Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Thời hạn tố tụng dân sự luận văn ths luật 60 38 30 pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1017.03 KB, 85 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN TRÍ TUYỂN

THỜI HẠN TỐ TỤNG DÂN SỰ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2014

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN TRÍ TUYỂN

THỜI HẠN TỐ TỤNG DÂN SỰ
Chuyên ngành : Luật dân sự
Mã số

: 60 38 30

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Công Bình

HÀ NỘI - 2014


2


Lời cam đoan

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn ch-a từng đ-ợc ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.

Tác giả luận văn

Nguyễn Trí Tuyển

3


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
1

MỞ ĐẦU

Chương 1:


NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỜI HẠN TỐ TỤNG

7

DÂN SỰ

1.1.

Khái niệm và ý nghĩa của thời hạn tố tụng dân sự

7

1.1.1. Khái niệm thời hạn tố tụng dân sự

7

1.1.2. Ý nghĩa của thời hạn tố tụng dân sự

10

1.2.

13

Cơ sở của việc pháp luật quy định về thời hạn tố tụng dân sự

1.2.1. Cơ sở lý luận của việc pháp luật quy định về thời hạn tố tụng

13


dân sự
1.2.2. Cơ sở thực tiễn của việc pháp luật quy định về thời hạn tố

16

tụng dân sự
1.3.

Sơ lược sự hình thành và phát triển các quy định của pháp

18

luật Việt Nam về thời hạn tố tụng dân sự
1.3.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1989

18

1.3.2. Giai đoạn từ năm 1989 đến năm 2004

20

1.3.3. Giai đoạn từ năm 2004 đến nay

22

Chương 2:

NỘI DUNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT


25

NAM HIỆN HÀNH VỀ THỜI HẠN TỐ TỤNG DÂN SỰ

2.1.

Thời hạn tố tụng dân sự trong thủ tục sơ thẩm

25

2.1.1. Thời hạn thụ lý đơn khởi kiện, yêu cầu giải quyết việc dân sự

25

2.1.2. Thời hạn chuẩn bị mở phiên tòa, phiên họp

29

2.1.3. Thời hạn tống đạt, thông báo các văn bản tố tụng

34

4


2.2.

Thời hạn tố tụng dân sự trong thủ tục phúc thẩm

39


2.2.1. Thời hạn kháng cáo, kháng nghị bản án, quyết định

39

2.2.2. Thời hạn chuẩn bị mở phiên tòa, phiên họp

46

2.2.3. Thời hạn tống đạt, thông báo các văn bản tố tụng

49

Chương 3:

THỰC TIỄN THỰC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP

53

LUẬT VỀ THỜI HẠN TỐ TỤNG DÂN SỰ VÀ KIẾN NGHỊ

3.1.

Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về thời hạn tố

53

tụng dân sự
3.1.1. Những kết quả đạt được trong việc thực hiện các quy định


53

của pháp luật về thời hạn tố tụng dân sự
3.1.2. Những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của hạn chế, bất cập

55

trong việc thực hiện các quy định của pháp luật Việt Nam về
thời hạn tố tụng dân sự
3.2.

Một số kiến nghị về hoàn thiện và thực hiện pháp luật Việt

68

Nam về thời hạn tố tụng dân sự
3.2.1. Kiến nghị về việc hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt

68

Nam về thời hạn tố tụng dân sự
3.2.2. Kiến nghị thực hiện các quy định của pháp luật Việt Nam về

72

thời hạn tố tụng dân sự
KẾT LUẬN

75


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

77

5


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLDS

: Bộ luật dân sự

BLTTDS

: Bộ luật tố tụng dân sự

TAND

: Tòa án nhân dân

TANDTC

: Tòa án nhân dân tối cao

6


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sinh thời Bác Hồ có dạy mỗi cán bộ, công chức của ngành Tòa án

phải thực sự là người "phụng công, thủ pháp, chí công, vô tư", phải "hiểu dân,
gần dân, giúp dân và học dân". Hưởng ứng lời dạy đó ngày nay cả nước, đặc
biệt là các cán bộ công chức ngành Tòa án đang tích cực tham gia vào cuộc
vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Mặc dù còn
nhiều khó khăn thách thức nhưng với những nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân
và toàn quân, nền kinh tế của đất nước ta trong những năm qua không ngừng
phát triển, đạt được những thành tựu quan trọng: an ninh chính trị, trật tự xã
hội cũng không ngừng được giữ vững; văn hóa nghệ thuật được duy trì, bảo
tồn và phát huy…tất cả đã tạo nên một nước Việt Nam "dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh", một nước Việt Nam có uy tín và vị thế
cao trong khu vực và trên trường quốc tế. Có thể khẳng định với những thành
tựu quan trọng này đáng để nhân dân ta tự hào và tin tưởng vào đường lối đổi
mới đúng đắn của Đảng và sự phát triển của đất nước ta.
Trong những năm qua, mặc dù còn gặp nhiều khó khăn, nhất là đội
ngũ cán bộ còn thiếu, cơ sở vật chất và phương tiện còn nghèo nàn, trong khi
số lượng các vụ án phải giải quyết ngày một gia tăng, ngành Tòa án đã hoàn
thành tốt các chỉ tiêu công tác đề ra, đồng thời tích cực triển khai thực hiện
nhiệm vụ cải cách tư pháp như nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa,
khẩn trương hoàn thành việc giao thẩm quyền xét xử mới cho Tòa án cấp
huyện, tăng cường công tác giải quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo của công
dân… Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của xã hội, các tranh chấp về dân sự,
hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động đang gia tăng không
ngừng với tính chất ngày càng đa dạng và phức tạp, trong khi đó, vì nhiều

