Tải bản đầy đủ (.pdf) (119 trang)

Phát triển ngoại thương việt nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa luận văn ths kinh tế 5 02 01

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.66 MB, 119 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN
LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

HỒNG THỊ HƯỜNG

Phát triển ngoại thương Việt Nam trong thời kỳ
đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hin i húa

luận văn thạc sĩ kinh tế chính trị

Hà néi - 2005


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN
LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

HỒNG THỊ HƯỜNG

Phát triển ngoại thương Việt Nam trong thời kỳ
đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
Chun ngành : Kinh tế chính trị
Mã số

: 5.02.01

luận văn thạc sĩ kinh tế chính trị

Ngi hng dn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Văn Nam


Hµ néi - 2005


NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

ACFTA:

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc

AFTA:

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN

APEC:

Diễn đàn kinh tế Châu Á- Thái Bình Dương

ASEAN:

Hiệp hội các quốc gia Đơng Nam Á

CNH:

Cơng nghiệp hố

CNH, HĐH:

Cơng nghiệp hố, hiện đại hố

ĐTNN:


Đầu tư nước ngồi

EU:

Liên minh Châu Âu

FDI:

Đầu tư trực tiếp nước ngoài

GATT:

Hiệp định chung về thuế quan và thương mại

GDP:

Tổng sản phẩm quốc nội

KNNK:

Kim ngạch nhập khẩu

KNXK:

Kim ngạch xuất khẩu

KNXNK:

Kim ngạch xuất nhập khẩu


NK:

Nhập khẩu

XK:

Xuất khẩu

XNK:

Xuất nhập khẩu

XHCH:

Xã hội chủ nghĩa

WTO:

Tổ chức thương mại thế giới


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong thời đại hiện nay, mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế đã và đang là
một xu hướng phát triển mạnh mẽ, là quy luật đối với hầu hết các nước trên
thế giới, nhất là đối với những nước đang phát triển để góp phần nhanh chóng
rút ngắn khoảng cách lạc hậu với những nước phát triển; đặc biệt Việt Nam
đang đẩy mạnh quá trình CNH, HĐH đất nước.
Hoạt động kinh tế đối ngoại của một nước bao gồm ba nội dung cơ bản là:

- Hoạt động ngoại thương; đó là hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hoá.
- Hoạt động hợp tác kinh tế, kỹ thuật; bao gồm hợp tác đầu tư và hợp
tác khoa học - công nghệ.
- Hoạt động du lịch - dịch vụ; đó là các hoạt động vận tải, bảo hiểm,
ngân hàng... và hoạt động du lịch.
Trong hoạt động kinh tế đối ngoại, hoạt động ngoại thương giữ vị trí
quan trọng, nó tạo điều kiện phát huy được lợi thế và tiềm năng của từng
nước trên thị trường quốc tế. Hoạt động ngoại thương của một nước được
đánh giá qua tổng kim ngạch xuất - nhập khẩu, cán cân thương mại, cán cân
thanh toán, kết quả này sẽ làm tăng hoặc giảm thu nhập của đất nước, do đó
mà tác động đến tổng cầu của nền kinh tế, làm cho nền kinh tế tăng trưởng
hoặc suy giảm.
Từ khi thực hiện công cuộc đổi mới đến nay, Việt Nam đã đạt được
nhiều thành tựu trong hoạt động kinh tế đối ngoại nói chung và hoạt động
ngoại thương nói riêng. Kết quả hoạt động xuất - nhập khẩu đã có ý nghĩa
quan trọng góp phần vào ổn định và phát triển kinh tế; góp phần cải thiện cán
cân thanh tốn quốc tế; góp phần thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH; góp phần đổi mới trang thiết bị
và cơng nghệ sản xuất, nâng cao trình độ sản xuất và năng suất lao động, nâng
cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước; góp phần cải thiện
và nâng cao đời sống nhân dân…

2


Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động ngoại thương Việt Nam
những năm qua còn nhiều tồn tại, yếu kém; kết quả đạt được chưa tương xứng
với tiềm năng và nội lực của đất nước, với nhu cầu thế giới. Việc nghiên cưú
lý luận về phát triển ngoại thương trong điều kiện tồn cầu hố, hội nhập kinh
tế quốc tế và đánh giá kết quả hoạt động ngoại thương những năm qua, tìm

ngun nhân để có phương hướng, chính sách phù hợp, tối ưu cho phát triển
ngoại thương trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH ở Việt Nam là cực kỳ cần
thiết.
Chính vì vậy, tơi đã lựa chọn đề tài “Phát triển ngoại thương Việt Nam
trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH làm luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Do vị trí, vai trị quan trọng của hoạt động ngoại thương đối với sự phát
triển kinh tế đất nước mà từ trước đến nay đã có nhiều tác giả, nhiều nhà khoa
học quan tâm nghiên cứu và viết về đề tài ngoại thương dưới nhiều góc độ và
cách tiếp cận khác nhau. Có tác giả nghiên cứu và hoạt động ngoại thương,
chính sách ngoại thương trong mối quan hệ là bộ phận của hoạt động kinh tế
đối ngoại, chính sách kinh tế đối ngoại . Có tác giá nghiên cứu một góc độ
nào đó, một lĩnh vực nào đó của hoạt động ngoại thương, hoặc nghiên cứu
ngoại thương Việt Nam trong một giai đoạn, một thời kỳ nhất định nào đó,
như:
- “Về chính sách thương mại quốc tế của nước ta trong tình hình mới”
của GS. TS. Hà Văn Vĩnh - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
- “Ngoại thương Việt Nam, từ 1990 - 2000: Những thành tựu và suy
nghĩ” của Võ Hùng Dũng.
- “Xuất - nhập khẩu của Việt Nam, trong 10 năm đầu của thế kỷ mới”
của Vũ Khoan.
- “Chính sách thương mại của Việt Nam trong xu thế thương mại quốc
tế hiện nay” của Nguyễn Thị Thanh Hoà - Đại học tài chính kế tốn Hà Nội.
- “Phát triển thương mại trong nền kinh tế thị trường” của Nguyễn Duy
Nghĩa - Bộ thương mại.

