biện pháp hạn chế cạnh tranh. Để
đạt được điều này, Luật ổn định hóa các doanh nghiêp vừa và nhỏ được thông
qua vào năm 1952 trong đó quy định các hoạt động thuộc hành vi điều tiết
của các hiệp hội SMEs (cụ thể, đó là việc thành lập các cacten ). Đạo luật này
phản ánh các yêu sách của SMEs trong ngành dệt may và các ngành khác
trong giai đoàn suy thoái sau chính tranh Triều Tiên. Nó được soạn thảo và
thông qua theo sáng kiến của Nghị viện (chứ không phải của giới quan chức).
Triết lý trong giai đoạn “ổn đinh hóa” SMEs thông qua các chính sách hạn
chế cạnh tranh còn được phản ánh trong việc thông qua Luật về các cửa hàng
bách hóa (1956) và Luật về các biện pháp đặc biệt nhằm điều tiết kinh doanh
bán lẻ (1959), theo đó hoạt động bán lẻ của của các cửa hàng bách hóa tổng
hợp và cửa hàng hợp tác xã bị hạn chế.
Chính sách trong những năm 1960 đã chuyển từ trạng thái “ thụ động”
sang tính “ năng động” hơn nhằm giúp hiện đại hóa các nhà máy và gia tăng

T¹ Phóc §êng

Líp: QLKT 46A


Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp

18

quy mô của các doanh nghiệp. Vào giữa những năm 1950, mối quan tâm được
tập trung vào sự phân hóa tiền lương và năng suất giữa SMEs và các doanh
nghiệp lớn – yếu tố phản ánh cơ cấu nhị nguyên của kinh tế Nhật Bản thời
bấy giờ. Vào nửa năm sau những năm 1950, đầu tư của các doanh nghiệp lớn
đã làm tăng nhu cầu về lao động, dẫn tới tăng mức lương, từ đó buộc những
SMEs nào phụ thuộc vào lao động có mức lương thấp phải tăng năng suất của

mình thông qua đầu tư vào trang thiết bị và các biện pháp khác. Nhu cầu gia
tăng sức mạnh cạnh tranh quốc tế trong bối cảnh tự do hóa thương mại vào
đầu những năm 1960 đã khiến cho biện pháp này càng trở nên cấp thiết.
Chính sách hiện đại hóa SME trong những năm 1960 trở nên cấp thiết .Chính
sách hiện đại hóa các SME trong những năm 1960 là một chính sách đối phó
với tình hình cấp thiết nói trên. Từ giữa những năm 1950, chính sách hiện đại
hóa SMEs đã được phản ánh trong Chương trình cho vay vốn hiện đại hóa
trang thiết bị (1954) và Luật về tài chính và các biện pháp khác nhằm trợ giúp
các doanh nghiệp vừa và nhỏ (1956), theo đó Chính phủ trung ương có thể
cho phép các chính quyền địa phương thực hiện cho vay đối với SMEs. Ngoài
các ngành dệt và chế tạo máy được xem xét riêng, quá trình hiện đại hóa trang
thiết bị trong các ngành công nghiệp khác cũng được thúc đẩy một cách có hệ
thống thông qua Luật xúc tiến hiện đại hóa các doanh nghiệp vừa và nhỏ
(1963). Theo luật này, các biện pháp cấp vốn và thuế được thực hiện một
cách có hệ thống và có tổ chức hơn so với trước đây nhằm hiện đại hóa các
trang thiết bị và thống nhất các doanh nghiệp (tăng quy mô doanh nghiệp),
trong khuôn khổ các kế hoạch được soạn ra đối với từng ngành. Cuối cùng,
định hướng cơ bản trong chính sách đối với SMEs và các biện pháp chính
sách cần thiết đã được công bố một cách có hệ thống trong Luật cơ bản về các
doanh nghiệp vừa và nhỏ (1963), theo đó các luật khác như Luật hướng dẫn
các doanh nghiệp vừa và nhỏ, Luật tài trợ cho quá trình hiện đại hóa các