7


nguyên nhân khác nhau mà việc xây dựng, củng cố và kiện toàn đội ngũ cán
bộ, công chức Tòa án chưa đáp ứng được yêu cầu xét xử trong tình hình mới
của cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế. Mặt khác, nhiều quy định của pháp

luật tố tụng dân sự còn mang tính chung chung, thậm chí xa rời với đời sống
thực tiễn…chính điều đó đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng xét xử
vụ án, gây ra tình trạng các bản án, quyết định của Tòa án không khách quan,
án tồn đọng còn nhiều, ảnh hưởng lớn đến quyền lợi của các chủ thể, gây mất
lòng tin của nhân dân. Đứng trước tình hình đó, vấn đề cấp bách đặt ra là phải
hoàn thiện và xây dựng hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật tố tụng dân
sự nói riêng sao cho thống nhất, đồng bộ và khả thi trong thực tế mà một
trong số đó là các quy định về thời hạn tố tụng trong tố tụng dân sự.
Việc xác định thời hạn tố tụng có ý nghĩa hết sức quan trọng không
chỉ trong việc bảo vệ quyền lợi chính đáng của các chủ thể, là căn cứ để Tòa
án giải quyết vụ việc dân sự được nhanh chóng, kịp thời, chính xác mà việc
xác định thời hạn tố tụng còn có ý nghĩa trong việc nâng cao trách nhiệm của
các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng
và những người liên quan trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng.
Tuy nhiên, một số quy định về thời hạn tố tụng trong Bộ luật Tố tụng dân sự
(BLTTDS) và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS đã bộc lộ
những hạn chế, bất cập cần được nghiên cứu, xem xét sửa đổi một cách tổng
thể cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn. Chính vì những lý do nêu trên, tác
giả đã mạnh dạn lựa chọn đề tài "Thời hạn tố tụng dân sự" làm đề tài luận
văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ trước đến nay đã có một số công trình nghiên cứu về tố tụng dân
sự ít nhiều đề cập đến thời hạn tố tụng dân sự ở các mức độ khác nhau. Về đề
tài nghiên cứu khoa học có công trình nghiên cứu cấp Bộ "Một số vấn đề về

8


cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng Bộ luật Tố tụng dân sự" do Tòa
án nhân dân tối cao (TANDTC) thực hiện năm 1996; công trình nghiên cứu

cấp Bộ "Những quan điểm cơ bản về Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam" do
Viện Nhà nước và Pháp luật thuộc Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn
Quốc gia thực hiện năm 2001. Về giáo trình, có Giáo trình Luật Tố tụng dân
sự Việt Nam, trường Đại học Luật Hà Nội, Nhà xuất bản Công an nhân dân,
2011; Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam, Nhà xuất bản Giáo dục,
2011; Giáo trình Luật Tố tụng dân sự, Học viện Tư pháp, Nhà xuất bản Công
an nhân dân, 2007. Về luận văn cao học có Hoàn thiện chế định khởi kiện và
thụ lý vụ án dân sự trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, Luận văn Thạc
sĩ luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội của Nguyễn Thu Hiền,
2012. Trong quá trình xây dựng và sau khi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của BLTTDS được ban hành, đã có nhiều cuộc hội thảo được tổ chức có các
bài tham luận liên quan như "Hội thảo về Luật sửa đổi, bổ sung Bộ luật Tố
tụng dân sự" do TANDTC tổ chức tại Sa Pa ngày 29 và 30/01/2010; bài
"Những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo trong việc sửa đổi, bổ sung một số điều
của Bộ luật Tố tụng dân sự" của Phạm Quý Tỵ, đăng trên tạp chí Kiểm sát số
12/2011... Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu, bài viết của các tác giả
nêu trên chỉ nghiên cứu, đề cập đến một hoặc một số vấn đề của thời hạn tố
tụng dân sự. Cho đến nay, nhất là từ sau khi có Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của BLTTDS chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu một cách đầy
đủ, toàn diện các vấn đề về lý luận và thực tiễn về thời hạn tố tụng trong tố
tụng dân sự Việt Nam.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Đối tượng nghiên cứu đề tài là những vấn đề lý luận về thời hạn tố
tụng dân sự, các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về thời hạn tố
tụng dân sự và thực hiện các quy định này tại các Tòa án Việt Nam.

9


Phạm vi nghiên cứu đề tài: "Thời hạn tố tụng dân sự" là một đề tài

có nội dung rất rộng. Tuy nhiên do giới hạn của luận văn thạc sĩ và điều kiện
thời gian nghiên cứu nên việc nghiên cứu chỉ tập trung vào một số vấn đề lý
luận cơ bản về thời hạn tố tụng dân sự như khái niệm và ý nghĩa của thời hạn
tố tụng dân sự, các quy định của BLTTDS, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của BLTTDS và các văn bản hướng dẫn thi hành về thời hạn tố tụng dân sự ở
Tòa án nhân dân (TAND) cấp sơ thẩm, phúc thẩm và thực tiễn áp dụng các
quy định này trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự tại các Tòa án đó trong
những năm gần đây.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm rõ một số vấn đề lý luận về
thời hạn tố tụng dân sự; nội dung các quy định của pháp luật Việt Nam hiện
hành về thời hạn tố tụng dân sự và thực tiễn thực hiện các quy định này tại
Tòa án. Qua việc nghiên cứu nhận diện, phát hiện những hạn chế, bất cập
trong các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về thời hạn tố tụng từ
đó tìm ra nguyên nhân và giải pháp khắc phục để góp phần nâng cao hiệu quả
công tác xét xử của Tòa án, bảo vệ tối đa quyền và lợi ích chính đáng của các
chủ thể khi bị xâm phạm.
Xuất phát từ mục đích nêu trên, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài là
nghiên cứu những vấn đề lý luận về thời hạn tố tụng dân sự, nhất là thời hạn
tố tụng dân sự ở cấp sơ thẩm và phúc thẩm, các quy định của pháp luật hiện
hành về thời hạn tố tụng và khảo sát việc thực hiện các quy định này tại các
Tòa án.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn được hoàn thành trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ
Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt
Nam về cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

