Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Xoá đói giảm nghèo trong điều kiện kinh tế thị trường ở tỉnh thanh hoá luận văn ths kinh tế 60 31 01 pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.59 MB, 107 trang )

TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ
LUẬN CHÍNH TRỊ
LÊ THỊ KHANG

XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG Ở TỈNH THANH HÓA

LUẬN VĂN TH.S KINH TẾ

Người hướng dẫn: PGS.TS Vũ Văn Phúc

Hà Nội 2006


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Quan điểm phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở
Việt Nam hiện nay do Đảng ta lãnh đạo là hoàn toàn đúng đắn, đã mang lại
hiệu quả thiết thực cho sự phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao vị thế nước
ta trên trường quốc tế. Nước ta cần phải kiên định và tiếp tục đẩy mạnh phát
triển kinh tế thị trường một cách toàn diện. Nhưng sự phát triển kinh tế thị
trường có tác động hai mặt, bên cạnh mặt tích cực thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế, nó còn bộc lộ một số tác động tiêu cực đến đời sống kinh tế - xã hội của
đất nước. Một trong những tác động tiêu cực đó là sự phân hoá giàu - nghèo
giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội thể hiện ngày càng rõ rệt.
Sự phân hoá giàu nghèo làm chậm tiến trình phát triển đất nước theo
mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”; không
khẳng định được tính ưu việt, bản chất tốt đẹp của CNXH; hơn nữa, đó còn là
nguy cơ, tiềm ẩn của sự mất ổn định xã hội, cản trở sự phát triển bền vững ở
nước ta. Vì vậy, xoá đói giảm nghèo là vấn đề xã hội bức xúc đối với nước ta.


Vấn đề đặt ra cho chúng ta là làm thế nào để giảm bớt sự phân hoá giàu nghèo
với phương châm: "người giàu càng ngày càng giàu, người nghèo càng ngày
càng giảm bớt".
Việt Nam đang từng bước phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN, tức là phát triển kinh tế gắn liền với thực hiện công bằng xã hội
hướng tới loại trừ tận gốc sự nghèo khổ. Điều này có nghĩa là ngay từ đầu
chúng ta phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công
bằng xã hội. Do đó, xoá đói giảm nghèo (XĐGN) trở thành nhiệm vụ cấp
bách và xuyên suốt tiến trình phát triển. Sự thành công hay thất bại trong
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội tuỳ thuộc một phần quan trọng vào
việc giải quyết vấn đề XĐGN.
Trong 20 năm đổi mới, nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng
trên nhiều lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội và đã đạt được những

1


kết quả nhất định trong công tác XĐGN, tuy nhiên tỷ lệ hộ nghèo đói vẫn còn
ở mức cao (7% - theo chuẩn nghèo đói cũ; 19,5% - theo chuẩn mới). Mặc dù
số hộ nghèo đói ở nước ta bình quân mỗi năm giảm trên 2%, nhưng với tiêu
chuẩn phân định nghèo rất thấp và trong những năm gần đây, khoảng cách thu
nhập giữa người giàu và người nghèo có xu hướng ngày càng tăng.
So với cả nước, Thanh Hoá là một trong những tỉnh nghèo nhất và là
một tỉnh đất rộng, người đông, hiện nay có gần 3,7 triệu dân (đứng thứ 2 toàn
quốc, sau Thành phố Hồ Chí Minh). Trong những năm qua, thực hiện chương
trình XĐGN, với sự phấn đấu, nỗ lực không ngừng của các ngành, các cấp và
nhân dân trong tỉnh, Thanh Hoá đã đạt được những kết quả nhất định trong
XĐGN, tỷ lệ hộ đói nghèo giảm đáng kể: từ 21,94% đầu năm 2001, đến cuối
năm 2005 giảm xuống còn khoảng 10,56% (theo chuẩn đói nghèo cũ). Tuy
nhiên hộ thoát nghèo chưa thật vững chắc, nguy cơ tái đói nghèo còn tiềm ẩn