3


- “Mối quan hệ giữa hoạt động ngoại thương và thu hút FDT tại Việt

Nam” của thạc sỹ Đoàn Quang Vinh.
- “Tồn cầu hố - hai mặt thuận và nghịch đối với thương mại của Việt
Nam” của Nguyễn Thanh Nga - Viện nghiên cứu thương mại, Bộ thương mại.
- “Chính sách và giải pháp phát triển thị trường xuất khẩu hàng hố
Việt Nam giai đoạn 2001-2010, tầm nhìn đến 2020” - Đề tài độc lập cấp Nhà
nước do Bộ thương mại thực hiện 2000-2001, chủ nhiệm đề tài: PGS. TS.
Nguyễn Văn Nam...
Trong luận văn này, chúng tôi nghiên cứu ngoại thương Việt Nam từ
góc nhìn kinh tế chính trị: Khái quát lý luận về ngoại thương, nhất là vai trò
tác động của ngoại thương đối với sự nghiệp CNH, HĐH đất nước (có tính
đến xu hướng tồn cầu, hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế); đánh giá thực
trạng hoạt động ngoại thương Việt Nam từ 1991 đến nay, tìm ngun nhân, từ
đó đề xuất phương hướng, chính sách phát triển ngoại thương cho thời gian
tới.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích
Mục đích nghiên cứu của đề tài là phân tích vai trị, tác động của ngoại
thương đối với việc đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước; đánh giá thực trạng
ngoại thương Việt Nam từ năm 1991 đến nay, tìm nguyên nhân và cách khắc
phục tồn tại, yếu kém; Trên cơ sở đó đề xuất phương hướng và chính sách
phát triển ngoại thương cho thời gian tới.
* Nhiệm vụ.
Để đạt mục đích trên, luận văn đề ra những nhiệm vụ sau:
- Khái quát lý luận về ngoại thương; phân tích vai trị, tác động của
ngoại thương đối với việc đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước (trong xu hướng
tồn cầu hố, hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế).
- Phân tích thực trạng ngoại thương Việt Nam từ 1991 đến nay: Thành
tựu, hạn chế, nguyên nhân của thành tựu và hạn chế đó.

4



- Đề xuất phương hướng, chính sách và những giải pháp lớn (cơ bản)
để nâng cao hiệu quả của hoạt động ngoại thương trong quá trình đẩy mạnh
CNH, HĐH ở Việt Nam hiện nay và giai đoạn tiếp theo.

5


4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
- Luận văn được nghiên cứu dựa trên lý luận về thương mại quốc tế của
chủ nghĩa Mác - Lênin.
- Dựa trên những quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam
và thương mại quốc tế.
- Có tham khảo một số lý luận thương mại quốc tế trong lịch sử tư
tưởng kinh tế của nhân loại và các học thuyết hiện đại về thương mại quốc tế.
* Phương pháp nghiên cứu
- Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu chung là phương pháp
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
- Sử dụng phương pháp của kinh tế chính trị là phương pháp trừu tượng
hố khoa học.
- Ngồi ra cịn sử dụng các phương pháp: Phân tích, tổng hợp; thống
kê, đối chiếu, so sánh; mơ hình hoá; đặc biệt chú trọng khảo sát tổng kết thực
tiễn, rút ra kết luận có ý nghĩa lý luận.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Đề tài lấy hoạt động ngoại thương Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh
CNH, HĐH làm đối tượng nghiên cứu.
* Phạm vi nghiên cứu

Đề tài tập trung nghiên cứu vai trò, tác động của ngoại thương trong
quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH ở Việt Nam, có tính đến xu hướng hội nhập
kinh tế khu vực và quốc tế - cơ hội và thách thức.
Thời gian giới hạn từ 1991 đến nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
* Ý nghĩa lý luận
- Đề tài làm rõ vai trò của ngoại thương đối với việc đẩy mạnh CNH,
HĐH

6


- Sự cần thiết phát triển ngoại thương để đẩy mạnh CNH, HĐH trong
xu hướng tồn cầu hố, hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế.
- Làm rõ cơ hội và thách thức của việc phát triển ngoại thương Việt
Nam trong điều kiện tồn cầu hố, hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế.
* Ý nghĩa thực tiễn.
- Đánh giá kết quả hoạt động ngoại thương Việt Nam từ năm 1991 đến
nay; tìm nguyên nhân của thành tựu và hạn chế
- Đề xuất phương hướng, chính sách và giải pháp cơ bản để phát triển
ngoại thương trong thời gian tới đạt hiệu quả cao hơn.
- Luận văn có thể được dùng làm đề tài tham khảo cho giáo viên và học
sinh, sinh viên khi giảng dạy và nghiên cứu về hoạt động ngoại thương Việt
Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1: Ngoại thương trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố,
hiện đại hoá.
Chương 2: Thực trạng ngoại thương Việt Nam từ năm 1991 đến nay .

Chương 3: Phương hướng và chính sách phát triển ngoại thương trong
thời gian tới.

