Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Dấu hiệu định lượng trong luật hình sự việt nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn trên địa bàn tỉnh đắk nông) luận văn ths

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (636.69 KB, 79 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN VĂN GIANG

DÊU HIÖU ĐịNH LƯợNG TRONG LUậT HìNH Sự VIệT NAM
(Trên cơ sở số liệu thực tiễn trên địa bàn tỉnh Đắk Nông)

LUN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN VĂN GIANG

DÊU HIÖU ĐịNH LƯợNG TRONG LUậT HìNH Sự VIệT NAM
(Trên cơ sở số liệu thực tiễn trên địa bàn tỉnh Đắk Nông)
Chuyờn ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS. TS. ĐỖ NGỌC QUANG

HÀ NỘI - 2015


LỜI CAM ĐOAN



Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tơi, các số liệu thống kê, ví dụ và trích dẫn trong luận văn
đảm bảo tính thực tiễn, chính xác, trung thực và tin cậy. Các kết
quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ cơng trình
nghiên cứu nào khác, tơi đã hồn thành tất cả các mơn học theo
chương trình và thực hiện tất cả các nghĩa vụ về tài chính theo quy
định của Khoa Luật Đại Học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật Đại học
Quốc gia Hà Nội xem xét để tơi có thể bảo vệ luận văn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
Tác giả luận văn

Nguyễn Văn Giang


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DẤU HIỆU ĐỊNH
LƯỢNG TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM........................... 6
1.1.

Khái niệm, phân loại dấu hiệu định lượng trong Luật hình
sự Việt Nam ...................................................................................... 6


1.1.1. Khái niệm dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự ............................ 6
1.1.2. Phân biệt dấu hiệu định lượng và dấu hiệu định tính trong Luật
hình sự ............................................................................................. 11
1.1.3. Phân loại dấu hiệu định lượng trong luật hình sự ............................. 14
1.2.

Quá trình hình thành và phát triển của Luật hình sự Việt
Nam về dấu hiệu định lượng ......................................................... 19

1.2.1. Giai đoạn 1945 đến 1985 ................................................................. 19
1.2.2. Giai đoạn 1985 đến 1999 ................................................................. 21
1.3.

Quy định của Bộ luật hình sự 1999 về dấu hiệu định lượng
trong cấu thành tội phạm cụ thể Phần các tội phạm. .................. 27

1.3.1. Dấu hiệu định lượng về hình thức được thể hiện trong các quy
định tại các cấu thành tội phạm cụ thể Bộ luật hình sự năm 1999 ........ 27
1.3.2. Dấu hiệu định lượng về nội dung được thể hiện trong các quy
định tại các cấu thành tội phạm cụ thể Bộ luật hình sự năm 1999 ........ 30


Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG DẤU HIỆU ĐỊNH LƯỢNG
TRONG LUẬT HÌNH SỰ (TRÊN CƠ SỞ SỐ LIỆU THỰC
TIỄN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK NÔNG) VÀ NHỮNG KIẾN
NGHỊ, ĐỀ XUẤT ........................................................................... 37
2.1.

Thực tiễn áp dụng dấu hiệu định lượng trong luật hình sự
(trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Nơng).................... 37


2.1.1.

Sơ lược về tình hình địa chính trị, kinh tế, xã hội tỉnh Đắk Nông .......... 37

2.1.2. Những kết quả đạt và những tồn tại, vướng mắc trong áp dụng
dấu hiệu định lượng trong luật hình sự trên địa bàn tỉnh Đắk
Nông giai đoạn từ 2010 đến 2014 .................................................... 39
2.1.3. Nguyên nhân gây nên những tồn tại vướng mắc trong việc áp
dụng dấu hiệu định lượng trong luật hình sự trên địa bàn tỉnh
Đắk Nơng ........................................................................................ 51
2.2.

Những kiến nghị đề xuất nâng cao hiệu quả áp dụng dấu
hiệu định lượng trong luật hình sự ............................................... 56

2.2.1. Quan điểm của Đảng và nhà nước trong hoàn thiện quy định
pháp luật hình sự về các tội phạm cụ thể có liên quan đến dấu
hiệu định lượng ................................................................................ 56
2.2.2. Kiến nghị, đề xuất hồn thiện pháp luật hình sự về dấu hiệu
định lượng trong một số cấu thành tội phạm cụ thể .......................... 59
2.2.3. Các kiến nghị đề xuất khác liên quan đến áp dụng dấu hiệu định
lượng trong Luật hình sự vào thực tiễn đấu tranh phịng chống
tội phạm ........................................................................................... 63
KẾT LUẬN ................................................................................................. 68
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 71


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu bảng


Tên bảng

Trang

Bảng 2.1: Tình hình xét xử các vụ án hình sự tại các cấp tịa
án nhân dân tỉnh Đắk Nơng

40

Bảng 2.2. Tình hình xét xử các vụ án hình sự có dấu hiệu định
lượng tại các cấp tịa án nhân dân tỉnh Đắk Nơng từ
năm 2010 đến 2014

