Tải bản đầy đủ (.doc) (41 trang)

TÁI CƠ CẤU NGÀNH NÔNG NGHIỆP TỈNH NGHỆ AN THEO HƯỚNG NÂNG CAO GIÁ TRỊ GIA TĂNG VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG GIAI ĐOẠN 2013 - 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (254.68 KB, 41 trang )

ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH NGHỆ AN

-----O0O-----

DỰ THẢO

ĐỀ ÁN
TÁI CƠ CẤU NGÀNH NÔNG NGHIỆP TỈNH NGHỆ AN
THEO HƯỚNG NÂNG CAO GIÁ TRỊ GIA TĂNG VÀ PHÁT
TRIỂN BỀN VỮNG GIAI ĐOẠN 2013 - 2020

Nghệ An - 2013


MỤC LỤC


PHẦN MỞ ĐẦU
I. SỰ CẦN THIẾT PHẢI XÂY DỰNG ĐỀ ÁN

Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, nông nghiệp, nông thôn Nghệ An
đã đạt được nhiều thành tựu khá toàn diện và to lớn, như: Tốc độ tăng trưởng
khá cao và ổn định; đảm bảo an ninh lương thực; tạo việc làm và thu nhập cho
dân cư nông thôn, góp phần xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế - xã hội của
tỉnh. Bước đầu đã hình thành được các vùng sản xuất hàng hóa gắn với chế biến
và tiêu thụ sản phẩm như chè, mía, cao su, thủy sản, rừng trồng nguyên liệu,...;
phát triển chăn nuôi tập trung theo hướng trang trại, gia trại, công nghiệp, ứng
dụng công nghệ cao.
Tuy nông nghiệp phát triển, nhưng thu nhập và đời sống của nông dân và
những người làm nông nghiệp còn thấp, nông dân vẫn còn nghèo. Nguyên nhân
chính là do sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, thiếu ổn định và dễ bị tổn thương do thiên


tai, dịch bệnh và biến động của thị trường; các hình thức liên kết trong sản xuất
còn lỏng lẻo, thiếu tính ràng buộc, quy mô, phạm vi liên kết còn ở dạng mô hình.
Mô hình tăng trưởng nông nghiệp hiện nay chủ yếu theo chiều rộng thông
qua tăng diện tích, tăng vụ và dựa trên mức độ thâm dụng các yếu tố vật chất đầu
vào cho sản xuất (lao động, vốn, vật tư) và nguồn lực tự nhiên. Mô hình tăng
trưởng này mới chỉ tạo ra được khối lượng nhiều và rẻ nhưng giá trị thấp, hiệu
quả sử dụng đất đai, tài nguyên chưa cao.
Trước thực trạng trên, việc xây dựng Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp
tỉnh Nghệ An theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững là hết
sức cần thiết. Qua đó, xây dựng và phát triển nền sản xuất nông nghiệp toàn diện
theo hướng hiện đại, bền vững, sản xuất hàng hóa lớn, có năng suất, chất lượng,
hiệu quả và khả năng cạnh tranh, góp phần thực hiện thành công Đề án tông thể
tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo Quyết định số
339/QĐ-TTg và Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo Quyết định số
899/QĐ-TTg.
II. CĂN CỨ LẬP ĐỀ ÁN

- Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 30/7/2013 của Bộ Chính trị về phương
hướng, nhiệm vụ phát triển tỉnh Nghệ An đến năm 2020.
- Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 05/8/2008, Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
- Quyết định 197/2007/QĐ-TTg ngày 28/12/2007 của Thủ tướng Chính phủ
về việc phê duyệt quy hoạch Tổng thể kinh tế - xã hội tỉnh Nghệ An đến năm 2020.
- Quyết định số 339/QĐ-TTg ngày 19/02/2013 của Thủ tướng Chính phủ
về phê duyệt Đề án tổng thể tái cơ cấu nền kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình
tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh giai
đoạn 2013 - 2020.


- Quyết định số 899/QĐ-TTg ngày 10/6/2013 của Thủ tướng Chính phủ về

phê duyệt Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia
tăng và phát triển bền vững.
- Quyết định số 1384/QĐ-BNN-KH ngày 18/6/2013 của Bộ Nông nghiệp &
PTNT về việc ban hành Chương trình hành động thực hiện Đề án tái cơ cấu ngành
nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững theo
Quyết định số 899/QĐ-TTg ngày 10/6/2013 của Thủ tướng Chính phủ.
- Chỉ thị số 2039/CT-BNN-KH ngày 20/6/2013 của Bộ Nông nghiệp &
PTNT về việc triển khai Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao
giá trị gia tăng và phát triển bền vững.
- Quyết định số 1565/QĐ-BNN-TCLN ngày 08/7/2013 của Bộ Nông
nghiệp & PTNT về việc phê duyệt Đề án tái cơ cấu ngành lâm nghiệp.
- Thông báo số 4914/TB-BNN-VP ngày 23/10/2013 của Bộ Nông nghiệp
và PTNT về việc Thông báo kết luận của Bộ trưởng Cao Đức Phát tại Hội nghị
triển khai Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia
tăng và phát triển bền vững.
- Quyết định số 3278/QĐ-UBND ngày 30/7/2013 của UBND tỉnh về việc
ban hành Chương trình hành động thực hiện Đề án tổng thể tái cơ cấu kinh tế gắn
chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nông cao chất lượng, hiệu quả và
năng lực cạnh tranh giai đoạn 2013 - 2020.
- Quyết định số 3875/QĐ-UBND-NN ngày 31/8/2010 của UBND tỉnh về
ban hành kế hoạch thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông
thôn mới tỉnh Nghệ An giai đoạn 2010 - 2020.
- Căn cứ Quyết định số 62/2013/QĐ-TTg ngày 25/10/2013 của Thủ tướng
Chính phủ về chính sách khuyến khích hợp tác, liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ
sản phẩm, xây dựng cánh đồng lớn.
- Các quy hoạch phát triển các cây trồng, vật nuôi, lâm nghiệp, NTTS trên địa
bàn tỉnh Nghệ An đã được phê duyệt.
- Từ thực trạng, tiềm năng thực tế của tỉnh hiện nay, xu thế phát triển chung
của cả nước và thế giới.
III. TÊN GỌI VÀ TỔ CHỨC QUẢN LÝ ĐỀ ÁN


1. Tên đề án: Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp tỉnh Nghệ An theo
hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững, giai đoạn 2013 - 2020
2. Cơ quan chủ quản: UBND tỉnh Nghệ An.
3. Cơ quan lập đề án: Sở nông nghiệp và PTNT.


PHẦN I
THỰC TRẠNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
TỈNH NGHỆ AN 2003 - 2013
I. NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
1. Về phát triển sản xuất
1.1. Tốc độ tăng trưởng đạt và duy trì ở mức khá, cơ cấu kinh tế nội ngành
được chuyển dịch theo hướng tích cực
Trong những năm qua, mặc dù phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức
(do ảnh hưởng của thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu, suy thoái kinh tế...).
nhưng sản xuất nông nghiệp và PTNT Nghệ An đã đạt được nhiều kết quả quan
trọng trên tất cả các lĩnh vực.
Tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2003 - 2013 đạt từ 4,5 - 5,0%. Cơ
cấu kinh tế nội ngành có bước chuyển dịch theo hướng tích cực. Dự kiến năm
2013: Nông nghiệp: 83,09%, Lâm nghiệp: 7,63%, Thủy sản: 9,28%. Trong nông
nghiệp thuần có sự chuyển dịch theo hướng giảm dần tỷ trọng trồng trọt, tăng dần
tỷ trọng chăn nuôi và dịch vụ.
1.2. Hoàn thành phê duyệt các quy hoạch, chương trình, đề án, dự án lớn về
phát triển sản xuất nông nghiệp, nông thôn làm cơ sở để quản lý, chỉ đạo phát
triển sản xuất
Trong 10 năm qua, Sở Nông nghiệp & PTNT đã xây dựng và tham mưu
UBND tỉnh phê duyệt các quy hoạch, chương trình, đề án, dự án lớn về phát triển
các lĩnh vực, các loại cây, con chủ yếu, phát triển nông nghiệp ứng dụng công
nghệ cao... đến năm 2015, 2020 và tầm nhìn đến năm 2030, làm căn cứ để quản

lý, chỉ đạo phát triển nông nghiệp, nông thôn của tỉnh. Cụ thể:
- Về nông nghiệp: Gồm các quy hoạch như: Phát triển đàn trâu, bò; phát
triển vùng mía nguyên liệu, cây chè, cây cao su, mía, dứa...; phát triển vùng nông
nghiệp ứng dụng công nghệ cao Phủ Quỳ Nghệ An đến năm 2020...; Vùng sản
xuất rau, củ, quả và hoa theo công nghệ cao; vùng nguyên liệu chế biến gỗ MDF;
vùng sản xuất cây thức ăn phục vụ chăn nuôi bò sữa,...; Các chương trình phát
triển giống cây, con đến năm 2015 và 2020, các đề án như: phát triển chăn nuôi
trâu bò hàng hóa..., dự án Phát triển công nghệ sinh học và sản xuất nông nghiệp
đến 2015 v.v...
- Về lâm nghiệp: Hoàn thành quy hoạch 3 loại rừng; quy hoạch bảo vệ và
phát triển rừng tỉnh Nghệ An đến năm 2020,...
- Về thủy sản: Quy hoạch nuôi trồng thuỷ sản trên các hồ thuỷ lợi, thuỷ
điện tỉnh Nghệ An; Quy hoạch nuôi trồng thuỷ sản mặn lợ đến năm 2020; Quy
hoạch khu chế biến thuỷ sản tập trung,...