T¹ Phóc §êng

Líp: QLKT 46A


Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp

19


doanh nghiệp vừa và nhỏ, và Luật hợp nhất công tư đầu tư kinh doanh nhỏ
được thông qua một cách thuận lợi ( tất cả đều vào năm 1963).
Nếu như vào những năm 1960, ưu tiên được dành cho vào hiện đại hóa
trang thiết bị ở các doanh nghiệp riêng rẽ, thì sang những năm 1970 các chính
sách cải thiện cơ cấu được thực hiện nhằm hiện đại hóa toàn bộ các nghành
công nghiệp, với trọng tâm là phát triển các sản phẩm và công nghệ mới, thúc
đẩy quá trình hình thành nguồn nhân lực, và các biện pháp khác nhằm gia
tăng ”hàm lượng tri thức”. Việc sửa đổi một số điều khoản trong Luật xúc tiến
hiện đại hóa các doanh nghiệp vừa và nhỏ là sự phản ánh những thay đổi
trong định hướng chính sách nói trên. Để thực hiện mục tiêu cải thiện cơ cấu,
Công ty xúc tiến kinh doanh nhỏ Nhật Bản đã được thành lập (1967) với chức
năng tư vấn và tài trợ cho SMEs.
Trong những năm 1970, những biến động lớn trong môi trường kinh tế đã
ảnh hưởng nặng nề đến SMEs. Đó là sự phá giá đồng đô la, sự lên giá của
đồng Yên và sự suy giảm tương đối sức cạnh tranh với hàng hóa của các nước
đang phát triển. Để giúp SMEs đối phó lại tình trạng này, chính sách điều
chỉnh công nghiệp đã được áp dụng nhằm thúc đẩy những thay đổi trong
hướng hoạt động kinh doanh của SMEs. Mặt khác, trong bối cảnh các doanh
nghiệp lớn có xu hướng xâm nhập lãnh địa hoạt động của SMEs, các chính
sách hạn chế cạnh tranh đã được đưa ra với việc thông qua một loạt các đạo
luật nhằm hạn chế sự xâm nhập này. Đó là Luật doanh nghiệp bán lẻ lớn
(Luật liên quan đế điều tiết hoạt động bán lẻ của các doanh nghiệp bán lẻ lớn,
1973) và Luật cơ hội công nghiệp (Luật đảm bảo cơ hội kinh doanh cho các
doanh nghiệp vừa và nhỏ thông qua điều tiết hoạt động kinh doanh của các
doanh nghiệp lớn, 1977).

T¹ Phóc §êng

Líp: QLKT 46A



Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp

20

2.2. NỘI DUNG CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
CỦA NHẬT BẢN TỪ SAU CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ 2

Việc điểm qua lịch sử hình thành và phát triển của các chính sách phát
triển SMEs trên đây cho thấy các chính sách này có nội dung khá đa dạng.
Phần trình bày dưới đây sẽ phân loại các chính sách này dựa theo trọng tâm
và các công cụ thực hiện của chúng.
Trước tiên, chính sách có thể chia ra thành hai nhóm: một nhóm tập trung
vào toàn bộ SMEs nói chung ( chính sách chung hoặc chính sách cơ bản), và
nhóm kia bao gồm các chính sách đối với các nhóm SMEs riêng biệt (chính
sách đặc thù).
2.2.1. Mục tiêu của các chính sách
Mục tiêu của các chính sách chung là giúp cho SMEs có thể tồn tại bằng
cách thủ tiêu các yếu tố bất lợi bắt nguồn từ thất bại trên các thị trường lao
động, vốn, hàng hóa, và thông tin. Các chính sách này bao gồm: các chính
sách về lao động nhằm hỗ trợ cho sự phát triển kỹ năng thông qua đào tạo
nghề nghiệp và các chương trình khác; các chính sách tài chính như cấp vốn
thông qua các tổ chức tài chính chuyên trách của chính phủ đối với kinh
doanh nhỏ và chương trình đảm bảo tín dụng; các chính sách duy trì các giao
dịch thích hợp giữa các doanh nghiệp, chẳng hạn như biện pháp hạn chế các
doanh nghiệp lớn lạm dụng sức mạnh thị trường và tổ chức SMEs; và các
chính sách tư vần và hướng dẫn nhằm cung cấp thông tinh về công nghệ, thị
trường ,và quản lý. Các chính sách đặc thù bao gồm những chính sách tập
trung vào một ngành cụ thể, chẳng hạn như những chính sách hiện đại hóa

ngành đặc thù và các chính sách điều chỉnh công nghiệp đối với các ngành
gặp khủng hoảng về cơ cấu, và các chính sách đặt trọng tâm vào một dạng
doanh nghiệp cụ thể như doanh nghiệp có quy mô rất nhỏ hoặc các nhà thầu
phụ. Các chính sách đặc thù , về thực chất, là các biện pháp nhằm tới các mục

