Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Hỗ trợ của tòa án đối với giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài luận văn ths luật 60 38 50 pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (633.8 KB, 100 trang )

ĐạI HọC QUốC GIA Hà NộI
KHOA LUậT

Vũ THị HUệ

Hỗ TRợ CủA TòA áN ĐốI VớI GIảI QUYếT
TRANH CHấP THƯƠNG MạI BằNG TRọNG TàI

LUậN VĂN THạC Sĩ LUậT HọC

Hà Nội 2010


ĐạI HọC QUốC GIA Hà NộI
KHOA LUậT

Vũ THị HUệ

Hỗ TRợ CủA TòA áN ĐốI VớI GIảI QUYếT
TRANH CHấP THƯƠNG MạI BằNG TRọNG TàI

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 50

LUậN VĂN THạC Sĩ LUậT HọC

Ng-ời h-ớng dẫn khoa học: GS.TSKH Đào Trí úc

Hà Nội 2010



MụC LụC
Nội dung

Trang

Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Mở ĐầU ..................................................................................................... 1
Ch-ơng 1: NHữNG VấN Đề Lý LUậN Về Sự Hỗ TRợ CủA TOà
áN ĐốI VớI GIảI QUYếT TRANH CHấP THƯƠNG MạI BằNG
TRọNG TàI ............................................................................................... 5
1.1. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Trọng tài và thủ tục tố tụng
trọng tài ........................................................................................................ 5
1.1.1. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Trọng tài ................................. 5
1.1.2. Sự khác biệt giữa tố tụng trọng tài và tố tụng toà án và -u thế của
việc giải quyết tranh chấp th-ơng mại bằng Trọng tài so với Toà án ............. 12
1.1.3. Những hạn chế của Trọng tài và vai trò của Tòa án trong tố tụng
trọng tài ........................................................................................................ 21
1.2. Quyết định trọng tài ............................................................................... 28
1.2.1. Khái niệm quyết định trọng tài ........................................................... 28
1.2.2. Hiệu lực của quyết định trọng tài và thi hành quyết định trọng tài ...... 33
1.3. Thực trạng giải quyết tranh chấp th-ơng mại bằng Trọng tài ở Việt Nam
hiện nay ........................................................................................................ 35
1.3.1. Thực trạng giải quyết tranh chấp th-ơng mại bằng Trọng tài ở Việt Nam
hiện nay ........................................................................................................ 35
1.3.2. Nguyên nhân ...................................................................................... 37
1.4. Hỗ trợ của Tòa án đối với giải quyết tranh chấp th-ơng mại bằng Trọng
tài ................................................................................................................. 40

1.4.1. Khái quát chung về sự hỗ trợ của Toà án đối với giải quyết tranh chấp
th-ơng mại bằng Trọng tài............................................................................ 40


1.4.2. Các khía cạnh hỗ trợ của Tòa án đối với giải quyết tranh chấp th-ơng
mại bằng Trọng tài ....................................................................................... 43
Ch-ơng 2: THựC TRạNG Về Sự Hỗ TRợ CủA TOà áN ĐốI VớI
GIảI QUYếT TRANH CHấP THƯƠNG MạI BằNG TRọNG TàI .... 58
2.1. Thực trạng chung về sự hỗ trợ của Tòa án đối với giải quyết tranh chấp
th-ơng mại bằng Trọng tài ở Việt Nam hiện nay .......................................... 58
2.2. Thực trạng và nguyên nhân về sự hỗ trợ của Tòa án đối với giải quyết
tranh chấp th-ơng mại bằng Trọng tài ở một số khía cạnh cụ thể .................. 58
2.2.1. Vấn đề xem xét thoả thuận trọng tài, thẩm quyền giải quyết vụ tranh
chấp của Hội đồng trọng tài .......................................................................... 59
2.2.2. Về biện pháp khẩn cấp tạm thời .......................................................... 61
2.2.3. Vấn đề thu thập chứng cứ và triệu tập nhân chứng .............................. 67
2.2.4. Quy định về huỷ quyết định trọng tài .................................................. 69
Ch-ơng 3: PHƯƠNG HƯớNG Và GIảI PHáP NHằM NÂNG CAO
HIệU QUả Hỗ TRợ CủA TOà áN ĐốI VớI GIảI QUYếT TRANH
CHấP THƯƠNG MạI BằNG TRọNG TàI ........................................... 80
3.1. Ph-ơng h-ớng chung ............................................................................. 80
3.2. Các giải pháp cụ thể............................................................................... 81
3.2.1. Cần có cơ chế hỗ trợ pháp lý từ phía Nhà n-ớc đối với các tổ chức phi
Chính phủ, trong đó có Trọng tài th-ơng mại ............................................... 81
3.2.2. Nâng cao năng lực của các Trọng tài viên và các Trung tâm trọng tài
trong quá trình giải quyết các tranh chấp th-ơng mại ................................... 83
3.2.3. Nâng cao năng lực của Thẩm phán trong quá trình hỗ trợ Trọng tài giải
quyết các tranh chấp th-ơng mại .................................................................. 84
3.2.4. Nâng cao nhận thức của các doanh nghiệp và các tổ chức khác có liên
quan trong việc giải quyết tranh chấp th-ơng mại bằng Trọng tài ................. 85

3.2.5. Kịp thời ban hành các văn bản h-ớng dẫn thi hành Luật Trọng tài ...... 88
KếT LUậN ................................................................................................. 91
DANH MụC TàI LIệU THAM KHảO ................................................... 94


Mở ĐầU

1.

Tính cấp thiết của đề tài
Công cuộc đổi mới và mở cửa nền kinh tế do Đảng Cộng sản Việt Nam đề

x-ớng từ Đại hội VI (12/1986) đã đem lại những thành quả to lớn về kinh tế xã
hội. Nền kinh tế n-ớc ta sau gần hai m-ơi lăm năm đổi mới và mở cửa đã có
những chuyển biến tích cực, hợp tác và giao l-u th-ơng mại ngày càng phát triển.
Cũng trong bối cảnh đó, các quan hệ th-ơng mại ngày càng trở nên đa dạng và
phức tạp, nó không chỉ đ-ợc thiết lập giữa các chủ thể kinh doanh trong n-ớc mà
còn mở rộng ra n-ớc ngoài. Vì vậy, tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực kinh
doanh th-ơng mại là điều không thể tránh khỏi và cần đ-ợc giải quyết kịp thời.
Trong bối cảnh Việt Nam đã gia nhập Tổ chức Th-ơng mại Thế giới
WTO v nền kinh tế nước ta đ chuyển sang mô hình phát triển theo cơ chế thị
tr-ờng, các tranh chấp trong lĩnh vực kinh doanh, th-ơng mại không chỉ đơn
thuần là tranh chấp giữa các chủ thể giao kết hợp đồng th-ơng mại mà còn có
những tranh chấp d-ới các dạng khác nhau phát sinh trong quá trình sản xuất
kinh doanh nh- tranh chấp giữa các thành viên trong công ty, tranh chấp về cổ
phần cổ phiếu, tranh chấp giữa công ty và các thành viên của công ty Khi đó,
các chủ thể sẽ phải tìm đến các tổ chức có thẩm quyền giải quyết tranh chấp một
cách hiệu quả, nhanh gọn, tránh những tổn thất lớn cho mình.
Pháp luật Việt Nam đã quy định nhiều ph-ơng thức giải quyết tranh chấp
nh-: th-ơng l-ợng, hòa giải, Tòa án hay Trọng tài. Đối với từng ph-ơng thức đều

có những -u điểm, hạn chế, không có ph-ơng thức nào chiếm vị thế tuyệt đối.
Tuy nhiên, căn cứ vào những -u điểm v-ợt trội của Trọng tài thì ph-ơng thức
này đang đ-ợc các doanh nghiệp lựa chọn, đặc biệt đối với các tranh chấp có
yếu tố n-ớc ngoài.
Có thể nói, từ khi Việt Nam nỗ lực hoàn chỉnh khung pháp lý cho hoạt
động của Trọng tài bằng việc ban hành Pháp lệnh Trọng tài năm 2003 và mới