cao, số lượng hộ nghèo còn quá nhiều. Theo chuần mới, cuối năm 2005,
Thanh Hoá còn 275.146 hộ nghèo chiếm 34,71% tổng số hộ trong toàn tỉnh.
Vấn đề XĐGN bền vững để đạt được mục tiêu của tỉnh đề ra (đến năm 2010
còn dưới 20% hộ nghèo, 100% xã nghèo, xã đặc biệt khó khăn có đủ cơ sở hạ
tầng thiết yếu, 100% hộ nghèo được tiếp cận đầy đủ với các dịch vụ xã hội cơ
bản) là một nhiệm vụ cực kỳ khó khăn. Chính điều này làm cho vấn đề “Xóa
đói giảm nghèo trong điều kiện kinh tế thị trường ở tỉnh Thanh Hóa” trở
nên cấp thiết và thôi thúc tác giả chọn làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sỹ
kinh tế chính trị của mình. Đề tài nghiên cứu này vừa có ý nghĩa lý luận, vừa
có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Việt Nam được thế giới đánh giá là đã đạt được nhiều thành tựu trong
phát triển kinh tế và XĐGN nhưng khoảng cách giàu nghèo hiện nay lại có xu
hướng tăng lên. Do đó, bên cạnh sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và nhiều
cơ quan, cán bộ nghiên cứu, chỉ đạo thực tiễn, có rất nhiều tổ chức và cá nhân
ở các lĩnh vực trong và ngoài nước đã quan tâm nghiên cứu trên các góc độ
khác nhau về vấn đề này, trong đó có những công trình tiêu biểu sau:

2


Ngoài nước có:
- Nhóm chuyên gia của Ngân hàng Thế giới (WB) gồm Richarh
M.Bird, Jennie I.Livack và M.Govinda Rao đã khảo sát nghèo đói trong
“Quan hệ tài chính nhà nước các cấp và XĐGN ở Việt Nam” nêu lên mối
quan hệ phân cấp tài chính giữa chính quyền trung ương với chính quyền địa
phương trong công tác XĐGN qua hệ thống phân phối ngân sách.
- Công ty ADUKI (Thụy Điển) với “Vấn đề nghèo ở Việt Nam”, đã
đánh giá tác động của công cuộc đổi mới đối với vấn đề đói nghèo gắn liền
với các vấn đề kinh tế, giáo dục, tín dụng... Trên cơ sở đó, nêu lên một số vấn

đề có ý nghĩa chiến lược cần xem xét để nâng cao hiệu quả XĐGN ở Việt
Nam.
- “Việt Nam tiếng nói của người nghèo”, Báo cáo tổng hợp về đánh giá
nghèo đói có sự tham gia của người dân do Ngân hàng Thế giới và Bộ phận
Phát triển Quốc tế của Sứ quán Anh phối hợp với Action Aid Việt Nam
(Anh), Oxfam (Anh), Quỹ cứu trợ nhi đồng Anh và Chương trình phát triển
nông thôn miền núi Việt Nam - Thuỵ Điển tiến hành, tháng 11/1999...
Trong nước:
- Thành phố Hồ Chí Minh là nơi đầu tiên trong cả nước phát động
phong trào XĐGN (1992), đã tổng kết, đánh giá những kinh nghiệm XĐGN ở
thành phố và một số địa phương trong cuốn “Sổ tay xóa đói, giảm nghèo”.
- Báo cáo Phát triển của Việt Nam năm 2000, “Tấn công nghèo đói”,
Báo cáo chung của nhóm Công tác chuyên gia Chính phủ - Nhà tài trợ - Tổ
chức Phi chính phủ, Hội nghị Nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam, 1415/12/1999.
- Nguyễn Thị Hằng: “Vấn đề xóa đói, giảm nghèo ở nông thôn nước ta
hiện nay”, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội - 1997, đã đề cập đến vấn đề
nghèo đói ở nông thôn nước ta.
- Nguyễn Hải Hữu: “Chương trình quốc gia xoá đói, giảm nghèo” - tài
liệu Hội thảo kinh tế thị trường và những tiêu cực xã hội, Hà Nội–1998.

