Tải bản đầy đủ (.pdf) (132 trang)

Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng hình sự việt nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh đắk lắk) luận văn ths luật 60 38 01 04 pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (951.87 KB, 132 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

VÕ THỊ KHÁNH HỒI

nguyªn tắc bảo đảm quyền bào chữa
trong luật tố tụng hình sự việt nam
(Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk)

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

VÕ THỊ KHÁNH HỒI

nguyªn tắc bảo đảm quyền bào chữa
trong luật tố tụng hình sự việt nam
(Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk)
Chuyờn ngnh: Lut hỡnh s v t tụng hình sự
Mã số : 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS. TRỊNH QUỐC TOẢN

HÀ NỘI - 2015



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu khoa học
của riêng tơi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn bảo đảm
độ tin cậy, tính chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học
của luận văn đều được rút ra từ kết quả nghiên cứu.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Tác giả luận văn

Võ Thị Khánh Hoài


MỤC LỤC

Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng, biểu đồ
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC BẢO
ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ......... 8
1.1.

Khái quát về nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong tố
tụng hình sự ........................................................................................ 8

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa
trong TTHS........................................................................................... 8

1.1.2. Chủ thể của quyền bào chữa .............................................................. 12
1.1.3. Hình thức thực hiện quyền bào chữa ................................................. 13
1.1.4. Cơ sở của nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong TTHS ............ 14
1.1.5. Ý nghĩa của nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự ...................................... 16
1.2.

Mối quan hệ giữa nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa với
một số nguyên tắc khác của luật tố tụng hình sự và bảo đảm
quyền con người trong tố tụng hình sự .......................................... 18

1.2.1. Mối quan hệ giữa nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa với một
số nguyên tắc khác của luật tố tụng hình sự....................................... 18
1.2.2. Mối quan hệ giữa nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa với việc
bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự................................ 25


1.3.

Quá trình hình thành và phát triển của nguyên tắc bảo đảm
quyền bào chữa của người bị tam giữ, bị can, bị cáo ở Việt Nam ...... 27

1.3.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng Tháng Tám 1945 đến trước khi Bộ
luật TTHS năm 1988 có hiệu lực thi hành ......................................... 27
1.3.2. Giai đoạn từ khi Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 có hiệu lực
thi hành đến năm 2003 ....................................................................... 31
1.3.3. Giai đoạn từ khi Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 có hiệu lực
thi hành đến nay ................................................................................. 33
1.4.


Quy định về bảo đảm quyền bào chữa trong pháp luật quốc tế....... 35

Chương 2: NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM
QUYỀN BÀO CHỮA TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK.......42
2.1.

Nội dung cơ bản của nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa
trong tố tụng hình sự ........................................................................ 42

2.1.1. Bảo đảm quyền tự bào chữa ............................................................... 42
2.1.2. Bảo đảm quyền nhờ người khác bào chữa ......................................... 54
2.1.3. Trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc bảo
đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào
chữa của họ theo quy định của pháp luật ........................................... 63
2.2.

Thực tiễn áp dụng nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa
trong tố tụng hình sự trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.......................... 67

2.2.1. Đối với quyền tự bào chữa ................................................................. 67
2.2.2. Đối với quyền nhờ người khác bào chữa ........................................... 71
2.2.3. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong việc áp dụng
nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo ........................................................................................... 82


Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN NGUYÊN TẮC
BẢO ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA VÀ NÂNG CAO HIỆU
QUẢ ÁP DỤNG NGUYÊN TẮC NÀY TRÊN ĐỊA BÀN

TỈNH ĐẮK LẮK .............................................................................. 89
3.1.

Sự cần thiết và phương hướng hoàn thiện các quy định
pháp luật về nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong tố
tụng hình sự trước yêu cầu cải cách tư pháp................................. 89

3.1.1. Sự cần thiết hoàn thiện các quy định pháp luật về nguyên tắc
bảo đảm quyền bào chữa trong tố tụng hình sự ................................. 89
3.1.2. Phương hướng hồn thiện các quy định pháp luật về nguyên tắc
bảo đảm quyền bào chữa trong tố tụng hình sự ................................. 92
3.2.

Một số giải pháp hồn thiện quy định của luật tố tụng hình
sự về nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa.................................... 94

3.3.

Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng nguyên
tắc bảo đảm quyền bào chữa trong tố tụng hình sự trên địa
bàn tỉnh Đắk Lắk............................................................................ 107

3.3.1. Về giải thích, hướng dẫn áp dụng pháp luật .................................... 107
3.3.2. Về nhận thức .................................................................................... 108
3.3.3. Về tổ chức ........................................................................................ 110
3.3.4. Về cơ chế kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm về bảo đảm quyền
bào chữa ........................................................................................... 116
KẾT LUẬN .................................................................................................. 119
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 121



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLTTHS

: Bộ luật tố tụng hình sự

HĐXX

: Hội đồng xét xử

TAND

: Tịa án nhân dân

TANDTC

: Tòa án nhân dân tối cao

THTT

: Tiến hành tố tụng

TTHS

: Tố tụng hình sự

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa



DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Số hiệu
bảng, biểu đồ

Tên bảng, biểu đồ

Trang

Tình hình thụ lý, giải quyết án hình sự của Tòa án
Bảng 2.1: nhân dân hai cấp tỉnh Đắk Lắk trong giai đoạn từ

68

năm 2009 đến năm 2013
Số lượng vụ án hình sự của Tịa án hai cấp tỉnh Đắk
Bảng 2.2: Lắk bị hủy, sửa do lỗi chủ quan của Thẩm phán

69

trong giai đoạn 2009 - 2013
Tình hình thụ lý, giải quyết án hình sự sơ thẩm của
Bảng 2.3: Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Đắk Lắk trong giai

71

đoạn từ năm 2009 đến năm 2013
Số liệu các vụ án hình sự luật sư thuộc Đồn luật sư
Bảng 2.4: tỉnh tham gia bào chữa trong giai đoạn từ năm 2009


72

đến năm 2013
Số luật sư, tổ chức hành nghề luật sư thuộc Đoàn
Bảng 2.5: luật sư tỉnh Đắk Lắk giai đoạn từ năm 2009 đến

84

năm 2013
Số vụ án có luật sư tham gia bào chữa và số vụ án
Biểu 2.1. Tòa án hai cấp tỉnh Đắk Lắk đã thụ lý, giải quyết
giai đoạn 2009 – 2013

71


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền bào chữa là một trong những nội dung cơ bản của quyền được
xét xử công bằng - một lĩnh vực cơ bản của quyền con người trong tố tụng
hình sự; việc bảo đảm quyền bào chữa trong tố tụng hình sự có vai trị quan
trọng, góp phần bảo đảm quyền con người, một tiêu chí cơ bản trong tiến
trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Nhiều văn kiện của Đảng và nhà nước ta đã khẳng định tầm quan trọng
của quyền bào chữa trong hoạt động tố tụng trong công cuộc cải cách tư pháp
như: Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số
nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới xác định:
Việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả
tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các
chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, người bào chữa, bị cáo, nhân

chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp
pháp. Các cơ quan tư pháp có trách nhiệm tạo điều kiện để luật sư
tham gia vào quá trình tố tụng: tham gia hỏi cung bị can, nghiên
cứu hồ sơ vụ án, tranh luận dân chủ tại phiên tòa [1];
Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về
“Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” khẳng định “nâng cao chất
lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt
động tư pháp” [3].
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong tố tụng hình sự là nguyên
tắc Hiến định, được ghi nhận tại tất cả các bản Hiến pháp của Việt Nam. Việc
ghi nhận, thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong tố tụng hình sự
đã tạo cơ sở pháp lý vững chắc trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của

1


người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đồng thời giúp các cơ quan tiến hành tố tụng
giải quyết vụ án hình sự đúng đắn, khách quan, đúng pháp luật, khơng bỏ lọt
tội phạm, khơng làm oan người khơng có tội; góp phần nâng cao chất lượng
tranh tụng tại phiên tòa, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp.
Tuy nhiên, thực tiễn thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa
trong thời gian qua đã bộc lộ nhiều hạn chế do nhiều nguyên nhân như: các
quy định của pháp luật tố tụng hình sự về bảo đảm quyền bào chữa còn vướng
mắc, bất cập; nhận thức của người tiến hành tố tụng, người bào chữa và bản
thân người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về quyền bào chữa chưa đầy đủ đã ảnh
hưởng không nhỏ đến hiệu quả công tác điều tra, truy tố, xét xử của các cơ
quan tiến hành tố tụng. Dẫn đến cịn tình trạng oan, sai, bỏ lọt tội phạm, xâm
phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của nhà nước, xã hội và công dân.
Là một tỉnh nằm ở vị trí trung tâm khu vực Tây Ngun, có diện tích tự
nhiên rộng (trên 13.125 km2), địa hình đồi núi phức tạp; nhiều dân tộc cùng

chung sống (47 dân tộc, trong đó người dân tộc thiểu số chiếm hơn 33%); trình
độ dân trí thấp, tình hình kinh tế, xã hội cịn nhiều khó khăn; nhận thức của
người dân về quyền bào chữa trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự cịn
nhiều hạn chế. Theo thống kê của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk thì từ năm
2009 đến năm 2013, chỉ có 792 vụ án hình sự có sự tham gia của người bào
chữa trên tổng số 7.570 vụ án mà Tòa án hai cấp tỉnh Đắk Lắk thụ lý để giải
quyết theo trình tự sơ thẩm, chiếm tỷ lệ tương đối thấp 10,46%.
Do đó việc tiếp tục nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ thêm về mặt lý luận
các quy định về bảo đảm quyền bào chữa trong pháp luật tố tụng hình sự Việt
Nam và thực tiễn áp dụng để đề ra các giải pháp nhằm hoàn thiện, nâng cao
hiệu quả thực hiện ngun tắc đóng vai trị rất quan trọng trước u cầu cải
cách tư pháp, góp phần trong cơng cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã

2


hội chủ nghĩa. Từ những lý do trên, tôi chọn nghiên cứu đề tài “Nguyên tắc
bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, trên cơ sơ số
liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk” làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ chuyên
ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Bảo đảm quyền bào chữa là nguyên tắc cơ bản của pháp luật tố tụng
hình sự, là nội dung quan trọng trong việc bảo đảm quyền con người. Đến nay
đã có nhiều cơng trình nghiên cứu, bài viết về quyền bào chữa trong tố tụng
hình sự của các nhà nghiên cứu như:
Về tài liệu nghiên cứu là luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ, đề tài
nghiên cứu khoa học gồm có cơng trình: Luận văn thạc sĩ “Ngun tắc bảo
đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo” của tác giả Bùi
Bảo Trâm, 2008; Luận án tiến sĩ luật học “Thực hiện quyền bào chữa của bị
can, bị cáo trong luật tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Hoàng Thị Sơn,

2003; Đề tài nghiên cứu khoa học “Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự
nhằm nâng cao hiệu quả xét xử theo tinh thần cải cách tư pháp” của nhóm tác
giả do tiến sĩ Hoàng Thị Minh Sơn chủ nhiệm đề tài, 2009.
Tài liệu nghiên cứu là bài viết tạp chí gồm có: “Thực trạng thực hiện
nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo” của tác giả Hoàng Thị
Sơn, Tạp chí Luật học, 2002; “Về khái niệm quyền bào chữa và việc bảo đảm
quyền bào chữa của bị can, bị cáo” của tác giả Hoàng Thị Sơn đăng trên Tạp
chí Luật học, 2000; “Người bào chữa và vấn đề bảo đảm quyền của người bào
chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Trần Văn Bảy, Tạp chí
KHPL, 2001; “Những điểm mới về trách nhiệm, nghĩa vụ của người bào chữa
trong Bộ luật TTHS năm 2003” của tác giả Phạm Hồng Hải, Tạp chí Nhà nước
và pháp luật, 2004; “Vấn đề thực hiện quyền của người bào chữa trong tố tụng
hình sự” của tác giả Lê Hồng Sơn, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, 2002.

3


Các cơng trình, bài viết đã nghiên cứu về ngun tắc bảo đảm quyền
bào chữa ở nhiều góc độ khác nhau nhưng chỉ dừng ở mức nghiên cứu pháp
luật thực định, đi sâu vào các nội dung quyền bào chữa mà chưa nghiên cứu
một cách toàn diện, hệ thống về bảo đảm quyền bào chữa dưới khía cạnh
nguyên tắc trong tố tụng hình sự trước yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập
quốc tế. Hiện nay chưa có cơng trình, bài viết nào nghiên cứu về bảo đảm
quyền bào chữa trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. Mặt khác, nhiều cơng trình đã
cơng bố trong thời gian khá lâu khi một số quy định pháp luật liên quan đến
bảo đảm quyền bào chữa chưa được ban hành nên cần được tiếp tục nghiên
cứu một cách sâu sắc, toàn diện hơn trên tinh thần của chiến lược cải cách tư
pháp và thực tiễn áp dụng hiện nay để đưa ra những giải pháp phù hợp với
thực tiễn nhất.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là tiếp tục làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về
nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong
tố tụng hình sự Việt Nam; chỉ ra những kết quả đạt được, những tồn tại, hạn
chế trong thực tiễn áp dụng nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa ở nước ta nói
chung và trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk nói riêng. Trên cơ sở đó, luận văn đưa ra
một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định về nguyên tắc bảo đảm quyền
bào chữa trong tố tụng hình sự và các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện
nguyên tắc theo tinh thần cải cách tư pháp.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn phải tập trung thực hiện
các nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu các vấn đề lý luận về nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa
như khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa

4


trong tố tụng hình sự; chủ thể của quyền bào chữa và hình thức thực hiện; quá
trình hình thành và phát triển của nguyên tắc từ năm 1945 đến nay ở Việt
Nam; quy định về bảo đảm quyền bào chữa trong pháp luật quốc tế.
- Nghiên cứu các nội dung cơ bản của nguyên tắc trong tố tụng hình sự
Việt Nam; thực tiễn áp dụng nguyên tắc trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, từ đó chỉ
ta những tồn tại, hạn chế trong việc áp dụng nguyên tắc và nguyên nhân của
những tồn tại, hạn chế đó. Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện, nâng
cao hiệu quả áp dụng nguyên tắc này trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, đáp ứng yêu
cầu cải cách tư pháp.
4. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu
4.1. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các vấn đề về nguyên tắc bảo đảm quyền bào

chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong luật tố tụng hình sự Việt Nam;
các quy định liên quan đến nguyên tắc này trong pháp luật Việt Nam và pháp
luật quốc tế; đánh giá thực tiễn áp dụng nguyên tắc trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
trong giai đoạn từ năm 2009 đến năm 2013; trên cơ sở đó đề xuất các giải
pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng nguyên tắc trên
địa bàn tỉnh trước yêu cầu cải cách tư pháp.
4.2. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận, thực tiễn về
nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong
tố tụng hình sự Việt Nam, cụ thể: khái niệm, ý nghĩa của nguyên tắc, chủ thể
thực hiện quyền bào chữa, phương thức thực hiện; nội dung của nguyên tắc
trong tố tụng hình sự Việt Nam kết hợp với thực tiễn áp dụng nguyên tắc trên
địa bàn tỉnh Đắk Lắk để chỉ ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện, nâng cao
hiệu quả áp dụng nguyên tắc này.

5


5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa MácLê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về
nhà nước và pháp luật; quan điểm về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa, về cải cách tư pháp của Đảng và nhà nước ta thể hiện qua các văn
kiện đại hội Đảng; nghị quyết của Đảng, Quốc hội.
Các phương pháp chủ yếu được sử dụng để nghiên cứu đề tài là:
phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp đối chiếu, so sánh; phương
pháp thống kê
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Về mặt lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm sáng tỏ thêm những vấn
đề lý luận và thực tiễn của nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong tố tụng

hình sự trước yêu cầu cải cách tư pháp trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk hiện nay.
Các nghiên cứu của luận văn là tài liệu tham khảo cần thiết cho cán bộ nghiên
cứu khoa học, thực tiễn; các sinh viên, học viên cao học chuyên ngành tư
pháp hình sự tại các cơ sở đào tạo luật trong quá trình học tập, nghiên cứu,
giảng dạy cũng như hoạt động thực tiễn bảo đảm quyền bào chữa trong quá
trình giải quyết vụ án hình sự.
6.2. Về mặt thực tiễn
Luận văn góp phần làm rõ thực trạng áp dụng nguyên tắc bảo đảm
quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong công tác điều tra,
truy tố, xét xử trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. Trên cơ sở đó đưa ra mơt số kiến
nghị, giải pháp nhằm hồn thiện và nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền bào
chữa trong hoạt động tố tụng, góp phần thực thi nhiệm vụ bảo đảm quyền con
người trước yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay.

6


7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 03 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về nguyên tắc bảo đảm quyền bào
chữa trong tố tụng hình sự.
Chương 2: Nội dung của nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong tố
tụng hình sự và thực tiễn áp dụng.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện nguyên tắc bảo đảm
quyền bào chữa trong tố tụng hình sự và nâng cao hiệu quả
áp dụng nguyên tắc này trên địa bàn tỉnh Đắk lắk.

7



Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC BẢO
ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1. Khái quát về nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong tố
tụng hình sự
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa
trong TTHS
Quyền con người là thành tựu chung của cả loài người, là kết tinh của
nền văn minh nhân loại. Những thành tựu pháp lý quốc tế về quyền con người
hiện nay là sản phẩm của cuộc đấu tranh hết sức lâu dài, gian khổ của toàn thể
nhân loại tiến bộ, chống áp bức, bất công, xây dựng cuộc sống tự do, bình
đẳng và hạnh phúc [43]. Quyền con người được bảo đảm như thế nào, ở mức
độ nào là một trong những thước đo, tiêu chí quan trọng để đánh giá sự phát
triển của một quốc gia. Trong bất kỳ một nhà nước nào đặc biệt là nhà nước
pháp quyền thì quyền con người và quyền công dân được đặc biệt coi trọng,
là giá trị cao q nhất được bảo vệ.
Tại Lời nói đầu Tun ngơn thế giới về quyền con người năm 1948 đã
khẳng định:
Việc thừa nhận phẩm giá vốn có, các quyền bình đẳng và
không thể tách rời của mọi thành viên trong gia đình nhân loại là cơ sở
cho tự do, cơng bằng và hịa bình trên thế giới... Các quốc gia thành
viên đã cam kết, cùng với Liên Hợp quốc, phấn đấu thúc đẩy sự tôn
trọng và tuân thủ chung các quyền và tự do cơ bản của con người.
Như vậy, việc tôn trọng và bảo vệ quyền con người là nhiệm vụ của tất
cả các quốc gia, dân tộc trên thế giới. Đặc biệt trong thời đại ngày nay, quyền
con người ln là vấn đề cấp thiết, có tính thời sự trên thế giới. Việt Nam