45


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong q trình điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự (VAHS), các
cơ quan điều tra, truy tố, xét xử phải định tội danh căn cứ vào các yếu tố cấu
thành tội phạm để chứng minh có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời
gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội; ai là người thực
hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay khơng có lỗi, do cố ý hay vơ ý; có năng lực
trách nhiệm hình sự hay khơng; mục đích, động cơ phạm tội; những tình tiết
tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và
những đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo; tính chất và mức độ thiệt
hại do hành vi phạm tội gây ra nhằm xác định đúng tính chất của vụ án. Việc
nhận thức chân lý khách quan của vụ án hình sự là một quá trình hết sức
phức tạp được tạo bởi các hoạt động thu thập, kiểm tra, đánh giá các chứng

cứ do các chủ thể tiến hành tố tụng thực hiện phù hợp với các qui định của
Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự. Vì vậy, để định đúng tội danh mà
người phạm tội đã thực hiện cần căn cứ vào các dấu hiệu của cấu thành tội
phạm, trong đó có dấu hiệu định tính và dấu hiệu định lượng trong mặt
khách quan của tội phạm, tùy thuộc vào từng cấu thành tội phạm cụ thể mà
Bộ luật hình sự quy định.
Do “tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ
luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý
hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc,
xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hố, quốc phịng, an ninh,
trật tự, an tồn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp
khác của cơng dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội
chủ nghĩa” mà hành vi phạm tội có thể xảy ra trong các lĩnh vực khác nhau của

1


đời sống xã hội. Tùy theo tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của từng
hành vi phạm tội xâm phạm vào các nhóm quan hệ xã hội khác nhau được pháp
luật hình sự bảo vệ mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm xâm phạm ở từng
lĩnh vực cụ thể. Để tránh những sai lầm trong việc xử lý hành vi nguy hiểm cho
xã hội, Bộ luật hình sự có quy định dấu hiệu định lượng để phân biệt hành vi
nguy hiểm cho xã hội đến mức nào thì phải bị xử lý về hình sự hoặc đến mức
nào thì phải bị xử lý về hành chính. Đây là vấn đề mấu chốt rất quan trọng để
phân biệt hành vi nguy hiểm cho xã hội là tội phạm và hành vi nguy hiểm cho xã
hội khơng phải là tội phạm. Trên cơ sở đó đưa ra các chế tài xử lý phù hợp với
từng hành vi nguy hiểm cho xã hội.
Vấn đề dấu hiệu định lượng trong luật hình sự Việt Nam đã được đề
cập khi xây dựng Bộ luật hình sự năm 1985. Tuy nhiên, quá trình áp dụng Bộ

luật hình sự 1985 đã bộc lộ nhiều khiếm khuyết trong việc quy định dấu hiệu
định lượng nên đã dẫn đến sự tùy tiện trong việc định tội danh tại giai đoạn
điều tra, truy tố, xét xử. Bộ luật hình sự năm 1999 thay thế Bộ luật hình sự
năm 1985 đã khắc phục tình trạng này bằng cách quy định rõ hơn những dấu
hiệu định lượng trong từng nhóm tội phạm cụ thể.
Tuy nhiên, vấn đề nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn áp
dụng qui định của pháp luật hình sự vào quá trình chứng minh vụ án hình sự
của cơ quan tiến hành tố tụng rất ít được quan tâm nghiên cứu. Bên cạnh đó,
Bộ luật hình sự 1999 qui định về vấn đề này ở một chừng mực nào đó cịn
chưa cụ thể, chặt chẽ và đang phát sinh nhiều bất cập do sự thay đổi của tình
hình kinh tế, xã hội đất nước. Mặt khác, trong khoa học luật hình sự cịn
khơng ít vấn đề về dấu hiệu định lượng còn chưa thống nhất về cách hiểu,
thậm chí có những quan điểm trái ngược nhau.Trong thực tiễn hoạt động đấu
tranh phòng, chống tội phạm, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, tình hình tội
phạm đang diễn ra hết sức phức tạp, thủ đoạn gây án và che giấu tội phạm của

2


kẻ phạm tội ngày càng tinh vi, xảo quyệt hơn thì cần quy định một cách rất cụ
thể về dấu hiệu định lượng trong từng tội phạm vụ thể. Điều đó đặt ra yêu cầu
cần tiếp tục nghiên cứu về dấu hiệu định lượng để góp phần hồn thiện Bộ
luật hình sự bổ sung, sửa đổi thời gian tới đây. Trước yêu cầu này, tác giả lựa
chọn đề tài: “Dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở
số liệu thực tiễn trên địa bàn tỉnh Đắk Nơng)” viết luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu
Cho đến nay đã có một số rất ít cơng trình cơng bố về kết quả nghiên
cứu liên quan đến dấu hiệu trong luật hình sự. Cụ thể: Luận văn thạc sĩ luật
học năm 2004: “Vai trò của Yếu tố định lượng tài sản trong việc phân biệt tội
phạm với hành vi không phải là tội phạm trong pháp luật hình sự Việt