10



Phương pháp nghiên cứu của luận văn là đi từ lý luận đến thực tiễn,
dùng thực tiễn để kiểm chứng lý luận. Quá trình nghiên cứu luận văn, tác giả
cũng đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học pháp lý truyền thống
như phương pháp thống kê, phân tích, khảo sát, tổng hợp, so sánh... để thực
hiện đề tài. Để chứng minh cho các luận điểm của mình, tác giả cũng đã sử
dụng các số liệu thống kê của ngành TAND và lựa chọn một số vụ án đã được
các Tòa án cấp huyện xét xử làm ví dụ minh họa.
6. Những điểm mới về khoa học của luận văn
Đây là công trình nghiên cứu khoa học pháp lý có tính hệ thống về
những vấn đề liên quan đến thời hạn tố tụng dân sự (ở cấp sơ thẩm và phúc
thẩm) giúp các độc giả, đặc biệt là những người đang làm công tác thực tiễn
hiểu biết sâu sắc hơn về thời hạn tố tụng. Những điểm mới về khoa học của
luận văn thể hiện ở những điểm cơ bản sau:
- Hoàn thiện khái niệm thời hạn tố tụng dân sự và phân tích khoa học
ý nghĩa của thời hạn tố tụng dân sự.
- Phân tích làm rõ nội dung các quy định của pháp luật tố tụng dân sự
Việt Nam hiện hành về thời hạn tố tụng dân sự.
- Đánh giá đúng thực trạng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự
Việt Nam hiện hành về thời hạn tố tụng dân sự và thực tiễn thực hiện tại các
Tòa án.
- Đề xuất những giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện và thực hiện các
quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về thời hạn tố tụng dân sự.
Luận văn là một công trình nghiên cứu khoa học nghiêm túc, trong
một chừng mực nhất định có thể làm tài liệu tham khảo cho những người
nghiên cứu chuyên sâu về tố tụng dân sự và cho các cán bộ làm công tác thực
tiễn (Thẩm phán, Luật sư, Trợ giúp viên pháp lý...) trong việc hiểu biết một
cách sâu sắc, đầy đủ và vận dụng đúng đắn các quy định của pháp luật khi áp
dụng chế định thời hạn tố tụng trong tố tụng dân sự Việt Nam.


11


7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về thời hạn tố tụng dân sự.
Chương 2: Nội dung các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành
về thời hạn tố tụng dân sự.
Chương 3: Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về thời hạn
tố tụng dân sự và kiến nghị.

12


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỜI HẠN TỐ TỤNG DÂN SỰ

1.1. KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA CỦA THỜI HẠN TỐ TỤNG DÂN SỰ

1.1.1. Khái niệm thời hạn tố tụng dân sự
Pháp luật là một hệ thống các quan hệ đa dạng và phức tạp, khi tham
gia vào các quan hệ xã hội đó, các chủ thể phải thực hiện đúng các quyền và
nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật. Việc một chủ thể không thực
hiện hoặc thực hiện không đúng quyền và nghĩa vụ của mình mà luật đã định
có thể sẽ xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác và điều
này sẽ dẫn đến tranh chấp quyền và lợi ích giữa các chủ thể trong một hoặc
nhiều quan hệ pháp luật dân sự.
Để duy trì, bảo đảm trật tự pháp luật, Nhà nước thiết lập một cơ chế
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong trường hợp quyền của

họ bị các chủ thể pháp luật dân sự khác xâm phạm. Theo đó, cá nhân, cơ
quan, tổ chức hay các chủ thể khác của pháp luật có quyền, lợi ích hợp pháp
bị xâm phạm thì có quyền sử dụng các biện pháp luật định để bảo vệ quyền,
lợi ích dân sự của mình. Do vậy, khi chủ thể yêu cầu bảo vệ quyền, lợi ích
dân sự hợp pháp của mình thì Tòa án phải xem xét thụ lý giải quyết để bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của người yêu cầu. Tuy nhiên, việc giải quyết các vụ
việc dân sự này phải tuân theo trình tự, thủ tục pháp luật nhất định. Trong
khoa học pháp lý chúng ta gọi trình tự, thủ tục luật định đó là tố tụng dân sự
và những hoạt động của các chủ thể nêu trên trong quá trình tiến hành giải
quyết vụ việc dân sự theo quy định của pháp luật được gọi là hoạt động tố
tụng dân sự. Theo quy định tại Điều 1 BLTTDS thì tố tụng dân sự bao gồm
việc khởi kiện, thụ lý, hòa giải, chuẩn bị xét xử, xét xử sơ thẩm, xét xử phúc
thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm và thi hành bản án, quyết định của Tòa án.