T¹ Phóc §êng

Líp: QLKT 46A


Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp

21

tiêu chính sách riêng biệt vào thời điểm nhất định, qua đó mà thực thi các
chính sách chung.
2.2.2. Nội dung của chính sách
Các công cụ chính sách bao gồm nhiều biện pháp khác nhau chẳng hạn
như các biện pháp tài chính, thuế, trợ cấp và điều tiết, biện pháp cung cấp
thông tin, và các hợp đồng mua sắm ưu đãi của chính phủ. Trên phương diện
tài chính, các khoản vốn với chi phí thấp được cung cấp thông qua việc phân
bổ các nguồn ngân sách chung và ngân sách tới các tổ chức tài trợ của chính
phủ đối với việc kinh doanh nhỏ và Công ty kinh doanh nhỏ Nhật Bản. Cùng
với các biện pháp chung nhằm giảm bớt gánh nặng thuế của các doanh nghiệp
sát nhập và các doanh nghiệp vừa và nhỏ, một chế độ khấu hao đặc biệt đối
với hiện đại hóa trang thiết bị và các biện pháp khác được áp dụng nhằm cung
ứng các khoản trợ cấp thông qua hệ thống thuế để đáp ứng các mục tiêu chính
sách cụ thể. Trợ cấp trực tiếp được dành cho các tổ chức công cộng ở địa
phương và các hiệp hội SMEs nhằm phục vụ các hoạt động tài trợ tư vấn.
Biện pháp điều tiết được sử dụng như là một công cụ chính sách nhằm đối

phó với sự lạm dụng sức mạnh thị trường của các doanh nghiệp lớn và sự
thâm nhập của các doanh nghiệp này vào các khu vực do SMEs kiểm soát,
cũng như phục vụ cho các hoạt động điều chỉnh (các cacten) trong các hiệp
hội SMEs. Biện pháp cung cấp thông tin bao gồm việc soạn thảo các kế hoạch
hiện đại hóa thông tin bao gồm việc soạn thảo các kế hoạch hiện đại hóa của
từng ngành và các Tầm nhìn. Cùng với việc cung cấp thông tin về công nghệ,
thị trường và quản lý. Các chính sách liên quan đến cầu được áp dụng để đảm
bảo cho các hợp đồng mua sắm sản phẩm của SMEs, do các chính quyền
trung ương và địa phương thực hiện; Luật mua sắm công cộng ( Luật bảo đảm
cho các doanh nghiệp và các tổ chức hoạt động khác.1966) được soạn thảo

T¹ Phóc §êng

Líp: QLKT 46A


Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp

22

nhằm cho phép SMEs nhận được các hợp đồng như vậy. Phần sau đây sẽ đề
cập chi tiết, cụ thể hơn từng công cụ chính sách.
2.2.2.1. Ban hành luật đặc biệt
Ngay từ giữa những năm 1950, chính sách hiện đại hóa SMEs đã được thể
hiện trong Chương trình cho vay vốn hiện đại hóa trang thiết bị (1954),
Luật về tài chính và các biện pháp nhằm hỗ trợ SMEs (1956) và Luật xúc
tiến hiện đại hóa SMEs (1963). Tuy nhiên, chỉ khi Bộ luật cơ bản về các
SMEs ra đời năm 1963 thì các biện pháp chính sách và công cụ chính sách
đối với SMEs mới được công bố một cách có hệ thống. Kèm theo đó, các
luật khác như Luật Hướng dẫn đối với SMEs, Luật Tài trợ cho quá trình