7


8


Chƣơng 1
NGOẠI THƢƠNG TRONG THỜI KỲ ĐẨY MẠNH
CƠNG NGHIỆP HỐ, HIỆN ĐẠI HỐ
1.1. Vai trị của ngoại thƣơng trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp
hố, hiện đại hố
1.1.1. Khái niệm ngoại thương
Ngoại thương hiểu theo nghĩa phổ biến nhất là phạm trù kinh tế phản
ánh sự trao đổi hàng hoá giữa một nước này với các nước khác thông qua các
hoạt động XK và NK.Toàn bộ quan hệ trao đổi hàng hoá giữa các nước được
gọi là mậu dịch quốc tế.
Điều kiện để ngoại thương phát sinh, phát triển là:
- Có sự tồn tại và phát triển của kinh tế hàng hố - tiền tệ, kèm theo đó
là sự xuất hiện của tư bản thương nghiệp.
- Sự ra đời của Nhà nước và sự phát triển của phân công lao động quốc
tế giữa các nước.
Ngoại thương đã xuất hiện từ thời cổ đại, dưới chế độ nhà nước chiếm
hữu nô lệ và tiếp đó là chế độ nhà nước phong kiến. Thời đó, do kinh tế tự
nhiên cịn chiếm địa vị thống trị nên ngoại thương mang tính chất ngẫu nhiên,
phát triển với qui mô rất nhỏ hẹp. Lưu thông hàng hoá quốc tế chỉ gồm một
phần nhỏ những sản phẩm sản xuất ra và chủ yếu là để phục vụ cho tiêu dùng
cá nhân của giai cấp thống trị đương thời. Đến thời đại tư bản chủ nghĩa,

ngoại thương mới phát triển rộng rãi. Ngoại thương vừa là tiền đề, vừa là kết
quả của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Các cuộc cách mạng lớn diễn
ra trong thương nghiệp ở thế kỷ XVI, XVII gắn liền với những phát kiến địa
lý đã dẫn tới sự phát triển nhanh chóng của tư bản thương nghiệp. Đó là một
trong những nhân tố của tích luỹ nguyên thuỷ tư bản, và góp phần thúc đẩy

9


phương thức sản xuất phong kiến chuyển sang phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa. Thị trường thế giới mở rộng, hàng hố lưu thơng tăng thêm nhiều,
các nước châu Âu đua tranh làm chủ các sản phẩm của châu Á và tài nguyên
phong phú của châu Mỹ... Tất cả những điều đó đã góp một phần căn bản vào
việc phá vỡ các giới hạn phong kiến của nền sản xuất. Mặt khác, tính tất yếu
nội tại của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa là phải sản xuất trên một
qui mô ngày càng lớn hơn để tăng thu lơị nhuận. Điều đó thúc đẩy thị trường
thế giới phải không ngừng mở rộng; ngoại thương ngày càng phát triển. ở thế
kỷ XVI, XVII, lúc đầu tham gia vào mậu dịch quốc tế chỉ có một số ít các
nước tư bản chủ nghĩa phát triển hơn, dần dần, do sự phát triển mạnh của lực
lượng sản xuất và xu thế quốc tế hố đời sống kinh tế, ngày càng có nhiều
nước ở nhiều trình độ phát triển kinh tế - xã hội khác nhau thuộc nhiều khu
vực lãnh thổ khác nhau cùng tham gia vào mậu dịch quốc tế. Ngoại thương
phản ánh q trình tham gia phân cơng lao động quốc tế của một nước.
1.1.2. Một số lý thuyết cơ bản về thương mại quốc tế
1.1.2.1. Lý thuyết về lợi thế tuyệt đối
Lý thuyết này xuất hiện vào đầu thế kỷ thứ XVIII, xây dựng trên cơ sở
lý thuyết về buôn bán tự do được phát triển vào thế kỷ này. Năm 1776, trong
tác phẩm “Sự giàu có của các dân tộc”, Adam Smith đã quan niệm các nước
thu được lợi ích lớn nhất khi tham gia trao đổi các loại hàng hố có thể sản
xuất với hiệu quả tối đa. Điểm then chốt của lập luận này là ở chỗ các loại chi

phí sản xuất sẽ là căn cứ cho biết từng nước hoặc từng bạn hàng buôn bán nên
sản xuất mặt hàng gì. Theo quan niệm về lợi thế tuyệt đối; việc một nước
quyết định sản xuất loại hàng hố nào được dựa vào có sử dụng tốt (nhất) hay
khơng các nguồn lực của quốc gia đó. Các nguồn lực đó là đội ngũ lao động,
tài nguyên thiên nhiên, nguồn vốn, tiến bộ cơng nghệ, hoặc thậm chí cả truyền
thống kinh doanh. Adam Smith tin tưởng rằng tất cả các quốc gia đều có lợi
từ ngoại thương và đã ủng hộ rất mạnh mẽ cho chính sách tự do thương mại.
10


Ngoại thương tự do sẽ là nguyên nhân làm cho các nguồn tài nguyên
thế giới được sử dụng có hiệu quả nhất và phúc lợi của thế giơí nói chung sẽ
được tạo ra tới mức tối đa. Như vậy, theo lý thuyết này việc khẳng định một
nước được coi là có lợi thế tuyệt đối so với một nước khác trong việc chun
mơn hố sản xuất hàng hố A khi cùng một nguồn lực có thể sản xuất được
nhiều sản phẩm A ở nước đó hơn ở nước khác; và tiêu chuẩn quyết định sự
lựa chọn ngành nghề cần chuyên mơn hố quốc tế là những ưu thế tự nhiên
như khí hậu, đất đai, khống sản và những lợi thế khác. Một nước có chi phí
sản xuất cao hơn sẽ nhập sản phẩm đó từ nước khác có chi phí sản xuất thấp
hơn. Lợi thế này được xem xét từ hai phía đối với nước sản xuất sản phẩm có
chi phí sản xuất thấp sẽ thu được lợi nhuận nhiều hơn khi bán sản phẩm trên
thị trường quốc tế. Còn với các nước sản xuất sản phẩm với chi phí cao sẽ có
được sản phẩm mà trong nước khơng có khả năng sản xuất hoặc sản xuất
không đem lại lợi nhuận, người ta gọi là bù đắp được sự yếu kém về khả năng
sản xuất trong nước.
1.1.2.2. Lý thuyết về lợi thế so sánh (lợi thế tương đối)
Nếu lợi thế tuyệt đối được xem xét dựa vào chi phí sản xuất thì lợi thế
tương đối dựa vào chi phí so sánh. Ví dụ, khả năng trao đổi sản phẩm giữa
Việt Nam và Nga đối với hai sản phẩm là thép và quần áo (xem bảng 1.1).
Bảng 1.1. Chi phí sản xuất