3


- Vũ Thị Ngọc Phùng: “ Tăng trưởng kinh tế, công bằng xã hội, và vấn
đề xoá đói, giảm nghèo ở nước ta”, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội – 1999,
đã đề cập đến mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, công bằng xã hội và vấn
đề XĐGN ở nước ta.
- Luận án tiến sỹ kinh tế (2000): “Vấn đề giảm nghèo trong nền kinh tế
thị trường ở nước ta hiện nay” của Trần Thị Hằng, Học viện Chính trị Quốc
gia Hồ Chí Minh, nêu phương hướng và giải pháp chủ yếu giải quyết xoá đói,

giảm nghèo ở nước ta...
- Ở Thanh Hoá, đã có một số Nghị quyết, chỉ thị, Chiến lược về công
tác XĐGN trong tỉnh, như:
+ Tỉnh uỷ và Hội đồng nhân dân tỉnh có Nghị quyết thực hiện chương
trình XĐGN với mục tiêu: mỗi năm giảm hơn 2% tỷ lệ hộ nghèo trong giai
đoạn 2001-2005.
+ Ban Thường vụ Tỉnh uỷ đã có chỉ thị số 08-CT/TU về cuộc vận động
toàn dân hỗ trợ, giúp đỡ các hộ nghèo chưa có nhà ở, đang ở nhà tạm bợ, dột
nát và ổn định đời sống; phân công các sở, ban, ngành, tổ chức đoàn thể theo
dõi, giúp đỡ các bản người Mông ổn định cuộc sống.
+ UBND tỉnh Thanh Hoá đã ban hành Chiến lược XĐGN ở Thanh Hoá
thời kỳ 2001-2010.
Đồng thời cũng đã có một số bài báo, bài viết trên các tạp chí của một
số tác giả trong tỉnh bàn về XĐGN ở Thanh Hoá...
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu và những bài viết trên đây đã đề
cập đến vấn đề nghèo đói và XĐGN ở các địa bàn khác nhau và dưới nhiều
góc độ khác nhau, nhưng chưa có đề tài nào nghiên cứu một cách hệ thống
vấn đề XĐGN trong điều kiện kinh tế thị trường ở tỉnh Thanh Hoá dưới góc
độ kinh tế - chính trị.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích: vận dụng lý luận nghèo đói và XĐGN góp phần đánh giá
việc thực hiện XĐGN ở Thanh Hoá, từ đó đề xuất những giải pháp chủ yếu
tiếp tục XĐGN trong thời gian từ nay đến năm 2010 ở Thanh Hoá.

4


- Nhiệm vụ:
+ Điểm lại quá trình nhận thức về đói nghèo và chính sách XĐGN của
Đảng, Nhà nước ta.