- Về thủy lợi, gồm các quy hoạch: Bổ sung Quy hoạch thuỷ lợi tỉnh Nghệ
An, thời kỳ 2003-2010; Rà soát quy hoạch thủy lợi tỉnh Nghệ An đến năm 2020;
Quy hoạch phòng chống lũ sông Cả (là tỉnh đầu tiên của cả nước hoàn thành quy
hoạch chống lũ đê cấp III). Quy hoạch đê sông Cả (2008) với việc nâng cấp tần
suất chống lũ của hệ thống đê tả, hữu sông Cả và xóa bỏ các vùng chậm lũ Năm
Nam (Nam Đàn), Bích Hào (Thanh Chương), Quy họach sử dụng tổng hợp tài
nguyên nước lưu vực Sông Cả với sự ra đời công trình thủy điện Bản Vẽ, Khe Bố,
Bản Mồng; Quy họach đê biển (2004 Điều chỉnh quy họach thủy lợi chi tiết lưu
vực sông Hiếu (2009) để điều chỉnh dự án hồ Bản Mồng; Quy hoạch chi tiết thủy
lợi lưu vực sông Hoàng Mai (2011) để xây dựng cống ngăn mặn trên sông Mơ
(sông Hoàng Mai). Rà soát quy hoạch Sông Cả để xây dựng công trình cống ngăn
mặn, giữ ngọt trên Sông Lam
- Về phát triển nông thôn: Các quy hoạch: Bố trí dân cư thuộc khu vực
nông thôn; ổn định dân cư các xã biên giới Việt - Lào trên địa bàn tỉnh Nghệ An;

Phát triển cơ khí phục vụ sản xuất nông nghiệp đến năm 2020...;
1.3. Về sản xuất nông nghiệp
Sản xuất nông nghiệp chuyển nhanh sang nông nghiệp hàng hóa, nâng cao
giá trị trên đơn vị diện tích, đảm bảo an ninh lương thực và nguyên liệu cho công
nghiệp chế biến, xuất khẩu; phát triển chăn nuôi tập trung theo hướng trang trại,
gia trại, công nghiệp, ứng dụng công nghệ cao
Đến năm 2013, sản lượng lương thực ước đạt 1.183.000 tấn, tăng 20,6% so
với năm 2003; Nhờ áp dụng nhanh các tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ
tiên tiến vào sản xuất, nên năng suất các loại cây trồng tăng cao so với năm 2003
như: Năng suất lúa bình quân đạt 52,00 tạ/ha, tăng 15,9%; năng suất ngô đạt 38,8
tạ/ha, tăng 23,5 %; năng suất chè búp tươi đạt 107 tạ/ha, tăng 75,4%; năng suất
lạc đạt 22,74 tạ/ha, tăng 42,1%...; giá trị thu nhập trên đơn vị diện tích tăng từ 35
triệu đồng/ha năm 2003, lên trên 55 triệu đồng/ha năm 2013,...
Đến nay, Nghệ An đã hình thành được nhiều vùng nguyên liệu tập trung
cho công nghiệp chế biến và xuất khẩu như: vùng nguyên liệu chè khoảng 8.000
ha ở các huyện: Thanh Chương, Anh Sơn, Con Cuông, chè Tuyết shan chất lượng
cao ở Kỳ Sơn; vùng cao su ở Nghĩa Đàn, Tân Kỳ, Thái Hòa, Quỳ Hợp, Anh
Sơn,... với diện tích trên 9.900 ha; vùng mía nguyên liệu 26.000 ha ở các huyện:
Quỳ Hợp, Nghĩa Đàn, Tân Kỳ, Anh Sơn, thị xã Thái Hòa..., vùng lạc xuất khẩu ở
các huyện: Diễn Châu, Nghi Lộc, Nam Đàn...; vùng nuôi trồng thủy sản tập trung
gần 2.000 ha ở Quỳnh Lưu, Diễn Châu, Nghi Lộc, thành phố Vinh,...
Các dự án trọng điểm về phát triển một số loại cây trồng chính được triển
khai thực hiện có hiệu quả. Đến năm 2013, cây chè đạt diện tích khoảng 8.000 ha
bằng các giống có năng suất, chất lượng cao như LDP1, LDP2, Tuyết shan, chế
biến mỗi năm trên 12.000 tấn chè khô các loại. Diện tích cao su đạt trên 9.900 ha,
sản lượng mủ khô đạt gần 6.000 tấn/năm. Diện tích vùng nguyên liệu mía đạt
26.000 ha, đảm bảo nguyên liệu chế biến cho 3 nhà máy đường của tỉnh có công
suất 12.000 tấn/ngày...



Chăn nuôi có bước phát triển toàn diện, chuyển dịch theo hướng tập trung,
quy mô trang trại, gia trại, công nghiệp, ứng dụng công nghệ cao, tăng năng suất,
hiệu quả: Đến năm 2013, tổng đàn trâu, bò ước đạt 720.000 con (trong đó, đàn
trâu: 310.000 con, bò: 410.000 con), tỷ lệ bò lai đạt trên 53,03% tổng đàn. Tổng
đàn lợn : 1,3 triệu con, đàn gia cầm đạt trên 17,3 triệu con, tăng 64,4% so với năm
2003. Tổng sản lượng thịt hơi xuất chuồng tăng khá, năm 2013 đạt 208.500 tấn,
tăng 122,7% so với năm 2003.
Chăn nuôi bò sữa phát triển nhanh, đến nay, tổng đàn bò, bê sữa đạt khoảng
35.000 con, trong đó số con vắt sữa: 13.500 con, sản lượng sữa đạt trên 60.000
tấn/năm, năng suất cho sữa con cao nhất đạt 56 kg/ngày.
Công tác thú y luôn được chú trọng, chủ động trong phòng chống dịch
bệnh, hạn chế thiệt hại cho nông dân, đảm bảo an toàn thực phẩm.
Đến nay, Nghệ An đã hình thành được một số vùng nông nghiệp ứng dụng
công nghệ cao như: Vùng trồng rau, hoa ở Nghĩa Đàn, chăn nuôi bò sữa của Công
ty CP thực phẩm sữa TH,... trong 2 năm 2011 – 2013, toàn tỉnh đã xây dựng được
55 cánh đồng mẫu và mẫu lớn trong sản xuất lúa, ngô, lạc, chè, mía..., đạt hiệu
quả kinh tế cao, năng suất, chất lượng tăng tối thiểu 10%, tạo bước đột phá, thực
hiện tốt mối liên kết giữa các “nhà”, củng cố khối liên minh công nông trong sản
xuất nông nghiệp, nông thôn.
Nhiều mô hình sản xuất có hiệu quả đã thành công, nhân ra diện rộng góp
phần chuyển dịch cơ cấu sản xuất, tăng thu nhập cho người dân, nhất là đồng bào
vùng cao như: Trồng chè Tuyết shan ở Kỳ Sơn, chanh leo ở Quế Phong..., chăn
nuôi trâu bò hàng hóa, các loại đặc sản như vịt bầu Quỳ, gà ác, lợn đen... ở các
huyện miền núi.
1.4. Về lâm nghiệp
Lâm nghiệp Nghệ An đã có những chuyển biến tích cực, từ sản xuất theo
truyền thống lấy quốc doanh làm nòng cốt, khai thác rừng tự nhiên là chủ yếu
sang sản xuất lâm nghiệp nhân dân mang tính xã hội hoá nghề rừng ngày càng
cao, đa thành phần, đa nguồn lực đầu tư cho bảo vệ, phát triển rừng.
Đến năm 2012, diện tích có rừng toàn tỉnh đạt 888.695,75 ha, tăng độ che

phủ 53,9% tăng 26,5% so với năm 2003, góp phần bảo vệ môi trường sinh thái,
hạn chế thiên tai lũ lụt, giải quyết việc làm, cải thiện thu nhập, giảm nghèo cho
hàng vạn hộ nông dân, nhất là đồng bào các dân tộc miền núi.
Nghệ An đã tranh thủ tối đa các nguồn lực từ Trung ương và các chương
trình, dự án quốc tế phục vụ cho công tác bảo vệ và phát triển rừng của tỉnh.
Trong đó, dự án trồng mới 5 triệu ha rừng, với tổng vốn đầu tư 412,03 tỷ đồng,
các dự án nước ngoài khoảng 30 triệu USD...
Nhiều tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ sinh học được áp dụng thành
công như nhân giống cây bằng dâm hom; hạt tuyển chọn, ghép; nuôi cấy mô...


Sản xuất cây giống lâm nghiệp các loại hàng năm đạt trên 20 triệu cây/năm, đảm
bảo tiêu chuẩn, chất lượng. Nhiều khu rừng trồng thâm canh Keo cho năng suất
120-135 tấn/chu kỳ kinh doanh 6-7 năm, tăng 20- 30% so với năm 2003; diện tích
rừng trồng nguyên liệu đạt trên 160.000 ha, trữ lượng gỗ hơn 5,5 triệu m3; sản
lượng gỗ hàng năm khai thác đạt 400 - 500 nghìn m3/năm đáp ứng nguyên liệu
cho công nghiệp chế biến gỗ trên địa bàn.
1.5. Về thủy sản
Tổng sản lượng thuỷ sản có sự tăng trưởng khá, năm 2013 ước đạt trên
113.000 tấn, tăng 96,68% so với năm 2003. Trong đó: Sản lượng khai thác đạt trên
71.000 tấn tăng 85%; nuôi trồng đạt trên 42.000 tấn tăng 128% so với năm 2003.
Đến năm 2013, diện tích nuôi trồng thủy sản ước đạt 23.200 ha, tăng 57,8%
so với năm 2003, trong đó diện tích nuôi mặn lợ 2.200 ha (1.750 ha nuôi tôm
thâm canh). Phong trào nuôi thủy sản nước ngọt phát triển rộng khắp, nhất là nuôi
cá tôm xen lúa, 2 vụ lúa 1 vụ cá, nuôi các loại cá đặc sản như cá chình, cá rô đầu
vuông, cá Lóc đen... đem lại hiệu quả kinh tế cao. Năng suất nuôi, nhất là nuôi
tôm đạt khá cao, năng suất nuôi tôm sú thâm canh đạt bình quân trên 1,5 tấn/ha,
có nhiều hộ nuôi đạt năng suất từ 3- 4 tấn/ha; đối với tôm chân trắng, năng suất
nuôi bình quân đạt 6 tấn/ha, nhiều hộ nuôi đạt từ 15-18 tấn/ha, đặc biệt có hộ nuôi
đạt 22 tấn/ha.