8



đang trong giai đoạn cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước với sự phát triển
mạnh về kinh tế. Cùng với phát triển về kinh tế, Đảng và Nhà nước chú trọng
phát triển toàn diện về con người trên mọi mặt, đặc biệt là phát huy bảo đảm
quyền con người, quyền cơng dân.
Trong tiến trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và
công cuộc cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay, vấn đề bảo đảm quyền con
người trong đó có quyền bào chữa là một trong những nội dung quan trọng,
được đặt lên hàng đầu. Bởi vì “cải cách tư pháp trong giai đoạn xây dựng nhà
nước pháp quyền phải nhằm hướng tới việc bảo vệ một cách hữu hiệu các
quyền và tự do của con người và của công dân” [6]. Việc bảo đảm quyền bào
chữa góp phần quan trọng trong bảo đảm quyền con người.
Theo từ điển tiếng Việt thì “Bào chữa là dùng lời lẽ, chứng cớ để bênh
vực một việc” Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản từ điển Bách Khoa [38, tr.133].
Hiện nay, trong khoa học luật tố tụng hình sự có một số quan điểm
khác nhau về quyền bào chữa. Có quan điểm cho rằng:
Quyền bào chữa trong BLTTHS là tổng hoà các hành vi tố
tụng do người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị kết án thực hiện
trên cơ sở phù hợp với quy định của pháp luật nhằm phủ nhận một
phần hay toàn bộ sự buộc tội của cơ quan THTT, làm giảm nhẹ hoặc
loại trừ trách nhiệm hình sự của mình trong vụ án hình sự [16, tr.29].
Có quan điểm cho rằng “Quyền bào chữa là quyền sử dụng tất cả
những biện pháp gì mà pháp luật không cấm để chống lại, bác bỏ, phủ nhận
lời buộc tội của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc để giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự của mình trong vụ án” [19].
Có quan điểm cho rằng quyền bào chữa chỉ thuộc về bị can, bị cáo [36].
Quan điểm này là chưa đầy đủ, bởi đối với những trường hợp chưa bị khởi tố
về mặt hình sự nhưng thuộc diện bị tình nghi, đã bị bắt, bị tạm giữ, họ đang

9



phải đối mặt với sự nghi ngờ, các bước điều tra sơ bộ của cơ quan điều tra.
Trong trường hợp này những người bị tình nghi đã bị áp dụng các biện pháp
cưỡng chế; quyền, lợi ích của họ đã bị hạn chế, xâm phạm. Họ cần phải được
thực hiện những hành vi nhất định để bảo vệ tối đa quyền và lợi ích của họ
trước các cơ quan tiến hành tố tụng, việc pháp luật quy định cho họ quyền bào
chữa là cần thiết và phù hợp.
Có quan điểm cho rằng quyền bào chữa thuộc về người bị tình nghi và
bị can (phạm vi bị can trong trường hợp này bao gồm cả bị can, bị cáo và
người bị kết án) [41]. Cũng có quan điểm cho rằng: “Khơng chỉ bị cáo mà cả
người bị hại cũng cần đến việc bào chữa. Nhân chứng, giám định viên và cả
những người khác cũng vậy, nếu quyền lợi của họ bị xâm hại”. Các cách hiểu
như trên lại quá rộng bởi bào chữa gắn liền với buộc tội. Đối với những người
bị kết án là những người đã bị kết tội, đang chấp hành quyết định của bản án,
quyết định của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật. Ở giai đoạn thi hành án,
người bị kết án không chịu bất cứ sự buộc tội nào từ phía các cơ quan pháp
luật Nhà nước nên việc quy định cho họ quyền bào chữa là không cần thiết.
Tại Điều 11 BLTTHS năm 2003 quy định:
Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc
nhờ người khác bào chữa.
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tồ án có nhiệm vụ bảo
đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa
của họ theo quy định của Bộ luật này [24, tr.15].
Theo quy định này thì Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam ghi nhận
quyền bào chữa đối với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Nội dung quyền bào
chữa bao gồm quyền tự bào chữa và quyền nhờ người khác bào chữa. Quy
định như trên đã ghi nhận quyền bào chữa của đầy đủ các đối tượng có khả
năng bị hạn chế quyền, lợi ích; đối mặt với sự nghi ngờ, khả năng bị buộc tội
bởi các cơ quan pháp luật Nhà nước.