+ Đánh giá thực trạng đói nghèo, nguyên nhân của nó và kết quả
XĐGN, rút ra kinh nghiệm XĐGN trong thời gian qua ở Thanh Hoá.
+ Đề xuất định hướng cơ bản và những giải pháp chủ yếu tiếp tục thực
hiện XĐGN trong thời gian từ nay đến năm 2010 ở Thanh Hoá.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: về các chủ trương, chính sách XĐGN của
Đảng, Nhà nước ta và hoạt động XĐGN trong thời gian qua ở Thanh Hoá.
- Phạm vi nghiên cứu: đề tài nghiên cứu hoạt động XĐGN ở Thanh
Hoá với thời gian khảo sát từ năm 2001 đến năm 2005.
Đề tài nghiên cứu vấn đề XĐGN dưới góc độ kinh tế chính trị cụ thể
là: xem đói nghèo là một hiện tượng KT-XH, đồng thời tìm nguyên nhân từ
quan hệ sản xuất, nhất là quan hệ phân phối gắn với sự ổn định chính trị và
định hướng XHCN trong điều kiện kinh tế thị trường.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, quan điểm,
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta.
- Phương pháp nghiên cứu: được thực hiện chủ yếu là phương pháp
logic dựa trên lý luận của phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ
nghĩa Mác-Lênin kết hợp với phương pháp lịch sử. Ngoài ra, luận văn còn sử
dụng những phương pháp khác như: phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê,
điều tra xã hội học, nghiên cứu tổng kết thực tiễn và kế thừa những kết quả
nghiên cứu lý luận liên quan đến đề tài...
6. Đóng góp của luận văn
- Về khoa học: luận văn góp phần khái quát cơ sở lý luận và thực trạng
XĐGN, và đưa ra những giải pháp chủ yếu tiếp tục XĐGN đến năm 2010
trong điều kiện kinh tế thị trường ở tỉnh Thanh Hoá.

5



- Về thực tiễn: từ nghiên cứu lý luận và thực trạng về XĐGN, đề ra
những giải pháp chủ yếu vận dụng trong công tác XĐGN hiện nay ở tỉnh
Thanh Hoá. Việc thực hiện XĐGN ở Thanh Hoá không chỉ có ý nghĩa về mặt
kinh tế là nâng cao đời sống của nhân dân, góp phần vào sự phát triển chung
của tỉnh và cả nước, mà còn là vấn đề mang ý nghĩa chính trị, xã hội và nhân
văn, củng cố lòng tin của nhân dân đối với đường lối đổi mới của Đảng. Từ
đó góp phần thực hiện thành công mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh mà Văn kiện Đại hội X của Đảng ta đã nêu ra.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục các tài liệu tham khảo, luận
văn gồm 3 chương, 8 tiết:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về xoá đói giảm nghèo trong điều
kiện kinh tế thị trường;
Chương 2: Thực trạng xoá đói giảm nghèo trong thời gian qua ở tỉnh
Thanh Hoá;
Chương 3: Định hướng cơ bản và giải pháp chủ yếu tiếp tục XĐGN ở
tỉnh Thanh Hoá đến năm 2010.

6


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO
TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG

1.1. Cơ sở lý luận về xoá đói giảm nghèo trong điều kiện kinh tế thị
trƣờng
Trong lịch sử, đói nghèo đã tồn tại ở nhiều thời đại khác nhau và có
nhiều quan niệm, nhiều cách lý giải khác nhau về nguyên nhân đói nghèo.
Giai cấp bóc lột lý giải nguyên nhân của sự đói nghèo là do ngu dốt, lười

biếng, đồng thời biện minh cho tình trạng đói nghèo, thất nghiệp như là “một
áp lực cần thiết, tất yếu” để cho những người đang có việc làm phải cố gắng
lao động(?). Điều đó đòi hỏi, để đảm bảo tính khoa học khi nghiên cứu đói
nghèo, cần phải đứng vững trên lập trường, phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trọng tâm nghiên cứu của Mác, Ăngghen, Lênin là CNTB và ngay từ
những năm 50 của thế kỷ XIX, trong các tác phẩm của mình, Mác đã phân
tích, vạch rõ bản chất bóc lột của CNTB. Đặc biệt trong bộ “Tư bản”, Mác
mô tả tỷ mỹ, cặn kẽ tình cảnh thống khổ của những người lao động phải đi
làm thuê cho nhà tư bản và bị bóc lột thậm tệ. Hậu quả sự bóc lột tàn bạo này
đã đẩy xã hội tư bản phân hoá thành hai cực: một bên là sự giàu có, sự xa hoa
về phía giai cấp tư sản, còn một bên là sự bần cùng, nghèo khổ, thất học về
phía giai cấp vô sản. Từ đó dẫn đến mâu thuẫn giai cấp đối kháng không thể
điều hoà được. Mác đã chỉ ra: đói nghèo là hệ quả tất yếu của chế độ tư hữu
TBCN về TLSX, hệ quả của sự tước đoạt và bóc lột thậm tệ trong quá trình ra
đời và tồn tại của CNTB. Do đó, chỉ có xoá bỏ chế độ tư hữu TBCN, xoá bỏ
nguồn gốc sinh ra bóc lột thì người lao động mới thoát khỏi đói nghèo.
Tuy nhiên chúng ta thấy, chế độ tư hữu TBCN về TLSX chỉ là nguyên
nhân xâu xa, còn nguyên nhân trực tiếp chính là do chế độ phân phối bất bình
đẳng. Bởi vì, xét ở hai góc độ lý luận và thực tiễn thì sở hữu là mục đích của
đấu tranh giai cấp, là phương tiện để con người đạt đến mục đích cuối cùng là