Đến năm 2013, toàn tỉnh đã có 51 cơ sở sản xuất giống thủy sản mặn lợ.
Đặc biệt cho sinh sản thành công tôm sú, cá rô phi đơn tính, cá tra và tôm he chân
trắng. Nghệ An được coi là trung tâm giống thuỷ sản của khu vực Bắc Trung bộ.
Khai thác thủy sản phát triển mạnh, chuyển dịch đúng hướng: Toàn tỉnh
hiện có 3.981 chiếc tàu thuyền đánh cá (30/9/2013). Trong đó loại tàu công suất
trên 90 CV tăng nhanh, năm 2013 có 1.108 chiếc tăng trên 505% so với năm
2003. Đồng thời du nhập nghề mới vào khai thác thủy sản như nghề chụp mực 4
tăng gông, rê xù, rê khơi… với trang thiết bị hiện đại như máy định vị, thông tin
liên lạc, máy ra đa, máy dò đứng, máy dò ngang.
Công tác bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản có nhiều tiến bộ: Hiện tượng khai thác
bằng chất nổ, xung điện… từng bước được kiểm soát và hạn chế, công tác đăng ký
đăng kiểm, cấp giấy phép hoạt động tàu cá được triển khai khá đồng bộ và đạt hiệu
quả cao (trên 90% phương tiện được đăng ký đăng kiểm). Việc tái tạo nguồn lợi,
như thả cá xuống hồ nước lớn, tôm, ngao giống ra biển được tiến hành hàng năm.
Chế biến thủy sản phục vụ nội địa và xuất khẩu tiếp tục phát triển khá, hàng
năm cung ứng cho thị trường gần 20 triệu lít nước mắm các loại, trên 15.000 tấn
bột cá, 3.000 tấn mắm các loại; chế biến xuất khẩu đạt 26.000 tấn.
1.6. Về sản xuất muối
Đẩy mạnh việc áp dụng tiến bộ KHKT vào sản xuất: đưa chạt lọc ra giữa
sân phơi, trải bạt nhựa ô kết tinh..., ổn định diện tích 800 ha, tăng năng suất đạt
113 tấn/ha, sản lượng 90.000 tấn, trong đó 10.000 tấn muối tinh sạch.


2. Phát triển kết cấu hạ tầng nông nghiệp phục vụ sản xuất và ứng phó
với biến đổi khí hậu
2.1. Đầu tư xây dựng, phát triển hạ tầng thủy lợi
Công tác thủy lợi tiếp tục được quan tâm đầu tư, đặc biệt trong bối cảnh
biến đổi khí hậu ngày càng rõ nét và tác động mạnh đến sản xuất, đời sống người
dân. Từ năm 2003 đến nay đã kêu gọi đầu tư các dự án với tổng mức đầu tư hơn
20.000 tỷ đồng cho công tác đầu tư xây dựng công trình thủy lợi phục vụ sản xuất

và dân sinh. Trong đó, làm mới và tu sửa nâng cấp hơn 200 công trình. Nhiều
công trình lớn như: Sửa chữa, nâng cấp hồ chứa nước Vực Mấu (vốn vay WB),
các dự án sửa chữa, nâng cấp các cụm hồ đập từ nguồn vốn TPCP: cụm hồ đập
Thanh Chương, Đô Lương, Anh Sơn, các trạm bơm tả ngạn Thanh Chương, hồ
Vệ Vừng - Quán Hài..., nâng cấp hồ Xuân Dương, Sửa chữa, nâng cấp các hồ
chứa: Đồng Sằng, Tân Thắng, Khe Canh..., xây dựng mới hồ Sông Sào, đặc biệt
là các công trình trọng điểm như hồ Bản Mồng, cống Nam Đàn mới, hồ Khe Lại Vực Mấu, hệ thống tiêu thoát lũ Vách Nam - Sông Bùng.
Nhiều công trình tưới cho cây công nghiệp, cây trồng cạn và tiêu úng cho
các vùng màu đã được xây dựng như các trạm bơm: Phú Tân, 1/5, Đông Hiếu,
Tây Hiếu..., hệ thống tiêu vùng màu Nghi Lộc, Diễn Châu, Quỳnh Lưu..v.v.., đảm
bảo tưới cho gần 90.000 ha cây công nghiệp, tiêu úng cho 19.476 ha hoa màu các
loại với năng suất cao, chất lượng sản phẩm tốt. Trước năm 2003 toàn tỉnh chỉ có
67 km kênh được kiên cố hóa, đến năm 2012 đã có hơn 4.700 km kênh mương
các loại được kiên cố hóa, đạt tỷ lệ 78%, là 1 trong 2 tỉnh dẫn đầu của cả nước về
kiên cố hóa kênh mương. Thực hiện có hiệu quả chương trình nâng cấp “đảm bảo
an toàn hồ chứa”, đến nay gần 150 hồ chứa lớn nhỏ đã được sữa chữa, nâng cấp,
hàng trăm tràn xả lũ đã được mở rộng đảm bảo an tòan theo tiêu chuẩn hiện hành.
Hiện nay đang triển khai đầu tư nhiều dự án thủy lợi lớn, trọng điểm, góp
phần chống biến đổi khí hậu và nước biển dâng như: Dự án sửa chữa, nâng cấp hệ
thống Thủy lợi Bắc với tổng mức đầu tư 5.300 tỷ đồng (nguồn vốn vay JICA),
cống ngăn mặn giữ ngọt sông Lam 3000 tỷ đồng, cống ngăn mặn sông Hoàng Mai
700 tỷ đồng, hệ thống thủy lợi kênh Lam Trà: 174 tỷ đồng, Hệ thống thủy lợi
Nậm Việc: 150 tỷ đồng...
- Về đê biển: Toàn tỉnh có 61 km đê biển, trước năm 2003, chủ yếu là đê
con chạch, nhỏ, thấp và các tuyến chưa khép kín. Từ năm 2003 đến nay đã đầu tư
xây dựng được 35,6 km với kinh phí 743 tỷ đồng; đảm bảo chống triều cường gặp
bão cấp 10 với tần suất 5%. Các huyện có đê biển gồm: Quỳnh Lưu, Diễn Châu,
Nghi Lộc và Thị xã Cửa Lò.
- Đê cửa sông: Tổng chiều dài 93 km, đến năm 2012 đã kiên cố được 25 km
với kinh phí 250 tỷ đồng, đảm bảo chống triều cường gặp bão cấp 10 với tần suất

5%. Các huyện có đê cửa sông: Quỳnh Lưu, Diễn Châu, Nghi Lộc.


- Đê sông, đê nội đồng: Tổng chiều dài: 319 km, đến năm 2012 đã đầu tư
nâng cấp được khoảng 90km, với kinh phí 300 tỷ đồng, đảm bão chống lũ hè thu
với tần suất 10%. Các huyện có đê sông, đê nội đồng : Đô Lương, Thanh Chương,
Nam Đàn, Hưng Nguyên, thành phố Vinh, huyện Nghi Lộc. Diễn Châu, Quỳnh
Lưu, Yên Thành.
Trong 10 năm qua, Nghệ An đã triển khai hơn 30 dự án đê điều, trong đó
đã hoàn thành 13 công trình, gồm: kè Cẩm Thái, Hồng Long, Hiệu Mỹ, Hưng
Xuân; Hưng Mỹ; Tràng Sơn; kè sông Hiếu, các tuyến đê biển Kim - Hải - Hùng,
đê Quỳnh Lộc, đê Diễn Thành, kè Nghi Tân, Nghi Hải, Sơn Hải.
Các công trình đang triển khai thi công: 19 dự án, gồm: đê biển Bãi Ngang
(Quỳnh Lưu); đê biển Nghi Yên, đê biển Quỳnh Lập, đê Trung - Thịnh - Thành
( Diễn Châu), đê Long - Thuận - Thọ ( Quỳnh Lưu), đê Long - Thuận - Phương
( Nghi Lộc), đê Tả, Hữu Sông Cấm ( Nghi Lộc); các tuyến kè Bích - Vạn - Ngọc,
Kim - Vạn - Kỷ (Diễn Châu); kè chống sạt lở Hưng Khánh - Hưng Nhân ( Hưng
Nguyên); kè Bồi Sơn, kè Lam Sơn (Đô Lương), nâng cấp tuyến đê Lương-YênKhai (Thanh Chương), Tu sửa, nâng cấp kè và một số đoạn trọng điểm thuộc đê
Tả Lam, tuyến đê sông huyện Yên Thành, đê Cầu Dâu ( Đô Lương),...
Đến nay, toàn tỉnh có hơn 624 hồ chứa, 559 trạm bơm điện, 400 đập dâng và
gần 6.000 km kênh mương các loại. Thực hiện tốt công tác quản lý khai thác bảo
vệ các công trình thủy lợi, vận hành kịp thời và tuân thủ các quy trình, quy phạm
công trình; hệ thống công trình đảm bảo tưới tiêu, phòng chống hạn có hiệu quả,
nhất là các đợt hạn hán và lũ lụt lớn; Trước năm 2003 tổng diện tích tưới là
192.624 ha, trong đó lúa 129.150 ha thì đến năm 2012 tổng diện tích tưới đạt
248.291 ha (trong đó lúa 165.602 ha) tăng gần 30% so với năm 2003.
2.2. Phát triển hạ tầng nghề cá
- Về hạ tầng kỹ thuật vùng nuôi - sản xuất giống: Bình quân hàng năm nhà
nước đầu tư khoảng 17 tỷ đồng và những người nuôi đầu tư trên 20 tỷ đồng vào
xây dựng hệ thống ao nuôi, trại sản xuất giống. Đến nay, đã có trên 1.000 ha nuôi

tôm thâm canh, 51 trại sản xuất tôm, hệ thống trại cá cấp 1 được đầu tư nâng cấp.
- Về cảng cá, bến cá, khu neo đậu tránh trú bão: Đến 2013, Nghệ An đã xây
dựng được 3 khu neo đậu tránh trú bão; 3 cảng cá và 3 bến cá nhân dân tạo điều
kiện thuận lợi cho quá trình trao đổi, nâng cao giá trị sản phẩm, giảm thời gian lên
hàng, tăng thời gian sản xuất trên biển của đội tàu khai thác.
2.3. Hệ thống các cơ sở nghiên cứu khoa học,chọn tạo và nhân giống cây
trồng, vật nuôi:
Các cơ sở khảo, kiểm nghiệm, kiểm soát chất lượng và vệ sinh an toàn thực
phẩm, vật tư nông nghiệp và hàng nông, thủy sản từng bước được trang bị cơ sở
vật chất hiện đại,… đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu quản lý, phục vụ sản xuất
của ngành. Đến nay, Nghệ An đã được đầu tư xây dựng Trạm giống cây trồng
công nghệ cao Hưng Đông, với tổng mức đầu tư 5,35 tỷ đồng, trạm Thực nghiệm
và sản xuất giống cây trồng Đô Thành, vốn đầu tư 9,0 tỷ đồng..., nhiều Công ty đã
đầu tư trang thiết bị phục vụ nghiên cứu, kiểm nghiệm chất lượng giống cây
trồng, vật nuôi... góp phần tạo điều kiện để làm tốt công tác giống.