Nam”của tác giả Nghiêm Xuân Cường; Bài viết: “Vấn đề định lượng tài sản
bị chiếm đoạt trong Bộ luật hình sự năm 1999” của tác giả Lê Thúy Phượng
đăng trên tạp chí Tịa án nhân dân số 3/1999; Bài viết: Có cần định giá tài sản
theo Bộ luật hình sự mới hay khơng” của tác giả Hồ Oanh đăng trên tạp chí
Tịa án nhân dân số 8/2000; Bài viết: “Bàn về định lượng trong Bộ luật hình
sự năm 1999” của TS. Đặng Anh đăng trên tạp chí Tòa án nhân dân số
7/2002; Bài viết: “Dấu hiệu định lượng trong Bộ luật hình sự” của TS. Lê Thị
Sơn đăng trên Tạp chí Luật học số 1/2005 v.v.... Tuy nhiên, các cơng trình
nghiên cứu và các bài viết trên chỉ thể hiện ở một phần, ở một khía cạnh nhất
định trong nghiên cứu dấu hiệu định lượng trong luật hình sự theo từng
chương của Bộ luật hình sự ở từng nhóm tội phạm mà chưa nghiên cứu tồn
diện những vấn đề liên quan đến dấu hiệu định lượng khi định tội danh cũng
như định lượng khi áp dụng tình tiết định khung tăng nặng và giảm nhẹ.
Từ thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự và nghiên cứu về
mặt lý luận, thực tiễn dấu hiệu định lượng của tội phạm, đặt ra yêu cầu địi hỏi
phải nghiên cứu một cách tồn diện và có hệ thống vấn đề lý luận và thực tiễn

3


của những quy định dấu hiệu định lượng trong luật hình sự. Đây là vấn đề hết
sức cần thiết, nhằm khơng ngừng hồn thiện pháp luật hình sự Việt Nam, trên
cơ sở đó tạo nền tảng cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tịa án khắc phục
thiếu sót nhằm xác định chính xác tội danh và bảo đảm xử lý công minh, công
bằng, đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước ta trong
giai đoạn hiện nay và tương lai.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu luận văn
Mục đích của luận văn là làm quy định về dấu hiệu định lượng trong
luật hình sự Việt Nam nhằm giúp cho việc định tội danh cũng như tính chất
và mức độ phạm tội của từng tội phạm.

Để đạt được mục đích nêu trên, nhiệm vụ nghiên cứu luận văn tập trung
vào nghiên cứu cơ sở lý luận hình thành và của những quy định của luật thực
định liên quan đến dấu hiệu định lượng trong luật hình sự; nghiên cứu thực
trạng áp dụng những quy định về dấu hiệu định lượng trong thực tiễn điều tra,
truy tố, xét xử vụ án hình sự trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk
Nông; nghiên cứu làm rõ những tồn tại, vướng mắc trong áp dụng pháp luật
hình sự và đưa ra những giải pháp hồn thiện pháp luật hình sự về dấu hiệu
định lượng khi định tội danh cũng như khi xem xét tính chất, mức độ phạm
tội của những tội phạm có liên quan.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những dấu hiệu định lượng trong
luật hình sự về những tội phạm cụ thể.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là những quy định dấu hiệu định
lượng trong phần các tội phạm Bộ luật hình sự năm 1999 trên cơ sở số liệu
thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Nông từ năm 2009 đến 2014.
5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Việc nghiên cứu đề tài dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lê

4


Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; quan điểm của Đảng
và Nhà nước ta về cải cách tư pháp và đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể của khoa học
luật hình sự như: phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê xã hội
học, điều tra… để tổng hợp các tri thức khoa học luật hình sự và luận chứng
các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn này.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, có 2 chương:
Chương 1. Những vấn đề chung về dấu hiệu định lượng trong luật

hình sự Việt Nam.
Chương 2. Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về dấu hiệu định lượng
trên địa bàn tỉnh Đắk Nông và các kiến nghị đề xuất.

5


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DẤU HIỆU
ĐỊNH LƯỢNG TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

1.1. Khái niệm, phân loại dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự
Việt Nam
1.1.1. Khái niệm dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự
Dấu hiệu, theo Từ điển Tiếng Việt, là cái định ra theo quy ước để nhận
diện một một sự vật, hoặc một hiện tượng. Ví dụ, hành vi giơ tay làm dấu
hiệu. Cịn định lượng, cũng theo Từ điển này, là số lượng cụ thể. Ví dụ, khẩu
đội pháo cao xạ có 5 người, mỗi người làm một nhiệm vụ khác nhau liên quan
đến hoạt động của khẩu pháo, nếu thiếu một người thì khơng thể là khẩu đội
pháo. Như vậy, dấu hiệu định lượng được hiểu là dấu hiệu xác định số lượng
hình thành một sự vật, một hiện tượng trong xã hội
Khác với những sự vật, hiện tượng trong xã hội, tội phạm tuy là một
hiện tượng xã hội, nhưng để xác định tội phạm phải dựa vào tính nguy hiểm
cho xã hội của hành vi phạm tội. Tính nguy hiểm cho xã hội thể hiện ở chỗ nó
ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của xã hội. Để xác định hành vi nào đó
do con người thực hiện có phải là tội phạm hay khơng phải dựa vào cấu thành
tội phạm. Cấu thành tội phạm là cơ sở pháp lý thống nhất để truy cứu trách
nhiệm hình sự người phạm tội. Nhắc đến cấu thành tội phạm là đề cập đến các
yếu tố bắt buộc cấu thành nên tội phạm đó cũng như các dấu hiệu của mỗi yếu
tố đó. Phụ thuộc vào mỗi chế độ, nhà nước khác nhau và phụ thuộc vào chính

sách hình sự của nhà nước đó mà quy định trong pháp luật hình sự những yếu
tố nào là các yếu tố cấu thành tội phạm. Cấu thành tội phạm là những yếu tố
đặc trưng của các loại tội phạm cụ thể được quy định trong Bộ luật hình sự.
Chỉ khi nào có đầy đủ các dấu hiệu bắt buột này thì hành vi vi phạm pháp luật