7


được hưởng cái gì ? bao nhiêu ? đó chính là phân phối. Theo giáo sư, tiến sỹ
Đỗ Thế Tùng, trong nền kinh tế thị trường, phân phối không những phụ thuộc
vào quyền sở hữu các yếu tố sản xuất mà việc phân phối còn được phân phối
lại thông qua trao đổi, nên kết quả phân phối còn phụ thuộc vào thị trường.
Ngoài ra, kết quả phân phối còn bị làm sai lệch bởi các nhân tố phi kinh tế,

các hiện tượng tiêu cực như tham nhũng, đầu cơ, buôn lậu, và cả các rủi ro do
thiên tai... Vì vậy, trong điều kiện còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu về TLSX
và kinh tế hàng hoá thì phân phối công bằng vẫn là công bằng trong giới hạn
chật hẹp của pháp quyền tư sản, và do đó tất yếu còn có sự chênh lệch về thu
nhập giữa những người giàu và người nghèo. Mặt khác ngay cả trong những
đơn vị kinh tế dựa trên chế độ công hữu về TLSX và thực hiện phân phối theo
lao động một cách đúng đắn thì vẫn còn hiện tượng người này giàu hơn người
kia, vì ở đây nguyên tắc ngự trị, theo Mác “cũng vẫn là cái nguyên tắc trong
việc trao đổi hàng hoá - vật ngang giá; một số lượng lao động dưới hình thức
này được đổi lấy cùng một số lượng lao động dưới một hình thức khác”.
“Như vậy, với một công việc ngang nhau và do đó, với một phần tham dự như
nhau vào quỹ tiêu dùng của xã hội thì trên thực tế, người này vẫn lĩnh nhiều
hơn người kia... Bởi vì, người này lập gia đình rồi, người kia chưa, người này
có nhiều con hơn người kia. Đấy là chưa kể trong điều kiện cách mạng khoa
học và công nghệ, trong điều kiện kinh tế tri thức, có khoảng cách xa giữa
những người công nhân tri thức và những người lao động giản đơn về trình độ
chuyên môn nên tất yếu có sự chênh lệch về cống hiến và thu nhập”[47]. Đặc
biệt, trong nền kinh tế thị trường, với sự chi phối của quy luật giá trị, quy luật
cạnh tranh... tất yếu sẽ dẫn đến một thực trạng là: một bộ phận người có trình
độ cao, có tay nghề, có vốn nhiều, có quan hệ xã hội rộng và biết làm ăn vươn
lên trở thành người giàu; ngược lại, một bộ phận người yếu về thể chất, không
có sức lao động, trí tuệ thấp kém, không có khả năng tổ chức sản xuất, không
có vốn liếng hay là lười lao động phải chấp nhận có thu nhập thấp. “Đặc biệt
với nền kinh tế thị trường đang được khởi động và phát triển (như ở Việt
Nam), thì phân tầng xã hội là một hệ quả tất yếu. Trong cuộc đấu tranh để tồn
tại và phát triển dưới tác động của cơ chế thị trường, nhất định diễn ra cuộc
sàng lọc tự nhiên. Những ai có bản lĩnh và tài năng sẽ nhanh chóng tranh thủ