Sản phẩm

Chi phí sản xuất (ngày cơng lao động)
Việt Nam

Nga

Thép (1 đơn vị)

25

16

Quần áo (1 đơn vị)

5

4

Xét theo chi phí sản xuất thì Việt Nam sản xuất thép và quần áo đều có
chi phí cao hơn Nga. Lợi thế tuyệt đối chỉ ra rằng Việt Nam khơng có khả

11


năng xuất khẩu sản phẩm này sang Nga. Song nếu xét theo chi phí so sánh thì
lại có cách nhìn khác (xem bảng 1.2).
Bảng 1.2: Chi phí so sánh
Sản phẩm


Chi phí sản xuất (ngày cơng lao động)

Thép (1 đơn vị)
Quần áo (1 đơn vị)

Việt Nam

Nga

5

4

1/5

1/4

Theo chi phí so sánh thì thấy rằng chi phí sản xuất thép của Việt Nam
cao hơn Nga: Để sản xuất một đơn vị thép ở Việt Nam cần 5 đơn vị quần áo
trong khi ở Nga chỉ cần 4 đơn vị. Nhưng ngược lại, chi phí sản xuất quần áo ở
Việt Nam lại thấp hơn Nga: Để sản xuất một đơn vị quần áo Việt Nam cần
1/5 đơn vị thép trong khi ở Nga cần 1/4 đơn vị. Điều này chỉ ra rằng Việt
Nam và Nga có thể trao đổi sản phẩm cho nhau. Nga xuất khẩu thép sang Việt
Nam và Việt Nam xuất khẩu quần áo sang Nga. Việc trao đổi này đưa lại lợi
thế cho cả 2 nước. Có thể mơ tả lợi ích của Việt Nam trong trường hợp này
qua sơ đồ 1.
Quần áo PPF
Qb

B


(Qb – 9)

C

Qa

A

Độ dốc (-4,5)

Độ dốc (-5)

12


0

Tb (Tb+2) Ta

Thép

Sơ đồ 1: Lợi thế của Việt Nam khi có ngoại thương
Trong sơ đồ này, đường PPF phản ánh khả năng sản xuất thép và quần
áo của Việt Nam.
- Khi chưa có ngoại thương, điểm A (nơi tiếp xúc giữa đường PPF và
tiếp tuyến có độ dốc là (-5) phản ánh giá so sánh thép của Việt Nam) phản
ánh đồng thời khả năng sản xuất và tiêu dùng của Việt Nam A(Ta, Qa).
- Khi có ngoại thương, Việt Nam sẽ bán quần áo sang Nga và mua thép
từ Nga về. ở đây có vấn đề là giá trao đổi sẽ được thực hiện như thế nào.

Trong trường hợp này, đối với giá thép Việt Nam nhập không phải theo giá so
sánh 5 hoặc 4 mà thông thường là theo giá quốc tế; nó sẽ biến động trong
khoảng 4 và 5 (4trên thị trường Việt Nam và Nga và thị trường quốc tế. Ví dụ Việt Nam cần
nhập 2 đơn vị thép và giá sẽ xác định ở mức 4,5 khi đó tại điểm B (nơi tiếp
xúc giữa đường PPF và tiếp tuyến có độ dốc là (-4,5) sẽ phản ánh khả năng
sản xuất của Việt Nam B (Tb, Qb). Có nghĩa là Việt Nam sẽ sản xuất nhiều
quần áo hơn và sản xuất thép ít đi (Tbnăng tiêu dùng của Việt Nam. Có thể thấy khả năng tiêu dùng này vượt ra
khỏi giới hạn của đường PPF. Đó chính là lợi ích của Việt Nam dựa vào lợi
thế so sánh: C{(Tb + 2), (Qb - 9)}.
Như vậy, lợi thế so sánh của ngoại thương là khả năng nâng cao mức
sống và thu nhập thực tế của một nước thơng qua việc mua bán, trao đổi hàng
hố với nước khác dựa trên cơ sở chi phí so sánh để sản xuất những hàng hố
đó. Ngun tắc cơ bản để có lợi thế tương đối là thực hiện chun mơn hố
sản xuất với những sản phẩm có năng suất cao. Lợi thế so sánh cho phép bất
kỳ nước nào cũng có thể tăng thu nhập của mình thơng qua ngoại thương ,
ngay cả khi một nước sản xuất mọi sản phẩm với chi phí tuyệt đối thấp hơn
một nước khác, bởi vì thị trường thế giới tạo ra cơ hội để có thể mua hàng hố
13


với giá tương đối rẻ so với giá đang được lưu hành trong nước nếu khơng có
ngoại thương. Nội dung này xuất phát từ sự khác nhau về chi phí so sánh để
sản xuất sản phẩm.
1.1.3. Vai trò của ngoại thương đối với việc đẩy mạnh cơng nghiệp
hố, hiện đại hoá
1.1.3.1 Khái niệm và nội dung chủ yếu của CNH, HĐH ở nước ta
CNH là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất
kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội, từ sử dụng lao động thủ cơng

là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ,
phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của
công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội
cao [36, tr.587]. CNH là con đường tất yếu để xây dựng cơ sở vật chấy kỹ
thuật cho chủ nghiã xã hội ở nước ta. Thực chất CNH chính là chuyển lao
động thủ cơng thành lao động cơ khí chủ yếu trong toàn bộ nền kinh tế quốc
dân.Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, CNH có hai nội
dung chủ yếu là: Đẩy mạnh cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật để trang bị kỹ
thuật hiện đại cho nền kinh tế quốc dân và xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý và
phân công lại lao động xã hội. Đảng ta đã xác định nội dung cơ bản của CNH,
HĐH từ nay đến năm 2010 là:
- Con đường CNH, HĐH nước ta cần phải và có thể rút ngắn bằng kết
hợp hài hồ giữa phát triển tuần tự với phát triển nhảy vọt, gắn CNH với
HĐH bằng phát triển những công nghệ hiện đại, đặc biệt công nghệ thông tin,
công nghệ sinh học, từng bước phát triển kinh tế tri thức.
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng CNH, HĐH.
Sự chuyển dịch này phải dựa trên cơ sở phát huy thế mạnh, lợi thế so sánh của
đất nước, tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường, mở rộng thị trường
trong nước và ngoài nước.