13


Trước đây, khi BLTTDS chưa được ban hành, trong tất cả các văn bản
pháp luật về tố tụng dân sự hầu như chưa có khái niệm về vụ việc dân sự mà
chỉ có khái niệm về vụ án dân sự. Khái niệm vụ án dân sự được hiểu là tất cả
những loại việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, không phân biệt đó
là vụ án thuộc loại gì và thuộc đối tượng điều chỉnh của ngành luật nội dung
nào. Điều này được thể hiện ngay tại Điều 1 Luật Tổ chức TAND năm 2002,
theo đó: "Tòa án xét xử những vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình,
lao động, kinh tế, hành chính và giải quyết những việc khác theo quy định của
pháp luật". Ngay Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989,
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994 cũng đều xác định
gọi tên chung của những loại việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án là
các vụ án, không có sự phân biệt vụ việc có tranh chấp hay không có tranh
chấp. Khi BLTTDS được ban hành, tại Điều 1 Bộ luật này đã có sự phân biệt

giữa các vụ việc có tranh chấp và vụ việc không có tranh chấp. Theo đó, vụ
việc dân sự bao gồm vụ án dân sự và việc dân sự. Vụ án dân sự là việc có
tranh chấp về quyền, nghĩa vụ dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh, thương
mại hoặc lao động giữa các bên. Việc dân sự là việc không có tranh chấp giữa
các bên nhưng có yêu cầu Tòa án công nhận hoặc không công nhận một sự
kiện pháp lý là căn cứ để làm phát sinh hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự
hoặc yêu cầu Tòa án công nhận cho mình một quyền dân sự.
Việc giải quyết các vụ việc dân sự tiến hành nhanh chóng sẽ giải
quyết được tranh chấp, bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể.
Để thực hiện được điều này thì mỗi hành vi của người tiến hành tố tụng,
người tham gia tố tụng hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức liên quan đều phải tiến
hành trong một khoảng thời gian nhất định.
Theo Đại từ điển Tiếng Việt của Nguyễn Như Ý thì: "Thời hạn là khoảng
thời gian quy định để làm xong hoặc chấm dứt việc nào đó" [33, tr. 1530];
theo Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn Ngữ, Viện Khoa học - Xã hội - Nhân

14


văn thì: "Thời hạn là khoảng ngày giờ có giới hạn, có định trước, không
được quá" [32, tr. 962]; trong khi đó cuốn Từ điển Từ và Ngữ Việt Nam của
GS. Nguyễn Lân lại giải thích thời hạn là "khoảng thời gian có giới hạn nhất
định để làm việc gì" [10, tr. 1764]. Như vậy có thể thấy về mặt nội hàm thì
các từ điển đều giải thích thời hạn là một khoảng thời gian để làm hoặc chấm
dứt một công việc nhất định.
Dưới góc độ pháp lý, Điều 149 Bộ luật dân sự (BLDS) năm 2005 quy
định, thời hạn là một khoảng thời gian được xác định từ thời điểm này đến
thời điểm khác. Thời hạn có thể được xác định bằng phút, giờ, tuần, ngày,
tháng, năm hoặc bằng một sự kiện có thể xảy ra. Xác định thời hạn nhằm mục
đích xác định một công việc, một hành vi nhất định được thực hiện như thế

nào về mặt thời gian.
Là một loại thời hạn, trước hết thời hạn tố tụng dân sự cũng có những
nội dung của thời hạn nói chung [8, tr. 232]. Khoản 1 Điều 157 BLTTDS quy
định thời hạn tố tụng là một khoảng thời gian được xác định từ thời điểm này
đến thời điểm khác để người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng hoặc
cá nhân, cơ quan, tổ chức liên quan thực hiện hành vi tố tụng do BLTTDS
quy định.
Trong tố tụng dân sự, thời hạn tố tụng là khoảng thời gian được xác
định gắn liền với toàn bộ trình tự, thủ tục giải quyết vụ án dân sự, bắt đầu từ
khi Tòa án nhận đơn khởi kiện hoặc đơn yêu cầu giải quyết việc dân sự và kết
thúc khi vụ việc được giải quyết xong. Toàn bộ trình tự giải quyết vụ việc dân
sự lại bao gồm nhiều thủ tục tố tụng, nhiều giai đoạn tố tụng khác nhau. Mỗi
thủ tục, mỗi giai đoạn tố tụng lại có quy định thời hạn tố tụng cụ thể (ví dụ
giai đoạn khởi kiện và thụ lý vụ án có quy định riêng về thời hạn thực hiện.
Trong giai đoạn khởi kiện và thụ lý lại quy định thời hạn để thực hiện từng
thủ tục, như từ lúc nhận đơn đến khi thông báo cho đương sự bổ sung các
chứng cứ, tài liệu theo quy định của pháp luật tố tụng phải thực hiện trong bao

15


lâu. Hoặc từ khi đương sự hoàn tất thủ tục khởi kiện đến khi Tòa án thụ lý vụ
việc thì thời gian được quy định như thế nào).
Thời hạn trong tố tụng dân sự có điểm khác biệt với thời hạn trong
luật dân sự [27, tr. 211]. Thời hạn dân sự có thể do pháp luật quy định hoặc
được xác lập trên cơ sở sự thỏa thuận của các đương sự trong khi đó thời hạn
tố tụng dân sự chỉ do pháp luật quy định hoặc do người có thẩm quyền của
các cơ quan tiến hành tố tụng ấn định theo quy định của pháp luật, các đương
sự và những người khác nói chung không có quyền thỏa thuận xác lập thời
hạn tố tụng. Điểm khác biệt nữa là nếu thời hạn dân sự theo thời gian liên tục