8



được cơ may và vận hội để chiếm lĩnh được những vị thế cao trong xã hội.
Những người yếu thế hơn về điều kiện, về tài năng, về kinh nghiệm và học
vấn... phải chịu thua thiệt trong cuộc cạnh tranh để rồi có thể tìm kiếm cơ hội
mới để vươn lên. Tính cơ động xã hội, do vậy, sẽ được đẩy tới. Động lực của
sự tăng trưởng kinh tế và sự tiến bộ xã hội sẽ được phát huy mạnh mẽ trong
cuộc đấu tranh ấy”. Giáo sư Trần Ngọc Hiên cũng thừa nhận và cho rằng sự
phân hoá giàu nghèo còn là một tiến bộ lịch sử. Giáo sư nói: “Quá trình phát
triển kinh tế thị trường đã làm cho một số người giàu lên do biết tích luỹ và
biết kinh doanh, nó cũng làm cho một số người nghèo đi và không thích nghi
với kinh tế thị trường (sức khoẻ yếu, đơn côi, tay nghề, học vấn thấp...). Sự
phân hoá này là một tiến bộ lịch sử. Khi kinh tế thị trường ở giai đoạn thấp thì
dù chế độ chính trị nào cũng nảy sinh ra sự phân hoá giàu nghèo”.
Phân tích như vậy để thấy rằng, giải quyết vấn đề đói nghèo không chỉ
dừng ở mặt sở hữu mà còn giải quyết vấn đề phân phối. Đồng thời cũng cho
thấy rằng, đói nghèo không chỉ xuất hiện trong xã hội có giai cấp mà còn là
một tất yếu trong nền kinh tế thị trường. Vì vậy, nhiều diễn đàn khu vực và
thế giới đã khẳng định, hiện nay, đói nghèo không còn là vấn đề riêng của
một quốc gia, mà là vấn đề mang tính toàn cầu. Tại Hội nghị Thượng đỉnh
Thiên niên kỷ của Liên Hợp Quốc năm 2000, 180 quốc gia trong đó có Việt
Nam đã nhất trí thông qua tuyên bố Thiên niên kỷ và cam kết vào năm 2015
đạt được 8 Mục tiêu Thiên niên kỷ: 1- Xoá hết đói nghèo; 2- Phổ cập trung
học cơ sở và phổ cập trung học phổ thông; 3– Tăng cường bình đẳng giới và
tăng cường khả năng của phụ nữ; 4– Giảm tỷ lệ trẻ em chết yểu; 5– Cải thiện
sức khoẻ bà mẹ; 6– Chống HIV/AIDS, bệnh sốt rét và các bệnh khác; 7- Bảo
đảm môi trường bền vững; 8- Phát triển đối tác toàn cầu vì phát triển. Với
tuyên bố chung này thực sự thể hiện sự quyết tâm của các nhà lãnh đạo của
các quốc gia về việc thực hiện một thế giới mà ở đó không còn nghèo đói, ai
cũng được học hành, sức khỏe của người dân được cải thiện, môi trường được
bảo vệ một cách bền vững, mọi người đều được hưởng các quyền tự do, bình

đẳng và công bằng...
Để hình thành các giải pháp XĐGN, cần thiết phải có quan niệm đúng
và có những tiêu chí cụ thể về nghèo đói.