1


đây là Luật Trọng tài th-ơng mại năm 2010, việc giải quyết các tranh chấp
th-ơng mại bằng Trọng tài đã thực sự chuyển biến và mang lại những dấu hiệu
tích cực. Cùng với hoạt động của Trọng tài thì sự hỗ trợ của Toà án cũng có
những tác động nhất định tới hiệu quả giải quyết các tranh chấp đó. Tuy
nhiên, với những quy định của pháp luật hiện hành về sự hỗ trợ của Tòa án
trong việc giải quyết tranh chấp th-ơng mại bằng Trọng tài đã tỏ ra không còn
phù hợp v gây nhiều tranh ci. Tụ thực tiễn trên, tôi đ chón vấn đề: Hổ trợ
ca To n đỗi với gii quyết tranh chấp thương mi bng Tróng ti lm đề
tài luận văn Thạc sĩ của mình.
2.

Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Những năm gần đây, vấn đề Hổ trợ ca To n đỗi với gii quyết tranh

chấp thương mi bng Tróng ti được quan tâm nghiên cứu nhm tăng cưộng
hiệu quả giải quyết các tranh chấp th-ơng mại, đồng thời nâng cao hiệu quả
hỗ trợ của Tòa án đối với việc giải quyết các tranh chấp. Đã có những công
trình khoa học nghiên cứu về vấn đề này d-ới nhiều góc độ khác nhau, tiêu
biểu như cc tc phẩm: Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài và cơ chế hỗ trợ
của tòa án (Thạc sỹ Bạch Thị Lệ Thoa); Giải quyết tranh chấp bằng Trọng

tài (Thạc sỹ Ngô Văn Hiệp); Giải quyết tranh chấp bằng phương thức
Trọng tài ở Việt Nam (TS. Đỗ Văn Đại) Ngoài ra, rất ít công trình khoa
học nghiên cứu, đề cập đến vấn đề này. Mặc dù vậy, những công trình khoa
học đã đ-ợc công bố là tài liệu tham khảo có giá trị để hoàn thiện luận văn.
3.

Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Trên cơ sở tìm hiểu những vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp

th-ơng mại bằng Trọng tài và sự hỗ trợ của Toà án đối với việc giải quyết các
tranh chấp đó; đánh giá thực trạng về sự hỗ trợ của Tòa án đối với giải quyết
tranh chấp th-ơng mại bằng Trọng tài ở Việt Nam hiện nay, luận văn đề xuất
một số giải pháp nhằm hoàn thiện khung pháp luật và nâng cao hiệu quả hỗ
trợ của Toà án đối với việc giải quyết tranh chấp th-ơng mại bằng Trọng tài.

2


Để thực hiện mục đích trên, trong khuôn khổ luận văn thạc sỹ luật học,
tác giả tập trung vào những nhiệm vụ sau:
Phân tích cơ sở lý luận; đánh giá thực trạng về giải quyết tranh chấp
th-ơng mại bằng Trọng tài ở Việt Nam hiện nay;
Phân tích, đánh giá thực trạng về sự hỗ trợ của Toà án đối với giải quyết
tranh chấp th-ơng mại bằng Trọng tài ở Việt Nam hiện nay;
Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
hỗ trợ của Toà án đối với giải quyết tranh chấp th-ơng mại bằng Trọng tài.
4.

Đối t-ợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Luận văn chủ yếu nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành,


thực trạng, nguyên nhân về sự hỗ trợ của Tòa án đối với giải quyết tranh chấp
th-ơng mại bằng Trọng tài; từ đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả hỗ trợ của Tòa án đối với việc giải quyết các tranh chấp đó.
5.

Ph-ơng pháp nghiên cứu
Luận văn đ-ợc nghiên cứu trên cơ sở ph-ơng pháp luận chủ nghĩa duy

vật lịch sử, chủ nghĩa duy vật biện chứng, phép biện chứng của chủ nghĩa
Mác-Lênin, quan điểm của Đảng và Nhà n-ớc ta về pháp luật.
Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu, luận văn đã áp dụng một số
ph-ơng pháp cụ thể nh- sau: Ph-ơng pháp phân tích để làm sáng tỏ những nội
dung thuộc phạm vi nghiên cứu; ph-ơng pháp so sánh đ-ợc sử dụng để làm rõ
mức độ t-ơng quan giữa các quy định, các quan điểm để từ đó có những đánh
giá, nhận định khách quan về nội dung nghiên cứu; ph-ơng pháp tổng hợp
đ-ợc sử dụng để khái quát hóa nội dung nghiên cứu một cách có hệ thống,
làm cho vấn đề nghiên cứu trở nên ngắn gọn, súc tích, dễ hiểu; ph-ơng pháp
thống kê đem đến một cách nhìn cụ thể hơn thông qua những con số và vụ
việc cụ thể.

3


6.

ý nghĩa và điểm mới của luận văn
Luận văn là chuyên khảo nghiên cứu t-ơng đối toàn diện về hệ thống

vấn đề sự hỗ trợ của Toà án đối với giải quyết tranh chấp th-ơng mại bằng

Trọng tài ở Việt Nam hiện nay. Vì vậy, luận văn có những đóng góp khoa học
mới nh- sau:
Thứ nhất, đ-a ra và luận giải đ-ợc những luận điểm cơ bản về giải
quyết tranh chấp th-ơng mại bằng Trọng tài và sự hỗ trợ của Toà án đối với
việc giải quyết các tranh chấp đó;
Thứ hai, từ những khó khăn và thực trạng trong việc giải quyết tranh
chấp th-ơng mại bằng Trọng tài và sự hỗ trợ của Toà án đối với việc giải
quyết các tranh chấp đó, phân tích nguyên nhân và những vấn đề còn tồn tại.
Thứ ba, trên cơ sở luận cứ khoa học và thực tiễn, đ-a ra giải pháp, kiến
nghị nhằm hoàn thiện khung pháp luật và nâng cao hiệu quả hỗ trợ của Toà án
đối với giải quyết tranh chấp th-ơng mại bằng Trọng tài.
7.

Cơ cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn đ-ợc cấu trúc

gồm ba ch-ơng:
Ch-ơng 1: Những vấn đề lý luận về sự hỗ trợ của Tòa án đối với giải
quyết tranh chấp th-ơng mại bằng Trọng tài
Ch-ơng 2: Thực trạng về sự hỗ trợ của Toà án đối với giải quyết tranh
chấp th-ơng mại bằng Trọng tài
Ch-ơng 3: Ph-ơng h-ớng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hỗ trợ
của Toà án đối với giải quyết tranh chấp th-ơng mại bằng Trọng tài.

4


CHƯƠNG 1:
NHữNG VấN Đề Lý LUậN Về Sự Hỗ TRợ CủA TòA áN ĐốI VớI
GIảI QUYếT TRANH CHấP THƯƠNG MạI BằNG TRọNG TàI


1.1.

Thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Trọng tài và thủ tục tố tụng

trọng tài
1.1.1. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Trọng tài
Tr-ớc khi ban hành Luật Trọng tài, đã có rất nhiều ý kiến khác nhau
của các Đoàn đại biểu Quốc hội về việc tiếp thu, chỉnh lý Dự án Luật Trọng
tài xung quanh vấn đề xác định phạm vi thẩm quyền giải quyết tranh chấp của
Trọng tài. Nhiều ý kiến đề nghị Trọng tài th-ơng mại có thẩm quyền giải
quyết tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động th-ơng mại, tranh chấp
phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có liên quan đến hoạt động
th-ơng mại và tranh chấp giữa các bên phát sinh không từ hoạt động th-ơng
mại nh-ng đ-ợc quy định ở các luật khác. Có ý kiến đề nghị nên mở rộng
phạm vi thẩm quyền của Trọng tài th-ơng mại giải quyết cả các tranh chấp
liên quan đến quyền và lợi ích của các bên phát sinh từ nghĩa vụ hợp đồng
hoặc nghĩa vụ ngoài hợp đồng, không phân biệt tranh chấp th-ơng mại với dân
sự, trừ một số tranh chấp liên quan đến các quyền nhân thân, quan hệ hôn
nhân và gia đình, thừa kế, phá sản, bất động sản. Một số ý kiến đề nghị chỉ
nên quy định phạm vi thẩm quyền của Trọng tài th-ơng mại giải quyết các
tranh chấp phát sinh từ hoạt động th-ơng mại theo quy định của Luật Th-ơng
mại năm 2005 [29].
Tr-ớc những luồng ý kiến đó, ủy ban th-ờng vụ Quốc hội nhận thấy
loại ý kiến đề nghị Trọng tài th-ơng mại có thẩm quyền giải quyết tranh chấp
giữa các bên phát sinh từ hoạt động th-ơng mại, tranh chấp phát sinh giữa các
bên trong đó ít nhất một bên có liên quan đến hoạt động th-ơng mại và tranh

5



chấp giữa các bên phát sinh không từ hoạt động th-ơng mại nh-ng đ-ợc quy
định ở các luật khác là có cơ sở, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của hoạt
động trọng tài ở n-ớc ta hiện nay, đồng thời khắc phục đ-ợc hạn chế về phạm
vi thẩm quyền đ-ợc quy định trong Pháp lệnh Trọng tài năm 2003. Mặt khác,
ở n-ớc ta, ph-ơng thức giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài ch-a phổ biến và
ch-a đ-ợc nhiều ng-ời quan tâm (thực tiễn qua hơn sáu năm thi hành Pháp
lệnh Trọng tài năm 2003 mới có 07 Trung tâm trọng tài đ-ợc thành lập, trong
đó có 03 Trung tâm từ khi thành lập đến nay ch-a giải quyết đ-ợc vụ việc nào,
số vụ việc đ-ợc giải quyết bằng Trọng tài mới có 280 vụ). Uy tín chuyên môn
của Trung tâm trọng tài ch-a cao, theo Luật Mẫu về Trọng tài th-ơng mại
quốc tế của Uỷ ban Liên Hiệp Quốc về Luật Th-ơng mại quốc tế thì phạm vi
điều chỉnh cũng chủ yếu đ-ợc áp dụng trong lĩnh vực th-ơng mại quốc tế. Vì
vậy, trong giai đoạn hiện nay ch-a nên mở rộng phạm vi thẩm quyền của
Trọng tài giải quyết cả các tranh chấp về dân sự mà chỉ giới hạn thẩm quyền
của Trọng tài th-ơng mại giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hoạt động
th-ơng mại theo quy định của Luật Th-ơng mại năm 2005 và các tr-ờng hợp
liên quan đến một bên có hoạt động th-ơng mại và một số tr-ờng hợp đ-ợc
các luật khác quy định. Mặt khác, nếu chỉ giới hạn phạm vi thẩm quyền giải
quyết tranh chấp của Trọng tài theo phạm vi khái niệm th-ơng mại đ-ợc quy
định trong Luật Th-ơng mại năm 2005 thì sẽ không bảo đảm đ-ợc tính thống
nhất và đồng bộ của hệ thống pháp luật, bởi vì nhiều văn bản pháp luật hiện
hành đã quy định những tr-ờng hợp tranh chấp tuy không phát sinh từ hoạt
động th-ơng mại nh-ng các bên đ-ợc quyền lựa chọn hình thức giải quyết
tranh chấp đó bằng Trọng tài, nh- Điều 208 Bộ luật hàng hải Việt Nam quy
định về nguyên tắc xác định lỗi và bồi th-ờng tổn thất trong tai nạn đâm va,
Điều 12 Luật Đầu t- 2005 quy định về giải quyết tranh chấp liên quan đến
hoạt động đầu t-, Điều 131 Luật Chứng khoán quy định về giải quyết tranh
chấp Do đó, cần quy định các tranh chấp phát sinh từ các quan hệ pháp luật


6


không phải là hoạt động th-ơng mại nh-ng đ-ợc pháp luật khác quy định
cũng đ-ợc giải quyết bằng Trọng tài nếu các bên có thoả thuận.
Tiếp thu ý kiến của ủy ban th-ờng vụ Quốc hội, tại Điều 2 Luật Trọng
tài đã quy định thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Trọng tài nh- sau:
Trọng tài có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp sau đây: Tranh chấp giữa
các bên phát sinh từ hoạt động th-ơng mại; Tranh chấp phát sinh giữa các
bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động th-ơng mại; Tranh chấp khác giữa
các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng Trọng tài.
Nh- vậy, có thể thấy rằng, Trọng tài có thẩm quyền giải quyết các tranh
chấp sau đây:
Thứ nhất, tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động th-ơng mại.
Luật Trọng tài không quy định thế nào là hoạt động th-ơng mại, nh-ng theo
Luật Th-ơng mại năm 2005 quy định: Hoạt động thương mại là hoạt động
nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu
tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác. Có
thể hiểu rằng, hoạt động th-ơng mại là bất kỳ hoạt động nào mà chủ thể thực
hiện nhằm vào mục đích lợi nhuận và tranh chấp giữa các bên phát sinh từ các
hoạt động đó gọi là tranh chấp th-ơng mại và thuộc thẩm quyền giải quyết của
Trọng tài. Ví dụ: Tranh chấp giữa bên bán hàng và bên mua hàng liên quan
đến hoạt động mua bán hàng hoá là tranh chấp th-ơng mại và thuộc thẩm
quyền giải quyết của Trọng tài.
Về thuật ngữ thương mi theo cch hiểu ca đa sỗ cc chuyên gia v
các n-ớc, một sự đồng ý chung là Trọng tài là một ph-ơng thức thích hợp để
giải quyết các tranh chấp phát sinh từ các quan hệ kinh doanh (đối lập với, ví
dụ: các quan hệ gia đình). Thực ra, ở các n-ớc theo truyền thống dân luật, có
mốt sự phân biệt chung giữa cc hợp đọng l thương mi v những hợp
đồng không phải là th-ơng mại. Một hợp đồng th-ơng mại, theo nghĩa rộng là