2.4. Xây dựng các công trình nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn:
Đến 2013, toàn tỉnh đã đầu tư xây dựng 451 công trình nước sạch nông thôn,
với tổng kinh phí đầu tư trên 700 tỷ đồng. Tính đến năm 2013 số người dân được
dùng nước hợp vệ sinh theo tiêu chí tại Quyết định 40/QĐ-UBND của tỉnh đạt
khoảng 92,0%; theo tiêu chí 51/QĐ-BNN là 70%, theo tiêu chí 02/BYT là 31%. Tỷ
lệ số hộ dân nông thôn có nhà vệ sinh hợp chuẩn theo tiêu chí 08/BYT đạt 43,5%.
3. Về phát triển phát triển ngành nghề nông thôn
Đến năm 2013 toàn tỉnh đã xây dựng và công nhận được 315 làng có nghề
và 119 làng nghề. Hoạt động của các làng nghề, làng có nghề sản xuất theo quy
mô nhóm hộ, thôn, bản, xã đã có nhiều nơi sản xuất tập trung tại khu công nghiệp
nhỏ, khu chế biến hải sản tập trung, cụm làng nghề nông thôn, sản phẩm làng
nghề tiêu thụ trong và ngoài tỉnh. Năm 2013, giá trị kim ngạch xuất khẩu của sản
phẩm làng nghề đạt khoảng 10 triệu USD, thu hút và đào tạo nghề được gần

61.900 lao động.
- Toàn tỉnh có 26 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực chế biến và bảo
quản nông lâm thủy sản, trong đó có 21 doanh nghiệp hoạt động ổn định và có
khả năng phát triển.
- Số lượng HTX tiếp tục được nhân rộng, đến thời điển hiện tại, tỉnh Nghệ
An có 32 HTX hoạt động trong lĩnh vực chế biến và bảo quản nông lâm thủy sản,
lĩnh vực chế biến và có 28 HTX hoạt động trong lĩnh vực bảo quản lâm sản,
chiếm 87% số lượng HTX.
Mô hình làng có nghề, làng nghề được các địa phương trong tỉnh xây dựng
đã phát triển với quy mô ngày càng lớn. Các làng có nghề sản xuất theo quy mô
nhóm hộ, làng nghề sản xuất theo quy mô thôn, bản, xã đã có nhiều nơi sản xuất
tập trung tại khu công nghiệp nhỏ, khu chế biến hải sản tập trung, cụm làng nghề
nông thôn. Tổng giá trị sản xuất làng nghề 6 tháng đầu năm 2013 đạt 489,475 tỷ
đồng, trong đó: Chế biến và bảo quản nông sản: 224,055 tỷ đồng; chế biến và bảo
quản lâm sản: 204,215 tỷ đồng; chế biến và bảo quản thủy sản: 61, 205 tỷ đồng.
- Mạng lưới tổ chức đào tạo nghề cho nông dân (43 cơ sở) phục vụ cho sản
xuất làng nghề được tổ chức hầu hết các huyện trong tỉnh, sản phẩm làng nghề
được cung ứng, xuất khẩu cho ngoại tỉnh và xuất khẩu ngoài nước.
- Thu nhập bình quân từ nghề chế biến và bảo quản nông sản bình quân 1,0
triệu đồng/lao động/tháng; chế biến và bảo quản lâm sản và thủy sản bình quân
1,5 triệu đồng/lao động/tháng.
4. Các hình thức tổ chức sản xuất, quản lý trong nông nghiệp
a) Các hình thức tổ chức sản xuất trong nông nghiệp
Các hình thức tổ chức sản xuất, quản lý hiện nay tại Nghệ An, bao gồm:
- Các doanh nghiệp nhà nước thực hiện giao khoán và tổ chức sản xuất theo
Nghị định 01/1995/NĐ-CP ngày 04/01/1995 và Nghị định số 135/2005/NĐ-CP
ngày 08/11/2005 Chính phủ.


Ưu điểm của các hình thức khoán này là người nhận khoán được giao đất

để sản xuất, yên tâm đầu tư thâm canh tăng năng xuất, chất lượng sản phẩm; được
doanh nghiệp hướng dẫn về quy trình sản xuất, được cho vay vốn để đầu tư và
bán sản phẩm lại cho doanh nghiệp; sản xuất theo quy hoạch, kế hoạch và sản
xuất hàng hóa.
Hạn chế của các hình thức khoán này đó là: Hợp đồng giao khoán thiếu
ràng buộc chặt chẽ và chưa phân rõ trách nhiện và quyền lợi của các bên liên
quan, năng suất lao động chưa cao do hợp đồng giao khoán thường theo chu kỳ,
giai đoạn nên một bộ phận hộ nhận khoán chưa chú trọng đến đầu tư thâm canh
mà chỉ thai thác, bóc lột đất.
- Các hộ nông dân được giao đất theo Nghị định số 64/NĐ-CP để tự tổ chức
sản xuất; thông qua tổ hợp tác, hợp tác xã để cung ứng các dịch vụ nông nghiệp.
Ưu điểm của hình thức này là các hộ nông dân đã chú trọng đầu tư thâm
canh tăng năng suất, chất lượng sản phẩm, nhưng quy mô sản xuất nhỏ lẻ, manh
mún, nhiều hộ nông dân phải tự tìm kiếm giống, vật tư phân bón để sản xuất và tự
bán sản phẩm. Mối liên kết giữa nông dân với nhau, với Tổ hợp tác hoặc hợp tác
xã còn lỏng lẻo thiếu tính ràng buộc. Quy mô của các HTX nông nghiệp, tổ hợp
tác còn nhỏ; trình độ, năng lực quản lý của nhiều cán bộ HTX còn yếu; chất
lượng, hiệu quả hoạt động của nhiều HTX, tổ hợp tác thấp. Nhìn chung Hợp tác
xã chưa thể hiện rõ vai trò trong hỗ trợ nông dân sản xuất.
- Hiện nay, ở Nghệ An đã hình thành, phát triển liên kết trong sản xuất
thông qua mô hình cánh đồng mẫu lớn, trung tâm của sự liên kết là doanh nghiệp
thông qua tổ hợp tác, hoặc hợp tác xã để liên kết với nông dân. Bước đầu mô hình
liên kết này đã thu được những kết quả khả quan: năng suất, chất lượng, hiệu quả
trong các mô hình liên kết này tăng lên rõ rệt; thu nhập và tính chủ động trong sản
xuất của doanh nghiệp và nông dân tăng lên.
Tuy nhiên, hình thức liên kết này vẫn bộc lộ nhiều hạn chế đó là: Các chế
tài ràng buộc sự liên kết còn lỏng lẻo; quy mô liên kết còn nhỏ, phạm vi liên kết
còn hẹp... chỉ đang dừng ở mức độ "mô hình"; một số doanh nghiệp quá chú trọng
vào lợi ích của của mình mà chưa thực sự quan tâm, hỗ trợ, chia sẻ lợi ích với
nông dân; phân chia lợi ích chưa rõ ràng, thua thiệt vẫn còn thuộc về nông dân,....

b) Phát triển kinh tế hợp tác (HTX và Tổ hợp tác)
Tính đến 31/12/2012, toàn tỉnh có 466 hợp tác xã nông nghiệp (năm 2003
là 367 HTX ( tăng 27%); 450/2850 tổ hợp tác thực tế có hoạt động, trong đó có
159 tổ hợp tác có chứng thực của UBND cấp xã (năm 2003 chưa có tổ hợp tác
nào trong lĩnh vực nông nghiệp được UBND xã xác nhận); thu hút hơn 68% số hộ
dân nông thôn tham gia vào các HTX, tổ hợp tác. Góp phần tăng năng suất, nâng
cao chất lượng nông sản hàng hóa, giải quyết việc làm cho lao động nông thôn và
phát triển kinh tế - xã hội địa phương.


Khu vực kinh tế tập thể tạo thêm 85.394 việc làm không thường xuyên và
14.952 việc làm thường xuyên cho người lao động và trong số đó có gần 50%
được đào tạo nghề.
Tỷ lệ nghèo đói khu vực nông thôn có HTX hạ xuống còn 12,5 % (năm
2005 là 27,14%);
Các loại hình dịch vụ chủ yếu hiện nay của HTX gồm: Cung ứng giống cây
trồng, vật nuôi, thủy sản; cung ứng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, thủy lợi, điện
năng, tiêu thụ sản phẩm, vệ sinh môi trường, chế biến nông lâm sản. Ngoài ra một
số loại hình dịch vụ mới được hình thành có tính chất phi nông nghiệp nhưng
mang lại hiệu quả cao, tạo cho HTXNN có diện mạo mới, đa dạng như: Dịch vụ
vệ sinh môi trường, sản xuất vật liệu xây dựng, làm đất,...
Công tác tập huấn, đào tạo cho cán bộ quản lý nhà nước về kinh tế tập thể
các cấp, cho cán bộ quản lý các hợp tác xã; tập huấn, đào tạo nghề cho xã viên
hợp tác xã đã được tăng cường và hiệu quả cao.
Hàng năm ngân sách Trung ương và ngân sách tỉnh đều bố trí kinh phí cho
công tác tập huấn, bồi dưỡng các kiến thức chuyên môn, quản lý kinh tế - nghiệp
vụ cho cán bộ quản lý chủ chốt hợp tác xã. Đến nay các HTX đã gửi 72 cán bộ
chủ chốt đào tạo đại học, cao đẳng và 361 cán bộ đào tạo trung cấp tại các trường
trong và ngoài tỉnh; mở được 63 lớp tập huấn cho 3009 lượt cán bộ quản lý HTX
các HTX. Cấp huyện đều bố trí từ 1 đến 2 cán bộ chuyên trách theo dõi, chỉ đạo

mảng kinh tế tập thể, hợp tác xã và xây dựng nông thôn mới.
c) Phát triển kinh tế trang trại:
Tính đến 31/12/2012 theo thống kê từ các địa phương, toàn tỉnh có 230
trang trại đạt tiêu chí theo thông tư 27/2011/TT-BNN ngày 13/4/2011 của Bộ
nông nghiệp&PTNT, trong đó 128 trang trại được cấp Giấy chứng nhận KTTT
mới và hàng ngàn gia trại đạt tiêu chí trang trại theo tiêu chuẩn cũ. So với năm
2003, trang trại có bước phát triển vượt bậc, trong đó có những trang trại có quy
mô lớn, với quy mô diện tích hàng chục ha, chăn nuôi gia súc, gia cầm với quy
mô lớn.
d) Về đổi mới, sắp xếp các nông, lâm trường quốc doanh:
Từ năm 2002, Nghệ An đã thực hiện rà soát quỹ đất, cấp giấy CNQSD đất
cho các doanh nghiệp, chuyển giao diện tích đất sử dụng không hiệu quả cho địa
phương quản lý, sử dụng. Trong 10 năm, đã chuyển giao trên 310 nghìn ha đất
của các nông, lâm trường cho chính quyền địa phương quản lý, sử dụng. Đồng
thời, hoàn thành chuyển giao chức năng quản lý hành chính - xã hội từ các nông,
lâm trường quốc doanh về địa phương quản lý.