14


- Huy động các nguồn lực đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp và nông
thôn. Đưa nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp phát triển lên một trình độ
mới bằng ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ sinh
học, đổi mới cơ cấu cây trồng, vật ni nhằm tăng giá trị trên một diện tích
đất canh tác; đẩy mạnh thuỷ lợi hoá, cơ giới hoá, điện khí hố, đồng thời áp
dụng các cơng nghệ tin học, sinh học; giải quyết tiêu thụ nông sản; đầu tư cho
phát triển hạ tầng nông thôn; phát triển nhiều ngành nghề chế biến truyền

thống.
- Đối với công nghiệp, vừa phát triển các ngành nhiều lao động, vừa đi
nhanh vào một số ngành công nghệ hiện đại, công nghệ cao, xây dựng một số
ngành công nghiệp nặng quan trọng; chú trọng phát triển doanh nghiệp vừa và
nhỏ, xây dựng một số tập đoàn doanh nghiệp lớn và từng bước HĐH kết cấu
hạ tầng.
- Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng ngành dịch vụ, phát triển
mạng lưới đô thị hợp lý, phát huy vai trò các vùng kinh tế trọng điểm có mức
tăng trưởng cao, tích luỹ vốn lớn, đồng thời tạo điều kiện phát triển các vùng
khác, nhất là các vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa.
- Phát triển mạnh và phát huy vai trò chiến lược của kinh tế biển kết
hợp với bảo vệ vùng biển, kết hợp nuôi trồng, đánh bắt, chế biến hải sản. Khai
thác và chế biến dầu, dầu khí, đóng tàu, vận tải, du lịch, dịch vụ...
Phấn đấu đến năm 2010 cơ cấu ngành kinh tế trong GDP là: Nông
nghiệp chiếm 16 - 17%; công nghiệp và xây dựng cơ bản chiếm 40- 41%;
dịch vụ chiếm 42-43%. Phấn đấu năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một
nước công nghiệp theo hướng hiện đại; lao động chủ yếu bằng máy móc; điện
khí hố cơ bản; GDP tăng gấp 8 lần so với năm 1990; khoa học - công nghệ
làm chủ được công nghệ nhập; các lĩnh vực công thương, dịch vụ phát triển
mạnh...

15


Trong thời đại ngày nay, thông qua việc mở rộng quan hệ kinh tế quốc
tế, CNH phải phát triển những ngành có tiềm năng, ưu thế lớn, có khả năng sử
dụng kỹ thuật và cơng nghệ có hiệu quả cao nhất. Hơn nữa, với sự phát triển
của cách mạng khoa học kỹ thuật, không chỉ ở những nước kém phát triển và
đang phát triển, mà cả những nước có nền cơng nghiệp tương đối phát triển,
CNH vẫn cịn là vấn đề phải tiếp tục nhưng với nội dung mới: điện tử, tin học,

công nghệ mới, công nghệ sinh học…[37, tr.587].
Hội nghị lần thứ VIII Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt
Nam đã xác định rõ: “Mục tiêu của CNH, HĐH là xây dựng nước ta thành
một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế
hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc,
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh [11, tr.80].
Nội dung của CNH, HĐH ở Việt Nam được Đại hội IX của Đảng nhấn
mạnh “...Hình thành một bước quan trọng thể chế kinh tế thị trường định
hướng XHCN... xây dựng cơ cấu kinh tế có hiệu quả và nâng cao sức cạnh
tranh. Hoàn chỉnh một bước cơ bản hệ thống kết cấu hạ tầng... Tạo mọi điều
kiện thuận lợi để tăng nhanh XK, thu hút vốn, cơng nghệ từ bên ngồi. Chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả, thực hiện các cam kết song
phương và đa phương…; duy trì ổn định các cân đối vĩ mơ…; nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực với cơ cấu hợp lý; …ứng dụng nhanh các công nghệ
tiên tiến hiện đại; từng bước phát triển kinh tế tri thức… [12, tr.262-263].
Xuất phát từ yêu cầu thực tế, khẳng định tụt hậu là nguy cơ lớn nhất,
vượt và thoát nguy cơ này là thách thức hàng đầu của Việt Nam. Điều này có
nghĩa là chúng ta cần phải phát triển rút ngắn thời gian. Quan điểm này đã
được nêu rõ trong Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX là: “Đẩy mạnh CNH,
HĐH xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước
công nghiệp, ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, phát huy cao độ nội lực,