hợp đồng đ-ợc xác lập bởi th-ơng gia hoặc th-ơng nhân trong quá trình kinh

7


doanh dù họ mua và bán thiết bị văn phòng hay thuê ô tô. Những hợp đồng
này đ-ợc điều chỉnh bằng một tập hợp những quy phạm pháp luật đặc biệt của
luật th-ơng mại tách biệt khỏi luật chung về nghĩa vụ; và một điểm đáng chú
ý là ở rất nhiều n-ớc theo truyền thống dân luật, các tổ chức Trọng tài th-ờng
gắn liền với một Phòng th-ơng mại nh- Phòng th-ơng mại Bỉ, các Phòng
th-ơng mại Geneva và Zurich, Phòng th-ơng mại Stockholm và Phòng th-ơng
mại Quốc tế ở Pari.
Khái niệm hợp đồng th-ơng mại là quan trọng trong hệ thống dân luật
do liên quan đến Trọng tài, vì ở một số n-ớc chỉ những tranh chấp phát sinh từ
các hợp đồng th-ơng mại mới có thể đ-a ra Trọng tài. Do đó, có thể đ-a ra
Trọng tài tranh chấp giữa hai th-ơng nhân về hợp đồng mà họ xác lập trong
quá trình kinh doanh của họ, nh-ng không thể ví dụ nh- đ-a ra Trọng tài tranh
chấp về hợp đồng phân chia tài sản đ-ợc xác lập trên cơ sở hôn nhân của con
cái họ.
Thực tế đã đ-ợc thừa nhận trên bình diện quốc tế nhiều năm tr-ớc đây
là ở một số n-ớc, Trọng tài chỉ đ-ợc chấp nhận đối với các hợp đồng th-ơng
mại, trong khi đó ở các n-ớc khác không có sự hạn chế này. Nghị định thGeneva 1923 buộc các quốc gia thành viên phải thừa nhận hiệu lực của một
thỏa thuận trọng tài liên quan đến các tranh chấp phát sinh từ một hợp đồng
liên quan đến cc vấn đề thương mi hoặc bất kỳ vấn đề no khc m cõ thể
gii quyết được bng Tróng ti. Điều ny hm ý rng, cc vấn đề thương mi
phải có thể đ-ợc giải quyết bằng Trọng tài theo luật của quốc gia liên quan,
theo nghĩa là quốc gia đó cho phép chúng đ-ợc giải quyết bằng Trọng tài,
trong khi quốc gia đó có thể (hoặc không) cho phép những vấn đề khác đ-ợc
giải quyết theo cách đó.
Điểm đ-ợc nhấn mnh thêm về sự phân biệt giữa cc vấn đề thương

mi v cc vấn đề khc được quy định trong Nghị định thư Geneva là mỗi
quỗc gia thnh viên cõ thể giới hn nghĩa vú ca mình đỗi với những hợp

8


đọng m được xem l thương mi theo luật ca quỗc gia mình. Điều này
được coi l phm vi thương mi v củng xuất hiện trong Công ước New
York. Cả Nghị định th- Geneva và Công -ớc New York cho phép quốc gia
thnh viên quyền quyết định thương mi được hiểu như thế no. Điều ny
d-ờng nh- loại bỏ triền vọng xây dựng một thực tiễn và tập quán thống nhất
đỗi với những vấn đề l thương mi hoặc không phi thương mi. Tuy
nhiên, thuật ngữ này hiện nay trở thành một từ loại trong ngôn ngữ học, nó
dùng để phân biệt các vụ Trọng tài quốc tế liên quan đến tranh chấp kinh
doanh hoặc th-ơng mại với các vụ Trọng tài quốc tế giữa các quốc gia về các
vấn đề tranh chấp biên giới và các vấn đề chính trị khác. Nó cũng dùng để
phân biệt các vụ Trọng tài quốc tế liên quan đến tranh chấp kinh doanh hoặc
th-ơng mại với các vụ Trọng tài (mà th-ờng là nh-ng không nhất thiết phải là
trong n-ớc) liên quan đến các vấn đề nh- sự chiếm hữu tài sản, luật lao động
và hôn nhân gia đình.
Điều có ý nghĩa quan trọng là phải biết mối quan hệ pháp lý mà từ đó
làm phát sinh vụ việc trọng tài có phải là một quan hệ th-ơng mại hay không.
Ví dụ: vấn đề phát sinh là nếu cần yêu cầu xét công nhận và cho thi hành một
phán quyết của Trọng tài n-ớc ngoài ở một quốc gia đã gia nhập Công -ớc
New York, nh-ng n-ớc đó áp dụng khái niệm về phạm vi th-ơng mại. Việc
xem xét luật quỗc gia liên quan để xem luật đõ định nghĩa thương mi như
thế nào là cần thiết. Đôi khi phát sinh vấn đề nếu Tòa án của các quốc gia cụ
thể nào đó áp dụng định nghĩa th-ơng mại theo nghĩa hẹp, nh-ng cách tiếp
cận chung trên bình diện quỗc tế thì định nghĩa thương mi bao gọm tất c
các loại giao dịch hoặc kinh doanh th-ơng mại. Luật Mẫu không định nghĩa

thuật ngữ này nh-ng xác định: Thuật ngữ thương mại nên được định nghĩa
theo nghĩa rộng để bao gồm các vấn đề phát sinh từ tất cả các quan hệ có bản
chất th-ơng mại, cho dù có quan hệ hợp đồng hay không. Các quan hệ có bản
chất th-ơng mại bao gồm, nh-ng không bị giới hạn bởi, các giao dịch sau: các

9


giao dịch mua bán hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ; thỏa thuận phân phối;
đại lý hoặc đại lý th-ơng mại; môi giới; thuê mua; xây dựng; t- vấn; kỹ thuật;
lixăng; đầu t- ; tài chính; ngân hàng; bảo hiểm; khai thác; liên doanh và các
hình thức kinh doanh hoặc công nghiệp khác; vận chuyển hàng hóa hoặc
hành khách bằng đ-ờng hàng không, đ-ờng biển, đường sắt hoặc đường bộ.
Như vậy, ờ đây thuật ngữ thương mi được hiểu theo nghĩa rống, bao
gồm tất cả các hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, nếu cần thiết để quyết định
xem mốt hợp đọng cú thể cõ phi l thương mi hay không thì phi tham
chiếu đến pháp luật quốc gia có liên quan.
Thứ hai, tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có
hoạt động th-ơng mại. Trọng tài không chỉ có thẩm quyền giải quyết các tranh
chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động th-ơng mại mà còn có thẩm quyền
giải quyết tranh chấp giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động
th-ơng mại. Luật Trọng tài không yêu cầu tranh chấp phải phát sinh từ các
bên đều có hoạt động th-ơng mại mới thuộc thẩm quyền giải quyết của Trọng
tài, mà chỉ cần một trong các bên tranh chấp có hoạt động th-ơng mại thì
tranh chấp đó đã thuộc thẩm quyền giải quyết của Trọng tài. Điều này cho
thấy phạm vi thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Trọng tài trong Luật
Trọng tài đã đ-ợc mở rộng hơn so với Pháp lệnh Trọng tài năm 2003.
Thứ ba, tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định đ-ợc giải
quyết bằng Trọng tài. Điểm mới của Luật Trọng tài so với Pháp lệnh Trọng tài
năm 2003 là việc mở rộng thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Trọng tài.