10


Như vậy có thể đưa ra khái niệm quyền bào chữa như sau: “Quyền bào
chữa trong tố tụng hình sự là tổng hợp các hành vi tố tụng của người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo được pháp luật quy định cho họ nhằm đưa ra các chứng cứ
để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của họ trước các cơ quan tiến hành tố
tụng trong các quá trình khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự”.
Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 ghi nhận việc bảo đảm quyền bào chữa là
nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng hình sự Việt Nam, trở thành phương
châm, quan điểm chủ đạo chi phối toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự trong
quá trình xây dựng và áp dụng pháp luật tố tụng hình sự.
Nguyên tắc của tố tụng hình sự là những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo
đối với toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự hoặc đối với một giai đoạn tố tụng
nhất định và được các văn bản pháp luật tố tụng hình sự ghi nhận; là yêu cầu
khách quan bảo đảm cho hoạt động tố tụng hình sự đạt được mục đích.
Nên chúng ta có thể hiểu “Ngun tắc bảo đảm quyền bào chữa trong tố
tụng hình sự là phương châm, định hướng chi phối tồn bộ q trình khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự, trong đó xác định người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa và Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát, Toà án có nhiệm vụ bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ theo quy định của pháp luật”.
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong tố tụng hình sự có những
đặc điểm sau:
Thứ nhất, nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa là nguyên tắc cơ bản,
đặc trưng của Luật tố tụng hình sự Việt Nam, áp dụng trong quá trình giải
quyết vụ án hình sự; trở thành phương châm, định hướng chi phối tồn bộ q
trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự; thể hiện quan điểm của
Đảng và Nhà nước về hoạt động tố tụng hình sự. Theo đó, trong q trình giải

quyết vụ án hình sự, các chủ thể phải tuân thủ nghiêm, đồng thời phải áp dụng

11


chính xác và viện dẫn ở mức tối đa các quy định về việc bảo đảm quyền bào
chữa. Nếu có bất kỳ vi phạm nào về nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa thì
hoạt động tố tụng đó khơng được cơng nhận tính pháp lý.
Thứ hai, ngun tắc bảo đảm quyền bào chữa có hai nội dung cơ bản
là xác định nội dung quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
bao gồm quyền tự bào chữa và quyền nhờ người khác bào chữa; đồng thời
quy định cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa
án) trên cơ sở quy định của Luật tố tụng hình sự có trách nhiệm trong việc
bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
1.1.2. Chủ thể của quyền bào chữa
Từ những phân tích, khái niệm nêu ở phần trên có thể thấy chủ thể của
quyền bào chữa trong tố tụng hình sự là người bị tạm giữ, bị can và bị cáo.
Trong tố tụng hình sự, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có vai trị trung
tâm. Bởi suy đến cùng thì mọi hoạt động của các chủ thể trong tố tụng hình sự
như buộc tội, bào chữa hoặc xét xử đều nhằm đến việc tìm kiếm, đánh giá các
chứng cứ gỡ tội, các chứng cứ buộc tội đối với người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo. Mục đích của hoạt động bào chữa là nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trước các cơ quan tiến hành tố tụng.
Hiến pháp 2013 ghi nhận người có quyền bào chữa là người bị bắt, tạm
giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử [23, tr.12].
Trong suốt quá trình tố tụng, chủ thể của quyền bào chữa là những
người bị các cơ quan tiến hành tố tụng nghi ngờ thực hiện tội phạm, đang bị
buộc tội. Quyền, lợi ích hợp pháp của họ đang bị những hạn chế nhất định và
dễ bị xâm phạm bởi các cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó họ phải có quyền
thực hiện các biện pháp, đưa ra các chứng cứ để chứng minh sự vô tội, bác bỏ

một phần sự buộc tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; bảo vệ các
quyền và lợi ích hợp pháp của họ trước các cơ quan tiến hành tố tụng. Chủ thể
có quyền bào chữa bao gồm:

12


+ Người bị tạm giữ: là người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm
tội quả tang, người bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú,
đầu thú và đối với họ đã có quyết định tạm giữ (khoản 1 Điều 48 BLTTHS).
Người bị tạm giữ bị các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng biện pháp
cưỡng chế là tạm giữ do hành vi của họ có dấu hiệu tội phạm mà nếu khơng
bị tạm giữ thì họ có thể tiếp tục phạm tội hoặc cản trở việc giải quyết vụ án.
Do đó các cơ quan tiến hành tố tụng quyết định tạm giữ để ngăn chặn và làm
rõ hành vi của họ để đưa ra quyết định tố tụng phù hợp. Họ chỉ bị nghi ngờ
phạm tội mà chưa phải là người phạm tội, nên họ phải có quyền bào chữa
bảo vệ cho họ.
+ Bị can là người đã bị khởi tố về hình sự (khoản 1 Điều 49 BLTTHS).
Cơ quan tiến hành tố tụng ra quyết định khởi tố bị can đối với người
mà cơ quan tiến hành tố tụng đã xác định hành vi của người đó có dấu hiệu tội
phạm. Quyết định khởi tố bị can là biện pháp điều tra nhằm thu thập chứng cứ
chứng minh tội phạm và hành vi của người phạm tội, những tình tiết liên quan
đến trách nhiệm hình sự của bị can và các tình tiết khác có liên quan.
+ Bị cáo là người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử (khoản 1 Điều
50 BLTTHS).
Đối với bị can, bị cáo là những người đang bị Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát buộc tội. Để bảo đảm xác định sự thật khách quan, giải quyết vụ án
công minh, đúng người, đúng tội, bị can, bị cáo đã được quy định quyền bào
chữa nhằm bảo vệ quyền lợi cho họ đồng thời giúp cho việc giải quyết vụ án
nhanh chóng, cơng minh, đúng pháp luật, tránh làm oan người vô tội và bỏ

lọt tội phạm.
1.1.3. Hình thức thực hiện quyền bào chữa
Quyền bào chữa là tổng hợp các hành vi tố tụng mà người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo được thực hiện trên cơ sở quy định của pháp luật để bảo vệ

13


quyền và lợi ích của mình trước các cơ quan pháp luật. Thông qua việc thực
hiện các hành vi tố tụng cụ thể, được pháp luật ghi nhận, người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo bảo vệ quyền lợi của mình. Theo quy định tại Điều 11 BLTTHS
2003 thì các chủ thể có thể thực hiện quyền bào chữa thơng qua hai hình thức
là tự mình thực hiện việc bào chữa (tự bào chữa) hoặc thực hiện thông qua
người khác (nhờ người khác bào chữa).
+ Tự bào chữa: là việc người bị tạm giữ, bị can, bị cáo tự mình thực
hiện các quyền tố tụng được pháp luật quy định cho họ nhằm đưa ra các
chứng cứ để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của họ trước các cơ quan
tiến hành tố tụng trong các quá trình giải quyết vụ án hình sự.
+ Nhờ người khác bào chữa: là việc người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
thông qua người khác để thực hiện các quyền tố tụng được pháp luật quy định
nhằm đưa ra các chứng cứ để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của họ
trước các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
1.1.4. Cơ sở của nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong TTHS
+ Về cơ sở lý luận: Quyền con người là đặc quyền tự nhiên vốn có của
con người, được nhiều văn kiện quốc tế, pháp luật của quốc gia ghi nhận. Ý
thức về bảo vệ quyền con người có lịch sử phát triển gắn với sự phát triển của
xã hội loài người. Trải qua các giai đoạn lịch sử khác nhau của xã hội lồi
người, cùng với q trình đấu tranh lâu dài của các dân tộc trên thế giới,
quyền con người ngày càng được tôn trọng, bảo đảm. Suy đến cùng các cuộc
đấu tranh của con người trên thế giới đều hướng tới việc đòi hỏi bảo đảm bảo

vệ tốt hơn quyền con người. Xuất phát từ quan điểm con người là một thực
thể “sinh vật - con người” của Mác, quyền con người được ghi nhận là sự
thống nhất biện chứng giữa “quyền tự nhiên” (đặc quyền vốn có và chỉ con
người mới có) và “quyền xã hội” - sự chế định bằng các quy chế pháp lý
nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội.

14


Tố tụng hình sự là một lĩnh vực đặc thù, gồm toàn bộ các hoạt động của
các chủ thể tố tụng hình sự nhằm giải quyết vụ án hình sự khách quan, cơng
bằng, góp phần đấu tranh chống và phịng ngừa tội phạm, bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân trong đó có người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Đây là lĩnh vực khá nhạy cảm mà ở đó quyền con
người dễ bị xâm phạm nhất. Xuất phát từ yêu cầu bảo đảm quyền con người
trong nhà nước pháp quyền, bảo đảm quyền bào chữa được ghi nhận là
nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự.
Theo quy định thì khơng ai bị coi là có tội trước khi có bản án kết tội
của Tịa án có hiệu lực pháp luật. Mặc dù người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
đang chịu sự nghi ngờ, sự buộc tội thực hiện tội phạm từ phía các cơ quan nhà
nước nhưng về mặt pháp lý họ chưa có tội. Do đó họ phải được bảo đảm tối
thiểu các quyền cơng dân, quyền con người theo quy định của pháp luật như
các công dân khác. Tuy nhiên khi người bị tạm giữ, bị can, bị cáo bị các cơ
quan tiến hành tố tụng áp dụng các biện pháp cưỡng chế như bị bắt, tạm giữ
thì họ đã phải chịu những hạn chế, xâm phạm nhất định về quyền của họ như
quyền tự do, quyền bảo hộ về danh dự, nhân phẩm... Để bảo đảm sự đúng
đắn, khách quan trong quá trình các cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết vụ
án, hạn chế tối đa việc xâm phạm đến quyền con người trong tố tụng hình sự,
pháp luật đã quy định quyền bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và
trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong

việc bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện các quyền này.
+ Về cơ sở thực tiễn: Mục đích chính của pháp luật tố tụng hình sự là
nhằm chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện chính xác, nhanh
chóng và xử lý cơng minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội
phạm, không làm oan người vơ tội hướng tới mục đích “góp phần bảo vệ chế
độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp

15


của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, đồng thời
giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và
chống tội phạm.
Để xác định sự thật khách quan trong vụ án hình sự, cần thiết phải có
đầy đủ các yếu tố, chứng cứ ở nhiều khía cạnh khác nhau, trên cơ sở đó mới
đánh giá, nhìn nhận tồn diện các tình tiết trong vụ án. Việc xác định sự thật
khách quan sẽ khơng thể thực hiện được hồn chỉnh nếu chỉ nghe ý kiến từ
một phía buộc tội, bởi ý kiến mang tính chủ quan của mỗi con người nên dễ bị
phiến diện. Trong tố tụng hình sự chức năng bào chữa tồn tại song song cùng
chức năng buộc tội. Việc giải quyết một vụ án hình sự sẽ khơng bảo đảm tính
chính xác, khách quan khi chỉ coi trọng chức năng buộc tội mà không bảo
đảm chức năng bào chữa. Khi đó, trong các hoạt động tố tụng sẽ mang nặng ý
chí chủ quan của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Họ
chỉ chú ý đến việc thu thập các chứng cứ buộc tội mà bỏ lơ các chứng cứ gỡ
tội nên khơng đánh giá được tồn diện các chứng cứ để xác định chân lý
khách quan. Trên thực tế, việc áp dụng nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa
đã bộc lộ nhiều hạn chế, ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả công tác điều tra,
truy tố, xét xử của các cơ quan tiến hành tố tụng dẫn đến tình trạng làm oan
người khơng có tội hoặc bỏ lọt tội phạm; xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp
pháp của nhà nước, xã hội và công dân.

Xuất phát từ yêu cầu bảo đảm quyền con người và thực tiễn tố tụng
hình sự, cho thấy tính cấp thiết của việc quy định nguyên tắc bảo đảm quyền
bào chữa trong tố tụng hình sự.
1.1.5. Ý nghĩa của nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự
Quyền bào chữa là một quyền lợi đặc thù, cơ bản của công dân, được
ghi nhận tại tất cả các bản Hiến pháp của nước ta. Việc ghi nhận bảo đảm

16


quyền bào chữa là một trong những nguyên tắc cơ bản trong hoạt động tố
tụng hình sự có ý nghĩa to lớn về mọi mặt, là một biểu hiện của tư tưởng bảo
vệ quyền con người, quyền công dân. Với tư cách là nguyên tắc cơ bản trong
tố tụng hình sự, việc bảo đảm quyền bào chữa là tiêu chuẩn, yêu cầu trong
hoạt động tố tụng; là cơ chế để bị can, bị cáo, người bị tạm giữ tự bảo vệ mình
và được bảo vệ trong tố tụng.
Việc ghi nhận nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong tố tụng hình
sự thể hiện tính nhân đạo của pháp luật Việt Nam. Tại Điều 57 BLTTHS đã
quy định các trường hợp bào chữa bắt buộc. Theo đó trong trường hợp bị can,
bị cáo về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình theo quy định
tại Bộ luật hình sự hoặc bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có
nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất mà họ hoặc người đại diện hợp pháp
của họ khơng mời người bào chữa thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc
Tịa án phải u cầu Đồn luật sư phân cơng Văn phịng luật sư cử người bào
chữa cho họ hoặc đề nghị Ủy ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành
viên của mặt trận cử người bào chữa cho thành viên của tổ chức mình.
Nguyên tắc là biểu hiện của tính dân chủ trong tố tụng hình sự. Việc
ghi nhận nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong tố tụng hình sự đã tạo cơ
sở pháp lý cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện việc chứng minh sự

vơ tội của mình, bác bỏ sự nghi ngờ phạm tội, bác bỏ buộc tội của người, cơ
quan có thẩm quyền và làm giảm trách nhiệm hình sự đối với tội phạm mà
người đó đã thực hiện.
Việc ghi nhận nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong tố tụng hình
sự khơng chỉ có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mà còn là điều kiện bảo đảm cho
hoạt động tố tụng hình sự khách quan, cơng bằng, dân chủ, công khai; giúp cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng xác định sự thật khách quan,

17


×