6


mới được coi là hành vi phạm tội. Những dấu hiệu bắt buộc bao gồm: khách
thể, chủ thể, mặt chủ quan, mặt khách quan của tội phạm.
 Khách thể của tội phạm là hệ thống các quan hệ xã hội bị tội phạm
xâm hại như: “độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc,
xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hố, quốc phịng, an ninh,
trật tự, an tồn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp
pháp khác của cơng dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật
xã hội chủ nghĩa.
 Chủ thể của tội phạm là một cá nhân (con người cụ thể) có khả năng
nhận thức và điều khiển hành vi của mình và có độ tuổi chịu trách nhiệm hình
sự theo Điều 12 của BLHS 1999 quy định: Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải
chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng
chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng
do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
 Mặt chủ quan của tội phạm là biểu hiện bên trong ý thức của người
thực hiện hành vi phạm tội thông qua ba yếu tố: lỗi, động cơ phạm tội và mục
đích phạm tội.
Do tội phạm là sự thống nhất giữa hai mặt khách quan và chủ quan. Vì
vậy, Luật hình sự Việt nam khơng chấp nhận việc quy tội khách quan, nghĩa
là truy cứu trách nhiệm hình sự chỉ căn cứ vào những biểu hiện của hành vi
nguy hiểm cho xã hội khơng kể hành vi đó bắt nguồn từ đâu, diễn biến tâm lý

của người thực hiện hành vi ra sao. Hoạt động định tội phải là sự kết hợp giữa
mặt khách quan và chủ quan, giữa hành vi biểu hiện và thái độ bên trong của
người thực hiện hành vi. Xem xét mặt chủ quan của tội phạm biểu hiện thông
qua ba yếu tố: lỗi, động cơ phạm tội và mục đích phạm tội. Mỗi yếu tố có ý
nghĩa khác nhau trong việc chủ thể thực hiện hành vi phạm tội.

7


Lỗi là biểu hiện về mặt tâm lý của người phạm tội đối với hành vi nguy
hiểm cho xã hội của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra được biểu
hiện dưới hình thức lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý. Một hành vi của bị xem là có lỗi
khi hành vi đó là kết quả của sự tự lựa chọn của họ trong khi có đủ điều kiện
khách quan để lựa chọn và thực hiện những xử sự khác phù hợp với đòi hỏi
của xã hội. Lỗi cố ý là trường hợp người phạm tội nhận thức rõ hành vi của
mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong
muốn hậu quả xẩy ra; hoặc trường hợp người phạm tội nhận thức rõ hành vi
của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể
xẩy ra, tuy khơng mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy
ra. Lỗi vô ý là trường hợp người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có
thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ khơng
xẩy ra hoặc có thể ngăn ngừa được; hoặc trường hợp người phạm tội không
thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc
dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó.
Mục đích phạm tội là kết quả cuối cùng mà người phạm tội muốn đạt
được khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Nó xác định khuynh hướng
ý chí và khuynh hướng hành động của người phạm tội. Còn động cơ phạm tội
là động lực thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội
 Mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện bên ngoài của tội
phạm bao gồm những dấu hiệu hành vi nguy hiểm cho xã hội; hậu quả nguy

hiểm cho xã hội do hành vi nguy hiểm gây nên; mối quan hệ nhân quả giữa
hành vi và hậu quả, các dấu hiệu bên ngoài khác.
Hành vi nguy hiểm cho xã hội trong mặt khách quan của tội phạm là tất
cả những xử sự của con người được biểu hiện ra thế giới khách quan dưới
những hình thức nhất định (hành động hoặc không hành động) gây thiệt hại
hoặc đe dọa gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Để

8


trở thành hành vi khách quan của tội phạm thì hành vi đó phải có tính nguy
hiểm cho xã hội; thể hiện bằng hành động hoặc không hành động; được quy
định trong luật hình sự; gây nên hậu quả nguy hiểm cho xã hội bằng những
thiệt hại nhất định (cho nhà nước, xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân) do hành vi phạm tội gây ra cho các quan hệ xã hội luật hình sự
bảo vệ. Hậu quả thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như: hậu quả vật
chất là những thiệt hại mà con người trực tiếp hoặc thông qua các phương tiện
kỹ thuật có thể xác định được một cách chính xác mức độ của nó (ví dụ, thiệt
hại về vật chất thường được thể hiện thơng qua sự biến đổi tình trạng bình
thường của các đối tượng vật chất như tài sản bị phá huỷ, bị chiếm giữ, bị sử
dụng trái phép; thiệt hại về thể chất biểu hiện qua sự biến đổi tình trạng bình
thường của thực thể tự nhiên con người như tính mạng, sức khỏe v.v...); hậu
quả phi vật chất là những thiệt hại khơng thể tính tốn một cách chính xác
bằng các phương tiện đo lường. Sự thiệt hại này chỉ được đánh giá thông qua
hoạt động tư duy của con người. Thiệt hại loại này có thể kể đến như danh dự,
nhân phẩm, quyền tự do của con người, chính trị, xã hội, đạo đức….
Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của tội phạm là mối
quan hệ giữa các hiện tượng trong đó một hiện tượng được gọi là nguyên
nhân (là hành vi khách quan) làm phát sinh một hiện tượng khác là kết quả (là
hậu quả của tội phạm). Dùng để chỉ hành vi khách quan đóng vai trị là

ngun nhân, hậu quả nguy hiểm cho xã hội đóng vai trị là hậu quả. Để xác
định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả chúng ta cần dựa vào các
cơ sở có tính ngun tắc sau: hành vi được coi là nguyên nhân phải là hành vi
trái pháp luật hình sự và xảy ra trước hậu quả về mặt thời gian. Nguyên nhân
và hậu quả phải có mối quan hệ nội tại và tất yếu. Một nguyên nhân bao giờ
cũng chứa đựng mầm mống nội tại nhằm phát sinh kết quả nhất định.
Bên cạnh các mặt biểu hiện đã nêu, mặt khách quan của tội phạm còn