Theo đó, Trọng tài không chỉ có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp phát
sinh từ hoạt động th-ơng mại mà còn có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp
không phát sinh từ hoạt động th-ơng mại nh-ng đ-ợc pháp luật khác quy
định. Điều này hoàn toàn phù hợp với tình hình hiện nay và đồng bộ với các
văn bản pháp luật khác. Ví dụ: Tại Điều 12 Luật Đầu t- năm 2005 có quy

10


định thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Trọng tài đối với các tranh chấp
liên quan đến hoạt động đầu t-.
Trong khi đó, Pháp lệnh Trọng tài năm 2003 quy định về thẩm quyền
giải quyết tranh chấp của Trọng tài nh- sau: Trọng tài là phương thức giải
quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động th-ơng mại đ-ợc các bên thỏa
thuận; trong đó Pháp lệnh có quy định hoạt động th-ơng mại là: việc
thực hiện một hay nhiều hành vi th-ơng mại của cá nhân, tổ chức kinh doanh
bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện, đại lý
th-ơng mại; ký gửi; thuê, cho thuê; thuê mua; xây dựng; t- vấn; kỹ thuật; li xăng; đầu t-; tài chính, ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò, khai thác; vận chuyển
hàng hoá, hành khách bằng đ-ờng hàng không, đ-ờng biển, đ-ờng sắt, đ-ờng
bộ và các hành vi thương mại khác theo quy định của pháp luật.
Nh- vậy, có thể thấy rằng, so với Pháp lệnh Trọng tài năm 2003 thì
thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Trọng tài đã đ-ợc mở rộng hơn nhiều
trong Luật Trọng tài, nó không chỉ bó hẹp trong phạm vi tranh chấp phát sinh
từ hoạt động th-ơng mại mà còn các tranh chấp khác có tính chất th-ơng mại.
Luật Trọng tài đã khắc phục những tồn tại của Pháp lệnh Trọng tài năm 2003,
khắc phục việc phân định không rõ ràng phạm vi thẩm quyền của Trọng tài
đối với các tranh chấp th-ơng mại, trên cơ sở đó bảo đảm sự t-ơng thích giữa
các văn bản pháp luật hiện hành nh- Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng dân sự,
Luật Th-ơng mại, Luật Đầu t- và các luật chuyên ngành. Luật Trọng tài đã dỡ
bỏ hạn chế của Pháp lệnh Trọng tài năm 2003 về thẩm quyền giải quyết các

tranh chấp th-ơng mại của Trọng tài thông qua việc mở rộng phạm vi thẩm
quyền của Trọng tài tới nhiều loại tranh chấp liên quan đến quyền và lợi ích
của các bên. Đây là một trong những điểm mới quan trọng nhất của Luật
Trọng tài so với Pháp lệnh Trọng tài năm 2003 và hoàn toàn phù hợp với thực
tiễn sử dụng Trọng tài của các n-ớc trên thế giới.

11


1.1.2. Sự khác biệt giữa tố tụng trọng tài và tố tụng toà án và -u thế của
việc giải quyết tranh chấp th-ơng mại bằng Trọng tài so với Toà án
Thông th-ờng, đối với các hợp đồng quốc tế, các bên rất khó thoả thuận
để lựa chọn một Toà án quốc gia. Hơn nữa, lựa chọn một Toà án quốc gia ở
n-ớc thứ ba thì hầu nh- không thích hợp.
Tố tụng toà án th-ờng kéo dài bởi thứ nhất, các Toà án quốc gia bị quá
tải công việc; thứ hai, Toà án quốc gia có các cấp thẩm quyền khác nhau (Toà
Sơ thẩm, Toà Th-ợng thẩm, Toà Tối cao), điều này khiến cho các bên ch-a
thoả mãn có cơ hội yêu cầu xem xét lại nội dung vụ kiện. Hơn nữa, Toà án
quốc gia không phải bao giờ cũng chuyên về vấn đề th-ơng mại và thẩm phán
ch-a hẳn đã có đủ kiến thức để giải quyết tranh chấp th-ơng mại quốc tế. ở
một số n-ớc, Toà án quốc gia có thể đ-ợc cho là không đ-ợc bảo đảm về tính
độc lập và khách quan, những yêu cầu cơ bản đối với cơ quan t- pháp tốt.
Nhìn chung, đặc tr-ng của tố tụng toà án là các quy tắc thủ tục nghiêm ngặt,
th-ờng khá cứng nhắc.
Đặc trưng ca Tróng ti l quy tắc tính đốc lập ca cc bên. Cc bên
tuỳ ý tổ chức tố tụng bằng cách dẫn chiếu quy tắc tố tụng trọng tài sẵn có hoặc
soạn thảo quy tắc riêng. Các bên có thể tự chọn Trọng tài viên, ấn định thời
hạn hoặc nhờ bên thứ ba ấn định thời hạn. Về nguyên tắc, quyết định trọng tài
có giá trị chung thẩm. Cơ hội để huỷ quyết định trọng tài rất ít, chủ yếu do các
sai sót thủ tục cơ bản. Giống nh- các thẩm phán, các Trọng tài viên cũng phải

có tính độc lập. Nh-ng các Trọng tài viên có đ-ợc chọn cho một vụ việc cụ
thể hay không còn tuỳ thuộc vào nghề nghiệp và trình độ chuyên môn cũng
nh- việc họ có thời gian để làm nhiệm vụ Trọng tài viên hay không. Hơn nữa,
Trọng tài có tính bí mật, còn trong tố tụng toà án, những phiên xét xử đ-ợc tổ
chức công khai.
Các bên không phải trả thù lao cho thẩm phán, nh-ng họ phải chịu mọi
khoản thù lao và chi phí của các Trọng tài viên cũng nh- các khoản phí của tổ

12


chức trọng tài quy chế giám sát vụ việc. Các Trọng tài viên không có quyền ra
lệnh c-ỡng chế bồi th-ờng hoặc áp dụng các biện pháp tạm thời hoặc triệu tập
nhân chứng hoặc bên thứ ba khi họ không muốn tham gia vào tố tụng. ở một
số n-ớc, Toà án không có nhiều kinh nghiệm trong một số lĩnh vực chuyên
ngành (tranh chấp hàng hải, ngân hàng hay sáng chế). Với sự phát triển của
hội nhập khu vực, phán quyết của Toà án th-ơng mại có thể đ-ợc thi hành
nhanh chóng giữa một số n-ớc nhất định. Vì vậy, mặc dù Trọng tài là ph-ơng
thức th-ờng đ-ợc khuyến nghị để giải quyết tranh chấp th-ơng mại thì việc sử
dụng Toà án cũng có thể là một lựa chọn có giá trị tuỳ vào hoàn cảnh cụ thể.
Có thể thấy những điểm khác biệt giữa tố tụng trọng tài và tố tụng toà
án nh- sau:
Thứ nhất, về tính chung thẩm, phán quyết của Toà án th-ờng bị kháng
cáo, trong khi đa số các quyết định trọng tài không bị kháng cáo, chỉ có thể
dựa vào một vài lý do để kh-ớc từ quyết định trọng tài tại Toà án.
Thứ hai, về sự công nhận quốc tế, phán quyết của Toà án th-ờng rất khó
đạt đ-ợc sự công nhận quốc tế, phán quyết của Toà án đ-ợc công nhận tại một
n-ớc khác th-ờng thông qua một hiệp định song ph-ơng hoặc theo các quy tắc
rất nghiêm ngặt, có một số ngoại lệ khu vực (ví dụ: các n-ớc thuộc OHADA
và Liên minh Châu Âu). Quyết định trọng tài đạt đ-ợc sự công nhận quốc tế

thông qua một loạt các công -ớc quốc tế và đặc biệt là Công -ớc New York.
Có khoảng 120 quốc gia đã tham gia Công -ớc này.
Thứ ba, về tính trung lập, mặc dù thẩm phán quốc gia có thể khách
quan, họ vẫn buộc phải sử dụng ngôn ngữ và áp dụng quy tắc tố tụng của quốc
gia họ và thuờng cùng quốc tịch với một bên. Còn đối với Trọng tài, các bên
có thể bình đẳng về nơi tiến hành Trọng tài (tại một n-ớc trung lập), ngôn ngữ
sử dụng, quy tắc tố tụng, quốc tịch của Trọng tài viên và đại diện pháp lý.
Thứ t-, về năng lực chuyên môn và sự kế tục của các cá nhân, không
phải tất cả các thẩm phán đều có chuyên môn về lĩnh vực nào đó, ví dụ: trong