9


1.1.1. Quan niệm của thế giới về nghèo đói và xoá đói giảm nghèo
trong điều kiện kinh tế thị trường
Đến nay đã có nhiều nhà nghiên cứu và tổ chức quốc tế đã đưa ra nhiều
khái niệm khác nhau về nghèo đói, nhìn chung không có sự khác biệt đáng kể.
Tiêu chí chung nhất để xác định nghèo đói vẫn là mức thu nhập hay chi tiêu
để thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con người về: ăn, ở, mặc, y tế, giáo
dục, văn hoá, đi lại và giao tiếp xã hội. Sự khác nhau chung nhất là thoả mãn
ở mức cao hay thấp mà thôi, điều này phụ thuộc vào trình độ phát triển KTXH cũng như phong tục tập quán của từng vùng, từng quốc gia. Ta có thể sử
dụng các khái niệm của các tổ chức sau để phân tích, nghiên cứu:
- Tổ chức Liên Hợp Quốc nêu khái niệm về nghèo tuyệt đối và nghèo
tương đối.
+ Nghèo tuyệt đối là tình trạng của một bộ phận dân cư không có khả
năng thoả mãn các nhu cầu cơ bản, tối thiểu (ăn, mặc, ở, nhu cầu văn hoá, y
tế, giáo dục và giao tiếp) để duy trì cuộc sống.
+ Nghèo tương đối là tình trạng của một bộ phận dân cư có mức sống
dưới mức trung bình của cộng đồng.
- Tại Hội nghị về chống đói nghèo do Uỷ ban Kinh tế xã hội khu vực
Châu Á - Thái Bình Dương (ESCAP) tổ chức tháng 09/1993 tại Băng Cốc
(Thái Lan), các quốc gia trong khu vực đã thống nhất cao và cho rằng:
"Nghèo đói là tình trạng một bộ phận dân cư không có khả năng thoả mãn
những nhu cầu cơ bản của con người, mà những nhu cầu ấy phụ thuộc vào
trình độ phát triển kinh tế – xã hội, phong tục tập quán của từng vùng và
những phong tục ấy được xã hội thừa nhận"[7; tr.11].

Có thể xem đây là định nghĩa chung nhất về nghèo, một định nghĩa có
tính chất hướng dẫn về phương pháp đánh giá, nhận diện nét chính yếu, phổ
biến về nghèo, bao gồm cả nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối. Định nghĩa
này đã làm rõ được bộ phận dân cư nghèo là "không được hưởng” hoặc
"không thoả mãn” những nhu cầu cơ bản (nghèo tuyệt đối); làm rõ tính chất
động của nghèo là tuỳ theo “trình độ phát triển kinh tế - xã hội, phong tục tập

10


quán của từng vùng" (nghèo tương đối). Vì vậy, khái niệm này đã được nhiều
quốc gia chấp nhận và sử dụng.
- Ngoài ra, Ngân hàng thế giới (WB) đưa ra các tiêu chí đánh giá mức
độ giàu nghèo của các quốc gia căn cứ vào thu nhập bình quân đầu người theo
hai cách tính:
+ Phương pháp ATLAS tức là tỷ giá hối đoái và tính theo USD.
+ Phương pháp PPP (Purchasing Power Parity) là phương pháp sức
mua tương đương tính theo USD.
Giả sử, theo phương pháp ATLAS, ở cấp quốc gia, căn cứ mức thu
nhập bình quân đầu người năm 1990, WB sẽ phân loại giàu nghèo trên thế
giới thành 6 mức như sau:
+ Trên 25.000 USD