16


đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế
để phát triển nhanh có hiệu quả và bền vững…” [12, tr.2]. Mục tiêu của chiến
lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm (2001 - 2010) là: Đưa nước ta ra khỏi
tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của

nhân dân tạo nền tảng để đến 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại; “Phát triển kinh tế, CNH, HĐH là nhiệm vụ
trung tâm” [12, tr.159].
1.1.3.2. Vai trò của ngoại thương đối với việc đẩy mạnh CNH, HĐH
Thời kỳ CNH được hiểu là giai đoạn biến đổi toàn bộ nền kinh tế xã
hội từ lao động thủ công sang lao động công nghệ tiên tiến, hiện đại; từ sản
xuất nhỏ, năng suất lao động thấp sang nền sản xuất lớn với năng suất lao
động cao tạo ra sự chuyển biến cơ cấu kinh tế theo hướng tăng trưởng và hiệu
quả.
Như vậy, suy cho cùng, mục tiêu của CNH, HĐH là phát triển nền kinh
tế quốc dân với tốc độ cao và bền vững bằng việc khai thác có hiệu quả các
nguồn lực trong nước và cả nguồn lực từ bên ngồi. Với góc độ đó, ngoại
thương cần thiết cho CNH, HĐH cả về chất và lượng. Việc thể hiện được tác
động của ngoại thương tới sự nghiệp CNH, HĐH một phần chủ yếu là nhờ
vào sự định hướng, chính sách và biện pháp trong hoạt động ngoại thương
một cách phù hợp với sự phát triển kinh tế đất nước trong từng thời kỳ phát
triển [36, tr.46].
- Về chất, ngoại thương giúp đẩy nhanh tiến độ thực hiện thành công
tiến trình CNH, HĐH. Trong điều kiện của nước ta đặt ra những yêu cầu trực
tiếp và cấp bách là có vốn ngoại tệ để NK công nghệ, kỹ thuật máy móc, thiết
bị tiên tiến cũng như nguyên vật liệu mà ta chưa sản xuất được, hoặc sản xuất
được nhưng với chi phí cao hơn nếu nhập từ thị trường thế giới. Ngoại thương
sẽ là nguồn cung cấp ngoại tệ, đáp ứng nhu cầu NK thiết bị, máy móc phục vụ
cho u cầu của CNH; Nếu có chính sách NK phù hợp thì việc NK máy móc,

17


thiết bị sẽ là động lực cho tiến trình CNH, HĐH; và sẽ đưa lại lợi ích khơng
kém phần quan trọng là giúp nền sản xuất trong nước tồn tại và phát triển

được cùng với thế giới. Lúc này chính từ hội nhập kinh tế quốc tế , thông qua
thương mại tư do nền sản xuất và kinh doanh trong nước sẽ tìm được câu trả
lời chính xác cho sự lựa chọn mình sẽ phải làm gì ? làm bao nhiêu ? và làm
như thế nào ?. Một trong những kết quả của những trả lới chính xác này là
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng thị trường, nâng cao năng lực cạnh
tranh của nền kinh tế nói chung, hàng hố, dịch vụ Việt Nam nói riêng.
Những lợi ích của ngoại thương có thể được nhìn nhận như những lợi ích về
chất bởi lẽ chúng giúp nâng cao được chất lượng của nền kinh tế: tăng trưởng
cao nhưng bền vững vì mức tăng trưởng cao của năng suất lao động xã hội
trong khi sử dụng ít hơn nguồn lực (bao gồm cả việc thoả mãn được yêu cầu
bảo vệ mơi trường- sự phá huỷ mơi trường có thể coi như là tiêu hao về nguồn
lực).
- Về lượng: ngoại thương giúp tăng qui mô tiêu dùng trong khi không
phải tiêu hao thêm nguồn lực của đất nước, lợi ích này của ngoại thương thu
được chủ yếu dựa trên việc khai thác lợi thế so sánh, trong đó có khai thác lợi
ích kinh tế nhờ qui mơ. Chỉ có thơng qua ngoại thương, lợi thế so sánh của đất
nước mới có thể chuyển thành lợi ích tiêu dùng, đẩy khả năng tiêu dùng của
đất nước vươn xa, ra ngoài giới hạn của nền sản xuất. Khối lượng của cải lớn
hơn có thể được tiết kiệm để đầu tư trở lại, mở rộng qui mơ sản xuất. Đây
chính là tích luỹ cần thiết trong giai đoạn ban đầu của CNH, bù đắp cho
những thiếu hụt trong những nước có xuất phát điểm thấp như Việt Nam.
Ngoại thương giúp đẩy mạnh CNH, HĐH, đến lượt nó CNH, HĐH lại
tạo điều kiện thuận lợi cho ngoại thương phát triển.
Qua phân tích một số lý thuyết về thương mại quốc tế ở phần trên cho
thấy, ngoại thương ra đời và phát triển xuất phát từ lợi thế so sánh và cũng
được dẫn dắt bởi lợi thế so sánh. Một đặc điểm quan trọng nhất của lợi thế so

18



sánh là không bất định mà luôn thay đổi, nhất là trong thời đại ngày nay, khi
mà khoa học kỹ thuật đã và đang phát triển hàng ngày hàng giờ, vì thế sản
xuất và kinh doanh nói chung và ngoại thương nói riêng cũng phải thay đổi
theo. Thị trường thế giới ngày nay cho thấy, sản phẩm thô và nguyên liệu
ngày càng mất giá trong khi các sản phẩm qua chế biến, đặc biệt là những sản
phẩm chế biến sâu có hàm lượng chất xám cao, lại có nhiều ưu thế (giá cả và
khả năng cạnh tranh) trên thị trường thế giới. Sự thay đổi này đang hàng ngày
làm thay đổi cơ cấu xuất NK. Thế giới đang đứng trước nguy cơ cạn kiệt tài
nguyên và thiếu hụt lương thực, thực phẩm và trong khoảng thời gian dài nữa,
nhu cầu về nguyên liệu, lương thực, thực phẩm vẫn tăng, nhưng tỷ trọng của
chúng trong tổng kim ngạch buôn bán ngày càng giảm, trong khi tỷ trọng và
giá trị tuyệt đối của các sản phẩm chế biến, đặc biệt là các sản phẩm có cơng
nghệ cao tăng nhanh. Một sự biến đổi cơ cấu khác cũng rất quan trọng là hàm
lượng trí tuệ trong giá trị sản phẩm ngày càng cao và chính sự biến đổi này đã
làm cho cơ cấu XK của một quốc gia phải có sự điều chỉnh cho phù hợp với
nhu cầu thị trường. Ví dụ vấn đề sản xuất, XK gạo ở Việt Nam. Sản xuất gạo
được coi là có lợi thế so sánh ở nước ta, nơi mà điều kiện thiên nhiên, khí hậu
rất phù hợp cho trồng lúa nước; nơi mà người lao động đã có hàng nghìn năm
kinh nghiệm cày cấy trong trồng lúa nước... Có thể nói chỉ một số rất ít nước
trên thế giới có được lợi thế so sánh này. Tuy nhiên, lợi thế so sánh thuộc loại
nhân tố sản xuất này đang đứng trước những thách thức rất lớn, nếu như
khơng muốn nói là sống cịn. Thách thức dễ nhìn thấy nhất đã và đang đến từ
phía nhu cầu. Mẫu hình nhu cầu về gạo trên thế giới đang chuyển từ “no”
sang “ngon” đang làm mất dần lợi thế so sánh về sản xuất gạo có chất lượng
thấp. Chính vì vậy, chúng ta đang cố gắng tạo và chuyển lợi thế sang sản xuất
gạo loại có chất lượng cao. Nhưng với công nghệ gen, tạo ra được những
giống lúa vừa có chất lượng cao vừa có chi phí sản xuất thấp (năng suất cao,
dễ tính trong chăm sóc, khơng bị sâu rầy, thời gian sinh trưởng ngắn…) thì