13


các tranh chấp về bằng sáng chế, ngân hàng, tên miền Trong những vụ kiện
kéo dài, có thể có nhiều thẩm phán kế tiếp nhau xét xử vụ kiện. Trong khi đó,
đối với Trọng tài, các bên có thể lựa chọn các Trọng tài viên có trình độ
chuyên môn cao, miễn là các Trọng tài viên độc lập. Thông th-ờng, các Trọng
tài viên theo vụ kiện từ đầu đến cuối.
Thứ năm, về tính linh hoạt, Toà án quốc gia bị ràng buộc nghiêm ngặt
bởi các quy tắc tố tụng quốc gia. Còn đối với Trọng tài, đa số các quy tắc tố
tụng trọng tài quy định rất linh hoạt việc xác định thủ tục trọng tài, phiên họp
giải quyết tranh chấp, thời hạn, địa điểm tổ chức phiên họp giải quyết tranh
chấp và nơi các Trọng tài viên gặp gỡ, thời gian soạn thảo quyết định trọng tài.
Thứ sáu, về các biện pháp tạm thời, khi cần hành động nhanh chóng và
hiệu quả để ngăn chặn sự vi phạm (thông qua lệnh bắt giữ tang vật vi phạm),
Toà án có thể ra lệnh c-ỡng chế khẩn cấp, thậm chí tr-ớc khi bắt đầu tố tụng
thực chất, Toà án cũng có thể ra lệnh c-ỡng chế đối với các bên thứ ba. Đối
với Trọng tài, tr-ớc khi Hội đồng trọng tài đ-ợc thành lập, các bên phải nhận
lệnh tạm thời thông qua Toà án, ở hầu hết các hệ thống pháp luật khi Hội
đồng trọng tài đ-ợc thành lập, các bên có thể vẫn nhận lệnh của Toà án để

ngăn chặn hành vi sai phạm. Theo luật của nhiều n-ớc, Hội đồng trọng tài
cũng đ-ợc quyền áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Tuy nhiên, Trọng tài
viên không thể ra lệnh cho bên thứ ba.
Thứ bảy, về nhân chứng, các Toà án, đại diện chủ quyền quốc gia có
quyền triệu tập bên thứ ba và nhân chứng ra tr-ớc Toà, đây gọi là quyền c-ỡng
chế mà Trọng tài viên không có. Đối với Trọng tài, các Trọng tài viên không
có quyền triệu tập bên thứ ba khi ch-a có sự đồng ý của họ và không có quyền
yêu cầu một bên phải mời nhân chứng đến.
Thứ tám, về tốc độ, tố tụng toà án có thể bị trì hoãn và kéo dài, các bên
có thể gặp phải một loạt sự kháng cáo kéo dài và tốn kém. Trong khi tố tụng

14


trọng tài có thể tiến hành rất nhanh, có thể là vài tháng hoặc vài tuần nếu các
bên muốn.
Thứ chín, về tính bí mật, các phiên xét xử tại Toà án cũng nh- các phán
quyết khác là công khai. Trong khi các phiên họp giải quyết tranh chấp của
Trọng tài không đ-ợc tổ chức công khai và chỉ có các bên nhận đ-ợc quyết
định. Đây là một -u điểm lớn của Trọng tài khi vụ kiện liên quan tới các bí
mật th-ơng mại và phát minh. Các điều khoản chính trong hợp đồng bao gồm
cả những điều khoản về tính bí mật phải đ-ợc tuân thủ trong tố tụng trọng tài.
Bởi tính bí mật rất quan trọng trong tranh chấp về sở hữu trí tuệ, nên các điều
khoản bổ sung về tính bí mật có thể đ-ợc các bên lập (d-ới dạng điều khoản
hợp đồng) hoặc các Trọng tài viên (d-ới dạng một mệnh lệnh thủ tục hoặc
trong văn bản xác định thẩm quyền).
Thứ m-ời, về phí tổn, đối với tố tụng toà án, các bên phải trả thù lao cho
thẩm phán, ngoài ra phí hành chính rất hợp lý. Tuy nhiên, chi phí trong tranh
tụng quốc tế chủ yếu là thù lao cho các luật s-. Đối với tố tụng trọng tài, các
bên phải trả tr-ớc các khoản thù lao, chi phí đi lại và ăn ở cho Trọng tài viên,

cũng nh- chi phí hành chính cho tổ chức trọng tài quy chế.
Trên đây là những điểm khác biệt, cũng nh- -u điểm và nh-ợc điểm
của tố tụng toà án và tố tụng trọng tài trong việc giải quyết tranh chấp th-ơng
mại. Nhìn từ một khía cạnh khác, có thể thấy rằng, một sự lựa chọn chủ yếu
thay thế cho Trọng tài là đ-a vụ tranh chấp ra tr-ớc Toà án quốc gia. Thực ra
nếu các bên mong muốn một tranh chấp đ-ợc giải quyết theo một cách thức
có tính ràng buộc, họ nên đ-a vụ tranh chấp ra Toà án, hơn là tới một Hội
đồng trọng tài đ-ợc thành lập một cách riêng biệt. Vậy tại sao các bên trong
một vụ tranh chấp th-ơng mại quốc tế lại chọn đ-a ra Trọng tài thay vì đ-a ra
Toà án quốc gia và tại sao Trọng tài đ-ợc thành lập khắp nơi trên thế giới nhlà một ph-ơng thức thông th-ờng giải quyết các tranh chấp th-ơng mại quốc
tế? Có hai lý do chủ yếu: Thứ nhất, Trọng tài tạo cho các bên cơ hội lựa chọn

15


mốt diễn đn trung lập v mốt Hối đọng tróng ti trung lập; Thứ hai,
Trọng tài - nếu đi đến cùng sẽ dẫn đến một quyết định có hiệu lực thi hành đối
với bên thua kiện không chỉ ở nơi quyết định trọng tài đ-ợc tuyên mà cả ở trên
bình diện quốc tế, theo các quy định của các điều -ớc quốc tế nh- Công -ớc
New York.
Lựa chọn một diễn đàn trung lập và một Hội đồng trọng tài trung lập
Các bên trong một hợp đồng th-ơng mại quốc tế hầu nh- đến từ các
quỗc gia khc nhau. To n ch nh ca mốt bên sẽ l To n nước ngoi
đối với bên kia không chỉ theo nghĩa thủ tục tố tụng riêng mà có thể phù hợp
hoặc không phù hợp vói việc xét xử tranh chấp quốc tế, mà còn theo nghĩa nó
có ngôn ngữ riêng có thể là ngôn ngữ của hợp đồng hoặc không phải là ngôn
ngữ hợp đồng và có các thẩm phán và luật s- riêng. Một bên trong hợp
đồng quốc tế mà trong hợp đồng không có một thoả thuận trọng tài, nếu tranh
chấp phát sinh sẽ phải khởi kiện ra một Toà án n-ớc ngoài, phải thuê các luật
s- n-ớc ngoài chứ không phải những luật s- đã quen thuộc công việc kinh