thì thời hạn tố tụng dân sự có thể bị gián đoạn bởi các ngày nghỉ của các cán
bộ, công chức viên chức như ngày thứ bảy, chủ nhật hoặc các ngày lễ, tết. Lý
do là bởi các hoạt động tố tụng được thực hiện phải thông qua các cơ quan
tiến hành tố tụng. Hơn nữa hoạt động tố tụng dân sự thường diễn ra ban ngày
để đảm bảo tính công khai, minh bạch của việc giải quyết vụ việc dân sự nên
thời hạn tố tụng được tính bằng ngày, tháng, năm là chủ yếu, ít khi thời hạn tố
tụng được tính bằng giờ như thời hạn dân sự.
Từ những vấn đề nêu trên, có thể kết luận: Thời hạn tố tụng dân sự là
một khoảng thời gian được xác định từ thời điểm này đến thời điểm khác để
người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng hoặc cá nhân, cơ quan, tổ
chức liên quan thực hiện hành vi theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
1.1.2. Ý nghĩa của thời hạn tố tụng dân sự
Pháp luật quy định thời hạn tố tụng dân sự không chỉ xác định thời
gian giải quyết xong một vụ việc dân sự mà còn xác định từng công việc phải
làm trong từng khoảng thời gian nhất định. Bởi thế thời hạn tố tụng dân sự
không chỉ có ý nghĩa đơn thuần về mặt thời gian mà còn là những mốc để
người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng hoặc cá nhân, cơ quan, tổ
chức có liên quan đến quá trình tố tụng xác định những công việc mà các chủ
thể này phải làm đã được thực hiện và thực hiện xong hay chưa. Thời hạn tố

16


tụng dân sự được xác định bằng giờ, ngày, tuần, tháng, năm hoặc bằng một sự
kiện có thể xảy ra.
Ví dụ 1: Khoản 1 Điều 172 BLTTDS quy định trong thời hạn ba ngày
làm việc kể từ ngày thụ lý vụ án, Chánh án Tòa án phân công một Thẩm phán
giải quyết vụ án [18].
Ví dụ 2: Khoản 1 Điều 208 BLTTDS quy định thời hạn hoãn phiên
tòa dân sự sơ thẩm không quá ba mươi ngày, kể từ ngày ra quyết định hoãn

phiên tòa [18].
Từ đó cho thấy thời hạn tố tụng dân sự có những ý nghĩa cơ bản sau:
Thứ nhất, xác định từng công việc phải làm trong từng khoảng thời
gian nhất định.
Ví dụ: Trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn
khởi kiện, Tòa án phải xem xét và ra một trong số các quyết định sau: tiến
hành thủ tục thụ lý vụ án nếu vụ án thuộc thẩm quyền của mình hoặc chuyển
đơn khởi kiện cho Tòa án có thẩm quyền và báo cho người khởi kiện, nếu vụ án
thuộc thẩm quyền của Tòa án khác hoặc trả lại đơn khởi kiện cho người khởi
kiện, nếu việc đó không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án (Điều 167
BLTTDS); Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán được phân công
phụ trách giải quyết vụ án bắt buộc phải tiến hành hòa giải, trừ các vụ án
không được hòa giải (Điều 181 BLTTDS) hoặc không tiến hành hòa giải được
(Điều 182 BLTTDS).
Thứ hai, nâng cao trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng và những người liên quan
trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của họ làm cho việc giải
quyết vụ việc dân sự được nhanh chóng, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của
đương sự.
Thụ lý vụ án và giải quyết vụ án là trách nhiệm của Tòa án khi đương
sự khởi kiện; cấp, tống đạt, thông báo các văn bản, quyết định tố tụng là trách

17


nhiệm của Tòa án, của Thẩm phán phụ trách. BLTTDS đã có những quy định
cụ thể về thời hạn để Tòa án, Thẩm phán tiến hành các hoạt động này tại các
giai đoạn tố tụng khác nhau. Việc giải quyết vụ án được nhanh chóng, kịp
thời, chính xác không chỉ có ý nghĩa đối với riêng đương sự (tiết kiệm thời
gian, công sức, tiền bạc, bảo vệ được quyền lợi chính đáng), mà còn rất có ý

nghĩa với chính Tòa án, đặc biệt niềm tin của người dân đối với ngành Tòa án
được củng cố. Trong những năm gần đây, tình trạng án bị hủy, bị sửa, án quá
hạn có xu hướng giảm nhẹ hoặc không tăng thể hiện sự cố gắng, nỗ lực rất
lớn của ngành Tòa án. Để duy trì được tỷ lệ này và xa hơn nữa là giảm tỷ lệ
án bị hủy, sửa, quá hạn thì nâng cao trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng là một trong những yếu tố then chốt.
Ví dụ: Điều 174 BLTTDS quy định trong thời hạn ba ngày làm việc
kể từ ngày thụ lý vụ án, Tòa án phải thông báo bằng văn bản cho bị đơn, cá
nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc giải quyết vụ
án, cho Viện kiểm sát cùng cấp về việc Tòa án đã thụ lý vụ án [18]. BLTTDS
quy định là trong thời hạn ba ngày làm việc kể từ ngày thụ lý vụ án có nghĩa
là Tòa án có thể gửi thông báo ngay khi ra quyết định thụ lý vụ án; Tòa án
cũng có thể gửi vào ngày hôm sau hoặc ngày cuối cùng của thời hạn ba ngày
đều không sai luật. Tuy nhiên, khi đã nhận thức được trách nhiệm của mình,
nhận thức được ý nghĩa của việc giải quyết vụ án nhanh chóng… như đã phân
tích ở trên thì Tòa án sẽ phải thông báo trong khoảng thời gian ngắn nhất
trong thời hạn ba ngày.
Thứ ba, xác định trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng, người
tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng và những người liên quan trong
trường hợp họ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ và quyền
hạn của họ trong thời hạn tố tụng cụ thể.
Ví dụ: Nhận đơn khởi kiện là hành vi tố tụng có ý nghĩa bắt đầu xác
định trách nhiệm giải quyết yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện. Về