19



thách thức đối với lợi thế trong sản xuất lúa gạo của ta thật là không nhỏ và
không dễ vượt qua.
Trong điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của nước ta, với nền sản xuất cịn
thấp, chỉ có thể phát triển nền kinh tế đất nước bằng con đường mà Đảng ta đã
khẳng định, đó là thực hiện CNH, HĐH. Hội nghị Đại biểu giữa nhiệm kỳ
khoá VII của Đảng ta khẳng định: Nhiệm vụ trung tâm có tầm quan trọng
hàng đầu trong thời gian tới là đẩy tới một bước CNH, HĐH đất nước, coi
CNH, HĐH là con đường thoát khỏi nguy cơ tụt hậu xa hơn so với các nước
xung quanh, giữ được ổn định chính trị, xã hội, bảo vệ được độc lập chủ
quyền và định hướng xã hội chủ nghĩa. Ngoại thương sẽ góp phần quan trọng
thực hiện nhiệm vụ này và thực hiện thành công CNH, HĐH. Và chính ngoại
thương sẽ khơng thể phát triển được nếu khơng có một nền kinh tế hiện đại
dựa trên nền tảng của CNH, HĐH. Với mối quan hệ chặt chẽ giữa ngoại
thương với CNH, HĐH thì ngoại thương cần đáp ứng các yêu cầu sau:
- Đẩy mạnh XK, tăng tích luỹ vốn cho tái sản xuất mở rộng, phục vụ
đắc lực cho phát triển rút ngắn CNH.
- NK các yếu tố đầu vào cho các ngành cơng nghiệp có lợi thế so sánh
và hình thành những lợi thế so sánh mới thông qua việc NK các công nghệ
cao.
- NK hợp lý để tiết kiệm tiêu dùng, hướng dẫn tiêu dùng có hiệu quả,
tạo cơ sở để phát triển sản xuất công nghiệp.
1.2. Kinh nghiệm phát triển ngoại thƣơng trong quá trình CNH ở
một số nƣớc
1.2.1. Kinh nghiệm của một số nước Đông Nam Á
Từ nhiều thập kỷ nay, khi tiến hành CNH để thốt khỏi tình trạng
nghèo nàn, lạc hậu, các quốc gia chậm phát triển đều phải giải quyết vấn đề
tạo vốn và tích luỹ vốn, trong đó có nguồn từ bên ngồi như thu nhâp từ XK,


20


tín dụng quốc tế... Mặc dù hiện nay một số nước trong khu vực Đông Nam Á
đã chuyển sang giai đoạn cao hơn của quá trình CNH, nhưng là một quốc gia
đi sau, Việt Nam vẫn có thể tham khảo những kinh nghiệm thành công cũng
như chưa thành công trong việc phát triển ngoại thương nhằm đẩy mạnh CNH
của các nước này để vận dụng vào điều kiện cụ thể của nước mình.
1.2.1.1. Khai thác sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng có lợi thế về
điều kiện tự nhiên
Đối với một số nước như Malaixia, Philippin, Thái lan, Inđônêxia...
việc khai thác lợi thế về nguồn tài nguyên sẵn có và các điều kiện thuận lợi
của đất nước (như vị trí địa lý, khí hậu…) Có ý nghĩa quan trọng trong giai
đoạn đầu CNH, khi trình độ sản xuất đặc biệt là ngành cơng nghiệp trong
nước cịn thấp và khả năng tích luỹ vốn của nền kinh tế cịn hạn chế. Việc XK
những mặt hàng có lợi thế này ban đầu gắn với chiến lược XK sản phẩm thô
và sơ chế (như các sản phẩm cơng nghiệp và khai khống). Chẳng hạn như
Malaixia đã tập trung khai thác và XK thiếc, dầu mỏ, sắt, đồng, bơ xít...,
Trong đó XK thiếc giữ vai trò chủ yếu. Trong thập kỷ 70 (của thế kỷ XX) với
sản lượng thiếc tinh luyện trên 60 nghìn tấn, Malaixia đứng thứ hai trên thế
giới về sản xuất và XK thiếc. Philippin là nước đứng đầu thế giới về XK các
sản phẩm dừa trong những năm đầu thập kỷ 80 (của thế kỷ XX). Dừa là loại
cây trồng cho thu nhập cao nhất trong nông nghiệp Philippin. Inđônêxia tập
trung sản xuất và XK các sản phẩm dầu mỏ, khí đốt, cao su tự nhiên, cà phê,
ca cao... Trong suốt hơn một thập kỷ kể từ giữa những năm 70, dầu mỏ và khí
tự nhiên là nguồn XK chủ yếu của Inđônêxia. Năm 1976, thu nhập từ XK dầu
mỏ và khí tự nhiên chiếm tới 70,25% tổng KNXK nước này. Singgapo lại là
một điển hình về việc khai thác lợi thế về vị trí địa lý. Singgapo nằm trên trục
giao thông hàng hải nối các đại dương lớn. Trong giai đoạn đầu CNH,
Singgapo phát triển tái XK và môi giới buôn bán các mặt hàng sơ chế giữa

các nước Đông nam Á với các nước tư bản Phương Tây [32].