9


được biểu hiện qua các nội dung khác như phương pháp, phương tiện, công
cụ phạm tội, thời gian, địa điểm, hoàn cảnh phạm tội… Phương tiện phạm tội
như phương tiện giao thông, thông tin liên lạc, tiền… Công cụ phạm tội như
gậy gộc, súng, chất độc… là những đối tượng được chủ thể sử dụng để thực
hiện hành vi phạm tội. Phương tiện phạm tội trong một số trường hợp là dấu
hiệu định tội và định khung hình phạt.
Mỗi tội phạm cụ thể bao giờ cũng có đủ các yếu tố cấu thành tội phạm
bao gồm khách thể, chủ thể, mặt chủ quan, mặt khách quan như đã nêu ở trên.
Tuy nhiên, trong các yếu tố cấu thành tội phạm thì khi xác định tính nguy
hiểm của tội phạm thường được các cơ quan tiến hành tố tụng xem xét trước
tiên là các dấu hiệu trong mặt khách quan của tội phạm. Tùy thuộc vào từng
tội phạm cụ thể mà hành vi nguy hiểm cho xã hội, có thể thể hiện bằng hậu
quả của tội phạm gây ra cho xã hội. Chính những dấu hiệu hậu quả nguy hiểm
cho xã hội là dấu hiệu định tội như đã trình bày ở trên. Hậu quả có thể là vật
chất được thể hiện thơng qua sự biến đổi tình trạng bình thường của các đối
tượng vật chất như tài sản bị phá huỷ, bị chiếm giữ, bị sử dụng trái phép; thiệt
hại về thể chất biểu hiện qua sự biến đổi tình trạng bình thường của thực thể
tự nhiên con người như tính mạng, sức khỏe v.v...); hoặc hậu quả có thể là phi
vật chất thể hiện ở những những thiệt hại khơng thể tính tốn một cách chính

xác bằng các phương tiện đo lường mà chỉ được đánh giá thông qua hoạt
động tư duy của con người như danh dự, nhân phẩm, quyền tự do của con
người, chính trị, xã hội, đạo đức…. Trong các loại hậu quả về vật chất được
quy định trong mặt khách quan của tội phạm thì những hậu quả được quy
định trong cấu thành cơ bản của tội phạm được thể hiện ra bên ngồi có thể
cân, đong, đo đếm được thì được coi là dấu hiệu định lượng. Đây chính là
những dấu hiệu đặc trưng của từng tội dưới hình thức cấu thành tội phạm. Ví
dụ mức độ thiệt hại về tính mạng, sức khỏe; giá trị tài sản bị chiếm đoạt, bị hư

10


hỏng, bị thiệt hại v.v.... Ngoài ra, hành vi nguy hiểm cho xã hội trong mặt
khách quan của tội phạm còn được thể hiện ở những đối tượng phạm tội. Ví
dụ giá trị hàng hóa, kim khí q, đá q; trong lượng của những vật chất bị
cấm sản xuất, mua bán vận chuyển, tàng trữ v.v... Căn cứ vào những dấu hiệu
này mà định tội danh của từng tội phạm cụ thể hoặc định khung hình phạt
tăng nặng đối với người phạm tội.
Như vậy, dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự là một trong những
dấu hiệu thể hiện tại mặt khách quan của tội phạm mà căn cứ vào đó để định
tội danh của từng cấu thành tội phạm cơ bản, hoặc định khung tăng nặng
hình phạt của từng cấu thành tội phạm tăng nặng.
1.1.2. Phân biệt dấu hiệu định lượng và dấu hiệu định tính trong
Luật hình sự
Như phần trên đã trình bày, Luật hình sự quy định tội phạm cụ thể tại
Phần các tội phạm Bộ luật hình sự thơng qua phần quy định của quy phạm
pháp luật hình sự. Khoa học luật hình sự xác định quy phạm pháp luật hình sự
đối với mỗi tội phạm cụ thể được chia làm 3 phần: phần giả định (người nào);
phần quy định (mơ tả các dấu hiệu có tính đặc trưng của tưng tội dưới hình
thức của cấu thành tội phạm) và phần chế tài (quy định loại và mức hình phạt

cần áp dụng đối với người nào thỏa mãn nhưng dấu hiệu của cấu thành tội
phạm). Khoa học luật hình sự xác định có 3 loại quy định trong quy phạm
pháp luật hình sự phần các tội phạm cụ thể. Đó là “quy định tóm tắt”, “quy
định viện dẫn” và “quy định mơ tả”.
“Quy định tóm tắt” là quy định ngắn gọn, không mô tả những dấu hiệu
trong mặt khách quan của tội phạm. Ví dụ: Điều 138 Bộ luật hình sự quy định
về tội trộm cắp tài sản: Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị
từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng
nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi

11


chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xố án tích
mà cịn vi phạm, thì bị phạt...; hoặc Điều 93 Bộ luật hình sự quy định: Người
nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt.... Cịn thế
nào là trộm cắp tài sản, hoặc thế nào là giết người thì cần có sự hướng dẫn của
những văn bản quy phạm pháp luật khác.
“Quy định viễn dẫn” là quy định tội phạm thông qua một quy phạm pháp
luật khác, hay nói cách khác, để hiểu quy phạm pháp luật của tội phạm này
phải thông qua một quy phạm pháp luật của một tội phạm khác. Ví dụ, Điều
289 Bộ luật hình sự quy định về tội đưa hối lộ: Người nào đưa hối lộ mà của
hối lộ có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới mười triệu đồng hoặc dưới hai triệu
đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc vi phạm nhiều lần, thì bị phạt....
Tuy nhiên, để hiểu thế nào là đưa hội lộ phải thông qua quy phạm pháp luật
hình sự về tội nhận hội lộ. Bộ luật hình sự quy định về tội nhận hối lộ:
Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn, trực tiếp hoặc qua trung gian
đã nhận hoặc sẽ nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác dưới bất kỳ hình
thức nào có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới mười triệu đồng hoặc dưới hai
triệu đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây để làm hoặc không

làm một việc vì lợi ích hoặc theo u cầu của người đưa hối lộ, thì bị phạt....
Từ quy định này có thể hiểu về tội đưa hối lộ là: Người nào trực tiếp
hoặc qua trung gian đã đưa hoặc sẽ đưa tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất
khác dưới bất kỳ hình thức nào có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới mười
triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp
sau đây để u cầu người có chức vụ làm hoặc khơng làm một việc vì lợi ích
hoặc theo u cầu của mình, thì bị phạt....
“Quy định mơ tả” là quy định nêu một cách cụ thể về các dấu hiệu mặt
khách quan của tội phạm. Ví dụ, Điều 133 Bộ luật hình sự quy định về tội
cướp tài sản: Người nào dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc

12


có hành vi khác làm cho người bị tấn cơng lâm vào tình trạng khơng thể
chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt...; hoặc Điều 135 Bộ luật
hình sự quy định về tội cưỡng đoạt tài sản: Người nào đe doạ sẽ dùng vũ lực
hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản,
thì bị phạt....
Tuy nhiên, trong các quy phạm pháp luật hình sự phần các tội phạm cụ
thể có những quy định mơ tả thì cũng có sự khấc nhau về sự mô tả của các tội
phạm. Việc mô tả các dấu hiệu của tội phạm trong cấu thành tội phạm có thể
là sự mơ tả về dấu hiệu định lượng và có thể là sự mơ tả về dấu hiệu định tính.
Như phần trên đã trình bày, dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự là
một trong những dấu hiệu thể hiện tại mặt khách quan của tội phạm mà căn
cứ vào đó để định tội danh của từng cấu thành tội phạm cơ bản, hoặc định
khung tăng nặng hình phạt của từng cấu thành tội phạm tăng nặng. Như vậy,
quy định mô tả theo dấu hiệu định lượng là rất cụ thể, có thể xác định được
ngay thông qua hậu quả do tội phạm gây nên cho xã hội; hoặc thông qua giá
trị tài sản bị tội phạm tác động; hoặc thông qua đối tượng của tội phạm.

Cịn quy định của quy phạm pháp luật với mơ tả về dấu hiệu định tính
trong cấu thành tội phạm cụ thể thường rất trừu tượng, mà để hiểu rõ nội dung
về sự mơ tả này cần có sự hướng dẫn hoặc giải thích pháp luật mới có thể vận
dụng được thống nhất trong các cơ quan tư pháp. Ví dụ, Điều 285 Bộ luật
hình sự quy định về tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng: “Người
nào vì thiếu trách nhiệm mà không thực hiện hoặc thực hiện không đúng
nhiệm vụ được giao gây hậu quả nghiêm trọng, nếu không thuộc trường hợp
quy định tại các điều 144, 235 và 301 của Bộ luật này, thì bị phạt...”. Như
vậy, hiểu như thế nào là hậu quả nghiêm trọng là vấn đề rất trừu tượng mà để
hiểu nội hàm của hậu quả nghiêm trọng trong tội phạm này cần có hướng dẫn
của Nghị quyết Hội đồng thẩm phán Tịa án nhân dân tối cao thì tịa án các
cấp mới có thể áp dụng để xét xử tội phạm này một cách thống nhất.