doanh của họ và phải làm nhiệm vụ vừa tốn thời gian và tiền bạc là dịch hợp
đồng, th- từ trao đổi giữa các bên và các tài liệu liên quan khác sang ngôn ngữ
của Toà án đó.
Ng-ợc lại, việc đ-a tranh chấp ra Trọng tài có nghĩa là tranh chấp có
thể đ-ợc giải quyết ở một diễn đàn trung lập (hoặc địa điểm Trọng tài) chứ
không phải trên lãnh thổ quốc gia của một bên này hay bên kia. Đây là vấn đề
đặc biệt quan trọng trong bối cảnh các tranh chấp th-ơng mại quốc tế.
Việc lựa chọn Trọng tài là một ph-ơng thức giải quyết tranh chấp cũng
tạo cho mỗi bên cơ hội tham gia vào việc lựa chọn một Hội đồng trọng tài
trung lập. Mốt hoặc nhiều Trọng tài viên sẽ đ-ợc lựa chọn vì những chuyên
môn và kỹ năng đặc biệt của họ về luật th-ơng mại, sở hữu trí tuệ, xây dựng
hoặc một lĩnh vực phù hợp nào đó. Một Hội đồng trọng tài có kinh nghiệm sẽ
nắm đ-ợc một cách nhanh chóng các vấn đề quan trọng nhất về nội dung và

16


pháp luật áp dụng trong vụ tranh chấp và do đó tiết kiệm thời gian và tiền bạc
cho các bên, cũng nh- tạo cho các bên khả năng có đ-ợc một quyết định trọng
tài có thể chấp nhận đ-ợc. Hơn nữa, một vụ trọng tài có tính liên tục, bởi vì
Hội đồng trọng tài đã đ-ợc lựa chọn để giải quyết một vụ kiện cụ thể sẽ theo
vụ kiện đó từ đầu đến cuối. Điều này tạo điều kiện cho Hội đồng trọng tài có
thể hiểu biết rõ về các bên, những ng-ời t- vấn của họ và hiểu rõ vụ kiện vì nó
thể hiện thông qua bản bào chữa.
Ngoài ra, các bên đ-ơng sự đ-ợc tự do lựa chọn Trọng tài viên. Cách
thức lựa chọn Trọng tài và Hội đồng trọng tài phát huy tính dân chủ, khách
quan trong quá trình tố tụng. Hoạt động trọng tài diễn ra liên tục vì Hội đồng
trọng tài xét xử vụ kiện đã đ-ợc các bên lựa chọn, hoặc đ-ợc chỉ định để giải
quyết vụ kiện đó. Khi mang một vụ việc ra xét xử ở Toà án, có khả năng thẩm
phán đ-ợc chỉ định giải quyết vụ việc không có trình độ chuyên môn liên

quan đến đối t-ợng tranh chấp, đặc biệt các ngành có đặc thù chuyên môn cao
nh-: dầu khí, xây dựng, tài chính, đầu t-, bảo hiểm Khi giải quyết bằng
Trọng tài, các bên hoàn toàn có thể lựa chọn Trọng tài viên có trình độ chuyên
môn phù hợp với đối t-ợng tranh chấp, góp phần nâng cao hiệu quả, công
bằng và chính xác trong giải quyết tranh chấp. Trọng tài viên ng-ời chủ trì
phân xử tranh chấp theo suốt vụ kiện từ đầu đến cuối, vì vậy, họ có cơ hội tìm
hiểu tình tiết vụ việc. Điều này có lợi ngay cả khi các bên muốn hòa giải hoặc
giải quyết tranh chấp thông qua đàm phán, Trọng tài có thể hỗ trợ các bên đạt
tới một thỏa thuận.
Tòa án, khi xét xử các bên hoàn toàn phụ thuộc vào sự chỉ đạo của Toà
án về thủ tục, thời gian, địa điểm, cách thức xét xử đ-ợc quy định tr-ớc đó.
Trong khi đó, với Trọng tài, các bên thông th-ờng đ-ợc tự do lựa chọn thủ tục,
thời gian, địa điểm ph-ơng thức giải quyết tranh chấp theo ph-ơng thức tiện
lợi, nhanh chóng, hiệu quả nhất cho các bên trong khuôn khổ pháp luật cho
phép. Điều này có thể làm giảm chi phí, thời gian và tăng hiệu quả cho quá

17


trình giải quyết tranh chấp. Tính liên tục, đặc biệt trong hoạt động kinh doanh
quốc tế đòi hỏi các bên không thể lãng phí thời gian, điều mà các Tòa án sẽ
rất khó đáp ứng đ-ợc do luôn phải giải quyết nhiều tranh chấp cùng một lúc,
gây ra khả năng ách tắc hồ sơ. Giải quyết tranh chấp bằng Tòa án cho phép
các bên đ-ợc quyền kháng án cũng làm cho tiến độ bị kéo dài.
Quyết định có thể c-ỡng chế thi hành
Kết thúc Trọng tài (nếu các bên không đạt đ-ợc một sự thoả thuận nào
tr-ớc khi kết thúc Trọng tài) Hội đồng trọng tài sẽ ra một phán quyết d-ới
hình thức một quyết định trọng tài. Kết quả cuối cùng của tố tụng trọng tài sẽ
là một phán quyết có tính ràng buộc và không phải là (nh- trong hoà giải) một
sự gợi ý mà các bên có toàn quyền chấp nhận hay không chấp nhận nếu họ

muốn. Trong giới hạn, quyết định trọng tài là chung thẩm, nó không phải nhtr-ờng hợp một số bản án của Toà án ở b-ớc đầu tiên của thang bậc kháng
cáo. Một khi phán quyết trọng tài đã đ-ợc tuyên, nó có thể đ-ợc c-ỡng chế thi
hành một cách trực tiếp bởi Toà án, cả trên bình diện quốc gia và quốc tế.
Về ph-ơng diện này, một quyết định trọng tài khác với một thoả thuận
là kết quả của trung gian hoặc mốt hình thức giải quyết tranh chấp lựa chọn
khc, l chỉ rng buốc theo nghĩa vú hợp đồng. Về khả năng có thể đ-ợc thi
hành trên bình diện quốc tế, một phán quyết trọng tài cũng khác một bản án
của Toà án bởi vì các điều -ớc quốc tế điều chỉnh việc thi hành một phán
quyết trọng tài (nh- Công -ớc New York) đ-ợc nhiều quốc gia thừa nhận hơn
so với các điều -ớc quốc tế về việc công nhận lẫn nhau các bản án của Toà án.
Thực ra chỉ có duy nhất một điều -ớc quốc tế đa ph-ơng quan trọng về công
nhận và cho thi hành bản án của Toà án đó là Quy định số 44/2001 của Hội
đồng Châu Âu (tr-ớc đây là các Công -ớc Brussels và Lugano) liên quan đến
các bản án đ-ợc tuyên bởi các n-ớc thành viên của Liên minh Châu Âu và
Thuỵ Sĩ. Hội nghị Hague về Luật t- pháp quốc tế cũng đã gặp trở ngại trong
những năm gần đây trong việc soạn thảo một Dự thảo tm thội Công ước về