hiện đại hóa SMEs, Luật Hợp nhất công ty đầu tư kinh doanh nhỏ cũng đã
được thông qua. Mục tiêu của những biện pháp đối với SMEs được khẳng
định trong Bộ luật năm 1963 là:
- Sửa chữa những bất lợi của SMEs so hạn chế về mặt kinh tế và xã hội;
- Khuyến khích sáng kiến của SMEs;
- Xóa bỏ những bất bình đẳng trong sản xuất kinh doanh nhằm thúc
đẩy sự phát triển của SMEs, cải thiện vị thế kinh tế và xã hội của người lao
động tại các SMEs.
Đáng chú ý là nếu như vào những năm 1960, các biện pháp chính sách
đối với SMEs thường nhằm vào việc hiện đại hóa trang thiết bị ở các doanh
nghiệp riêng rẽ thì vào những năm 1970, các biện pháp chính sách lại được áp
dụng nhằm hiện đại hóa toàn bộ các ngành công nghiệp, với trọng tâm là phát
triển các sản phẩm và công nghệ mới, đồng thời khuyến khích gia tăng hàm
lượng tri thức và khoa học công nghệ của sản phẩm làm ra. Việc sửa đổi một
số điều khoản trong Luật Xúc tiến hiện đại hóa SMEs (lần thứ 3, vào năm
1973) là sự phản ánh những thay đổi trong định hướng chính sách nói trên.
Theo đó, Luật này đã bổ sung điều khoản tập trung vào việc phát triển nguồn

T¹ Phóc §êng

Líp: QLKT 46A


Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp

23

nhân lực quản lý phục vụ phát triển các sản phẩm và công nghệ mới. Nhờ
những chính sách này, các SMEs của Nhật đã không những đứng vững trên
thị trượng trong nước mà còn có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế,

đóng góp dáng kể vào sự phát triển nhảy vọt của Nhật Bản trong những năm
1970.
2.2.2.2. Biện pháp thuế
Hỗ trợ các SMEs thông qua công cụ thuế được coi là một trong những
biện pháp quan trọng ở Nhật Bản trong thời kỳ sau chiến tranh và thực hiện
công nghiệp hóa. Tuy nhiên, những chế độ về thuế cụ thể lại được áp dụng
một cách linh hoạt, tùy thuộc vào từng biện pháp được áp dụng để khuyến
khích các SMEs. Chẳng hạn, để hỗ trợ những hộ kinh doanh cá thể và công ty
nhỏ, Chính phủ áp dụng cơ chế khấu trừ thuế thu nhập, hoặc giảm tỷ suất
thuế đánh vào những công ty này. Các biện pháp miễn thuế đối với SMEs để
giúp họ có thể thay đổi hoạt động kinh doanh được dựa trên Luật về các biện
pháp tạm thời nhằm chuyển hướng kinh doanh của SMEs( 2976) và Luật về
các biện pháp tạm thời đối với SMEs thuộc các ngành trì trệ (1978) và Luật
về các biện pháp tạm thời đối với SMEs (1979). Hay, để thúc đẩy việc đầu tư
thiết bị, đầu tư nghiên cứu thử nghiệm, áp dụng các biện pháp ngăn ngừa ô
nhiễm công nghiệp, các SMEs được hưởng chế độ khấu hao đặc biệt, khấu trừ
thuế, hoặc được miễn t huế đối với tài sản cố định…Do các biện pháp miễn
thuế được áp dụng như vậy mà trong năm tài chính 1980, nguồn thu thuế của
ngân sách Nhật Bản đã giảm đi 38 tỷ Yên do biện pháp miễn thuế áp dụng đối
với SMEs và 53 tỷ yên do thực hiện biện pháp khấu hao trong quá trình hiện
đại hóa trong thiết bị của SMEs.
Đặc biệt, để thúc đẩy các SMEs làm thầu phụ cho các doanh nghiệp lớn,
những doanh nghiệp nhỏ và vừa còn được hưởng chế độ miễn thuế hoạt
động . Nhờ biện pháp này, các doanh nghiệp nhỏ ngày càng có xu hướng