13


Như vậy, điểm giống nhau của dấu hiệu định lượng và dấu hiệu định tính
trong cấu thành tội phạm cụ thể của Luật hình sự là những dấu hiệu thể hiện tại
mặt khách quan của tội phạm, mà căn cứ vào đó để định tội danh của từng cấu
thành tội phạm cơ bản, hoặc định khung tăng nặng hình phạt của từng cấu
thành tội phạm tăng nặng. Tuy nhiên, điểm khác nhau cơ bản của dấu hiệu định
lượng và dấu hiệu định tính trong cấu thành tội phạm cụ thể của Luật hình sự
chính là tính cụ thể và tính trừu tượng của dấu hiệu này. Đối với những dấu
hiệu định lượng trong cấu thành tội phạm cụ thể của Bộ luật hình sự, các cơ
quan tiến hành tố tụng có thể dựa vào những dấu hiệu này để có thể định ngay
được tội danh. Ngược lại, đối với những dấu hiệu định tính trong cấu thành tội
phạm cụ thể của Bộ luật hình sự, các cơ quan tiến hành tố tụng không thể dựa
vào những dấu hiệu này để có thể định ngay được tội danh, mà phải có sự
hướng dẫn áp dụng pháp luật hình sự của cơ quan tư pháp có thẩm quyền.
Với những hạn chế của dấu hiệu định tính trong cấu thành tội phạm cụ

thể như đã nêu trên, xu hướng chung của việc xây dựng cấu thành tội phạm là
cố gắng hạn chế sự mơ tả trừu tượng (định tính), tăng cường sự mơ tả theo
dấu hiệu định lượng. Từ đó việc áp dụng pháp luật hình sự mới được cụ thể,
rõ ràng, tránh những nhận định chủ quan của những người tiến hành tố tụng.
1.1.3. Phân loại dấu hiệu định lượng trong luật hình sự
Trong Bộ luật hình sự năm 1999, dấu hiệu định lượng không phải được
quy định trong tất cả các chương, hoặc không phải được quy định trong tất cả
các tội phạm cụ thể. Do vậy, có hai cách phân loại dấu hiệu định lượng trong
luật hình sự như sau: dấu hiệu định lượng về hình thức và dấu hiệu định lượng
về nội dung trong cấu thành tội phạm cụ thể.
 Dấu hiệu định lượng về hình thức trong cấu thành tội phạm cụ thể
được thể hiện ở những cấu thành tội phạm cơ bản và cấu thành tội phạm định
khung tăng nặng. Đối với dấu hiệu định lượng này có thể chia làm 3 loại:
Thứ nhất, dấu hiệu định lượng được quy định chỉ trong cấu thành tội
14


phạm cơ bản mà không được quy định trong cấu thành tội phạm tăng nặng. Ví
dụ, Tội giết con mới đẻ (Điều 94) quy định: “Người mẹ nào do ảnh hưởng nặng
nề của tư tưởng lạc hậu hoặc trong hoàn cảnh khách quan đặc biệt mà giết con
mới đẻ hoặc vứt bỏ đứa trẻ đó dẫn đến hậu quả đứa trẻ chết, thì bị phạt cải tạo
khơng giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm”. Dấu hiệu
định lượng trong tội danh này thể hiện ở chỗ: hậu quả đứa trẻ chết. Trong tội
danh này khơng có cấu thành tội phạm định khung tăng nặng. Hoặc ví dụ Tội
khơng cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng (Điều
102). Tại khoản 1 của điều luật này quy định: “Người nào thấy người khác
đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, tuy có điều kiện mà khơng
cứu giúp dẫn đến hậu quả người đó chết, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không
giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm”. Dấu hiệu định
lượng trong tội danh này là người không được cứu giúp chết. Tuy nhiên

khoản 2 của cấu thành tội phạm định khung tăng nặng lại không quy định dấu
hiệu định lượng mà chỉ quy định: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp
sau đây, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm: a) Người không cứu giúp là
người đã vô ý gây ra tình trạng nguy hiểm;b) Người khơng cứu giúp là người
mà theo pháp luật hay nghề nghiệp có nghĩa vụ phải cứu giúp.
Thứ hai, dấu hiệu định lượng không được quy định trong cấu thành
tội phạm cơ bản, nhưng lại được quy định trong cấu thành tội phạm tăng
nặng. Ví dụ, Điều 111 Bộ luật hình sự quy định về tội hiếp dâm (khoản 1 là
cấu thành tội phạm cơ bản không quy định dấu hiệu định lượng, nhưng
khoản 2, khoản 3 là cấu thành tội phạm định khung tăng nặng lại có quy
định dấu hiệu định lượng):
1. Người nào dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng
khơng thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu với nạn nhân
trái với ý muốn của họ, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.

15


2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ
bảy năm đến mười lăm năm:
h) Gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31%
đến 60%;
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ
mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:
a) Gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 61%
trở lên;
Như vậy, dấu hiệu định lượng trong tội hiếp dâm thể hiện ở mức độ
thương tích hoặc mức độ tổn hại về sức khỏe chỉ được quy định trong cấu
thành tội phạm định khung tăng nặng (tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà
tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%; tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ

thương tật từ 61% trở lên).
Thứ ba, dấu hiệu định lượng được quy định trong cả cấu thành tội
phạm cơ bản và cấu thành tội phạm tăng nặng. Ví dụ, Điều 104 Bộ luật hình
sự quy định Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của
người khác (khoản 1 là cấu thành tội phạm cơ bản; khoản 2, khoản 3 và khoản
4 là cấu thành tội phạm định khung tăng nặng):
1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc
một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo khơng giam giữ đến ba
năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:
a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho
nhiều người;
b) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;
c) Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người;
d) Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc
người khác khơng có khả năng tự vệ;

16


đ) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cơ giáo của mình;
e) Có tổ chức;
g) Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng
biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;
h) Th gây thương tích hoặc gây thương tích th;
i) Có tính chất cơn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm;
k) Để cản trở người thi hành cơng vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.
2. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% hoặc từ 11% đến 30%, nhưng thuộc
một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1