18


nguyên tắc, người khởi kiện gửi đơn khởi kiện thì Tòa án phải có trách nhiệm
nhận đơn. Còn việc đơn có hợp pháp hay không, có đủ tài liệu chứng cứ kèm
theo hay không thì luật đã quy định thời hạn để xem xét vấn đề này là năm

ngày kể từ ngày nhận đơn. Mặt khác, chỉ khi nhận đơn (vào sổ) mới phát sinh
trách nhiệm xem xét tính hợp pháp của đơn của người khởi kiện. Vì vậy, cán
bộ Tòa án có nhiệm vụ nhận đơn không thể từ chối nhận đơn của người khởi
kiện khi chưa nhận và vào sổ nhận đơn.
Người khởi kiện có quyền khởi kiện tuy nhiên người khởi kiện cũng
có trách nhiệm là phải đưa ra tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho việc khởi
kiện của mình là có căn cứ và hợp pháp. Khoản 4 Điều 79 BLTTDS quy định:
"Đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra
được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì phải chịu hậu quả của việc
không chứng minh được hoặc chứng minh không đầy đủ đó" [18].
1.2. CƠ SỞ CỦA VIỆC PHÁP LUẬT QUY ĐỊNH VỀ THỜI HẠN TỐ
TỤNG DÂN SỰ

1.2.1. Cơ sở lý luận của việc pháp luật quy định về thời hạn tố
tụng dân sự
Quyền và lợi ích của các chủ thể là một vấn đề rất quan trọng, đảm
bảo tốt được quyền và lợi ích của các chủ thể sẽ là động lực to lớn để các chủ
thể tham gia vào các quan hệ xã hội, các giao dịch dân sự. Khi quyền và lợi
ích hợp pháp bị xâm hại, các chủ thể có thể sử dụng nhiều biện pháp trong đó
khởi kiện vụ án dân sự hoặc làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết việc dân sự là
công cụ pháp lý hữu hiệu nhất.
Việc giải quyết các vụ việc dân sự tiến hành nhanh chóng sẽ sớm giải
quyết được tranh chấp, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Để thực hiện được điều này thì mỗi hành vi tố tụng của người tiến hành tố
tụng, người tham gia tố tụng hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức liên quan đều
phải tiến hành trong một khoảng thời gian nhất định, khoảng thời gian này

19



được gọi là thời hạn tố tụng. Thời hạn tố tụng là một khoảng thời gian được
xác định từ thời điểm này đến thời điểm khác để người tiến hành tố tụng,
người tham gia tố tụng hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức liên quan thực hiện
hành vi theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Các loại thời hạn tố tụng
gồm có: thời hạn giao nộp chứng cứ; thời hạn xem xét đơn khởi kiện; thời hạn
chuẩn bị xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm; thời hạn kháng
cáo, kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án; thời hạn cấp, tống đạt và
thông báo các văn bản tố tụng; thời hạn khiếu nại, giải quyết khiếu nại trong
tố tụng dân sự v.v…
Cơ sở lý luận của việc pháp luật quy định về thời hạn tố tụng dân sự
nằm ở những điểm sau:
- Khi quyền và lợi ích chính đáng của các chủ thể bị xâm phạm, các
chủ thể có quyền sử dụng các biện pháp để bảo vệ như: tự bảo vệ; yêu cầu
công nhận quyền dân sự của mình; yêu cầu chủ thể vi phạm chấm dứt hành vi
vi phạm; buộc xin lỗi, cải chính công khai; buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự;
yêu cầu bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên khi các biện pháp nêu trên không phát
huy hiệu quả thì các chủ thể quyền chỉ còn sự lựa chọn tối ưu nhất là khởi
kiện hoặc yêu cầu Tòa án giải quyết vụ việc dân sự. Lúc này các quy định của
pháp luật tố tụng nói chung và các quy định về thời hạn tố tụng dân sự nói
riêng sẽ chính là công cụ pháp lý hữu hiệu để các chủ thể có thể bảo vệ quyền
và lợi ích chính đáng của mình. Các chủ thể sẽ biết được thời hạn chuẩn bị
xét xử tranh chấp, giải quyết yêu cầu của mình là bao lâu; nếu không đồng ý
với bản án quyết định của Tòa án thì thời hạn kháng cáo bản án là như thế
nào; thời hạn được cấp, nhận tống đạt và được thông báo văn bản tố tụng là
bao nhiêu ngày…Khi quyền lợi chính đáng của các chủ thể được giải quyết
thỏa đáng, niềm tin của nhân dân vào pháp luật, vào bộ máy nhà nước sẽ
được nâng cao, xã hội sẽ ổn định, trật tự và các giao dịch dân sự sẽ ngày một
phát triển.