T¹ Phóc §êng

Líp: QLKT 46A



Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp

24

nhận đơn đặt hàng của các doanh nghiệp lớn hơn về quy mô để chế biến các
bộ phận hay để sản xuất các phụ kiện phục vụ cho sản xuất của các doanh
nghiệp lớn. Giao dịch giữa doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp nhận thầu phụ
khác với giao dịch thị trường đối với các loại sản phẩm là ở chỗ các SMEs gia
công những sản phẩm trên cơ sở doanh nghiệp lớn cung cấp những thông tin,
đặt hàng cụ thể về chất lượng, kiểu dáng và đặc điểm của sản phẩm đó. Cho
đến năm 1976, sự phụ thuộc của các doanh nghiệp lớn vào các hợp động phụ
tăng lên đáng kể và đạt tỷ trọng doanh thu là 32,9% trong ngành cơ khí vận
tải, 31,6% trong ngành cơ khí chính xác, 25,6% tổng ngành may mặc và dệt.
Bảng 3: Ngân sách dành cho chính sách đối với SMEs giai đoạn 19601980
(Đơn vị: Tỷ Yên)
1960

1965

1970

1975

1980

2186

22632

70413


12155

23086

1475

5141

3710

5467

8147

-

7060

26278

50183

92034

711

2431

6043


21976

40387

8000

11750

43931

90300

Ngân sách Chính phủ dành
cho SMEs, (1-4)
Trong đó:
1. Xúc tiến hiện đại hóa
2.Tổ chức phục vụ hiện đại
hóa
3. Hoạt động tư vấn đối với
SMEs
4. Các biện pháp tài trợ

T¹ Phóc §êng

Líp: QLKT 46A


Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp


25

Nguồn: Chính sách công nghiệp của Nhật Bản, Nhà xuất Bản Chính trị quốc
gia, 1999.
2.2.2.3. Tài trợ vốn
Trong thời kỳ công nghiệp hóa , các SMEs được hỗ trợ về mặt tài chính
thông qua nhiều hình thức khác nhau, thông qua việc Chính phủ hỗ trợ vốn
cho các tổ chức cung cấp dịch vụ tư vấn, cung cấp thông tin, đào tạo kỹ năng
cho SMEs hoặc những tổ chức tài chính chuyên trách của Chính phủ đối với
SMEs. Bảng trên cho thấy nếu như năm 1960, ngân sách Nhật Bản được dành
để thực hiện các biện pháp hỗ trợ SMEs là 2186 tỷ yên thì đến năm 1980, tức
sau 20 năm , con số này đã tăng lên gấp gần 106 lần, đạt 230868 tỷ yên.
Trong bảng này, ta thấy biện pháp xúc tiến hiện đại hóa SMEs bao gồm
việc hỗ trợ tài chính cho việc hiện đại hóa trang thiết bị, thúc đẩy hợp đồng
phụ, hiện đại hóa SME trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ. Trong khi đó,
nguồn ngân sách để tổ chức phục vụ hiện đại hóa SMEs được sử dụng vào
những khoản đầu tư và trợ cấp cho công ty kinh doanh nhỏ Nhật Bản. Ngân
sách phục vụ hoạt động tư vấn cho SMEs được dụng để hỗ trợ thực hiện giám
sát SMEs, tổ chức chương trình tư vấn, tư vấn kỹ thuật, thúc đẩy nghiên cứu
triển khai của các SMEs hay để tài trợ cho các chính sách về tổ chức. Ngoài
ra, ngân sách của chính phủ đối với SMEs còn được dùng để tài trợ cho
những khoản đầu tư, trợ cấp và cho vay đối với 3 tổ chức cấp vốn vay của
Chính phủ và các tổ chức bảo lãnh tín dụng đối với SMEs.
2.2.2.4. Cấp tín dụng theo chính sách
ở Nhật Bản, các SMEs được quyền vay tín dụng tại một số tổ chức tài
chính cung cấp tín dụng chính sách, như Công ty tài chính doanh nghiệp vừa
và nhỏ, Công ty tài chính nhân dân, Ngân hàng Shoko Chukin, Công ty kinh
donah nhỏ Nhật Bản. Đây là những tổ chức tài chính thuộc Nhà Nước, có
nhiệm vụ cung cấp tín dụng cho các SMEs để đầu tư thiết bị, hoặc để có vốn


T¹ Phóc §êng

Líp: QLKT 46A


×