Trước năm 2003, Nghệ An có 22 doanh nghiệp nông, lâm nghiệp, với 37
nông, lâm trường quốc doanh và 7 doanh nghiệp thủy nông. Đến nay, toàn tỉnh
chỉ còn 12 công ty TNHH MTV nông, lâm nghiệp, trong đó: 07 Công ty TNHH
MTV nông nghiệp, 05 công ty TNHH MTV lâm nghiệp; 03 Ban quản lý Rừng
đặc dụng và 12 Ban quản lý RPH; 07 công ty TNHH MTV Thủy lợi. Sau chuyển
đổi, hoạt động của công ty đã có chuyển biến tốt, sản xuất kinh doanh ngày càng
hiệu quả, đời sống của người lao động không ngừng được nâng lên.
5. Về phát triển nông thôn và xây dựng nông thôn mới
a) Xây dựng nông thôn mới:
Xây dựng nông thôn mới đã được Tỉnh ủy, UBND tỉnh quan tâm từ rất
sớm. Năm 2002 - 2005, Nghệ An đã triển khai xây dựng thí điểm mô hình nông
thôn mới tại 3 xã: Diễn Xuân, Nghĩa Mỹ, Nghĩa Xuân. Năm 2008 - 2009, xây

dựng thí điểm 2 mô hình nông thôn mới cấp thôn, bản tại Xóm 2 (xã Diễn Xuân)
và Phú Tập (xã Khánh Thành). Đây là cơ sở để Nghệ An rút kinh nghiệm trong
việc tổ chức, triển khai thực hiện có hiệu quả Chương trình MTQG Xây dựng
NTM.
Sau 3 năm thực hiện Chương trình MTQG xây dựng NTM, Nghệ An đã
đạt được nhiều kết quả bước đầu quan trọng, bộ mặt nông thôn ngày càng khởi
sắc, nhiều địa phương, đơn vị đã có cách làm hay, sáng tạo, huy động nội lực để
xây dựng hạ tầng, dồn điền đổi thửa, phát triển sản xuất, xây dựng “cánh đồng
mẫu lớn”...
Đến 30/7/2012, Nghệ An đã hoàn thành phê duyệt quy hoạch NTM của
435/435 xã, đạt 100% kế hoạch, vượt trước 5 tháng so với yêu cầu của Trung
ương. Đến nay, đã có 435/435 xã hoàn thành việc phê duyệt đề án Xây dựng
NTM cấp xã, đạt 100% KH. Các địa phương đang tập trung phát triển sản xuất,
nâng cao thu nhập cho người dân, hoàn thành mục tiêu cốt lõi của Chương trình.
Tổng nguồn vốn huy động, lồng ghép thực hiện Chương trình trong 3 năm
(2011 - 2013) là 9.881 tỷ đồng. Trong đó: Vốn ngân sách là 4.188 tỷ đồng; Vốn
lồng ghép từ các chương trình, dự án 941 tỷ đồng; Vốn tín dụng 1.090 tỷ đồng;
Vốn doanh nghiệp 393 tỷ đồng; Vốn dân góp 3.269 tỷ đồng.
Đến 30/6/2013, Nghệ An đã có: Trong đó: 01 xã đạt 19/19 tiêu chí NTM
(xã Sơn Thành, huyện Yên Thành), 2 xã đạt 16 tiêu chí (xã Nghi Liên, thành Phố
Vinh và xã Phúc Thành, huyện Yên Thành); 18 xã đạt từ 13-15 tiêu chí, tăng 17
xã; 62 xã đạt từ 9-12 tiêu chí, tăng 40 xã; 240 xã đạt từ 5-8 tiêu chí, tăng 114 xã;
112 xã đạt từ 1- 4 tiêu chí, giảm 176 xã so với năm 2010.


b) Sắp xếp, bố trí dân cư và thực hiện các chương trình, dự án phát triển
nông thôn
Trong 10 năm qua, Nghệ An đã xây dựng được 27 dự án bố trí dân cư ở các
huyện, gồm: 08 dự án di dân xây dựng vùng kinh tế mới, 05 dự án định canh định
cư xã nghèo, 04 dự án bố trí dân cư vùng đặc biệt khó khăn và vùng biên giới, 09

dự án di dân khẩn cấp vùng thiên tai, sạt lở đất, 01 dự án tái định cư cho các hộ
vạn chài trên sông Lam…, với tổng vốn đầu tư: 250,44 tỷ đồng. Đến nay, đã hoàn
thành đưa vào sử dụng 06 dự án; Trong giai đoạn 2003 - 2013, đã bố trí dân cư
được trên 2.789 hộ, trong đó tập trung 2.090 hộ, xen ghép: 699 hộ... góp phần ổn
định cuộc sống cho người dân, đảm bảo an sinh xã hội.
Các chương trình, dự án giảm nghèo khác như: Hỗ trợ phát triển sản xuất
thuộc các chương trình: 135, 30a, chương trình giảm nghèo... đều được triển khai
thực hiện có hiệu quả, góp phần xóa đói giảm nghèo bền vững, nhất là đối với
đồng bào dân tộc vùng cao, biên giới, vùng bãi ngang ven biển.
6. Về ứng dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ vào sản xuất và đào tạo,
phát triển nguồn nhân lực
a) Về ứng dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ vào sản xuất
Các hoạt động chuyển giao và ứng dụng khoa học kỹ thuật, khuyến nông
khuyến lâm tiếp tục được đẩy mạnh. Sở đã cùng với các địa phương hướng dẫn
đẩy mạnh ứng dụng KHKT, từng bước ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất các
sản phẩm nông nghiệp có giá trị kinh tế cao, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm.
Trong đó:
- Về Xây dựng mô hình: Triển khai xây dựng các mô hình, đảm bảo thời vụ,
đúng yêu cầu kỹ thuật, đạt kết quả tốt, như: Thâm canh lúa cải tiến SRI; sản xuất
rau an toàn, chăn nuôi lợn thịt theo hướng Vietgap; chuyển đổi cơ cấu cây trồng
vật nuôi; nông lâm kết hợp trên đất dốc; các mô hình thủy sản; mô hình tổ hợp tác
và ứng dụng TBKT trong sản xuất muối sạch...
- Công tác nghiên cứu khoa học, khảo kiểm nghiệm giống
+ Các hoạt động sự nghiệp khoa học: Đạt được nhiều kết quả như: Khảo
kiểm nghiệm cơ bản, tuyển và thử nghiệm, khảo nghiệm các loại giống cây trồng
vụ Xuân 2013; tổ chức các cuộc hội thảo kiểm tra đánh giá mô hình cây lúa; điều
tra cơ cấu giống cây trồng trên địa bàn tỉnh v.v… Một số giống cây trồng qua
khảo nghiệp cho kết quả bước đầu tốt, làm căn cứ đề xuất bổ sung vào cơ cấu
giống sản xuất năm 2013 của tỉnh, gồm các giống lúa: LC25, Thiên Nguyên Ưu
16, 9...

+ Thực hiện các đề tài, dự án: Tiếp tục thực hiện một số dự án đầu tư và
ứng dụng tiến bộ KHKT như: Sản xuất hạt giống F1 giống lúa lai LC25; xây dựng
Trạm TN và SX giống cây trồng tại xã Đô Thành; xây dựng mô hình trồng chuối
Tiêu hồng tập trung,...


- Phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao: Triển khai thực hiện
Chương trình hành động Nghị quyết 07-NQ/TU ngày 04/2/2012 của BCH Đảng
bộ tỉnh khóa XVII về việc ứng dụng và phát triển công nghệ cao giai đoạn 2011
- 2020. Trong đó từng bước thu hút các dự án nông nghiệp ứng dụng công nghệ
cao vào khu nông nghiệp CNC Phủ Quỳ. Trong năm 2013, tiếp tục triển khai các
dự án chăn nuôi bò sữa quy mô công nghiệp của Công ty CP thực phẩm sữa TH,
Vinamilk; dự án sản xuất rau, củ, quả CNC tại Nghĩa Đàn. Hoàn thành quy
hoạch ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất lúa, lạc, chè và mía. Hiện nay
đang triển khai xây dựng đề án thành lập khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ
cao Nghĩa Đàn.
b) Công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực và thông tin truyên truyền
Công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, tập huấn và thông tin tuyên
truyền luôn được quan tâm chỉ đạo thực hiện. Tiếp tục triển khai các chương trình
đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực nông nghiệp & PTNT như:
- Chương trình thông tin tuyên truyền: Hàng tháng thường xuyên có các
trang chuyên đề trên các phương tiến thông tin đại chúng như Đài PTTH, Báo
Nghệ An và mỗi năm phát hành 7 -8.000 tập chí thông tin KNKN,...
- Chương trình tập huấn, đào tạo: Năm 2012 đã tổ chức 1.115/KH1.115 lớp
tập huấn, với 56.109 học viên tham gia. Về nội dung phù hợp với đối tượng học
viên và đặc điểm của từng địa phương; áp dụng phương pháp tập huấn mới nhằm
nâng cao chất lượng, hiệu quả tập huấn.
- Tiếp tục triển khai thực hiện Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn
đến 2020” (theo Quyết định số 1956/QĐ-TTg ngày 27/11/2009 của Thủ tướng
Chính phủ) theo hướng chất lượng và hiệu quả hơn. Năm 2012, đã mở được 45

lớp với 8 nghề, 1.429 lao động tham gia ở các huyện, thành, thị.
Triển khai công tác đào tạo nghề cho hàng nghìn xã viên HTX, lao động
nông thôn, tập huấn sử dụng máy nông nghiệp; hoàn thành các lớp tập huấn nghề
do dự án Thương mại xanh tài trợ,...
7. Về chế biến và tiêu thụ nông sản
Chỉ đạo thực hiện tốt quy hoạch chế biến nông lâm thủy sản. Tổ chức kiểm
tra các cơ sở sản xuất, chế biến nông sản về điều kiện sản xuất đáp ứng quy định
về chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm, trên cơ sở đó có giải pháp xử lý các
cơ sở chưa chấp hành nghiêm.
Tiếp tục triển khai thực hiện quyết định số 63/2010/QĐ-TTg và
65/2011/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về chính sách hỗ trợ nhằm giảm tổn
thất sau thu hoạch đối với nông, thuỷ sản.