18


Thẩm quyền và Công nhận và Thi hành Bản án Dân sự và Th-ơng mại của
Toà án n-ớc ngoài.
Trọng tài là một cơ chế giải quyết tranh chấp bí mật
Trọng tài là một tiến trình giải quyết tranh chấp có tính riêng biệt. Hầu
hết pháp luật về Trọng tài của các n-ớc đều thừa nhận nguyên tắc Trọng tài xử
kín (in camera) nếu các bên không quy định khác. Tính bí mật thể hiện rõ ở
nội dung tranh chấp và danh tính của các bên đ-ợc giữ kín, đáp ứng nhu cầu
tin cậy trong quan hệ th-ơng mại. Điều đó có ý nghĩa lớn trong điều kiện cạnh
tranh.
Đây là -u điểm đối với những doanh nghiệp không muốn các chi tiết

trong vụ tranh chấp của mình bị đem ra công khai, tiết lộ tr-ớc Tòa án (hoặc
công chúng) điều mà các doanh nghiệp luôn coi là tối kỵ trong hoạt động
kinh doanh của mình.
Tính bí mật của tố tụng trọng tài đ-ợc coi là một trong các -u điểm
quan trọng của Trọng tài. Không giống nh- tố tụng ở Toà án, nơi mà phóng
viên và công chúng th-ờng có quyền có mặt, một vụ Trọng tài quốc tế không
phải là một thủ tục tố tụng công khai. Về bản chất, nó là một thủ tục kín.
Xu h-ớng hiện nay trong Trọng tài quốc tế là phân biệt giữa sự bí mật
không còn tranh cãi của phiên họp giải quyết tranh chấp với tính bảo mật
thông tin của tố tụng trọng tài nói chung. Xu h-ớng này d-ờng nh- đã chịu
ảnh h-ởng đáng kể bởi các vụ trọng tài mà có các lợi ích công cộng thật sự
theo nghĩa phán quyết của hội đồng trọng tài theo cách nào đó ảnh h-ởng đến
công chúng nói chung. ở Hoa Kỳ, cả Luật Trọng tài Liên bang và Luật Trọng
tài Thống nhất đều không có quy định yêu cầu các bên hoặc Trọng tài viên giữ
bí mật về vụ trọng tài mà họ tham gia. Hậu quả là, trừ khi thoả thuận của các
bên hoặc quy tắc tố tụng trọng tài đ-ợc áp dụng có quy định khác, Luật Hoa
Kỳ không buộc các bên phải giữ bí mật về tố tụng trọng tài và những thông tin
đ-ợc tiết lộ cho họ. Một vài quy tắc tố tụng trọng tài quy chế, bao gồm cả

19


Trung tâm Giải quyết Tranh chấp Đầu t- Quốc tế (ICSID), quy định phán
quyết trọng tài chỉ đ-ợc công khai với sự đồng ý của các bên và một quy định
có tác động t-ơng tự cũng đ-ợc quy định trong Quy tắc tố tụng trọng tài của
Uỷ ban Pháp luật Th-ơng mại Quốc tế Liên Hợp Quốc (UNCITRAL). Tuy
nhiên, điều luôn đ-ợc thừa nhận là có những tr-ờng hợp mà một phán quyết
trọng tài có thể cần phải đ-ợc công khai, ví dụ vì mục đích thi hành bởi Toà
án quốc gia. Ngoài việc công bố các phán quyết trọng tài theo quy định của
pháp luật, việc công bố còn đ-ợc thực hiện khi một tổ chức trọng tài, ví dụ

nh- Phòng Th-ơng mại Quốc tế, đặt tại Pari (ICC) xuất bản các bản sao quyết
định tróng ti được sắp xếp v biên tập như l ti liệu hướng dẫn cho cc
luật s- và Trọng tài viên. Quy tắc Trọng tài Quốc tế của Trung tâm Giải quyết
Tranh chấp Quốc tế (ICDR) quy định một phán quyết trọng tài có thể đ-ợc
công khai chỉ khi cõ sự đọng ý của tất cả các bên hoặc theo quy định của
php luật. Những quy tắc ny quy định, trụ khi cõ sự đọng ý ca cc bên, cc
phán quyết trọng tài đ-ợc tuyển chọn có thể đ-ợc công khai, nh-ng tên của
các bên và các đặc điểm nhận biết khác đã đ-ợc loại bỏ. Nếu phán quyết trọng
tài trở nên công khai thông qua các thủ tục cho thi hành, khi đó tên của các
bên không nhất thiết phải bị loại bỏ.
Nh- vậy, một trong các -u điểm của Trọng tài là một tố tụng t-, trong
đó các bên có thể trình bày những sự khác biệt và bất đồng của họ và thảo
luận tình hình tài chính của họ, bí mật công nghệ độc quyền mà không phải
phơi bày ra tr-ớc công chúng và cơ quan truyền thông. Thực tế là phiên họp
giải quyết tranh chấp không công khai vẫn là một đặc điểm không thay đổi
của Trọng tài. Tuy nhiên, để đảm bảo tính bí mật của toàn bộ quá trình tố
tụng, ngày càng cần thiết phải dựa vào một quy định rõ ràng của các quy tắc
có liên quan, ví dụ: Quy tắc của Toà án Trọng tài Quốc tế Luân Đôn (LCIA)
hoặc của Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới (WIPO) hoặc ký kết một thoả thuận
bảo mật cụ thể.

20


Ngoài ra, có thể thấy một -u điểm quan trọng nữa của tố tụng trọng tài
là, tuy là giải quyết tranh chấp th-ơng mại bằng Trọng tài một tổ chức phi
chính phủ, nh-ng đ-ợc sự hỗ trợ, bảo đảm về mặt pháp lý của Toà án, thể hiện
ở: Vấn đề thực thi thoả thuận trọng tài; vấn đề thành lập Hội đồng trọng tài;
vấn đề kh-ớc từ thẩm quyền của Hội đồng trọng tài; về việc áp dụng các biện
pháp khẩn cấp tạm thời, các biện pháp liên quan đến việc có mặt của nhân

chứng; vấn đề kiểm soát pháp lý đối với quá trình tố tụng trọng tài và quyết
định trọng tài.
1.1.3. Những hạn chế của Trọng tài và vai trò của Tòa án trong tố tụng
trọng tài
Nh- đã nói ở trên, tuy Trọng tài có những -u điểm nổi bật so với Tòa
án, song nó cũng có những hạn chế nhất định trong giải quyết các tranh chấp
th-ơng mại. Có thể thấy một số hạn chế cơ bản của Trọng tài sau đây:
Thứ nhất, thẩm quyền của Trọng tài viên bị hạn chế: Hiệu quả của một
Hội đồng trọng tài phải phụ thuộc vào hệ thống pháp luật quốc gia. Đôi khi
các Trọng tài viên có thể thực hiện nhiều quyền hạn hơn so với các thẩm phán.
Tuy nhiên, nói chung các quyền hạn đ-ợc trao cho các Trọng tài viên mặc dù
th-ờng đủ cho mục đích giải quyết tranh chấp nh-ng vẫn không bằng quyền
hạn đ-ợc trao cho Tòa án. Ví dụ, quyền yêu cầu sự có mặt của nhân chứng:
Các Trọng tài viên không có quyền triệu tập bên thứ ba khi ch-a có sự đồng ý
của họ và không có quyền yêu cầu một bên phải mời nhân chứng đến. Trong
khi đó, Tòa án đại diện chủ quyền quốc gia, có quyền triệu tập bên thứ ba và
nhân chứng ra tr-ớc Tòa. Đây gọi là quyền c-ỡng chế và là đặc quyền của một
Nhà n-ớc mà Trọng tài viên không có, chúng không phải là những quyền mà
bất kỳ Nhà n-ớc nào cũng sẵn sang trao cho một Hội đồng trọng tài t- mặc dù
Hội đồng trọng tài có thể rất xuất sắc và thiện chí.
Ngoài ra, đối với việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời: Tr-ớc
khi Hội đồng trọng tài đ-ợc thành lập, các bên phải nhận lệnh tạm thời thông

21


×