20



- Các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham
gia tố tụng và những người liên quan khi tiến hành tố tụng hoặc tham gia tố
tụng đều phải xác định rõ được trách nhiệm của mình. Trách nhiệm ở đây sẽ
tương ứng với mỗi chủ thể. Mỗi chủ thể đều phải hiểu rằng mình phải có trách
nhiệm trong việc tuân thủ và thực hiện các quy định của pháp luật về thời hạn
tố tụng dân sự. Nếu chỉ một hoặc một số chủ thể không thực hiện hoặc thực
hiện không tốt các quy định về thời hạn tố tụng dân sự thì chắc chắn các chủ
thể còn lại sẽ không thể thực hiện tốt được công việc của mình (ví dụ: việc
đương sự chậm giao nộp chứng cứ, không có mặt theo giấy triệu tập của Tòa
án… sẽ ảnh hưởng tới thời gian và kết quả của việc giải quyết vụ việc dân
sự). Như vậy, nếu các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng,
người tham gia tố tụng và những người liên quan thực hiện đúng và đầy đủ
trách nhiệm của mình sẽ làm cho việc giải quyết vụ việc dân sự được nhanh
chóng, kịp thời, chính xác.
- Pháp luật tố tụng dân sự quy định: trong quá trình giải quyết vụ việc
dân sự, tương ứng với mỗi khoảng thời gian nhất định, cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng và những người liên
quan đều phải thực hiện những hành vi tố tụng nhất định. Đây chính là cơ sở
để xác định trách nhiệm của mỗi chủ thể tố tụng. Chủ thể nào không thực hiện
hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ và quyền hạn của họ trong thời hạn tố
tụng cụ thể sẽ phải chịu trách nhiệm về việc không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng đó.
Ví dụ 1: Khoản 2 Điều 171 BLTTDS quy định trong thời hạn mười
lăm ngày, kể từ ngày nhận được giấy báo của Tòa án về việc nộp tiền tạm ứng
án phí, người khởi kiện phải nộp tiền tạm ứng án phí [18]. Như vậy, trách
nhiệm của người khởi kiện là phải nộp tiền tạm ứng án phí đúng thời gian luật
định, nếu người khởi kiện không nộp hoặc nộp sau mười lăm ngày thì sẽ là
căn cứ để Tòa án trả lại đơn khởi kiện theo quy định tại Điều 168 BLTTDS.


21


Ví dụ 2: Điều 179 BLTTDS quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử như
sau: đối với các vụ án về dân sự, hôn nhân và gia đình thì thời hạn chuẩn bị
xét xử là bốn tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án; đối với các vụ án về kinh doanh,
thương mại, lao động thì thời hạn chuẩn bị xét xử là hai tháng, kể từ ngày thụ
lý vụ án. Đối với các vụ án có tính chất phức tạp hoặc do trở ngại khách quan
thì Chánh án Tòa án có thể gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử, nhưng không quá
hai tháng đối với các vụ án về dân sự, hôn nhân và gia đình và không quá một
tháng đối với các vụ án về kinh doanh, thương mại, lao động. Trong thời hạn
chuẩn bị xét xử, tùy từng trường hợp, Tòa án phải ra một trong số các quyết
định (công nhận sự thỏa thuận của đương sự, tạm đình chỉ giải quyết vụ án,
đình chỉ giải quyết vụ án, đưa vụ án ra xét xử) [18].
Việc xác định trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng, người
tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng và những người liên quan trong
trường hợp họ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ và quyền
hạn của họ trong thời hạn tố tụng cụ thể cũng chính là xác định được nguyên
nhân của vấn đề, trên cơ sở đó tìm ra phương hướng khắc phục, sửa chữa
hoặc tránh lặp lại những sai lầm nêu trên.
1.2.2. Cơ sở thực tiễn của việc pháp luật quy định về thời hạn tố
tụng dân sự
Quyền và lợi ích của các chủ thể là một vấn đề rất quan trọng, là động
lực thúc đẩy các chủ thể tham gia vào các quan hệ xã hội. Trong lĩnh vực dân
sự, lợi ích của các bên được xem như là tiền đề dẫn đến tranh chấp dân sự và
khi các chủ thể yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp thì Tòa án phải tiến hành
thụ lý giải quyết trong phạm vi thẩm quyền của mình.
Trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự, cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng đều cần phải có

những khoảng thời gian nhất định để thực hiện các hành vi tố tụng, những
khoảng thời gian này chính là thời hạn tố tụng.

22


Thời hạn tố tụng cần phải được quy định cụ thể, chi tiết trong pháp
luật tố tụng dân sự nói chung và trong BLTTDS nói riêng. Thời hạn tố tụng
không thể do các bên tự thỏa thuận (không giống với thời hạn trong luật dân
sự) bởi lẽ nếu các bên thỏa thuận được với nhau thì đã không cần phải yêu
cầu Tòa án đứng ra giải quyết tranh chấp. Lẽ đương nhiên trước khi quy định
cụ thể về thời hạn tố tụng trong luật, nhà làm luật phải căn cứ vào tính chất
của các vụ việc dân sự cũng như thời gian để có thể giải quyết các vụ việc này
trong thực tế. Việc quy định thời hạn tố tụng phải vừa đảm bảo tạo điều kiện
thuận lợi cho các đương sự lại phải vừa giúp cho cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng giải quyết vụ việc dân sự theo đúng trách nhiệm của
mình được nhanh chóng, kịp thời, chính xác.
Như vậy, thực tiễn đặt ra là pháp luật tố tụng dân sự phải có quy định
về thời hạn tố tụng trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự. Trong giai đoạn
khởi kiện và thụ lý, Tòa án phải xem xét thụ lý, ra quyết định thụ lý, thông
báo về việc thụ lý, thông báo về việc nộp tiền tạm ứng án phí… tương ứng
với những thời hạn nhất định; đương sự nếu có yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn
khởi kiện, đơn yêu cầu, nộp biên lai thu tiền tạm ứng án phí… thì cũng phải
thực hiện những công việc này trong những thời hạn nhất định. Trong giai
đoạn chuẩn bị xét xử, Tòa án phải ra một trong số các quyết định (ra quyết định
công nhận sự thỏa thuận của đương sự, tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ
án, đưa vụ án ra xét xử) trong thời hạn tối đa từ ba đến sáu tháng (Điều 179
BLTTDS). Cũng trong giai đoạn này, đương sự phải có mặt theo giấy triệu tập
của Tòa án, nếu vắng mặt không có lý do chính đáng đến lần thứ hai thì đương
sự phải chịu trách nhiệm về sự vắng mặt đó; đương sự có quyền thay đổi ý kiến

về sự thỏa thuận trong biên bản hòa giải thành của mình trong thời hạn bảy
ngày, hết thời hạn đó Tòa án sẽ ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương
sự… Tương tự thì ở các giai đoạn tố tụng tiếp theo như xét xử thì cơ quan tiến
hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng cũng sẽ phải
thực hiện các hành vi tố tụng trong những khoảng thời gian nhất định.