Điều này, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.
3. Phạm tội gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người hoặc từ 31% đến
60%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a
đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm.
4. Phạm tội dẫn đến chết nhiều người hoặc trong trường hợp đặc biệt
nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù
chung thân.
Như vậy, dấu hiệu định lượng trong tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khoẻ của người khác thể hiện ở mức độ thương tích hoặc mức
độ tổn hại về sức khỏe được quy định trong cả cấu thành tội phạm cơ bản và
cấu thành tội phạm định khung tăng nặng (từ 11% đến 30% hoặc dưới 11%;
từ 30% đến 60% hoặc từ 11% đến 30%; từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết
người hoặc từ 31% đến 60%).
 Phân loại về nội dung dấu hiệu định lượng trong cấu thành tội phạm
cụ thể được thể hiện bằng hậu quả của tội phạm, giá trị của tài sản, giá trị của
phương tiện phạm tội và trọng lượng của đối tượng tác động v.v... trong cấu
thành tội phạm cụ thể thuộc mặt khách quan của tội phạm thể hiện:
17


Thứ nhất, dấu hiệu định lượng phản ánh hậu quả của tội phạm dưới
dạng thiệt hại về thể chất (tính mạng, sức khỏe) với những tình tiết: làm chết
người; tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật theo tỷ lệ phần
trăm trong giới hạn nhất định. Ví dụ: Tội khơng cứu giúp người đang ở trong
tình trạng nguy hiểm đến tính mạng (Điều 102 Bộ luật hình sự); Tội gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác trong khi thi hành
công vụ (Điều 107 Bộ luật hình sự);
Thứ hai, dấu hiệu định lượng phản ánh hậu quả của tội phạm dưới dạng
thiệt hại về vật chất (tài sản bị phá hủy, bị hủy hoại, bị hư hỏng) với những

tình tiết thể hiện giá trị của tài sản. Ví dụ, Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng
tài sản (Điều 143 Bộ luật hình sự); Tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước
về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 165 Bộ luật hình sự);
Thứ ba, dấu hiệu định lượng phản ánh giá trị tài sản bị chiếm đoạt, bị
chiếm giữ, bị sử dụng trái phép. Ví dụ, Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản (Điều 140 Bộ luật hình sự); Tội chiếm giữ trái phép tài sản (Điều 141 Bộ
luật hình sự);
Thứ tư, dấu hiệu định lượng phản ánh đối tượng tác động của tội phạm
thể hiện bằng giá trị tài sản. Ví dụ, Tội bn lậu (Điều 153 Bộ luật hình sự);
Tội trốn thuế (Điều 161 Bộ luật hình sự);
Thứ năm, dấu hiệu định lượng phản ánh đối tượng tác động của tội
phạm thể hiện bằng trọng lượng của vật chất. Ví dụ, Tội tàng trữ, vận chuyển,
mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy (Điều 194 Bộ luật hình sự);
Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc
sản xuất trái phép chất ma túy (Điều 195 Bộ luật hình sự);
Thứ sáu, dấu hiệu định lượng phản ánh giá trị của phương tiện phạm tội.
Ví dụ, Tội nhận hối lộ (Điều 279 Bộ luật hình sự); Tội lợi dụng chức vụ, quyền
hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi (Điều 283 Bộ luật hình sự).

18


Như vậy, có nhiều cách phân loại dấu hiệu định lượng trong cấu thành
tội phạm của các quy phạm pháp luật hình sự Phần các tội phạm của Luật
hình sự. Việc phân loại này giúp cho việc nghiên cứu sâu những vấn đề liên
quan đến dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự của Luận văn này.
1.2. Quá trình hình thành và phát triển của Luật hình sự Việt Nam
về dấu hiệu định lượng
1.2.1. Giai đoạn 1945 đến 1985
Cách mạng Tháng Tám (năm 1945) thành cơng đã xóa bỏ xiềng xích

chế độ thực dân gầm 100 năm của Thực dân Pháp và chế độ quân chủ phong
kiến hàng chục thế kỷ lập lên Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa. Ngay
trong ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố với thế giới rằng,
Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hịa xóa bỏ hẳn quan hệ với thực dân Pháp,
xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam. Tuy nhiên, do
yêu cầu khách quan của một nhà nước, một đất nước không thể thiếu pháp
luật và không thể một thời gian ngắn nhà nước có thể ban hành đầy đủ pháp
luật để điều hành đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 02 ngày
10/10/1945 quyết định “giữ tạm thời các luật lệ hiện hành ở Bắc, Trung, Nam
bộ cho đến khi ban hành những bộ luật pháp duy nhất cho tồn quốc”, trong
đó có các bộ luật hình sự, tố tụng hình sự.
Trong tình hình đất nước vừa phải kháng chiến chống thực dân Pháp,
vừa phải kiến quốc quản lý đất nước, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
đã từng bước ban hành các văn bản pháp luật, trong đó có các văn bản pháp
luật hình sự về từng loại tội phạm. Ngay trong những năm đầu sau Cách mạng
Tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký ban hành các sắc lệnh về hình sự
như: Sắc lệnh số 06-SL ngày 15/1/1946 về truy tố những người ăn trộm, ăn
cắp, tự ý pháp hủy, cắt dây điện thoại và điện tín; Sắc lệnh số 46-SL ngày
25/2/1946 về truy tố tội phá hủy công sản; Sắc lệnh số 27-SL ngày 28/2/1946

19


×