Tuy có sự khó khăn của kinh tế thế giới cũng như trong nước, nhưng nhờ
làm tốt công tác xúc tiến thương mại cùng với sự năng động của các doanh
nghiệp nên hầu hết các mặt hàng nông sản được tiêu thụ tốt, khuyến khích phát
triển sản xuất.
Năm 2012, sản lượng chế biến nông lâm thủy sản: Đường 100.000 tấn; Chè
búp khô 12.000 tấn, cà phê nhân khô 1.000 tấn, cao su mủ khô 5.500 tấn. Gỗ xẻ
các loại 20.000 m3, chế biến đồ mộc 5.000 m3, dầu nhựa thông: 1000 tấn. Chế
biến thủy sản đạt 25.000 tấn, mước mắm đạt quy loại 2 đạt 19 triệu lít, mắm các
loại 6.500 tấn, bột cá 3.500 tấn. Sản xuất thức ăn chăn nuôi 10.000 tấn; Phân bón
NPK 160.000 tấn. Giá trị xuất khẩu năm 2012 đạt trên 93 triệu USD. Trong đó giá
trị xuất khẩu thủy sản đạt 18 triệu USD; chè khô các loại đạt 10,6 triệu USD; cà
phê nhân khô đạt 1,2 triệu USD; cao su mủ khô đạt 7,5 triệu USD; gỗ chế biến đạt
3 triệu USD và dăm bột giấy đạt trên 25 triệu USD,...
8. Về cải cách hành chính
Đến năm 2013, các đơn vị thuộc Sở đã cơ bản hoàn thành việc sắp xếp lại
tổ chức bộ máy và lao động theo hướng tinh giản, gọn nhẹ, nâng cao hiệu quả,

hiệu suất làm việc của cán bộ, công chức, viên chức...
Toàn ngành đã thực hiện tốt quản lý hành chính theo tiêu chuẩn ISO 90012000, đồng thời thường xuyên rà soát lại và tổ chức niêm yết, công khai quy trình,
thủ tục hành chính, các hồ sơ, mẫu biểu của các thủ tục hành chính tại Bộ phận
một cửa, trên các trang thông tin điện tử của Sở và các Đơn vị trực thuộc.
Đưa công nghệ thông tin vào công tác quản lý, chỉ đạo điều hành của Sở và
các đơn vị thuộc ngành một cách có hiệu quả, như: Sử dụng hệ thống văn phòng
điện tử M-office, Website của ngành Nông nghiệp & PTNT, sử dụng hộp thư điện
tử,… từ Sở đến các địa phương, đơn vị; thường xuyên cập nhật, cung cấp thông
tin hai chiều một cách kịp thời.
Từ năm 2012 đến nay triển khai thực hiện có hiệu quả đề án nâng cao chỉ
số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) trong lĩnh vực nông nghiệp và PTNT, góp
phần nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh của tỉnh.
II. TỒN TẠI HẠN CHẾ VÀ NGUYÊN NHÂN
1. Tồn tại, hạn chế
Mặc dù đạt được nhiều thành tựu quan trọng, nhưng về cơ bản nông
nghiệp, nông thôn vẫn còn những tồn tại, hạn chế như:
a) Nông nghiệp tuy tăng trưởng khá, nhưng thiếu bền vững, khả năng cạnh
tranh thấp; cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn chuyển dịch chậm.
Tuy tốc độ tăng trưởng giai đoạn 2003 - 2013, đạt bình quân ở mức 4 - 5
%/năm, nhưng dễ bị ảnh hưởng do thiên tai, dịch bệnh và biến động của thị
trường. Cơ cấu kinh tế đã có chuyển biến nhưng còn chậm, trồng trọt vẫn còn
chiếm tỷ lệ cao trong cơ cấu chung.


Năng suất, chất lượng, khả năng cạnh tranh của nhiều sản phẩm nông
nghiệp còn thấp; bảo quản, chế biến sau thu hoạch còn kém phát triển, nên chất
lượng nhiều loại nông sản còn thấp. Phần lớn nông sản tiêu thụ và xuất khẩu ở
dạng sơ chế, thô nên giá trị gia tăng rất thấp, chưa có thương hiệu.
Chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm thấp, việc áp dụng các tiêu chuẩn,
quy chuẩn kỹ thuật vệ sinh ATTP chưa được coi trọng; tổn thất sau thu hoạch cả

về số lượng và chất lượng còn lớn.
Kết cấu kinh tế nông thôn vẫn chủ yếu là thuần nông (sản xuất nông nghiệp
chiếm trên 80%), sản xuất nông nghiệp vẫn nặng về trồng trọt (chiếm tỷ trọng
52%) Các hoạt động phi nông nghiệp, công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp còn
chiếm tỷ lệ nhỏ, chưa đủ sức thu hút tạo việc làm để thúc đẩy chuyển dịch lao
động nông thôn.
b) Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng được yêu cầu chuyển đổi
cơ cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn; nhiều nơi còn yếu kém.
Nguồn vốn đầu tư phát triển nông nghiệp và xây dựng công trình kết cấu hạ
tầng nông thôn còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu chuyển đổi cơ cấu kinh tế,
nâng cao đời sống của người dân, nhất là ở các vùng miền núi. Đặc biệt là giao
thông vùng nguyên liệu và giao thông nội đồng; các công trình thủy lợi,...
c) Quan hệ sản xuất chậm đổi mới, các hình thức tổ chức sản xuất thiếu
hiệu quả
- Các nông, lâm trường triển khai chương trình sắp xếp, đổi mới và nâng
cao hiệu quả trên tinh thần Nghị quyết 28 của Bộ Chính trị, Nghị định của Chính
phủ và của UBND tỉnh còn chậm. Kinh tế hợp tác phát triển rất chậm, chưa đóng
vai trò mong đợi trong hỗ trợ hoạt động sản xuất của nông hộ.
- Luật HTX năm 2003 tuy đã thực hiện được 10 năm, nhưng nhiều HTX
nông nghiệp vẫn hoạt động và tổ chức theo kiểu cũ. Vốn góp của các xã viên rất
ít, nhiều xã viên trên danh nghĩa nhưng không có vốn góp; việc huy động vốn cho
hoạt động dịch vụ, kinh doanh gặp nhiều khó khăn; Ngân hàng ít cho vay vốn vì
lòng tin đối với các HTX nông nghiệp thấp; xã viên chưa quen với việc trả phí
dịch vụ do ảnh hưởng từ thói quen được phục vụ và tâm lý trông chờ ỷ lại. Quy
mô của các HTX nông nghiệp, tổ hợp tác còn nhỏ; trình độ, năng lực quản lý của
nhiều cán bộ HTX còn yếu; chất lượng, hiệu quả hoạt động của nhiều HTX, tổ
hợp tác thấp; chưa bảo đảm các nguyên tắc của Luật Hợp tác xã.
- Kinh tế trang trại tuy tăng nhanh về số lượng nhưng quy mô còn nhỏ, và
chiếm một tỷ lệ không đáng kể trong hoạt động sản xuất nông nghiệp cũng như
kinh tế nông thôn.



- Các hình thức liên kết trong sản xuất còn lỏng lẻo, thiếu ràng buộc, chưa
hiệu quả và còn nhiều hạn chế.
d) Nông thôn chưa có chuyển biến rõ nét, đời sống một bộ phận nông dân
chậm được cải thiện
Tuy đời sống của đại bộ phận dân cư nông thôn đã được nâng cao, nhưng
so với mặt bằng chung thì nông thôn vẫn nghèo và phát triển chậm; thu nhập của
người dân nông thôn vẫn cón thấp so với các lĩnh vực khác; khoảng cách chênh
lệch giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn ngày càng lớn; yêu cầu về việc làm
ngày càng bức xúc.
Mặc dù tỷ lệ người nghèo giảm nhanh và đáng kể trong thời gian qua
nhưng vẫn còn tỷ lệ cao (năm 2012 còn 15,5 %) và thiếu bền vững, dễ tái nghèo,
đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc.
e) Ô nhiễm môi trường tăng, nhiều tài nguyên bị khai thác quá mức
Tình trạng sản xuất thâm canh, sử dụng quá nhiều phân bón, hóa chất,
thuốc bảo vệ, chất kích thích sinh trưởng và tạo ra nhiều chất thải của các vùng
chăn nuôi tập trung, nuôi thủy sản tập trung,...tạo ra dư lượng các chất độc hại
trong nông sản thực phẩm, làm tăng khả năng chống chịu và đột biến của sâu
bệnh; tình trạng ô nhiễm môi trường đang gia tăng, đặc biệt ở các làng nghề và
chưa có giải pháp hữu hiệu để khắc phục.
2. Nguyên nhân của tồn tại hạn chế
a) Nguyên nhân khách quan:
- Xuất phát điểm nông nghiệp, nông thôn của tỉnh thấp, trong khi nguồn lực
của Nhà nước và nhân dân còn rất hạn hẹp:
Nông nghiệp, nông thôn của tỉnh trong những năm qua đã có nhiều tiến bộ,
nhưng nhìn chung vẫn còn mang nặng tính chất của một nền sản xuất tiểu nông,
nhỏ lẻ, phân tán; công nghệ, cơ sở hạ tầng lạc hậu; nhân lực được đào tạo, có tay
nghề chiếm tỷ lệ thấp. Mặt khác, chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp phải
tuân theo các quy luật sinh học của cây trồng, vật nuôi nên phải có thời gian mới

đem lại kết quả.
- Bên cạnh đó, do biến đổi khí hậu nên thời tiết ngày càng diễn biến phức tạp
khó lường như: Mưa lụt lớn năm 2005, 2008, lũ quét năm 2007, bão số 3 năm
2010, bão số 2 năm 2011, bão số 10, 11 năm 2013, lốc, tố, mưa đá,… gây thiệt hại
cho sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp và ảnh hưởng đến đời sống của người dân.
- Dịch bệnh gia súc (trâu, bò, lợn) gia cầm (gà, vịt); thủy sản (tôm); cây
trồng như chồi cỏ mía, greening (cam), lùn sọc đen trên lúa… ảnh hưởng lớn đến
tiến độ phát triển về số lượng, chất lượng của các loại cây trồng, vật nuôi.