21


Nguồn lợi thu được từ XK sản phẩm có lợi thế về điều kiện tự nhiên đã
góp phần khơng nhỏ vào q trình tích luỹ vốn ban đầu cho CNH ở các nước
Đông Nam Á.
1.2.1.2. Ưu tiên những ngành công nghiệp có hàm lượng lao động cao
để tận dụng nguồn lao động dồi dào vào sản xuất hàng xuất khẩu
Khi bắt đầu chiến lược CNH hướng về XK, trong các yếu tố của q
trình sản xuất ngồi tài ngun thiên nhiên thì lao động dồi dào và giá rẻ là
một lợi thế lớn của một số nước Đông Nam Á. Cùng với vốn đầu tư, lợi thế
về lao động nếu được sử dụng triệt để có thể tạo ra những bước phát triển
nhanh về kinh tế. Vì vậy các nước Đông Nam Á bắt đầu bằng việc xây dựng
những ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động (chủ yếu thuộc công nghiệp
chế biến tvà chế tạo hàng tiêu dùng mang tính chất gia cơng lắp ráp cho các
cơng ty nước ngồi), nhờ đó tạo ra nhiều việc làm, đồng thời khai thác lợi thế
lao động rẻ để tăng cường sức cạnh tranh của hàng hố trên thị trường thế
giới.
Ở Inđơlêxia nhóm hàng XK chiếm vị trí quan trọng và tăng nhanh trong
những năm 1980 là hàng dệt và may mặc. Giá trị các mặt hàng này trong tổng
KNXK từ 0,4% năm 1980 đã tăng lên 17,8% năm 1982. Malaixia lại tập trung
khai thác và chế biến gỗ XK. Năm 1993, Malaixia đã XK 5,44 triệu m3 gỗ xẻ,
thu 4,4 tỷ ringgit (khoảng 1,7 tỷ USD). Nếu tính chung gỗ chế biến và đồ gỗ
XK thì năm 1993 Malaixia thu tới 12,2 tỷ ringgit (khoảng 4,7 tỷ USD) tăng
16% so với năm 1992. Trong số các ngành công nghiệp chế biến mũi nhọn
của Thái Lan, công nghiệp chế biến nông - lâm - hải sản và cơng nghiệp dệt
chiếm vị trí quan trọng. Thái Lan là một trong số nước hàng đầu thế giới về
XK gạo với mức XK 4-5 triệu tấn/năm, gạo Thái Lan đã cạnh tranh được trên

thị trường quốc tế với Mỹ nhờ giá rẻ hơn, cạnh tranh được với Việt Nam nhờ
mức độ chế biến tinh hơn. Những năm cuối thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90 (của
thế kỷ XX), công nghiệp dệt Thái Lan phát triển mạnh nhờ có được thị trường

22


XK rộng lớn. Năm 1992, công nghiệp dệt đã mang lại 14% tổng KNXK của
Thái Lan [32].
Từ giữa những năm 1980, bên cạnh việc sản xuất và XK những sản
phẩm có hàm lượng nguyên liệu và lao động cao như công nghiệp chế biến
thực phẩm, dệt may, làm đồ trang sức và các nghề thủ công cổ truyền..., các
nước ASEAN cũng tập trung phát triển các ngành công nghiệp chế biến công
nghệ cao như công nghiệp điện tử, điện dân dụng nhờ vào đầu tư và liên
doanh với nước ngoài. Năm 1992, sản phẩm XK của ngành công nghiệp điện
tử, điện dân dụng đã chiếm 13,9% tổng KNXK của Thái Lan. Còn ở
Malaixia, tổng giá trị XK đồ điện và sản phẩm điện tử tăng từ 10,4% năm
1986 lên 21,9% vào năm 1990 [32].
Sản phẩm XK của một số nước Đơng Nam Á có khả năng cạnh tranh
cao do chất lượng không quá thua kém so với sản phẩm của nhiều nước công
nghiệp mới và các nước tư bản phát triển, giá cả lại phải chăng phù hợp với
bộ phận người tiêu dùng có thu nhập trung bình và thấp ở các nước phát triển.
Việc tiêu thụ được mở rộng dần từ hàng may mặc, giày dép, tóc giả... đến các
sản phẩm cơng nghiệp điện tử đã kích thích sự phát triển các ngành thu hút
nhiều lao động ở các nước Đông Nam Á. Lợi thế về lao động rẻ cộng với
những chi phí sản xuất được tiết kiệm đến tối đa đã làm cho hàng hoá của các
nước ASEAN có chỗ đứng trên thị trường thế giới. Thu nhập từ sản xuất và
XK làm giàu thêm dự trữ ngoại hối và tích lũy cho CNH.
1.2.1.3. Mở rộng thị trường xuất khẩu nhằm tận dụng qui mô sản xuất
tối ưu

Sự không thành công của chiến lược thay thế NK đã buộc các nước
ASEAN phải thay đổi chiến lược vươn ra thị trường ngoài nước. Dung lượng
lớn cũng như biến động phức tạp của thị trường ngoài nước đã đặt các nước
ASEAN trước nhiệm vụ phát triển sản xuất XK, nâng cao năng lực cạnh tranh
để đạt được qui mô sản xuất tối ưu.

23


×