23


1.3. SƠ LƢỢC SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CÁC QUY ĐỊNH CỦA
PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ THỜI HẠN TỐ TỤNG DÂN SỰ

Chế định thời hạn tố tụng là một chế định quan trọng trong pháp luật
tố tụng dân sự, vì vậy lược sử hình thành và phát triển của chế định này gắn
liền với lược sử hình thành và phát triển của của luật tố tụng dân sự. Đó là
mối liên hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng trên cơ sở những điểm
tương đồng cũng như những điểm khác biệt mà không thể tách rời nhau. Vì
vậy, việc nghiên cứu lược sử hình thành và phát triển của chế định thời hạn tố
tụng được tiến hành trên cơ sở nghiên cứu lược sử hình thành và phát triển
của pháp luật tố tụng dân sự nói chung.
1.3.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1989
Cách mạng tháng tám thành công đã mở ra kỷ nguyên mới trong lịch
sử dân tộc Việt Nam, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa - nhà nước
công nông đầu tiên ở Đông Nam Châu Á. Ngày 02/09/1945 tại Quảng trường
Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Bản tuyên ngôn không chỉ khẳng định độc
lập dân tộc, khẳng định các quyền cơ bản của con người mà từ đây, bộ máy
nhà nước cách mạng cũng được khẩn trương xây dựng. Ngay sau khi giành
được chính quyền, để xây dựng, củng cố chính quyền cũng như để đáp ứng
đòi hỏi mới của đời sống dân sự, bên cạnh việc ban hành Sắc lệnh số 47/SL

ngày 10/10/1945 cho tạm giữ các luật lệ hiện hành ở Bắc, Trung, Nam Bộ
"cho đến khi ban hành những bộ luật pháp duy nhất cho toàn cõi Việt Nam",
nếu "không trái với nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam và chính thể dân
chủ cộng hòa", Nhà nước ta đã ban hành hàng loạt các văn bản quy phạm
pháp luật mới. Trong đó, các văn bản về xây dựng hệ thống tư pháp mới và
thủ tục tố tụng được đặc biệt chú trọng như Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/1/1946
về tổ chức Tòa án và quy định các ngạch Thẩm phán; Sắc lệnh số 51/SL ngày
17/4/1946 quy định về việc kiện, khởi tố và thụ lý vụ án; Sắc lệnh số 97/SL

24


ngày 22/5/1950 được ban hành để bãi bỏ việc áp dụng luật lệ của chế độ cũ;
Sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5/1950 về cải cách bộ máy tư pháp và tố tụng.
Trong các Sắc lệnh nêu trên thì có thể nói Sắc lệnh số 13/SL đã đặt cơ sở đại
cương đầu tiên cho việc tổ chức nền tư pháp nói chung và pháp luật tố tụng
dân sự của nước ta nói riêng.
Ngày 01/01/1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 01/LCT công
bố Hiến pháp mới của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Trên cơ sở Hiến
pháp năm 1959, Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã thông qua
Luật tổ chức TAND ngày 14/7/1960 và Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thông
qua Pháp lệnh quy định cụ thể về tổ chức TAND và tổ chức của các TAND
địa phương ngày 23/3/1961. Nếu như ở những năm trước 1960, hoạt động tố
tụng giải quyết vụ án dân sự của hệ thống Tòa án chủ yếu dựa trên những sắc
lệnh của Chủ tịch nước thì từ những năm 1960 trở đi, sau khi TANDTC được
thành lập, các văn bản tố tụng là cơ sở cho hoạt động giải quyết vụ án dân sự
là các công văn, chỉ thị, điều lệ và đặc biệt là các thông tư do TANDTC ban
hành, đáng chú ý nhất là các thông tư như Thông tư số 01-UB ngày 3/3/1969
của TANDTC hướng dẫn việc viết bản án sơ thẩm và phúc thẩm hình sự;
Thông tư số 39-NCPL ngày 21/7/1972 của TANDTC hướng dẫn việc thụ lý,

di lý, xếp và tạm xếp những việc kiện về hôn nhân và gia đình và tranh chấp
về dân sự; Thông tư số 06-TATC ngày 25/2/1982 của TANDTC về công tác
điều tra trong tố tụng dân sự; Thông tư số 25-TATC ngày 30/11/1974 của
TANDTC về công tác hòa giải trong tố tụng dân sự; Thông tư số 01/TTLB
ngày 01/02/1982 của TANDTC, Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn
thủ tục giám đốc thẩm; Thông tư số 02/TTLB ngày 01/02/1982 của
TANDTC, Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn thủ tục tái thẩm…
Trên cơ sở nội dung của những văn bản trên, có thể nhận thấy trong
giai đoạn này chưa có những quy định riêng về thời hạn tố tụng như một
chương riêng hoặc là một chế định của pháp luật tố tụng dân sự.

25


×