- Khủng hoảng tài chính, lạm phát kinh tế, suy thoái kinh tế thế giới, trong
nước ảnh hưởng bất lợi cho sản xuất, kinh tế xã hội, tác động đến nông nghiệp và
phát triển nông thôn của tỉnh.
b) Nguyên nhân chủ quan
- Ý thức sản xuất của người dân một số vùng còn mang tính sản xuất nhỏ,
phong tục tập quán còn lạc hậu, sớm thỏa mãn về kết quả thu nhập hiện tại và còn
có tư tưởng trồng chờ, ỉ lại; phong cách làm việc của một số cán bộ chậm đổi mới.
- Cơ chế, chính sách thiếu đột phá, chậm được điều chỉnh cho phù hợp với
yêu cầu của sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn, việc tổ chức thực hiện
còn nhiều yếu kém. Nhìn chung, chủ trương chính sách ban hành nhiều nhưng
thực hiện chưa triệt để do thiếu nguồn lực tài chính, thiếu quyết liệt trong triển
khai thực hiện, kiểm tra, đôn đốc. Trách nhiệm của các cấp uỷ và chính quyền các
cấp còn hạn chế.
- Đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn còn hạn chế, so với vị trí, vai trò và
yêu cầu phát triển, hiệu quả đầu tư chưa cao:
+ Đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn thời gian qua còn ít, thấp hơn nhiều
so với vị trí, tiềm năng và nhu cầu phát triển trong khi hiệu quả đầu tư lại chưa
cao. Cơ cấu đầu tư cho nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản phân theo ngành
kinh tế có xu hướng giảm dần, cụ thể: Năm 2010 chiếm 14,41 %, năm 2011 là
12,12 % và năm 2012 là 11,82%. Việc huy động các nguồn vốn đầu tư của các

thành phần kinh tế khác vào nông nghiệp, nông thôn còn rất hạn chế.
+ Việc phân bổ vốn đầu tư công trong nội bộ ngành tập trung chủ yếu cho
hạ tầng cơ bản có tính chất phi sản xuất hoặc chậm sinh lời chiếm tỷ trọng lớn.
Trong khi vốn đầu tư trực tiếp cho sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp và các chương
trình, dự án mang tính chất hỗ trợ sản xuất và sinh lợi còn thấp.
+ Chất lượng kết cấu hạ tầng và dịch vụ phục vụ nông nghiệp, nông thôn
còn thấp. Cơ sở hạ tầng yếu kém, thiếu đồng bộ, chưa đảm bảo phục vụ đắc lực
cho sản xuất nông nghiệp hàng hóa và chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn, nhất
là giao thông nội đồng, giao thông và thủy lợi ở các vùng nguyên liệu.
- Công tác nghiên cứu, chuyển giao khoa học công nghệ còn chậm, chưa
tạo bước đột phá trong nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị tăng thêm cho
sản phẩm. Phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao còn hạn chế và chưa
có chính sách “đủ mạnh” để phát triển.
- Chưa có chế tài đủ mạnh để ràng buộc doanh nghiệp và người dân trong
liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
- Cải cách hành chính diễn ra còn chậm so với yêu cầu của sản xuất nông
nghiệp và phát triển nông thôn,...


PHẦN II
ĐỊNH HƯỚNG VÀ NỘI DUNG TÁI CƠ CẤU
I. MỤC TIÊU, QUAN ĐIỂM
1. Quan điểm tái cơ cấu
- Tái cơ cấu ngành nông nghiệp là một hợp phần của tái cơ cấu tổng thể nền
kinh tế, phù hợp với chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh và
phù hợp với định hướng phát triển ngành chung của cả nước; gắn với phát triển
kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường để bảo đảm phát triển bền vững.
- Thực hiện tái cơ cấu nông nghiệp vừa phải theo cơ chế thị trường, vừa
phải đảm bảo các mục tiêu cơ bản về phúc lợi cho nông dân và người tiêu dùng;
chuyển mạnh từ phát triển theo chiều rộng lấy số lượng làm mục tiêu phấn đấu

sang nâng cao chất lượng, hiệu quả thể hiện bằng giá trị, lợi nhuận; đồng thời, chú
trọng đáp ứng các yêu cầu về xã hội.
- Nhà nước giữ vai trò hỗ trợ, tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động của
các thành phần kinh tế; tập trung hỗ trợ nghiên cứu, phát triển và chuyển giao
khoa học, công nghệ, phát triển thị trường, cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và đời
sống, cung cấp thông tin, dịch vụ.
- Tăng cường sự tham gia của tất cả các thành phần kinh tế, xã hội vào
trong quá trình tái cơ cấu ngành. Nông dân và doanh nghiệp trực tiếp đầu tư đổi
mới quy trình sản xuất, công nghệ và thiết bị để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh và sử dụng tài nguyên hiệu quả hơn.
- Tái cơ cấu là một quá trình phức tạp, khó khăn và lâu dài cần được thường
xuyên đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm để điều chỉnh phù hợp với thực tế trên
cơ sở xây dựng một hệ thống giám sát, đánh giá và tham vấn thông tin phản hồi từ
các bên liên quan.
2. Mục tiêu phát triển ngành
a) Mục tiêu tổng quát
- Phát triển nông nghiệp, nông thôn toàn diện trên cơ sở phát huy tối đa lợi
thế về nông nghiệp của tỉnh gắn với xây dựng nông thôn mới.
- Duy trì tăng trưởng, nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh thông qua
tăng năng suất, chất lượng và giá trị gia tăng; đáp ứng tốt hơn nhu cầu, thị hiếu
của người tiêu dùng nội tại và đẩy mạnh xuất khẩu.
- Nâng cao thu nhập và cải thiện mức sống cho cư dân nông thôn, đảm bảo
an ninh lương thực cả trước mắt và lâu đài, góp phần xó đói, giảm nghèo.
- Tăng cường quản lý tài nguyên thiên nhiên, giảm thiểu các tác động tiêu
cực khác đối với môi trường, nâng cao năng lực quản lý rủi ro, chủ động phòng
chống thiên tai, dịch bệnh.


b) Mục tiêu cụ thể
- Tốc độ tăng bình quân giá trị tăng thêm Nông, lâm, ngư nghiệp giai đoạn

2013 - 2015 đạt 4,0 - 5,0%/năm và giai đoạn 2016 - 2020 đạt 3,0 - 4,0 %/năm.
- Cơ cấu kinh tế nội ngành:
+ Đến năm 2015: Nông nghiệp 79,50%, Lâm nghiệp: 10,00%, Ngư nghiệp:
10,50%. Trong nông nghiệp thuần: Trồng trọt 53,1%, Chăn nuôi 43,0%, dịch vụ
3,90%.
+ Đến năm 2020: Nông nghiệp 77,0%, Lâm nghiệp: 11,00%, Ngư nghiệp:
12,0%. Trong nông nghiệp thuần: Trồng trọt 49,9%, Chăn nuôi 46,0%, dịch vụ
4,1%.
- Đến năm 2020, thu nhập hộ gia đình nông thôn tăng lên 1,7 - 2,0 lần so
với năm 2012.
- Phấn đấu đưa tỷ lệ hộ nghèo giảm 1,0 %/năm.
- Phấn đấu đến năm 2020 có 50% số xã đạt chuẩn nông thôn mới.
- Phấn đấu đến năm 2020 tỷ lệ dân cư nông thôn dùng nước sinh hoạt hợp
vệ sinh đạt trên 99 %
- Nâng tỷ lệ che phủ rừng lên 55% vào năm 2015 và 58 % vào năm 2020,
góp phần thực hiện Chiến lược tăng trưởng xanh của quốc gia.
II. ĐỊNH HƯỚNG VÀ NỘI DUNG TÁI CƠ CẤU
Mục tiêu phát triển nông nghiệp của tỉnh theo hướng bền vững cần phải
được áp dụng xuyên suốt trong tái cơ cấu từng lĩnh vực, cụ thể:
1. Về nông nghiệp
a) Về trồng trọt
Tái cơ cấu theo hướng phát triển sản xuất quy mô lớn, tập trung, gắn với
bảo quản, chế biến và tiêu thụ theo chuỗi giá trị trên cơ sở phát huy các sản phẩm
lợi thế của tỉnh. Áp dụng các biện pháp thâm canh bền vững, đẩy mạnh áp dụng
khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ cao, giống nhằm tăng năng suất, chất
lượng, hiệu quả và thích ứng với biến đổi khí hậu. Tập trung phát triển công nghệ
sau thu hoạch theo hướng hiện đại, nhằm giảm tổn thất sau thu hoạch và nâng cao
giá trị gia tăng của sản phẩm.
Tập trung chỉ đạo phát triển các loại cây trồng có thế mạnh phát triển hàng
hóa, phục vụ công nghiệp chế biến, thúc đẩy tăng trưởng như:



- Cây lương thực:
+ Cây lúa: Đến năm 2015, diện tích đất trồng lúa ổn định 99.994 ha (trong
đó đất lúa nước 85.690 ha), diện tích gieo trồng đạt 172.000 ha, năng suất 53,0
tạ/ha, sản lượng 912.130 tấn; đến năm 2020 diện tích đất trồng lúa ổn định 95.770
ha (trong đó đất lúa nước 84.000 ha), diện tích gieo trồng đạt 170.300 ha, năng
suất 55,0 tạ/ha, sản lượng 936.650 tấn. Chuyển đổi những diện tích đất trồng lúa
bấp bênh sang trồng các loại cây trồng khác hoặc nuôi trồng thủy sản. Tiếp tục
phát triển các vùng sản xuất lúa chất lượng cao theo hướng xây dựng cánh đồng
lớn để áp dụng đồng bộ các tiến bộ khoa học kỹ thuật và đưa cơ giới hóa vào các
khâu của sản xuất, tập trung trên địa bàn các huyện, như: Yên Thành, Diễn Châu,
Quỳnh Lưu, Đô Lương, Thanh Chương, Nam Đàn, Hưng Nguyên,…
+ Cây ngô: Sử dụng các giống mới và áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ
thuật vào đầu tư thâm canh tăng năng suất, ổn định diện tích gieo trồng hàng năm
đạt 55.000 ha, phấn đấu đến năm 2015 năng suất đạt 42,0 tạ/ha, sản lượng
230.000 tấn và đến năm 2020 năng suất đạt 45,0 tạ/ha, sản lượng 247.000 tấn.
Phát triển ngô rau, ngô mật độ dày làm thức ăn tươi cho chăn nuôi,...
- Phát triển cây công nghiệp hàng năm:
+ Cây Lạc: Ổn định diện tích gieo trồng hàng năm đạt 22.000 ha, phấn đấu
đến năm 2015 năng suất đạt 25,0 tạ/ha, sản lượng 55.000 tấn và đến năm 2020
năng suất đạt 28,0 tạ/ha, sản lượng 61.600 tấn. Tập trung mở rộng diện tích các
giống lạc mới, có năng suất, chất lượng cao như: L26, L14,... phấn đấu diện tích
lạc phủ nilon đạt 13 - 15.000 ha/năm.
+ Cây Mía: Chỉ đạo thâm canh cao đạt diện tích khoảng 25.000 ha, phấn
đấu đến năm 2015 năng suất đạt 630 tạ/ha, sản lượng 1.575.000 tấn, đế năm 2020
năng suất đạt 700 tạ/ha, sản lượng 1.750.000 tấn, đảm bảo nguyên liệu chế biến
cho 3 nhà máy đường.
+ Cây sắn nguyên liệu: Ổn định diện tích cho thu hoạch 4.000 ha, phấn đấu
đến năm 2015 năng suất đạt 360 tạ/ha, sản lượng 144.000 tấn, đấn năm 2020 năng

suất đạt 400 tạ/ha, sản lượng 160.000 tấn, đảm bảo nguyên liệu cho 2 nhà máy
chế biến tinh bột.
- Phát triển cây công nghiệp lâu năm:
+ Cây chè công nghiệp: Phấn đấu trồng mới mới hàng năm đạt 800 - 1.000
ha, bằng giống chè chất lượng cao để đạt tổng diện tích chè toàn tỉnh khoảng
12.000 ha. Đầu tư thâm canh cao, đển đến năm 2015 đạt năng suất chè búp tươi
bình quân trên 115 tạ/ha, sản lượng trên 108.000 tấn, chế biến trên 21.000 tấn chè
khô các loại; đến năm 2020 đạt năng suất chè búp tươi bình quân trên 130 tạ/ha,
sản lượng trên 156.000 tấn, chế biến trên 28.000 tấn chè khô các loại.
+ Cây cao su: Tập trung trồng mới cao su, đặc biệt là cao su trên đất lâm
nghiệp, phấn đấu đến năm 2020 diện tích cao su toàn tỉnh đạt khoảng 23.000 ha 25.000 ha, diện tích kinh doanh 13.000 ha, năng suất mủ khô đạt 13 tạ/ha, sản
lượng mủ khô đạt 17.000 tấn.


+ Cây cam, quýt tập trung: Ổn định diện tích 2.000 ha, tập trung đầu tư
thâm canh, sử dụng các giống có năng suất chất lượng, phấn đấu đến năm 2020
đạt năng suất 150 tạ/ha, sản lượng 30.000 tấn.
+ Cây dứa: Ổn định diện tích 1.500 ha, tập trung đầu tư thâm canh, sử dụng
các giống có năng suất chất lượng, phấn đấu đến năm 2020 đạt năng suất 300
tạ/ha, sản lượng 45.000 tấn, cung cấp nguyên liệu cho chế biến.
+ Cây chanh leo: Tiếp tục đầu tư trồng mới mở rộng diện tích, sử dụng các
giống có năng suất, chất lượng, phù hợp với điều kiện tiểu vùng sinh thái, phấn
đấu đến năm 2020 đạt 900 ha, năng suất bình quân 450 -500 tạ/ha, sản lượng
khoảng 45.000 tấn.
+ Rau, củ, quả các loại: Phát triển ổn định hàng năm đạt diện tích gieo
trồng 28.000 ha, năng suất đạt 150 tạ/ha, sản lượng 420.000 tấn. Trong đó, hình
thành và phát triển vùng sản xuất rau ăn, củ quả công nghệ cao tập trung với diện
tích khoảng 3.000 sản xuất theo quy trình Vietgap đảm bảo các tiêu chuẩn về vệ
sinh an toàn thực phẩm.
b) Chăn nuôi

- Từng bước chuyển chăn nuôi nhỏ lẻ, phân tán sang phát triển chăn nuôi
tập trung công nghiệp, trang trại, gia trại, hỗ trợ chăn nuôi nông hộ theo hình thức
công nghiệp, áp dụng kỹ thuật và công nghệ phù hợp để vừa tạo cơ hội sinh kế
cho hộ nông dân. Chuyển dần chăn nuôi từ vùng mật độ dân số cao (đồng bằng)
đến nơi có mật độ dân số thấp (trung du, miền núi), hình thành các vùng chăn
nuôi xa thành phố, khu dân cư; chuyển dịch cơ cấu theo hướng tăng tỷ trọng gia
cầm trong đàn vật nuôi; khuyến khích áp dụng công nghệ cao, tổ chức sản xuất
khép kín hoặc liên kết giữa các khâu trong chuỗi giá trị từ sản xuất giống, thức ăn,
đến chế biến để nâng cao năng suất, cắt giảm chi phí, tăng hiệu quả và giá trị gia
tăng; giảm thiểu ô nhiễm môi trường và bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm.
- Giám sát và kiểm soát dịch bệnh hiệu quả; tăng cường dịch vụ thú y; quy
định chặt chẽ việc quản lý và sử dụng thuốc thú y; áp dụng tiêu chuẩn an toàn
thực phẩm theo chuỗi giá trị, phát triển công nghiệp chế biến đa dạng sản phẩm;
cải thiện hiệu quả sử dụng thức ăn.
Tập trung phát triển các sản phẩn chăn nuôi có lợi thế của tỉnh, đáp ứng nhu
cầu tiêu dùng và chế biến, góp phần vào tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
- Phát triển chăn nuôi trâu, bò: Tập trung phát triển nâng cao chất lượng
đàn bằng phương pháp thụ tinh nhân tạo và đực giống tốt để phối trực tiếp. Phấn
đấu đến năm 2015 đạt tổng sản lượng thịt hơi xuất chuồng 23.000 tấn (trong đó
sản lượng thịt trâu hơi là 8.000 tấn, bò là 15.000 tấn) và đến năm 2020 đạt tổng
sản lượng thịt hơi xuất chuồng 30.000 tấn (trong đó sản lượng thịt trâu hơi là
10.000 tấn, bò là 20.000 tấn).


Tập trung phát triển chăn nuôi bò thịt chất lượng cao và chăn nuôi bò sữa.
Trong đó, tiếp tục phát triển các trang trại chăn nuôi bò sữa quy mô công nghiệp,
phấn đấu đến năm 2015 đạt tổng đàn 47.000 con và 2020 là 147.000 con.
- Phát triển chăn nuôi lợn chất lượng cao để nâng cao giá trị gia tăng, tập
trung phát triển nâng cao chất lượng đàn bằng phương pháp thụ tinh nhân tạo và
đực giống tốt để phối trực tiếp. Phấn đấu đến năm 2015 đạt tổng đàn 1,5 triệu con,

sản lượng thịt hơi xuất chuồng 150.000 tấn và đến năm 2020 đạt 1,8 triệu con, sản
lượng thịt hơi xuất chuồng 180.000 tấn.
- Phát triển chăn nuôi gia cầm: Phấn đấu đến năm 2015 đạt tổng đàn 16
triệu con, sản lượng thịt hơi xuất chuồng 42.000 tấn và đến năm 2020 đạt tổng
đàn đạt 18 triệu con, sản lượng thịt hơi xuất chuồng 45.000 tấn.
- Tập trung chỉ đạo phát triển cây thức ăn phục vụ chăn nuôi, phấn đấu đến
năm 2015 diện tích trồng cây thức ăn tập trung đạt 12.600 ha và năm 2020 là
40.000 ha.
2. Về thủy sản
- Tập trung sản xuất thâm canh các đối tượng nuôi chủ lực (tôm sú, tôm thẻ
chân trắng, rô phi, nhuyễn thể, ngao, các loại cá trên hồ nước lớn) và phát triển
nuôi trồng thủy sản truyền thống có khả năng thâm canh, tạo sinh kế cho người
nghèo; tiếp tục đa dạng hóa đối tượng và phương pháp nuôi để khai thác cơ hội
thị trường; khuyến khích nuôi công nghiệp, áp dụng công nghệ cao, quy trình thực
hành nuôi tốt (GAP) phù hợp với các tiêu chuẩn hiện hành; ưu tiên đầu tư phát
triển cơ sở hạ tầng vùng nuôi thâm canh ở Diễn Châu, Quỳnh Lưu,…
- Giảm dần sản lượng khai thác thủy sản gần bờ; khuyến khích hoạt động
đánh bắt xa bờ theo hình thức tổ đội sản xuất, khai thác các đối tượng có giá trị
kinh tế cao, thị trường tiêu thụ tốt; quản lý khai thác theo kích cỡ, khuyến khích
phát triển mô hình đồng quản lý nguồn lợi ven bờ nhằm nâng cao khả năng tự
phục hồi và tính bền vững của nguồn lợi thủy sản. Từng bước chuyển từ khai thác
bằng các tàu có công suất nhỏ hoạt động gần bờ sang khai thác bằng tàu có công
suất lớn xa bờ. Tiếp tục đầu tư, đầu tư ứng dụng công nghệ thiết bị hiện đại trong
khai thác, bảo quản, chế biến nâng cao giá trị, giảm tổn thất và đảm bảo chất
lượng vệ sinh an toàn thực phẩm.
Tập trung phát triển các sản phẩm thủy sản có lợi thế của tỉnh, góp phần
tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Ổn định diện tích nuôi trồng thâm
canh hàng năm đạt 24.500 ha, trong đó nuôi mặn lợ là 2.500 ha (tôm thâm canh
đạt 1.750 ha). Phấn đấu đến năm 2015 tổng sản lượng thủy sản đạt 105.000 tấn,
trong đó nuôi trồng 45.000 tấn, khai thác 60.000 tấn và đến năm 2020 tổng sản

lượng thủy sản đạt 110.000 tấn, trong đó nuôi trồng 50.000 tấn, khai thác 60.000
tấn. Chú trọng nghiên cứu, ứng dụng nhân rộng mô hình nuôi thương phẩm các
loại thủy sản có giá trị kinh tế cao; làm tốt công tác giống đảm bảo giống cung
cấp giống đảm bảo chất lượng cho nuôi trồng.


×