: nước cực giàu

+ Trên 20.000 đến 25.000 USD

: nước giàu

+ Trên 10.000 đến 20.000 USD


: nước khá giàu

+ Trên 2.500 đến 10.000 USD

: nước trung bình

+ Trên 500 đến 2.500 USD

: nước nghèo

+ Dưới 500 USD

: nước cực nghèo

Nếu chỉ căn cứ vào mức thu nhập bình quân đầu người để phân tích thì
sẽ là phiến diện, bởi lẽ chỉ cần tăng trưởng kinh tế, nâng cao mức thu nhập
của dân chúng là sẽ giải quyết được đói nghèo. Nhưng trong thực tế, không ít
trường hợp hai nước có cùng mức GDP và thu nhập bình quân đầu người như
nhau nhưng hệ số về bất bình đẳng lại khác nhau. Thậm chí ở những nước
giàu, hệ số bất bình đẳng hay khoảng cách giàu nghèo còn cao hơn so với
những nước nghèo. Chẳng hạn như ở Úc, thu nhập bình quân đầu người
24.574 USD, nhưng hệ số giữa 10% dân số giàu nhất và 10% dân số nghèo
nhất là 12,5. Trong khi Việt Nam thuộc nhóm cực nghèo, thu nhập bình quân
đầu người dưới 500 USD nhưng hệ số này là 7,6 [TCTK, 2003]. Thực tế,
ngay trong những nước giàu vẫn tồn tại đói nghèo theo cả hai nghĩa tương đối
và tuyết đối. Điều này chứng minh rằng trong thời đại ngày nay, giải quyết

11



đói nghèo không chỉ là làm giàu mà phải xoá bỏ nguồn gốc dẫn đến phân hoá
- đó là sự phân phối bất bình đẳng.
Các quan niệm về đói nghèo nêu trên phản ánh 3 khía cạnh chủ yếu của
người nghèo:
- Không được thụ hưởng những nhu cầu cơ bản ở mức tối thiểu dành
cho con người;
- Có mức sống thấp hơn mức sống của cộng đồng dân cư;
- Thiếu cơ hội lựa chọn tham gia vào quá trình phát triển của cộng
đồng.
Nghèo đồng nghĩa với nghèo khổ, nghèo túng, túng thiếu. Trong hoàn
cảnh nào thì hộ nghèo, người nghèo cũng chỉ vật lộn với những mưu sinh
hàng ngày về kinh tế – vật chất, biểu hiện trực tiếp nhất là bữa ăn. Họ không
thể vươn tới các nhu cầu về văn hoá, tinh thần hoặc những nhu cầu này phải
cắt giảm tới mức tối thiểu nhất, gần như không có. Biểu hiện rõ nhất ở các hộ
nghèo là hiện tượng trẻ em bỏ học, thất học, không có điều kiện để chữa bệnh
khi ốm đau. Nhìn chung ở hộ nghèo, người nghèo, thu nhập thực tế của họ chỉ
dành chi hầu như toàn bộ cho ăn thậm chí không đủ chi ăn, phần tích luỹ hầu
như không có. Các nhu cầu tối thiểu ngoài ăn ra gồm các mặt như: ở, văn hoá,
y tế, giáo dục, giao tiếp… chỉ đáp ứng một phần rất ít ỏi, không đáng kể.
Với mục tiêu hàng đầu là đấu tranh chống nạn nghèo khổ ở các nước
đang phát triển, WB cũng đã đưa ra chuẩn nghèo đói tính theo số Calo tối
thiểu cần thiết cho một người để sống là 2100 Kcalo/người/ngày, những hộ
gia đình không đảm bảo được mức này là những hộ nghèo khổ. Tiêu chuẩn
này được tính chung cho các nước trên thế giới, do đó nghèo khổ theo tiêu
chuẩn này chính là nghèo tuyệt đối. Theo mức đánh giá chung của thế giới, để
đảm bảo mức 2100 Kcalo/người/ngày thì cần ít nhất là 1 USD/người/ngày.
Theo tiêu chuẩn này thế giới có khoảng 1,3 tỷ người đói nghèo, các khu vực
có người nghèo nhất thế giới hiện nay là châu Phi và châu Á.
Chuẩn nghèo là một khái niệm động, nó biến động theo không gian và

thời gian. Về không gian, nó biến đổi theo trình độ phát triển KT-XH của

12


từng vùng hay từng quốc gia. Về thời gian, chuẩn nghèo cũng có sự biến động
lớn và nó phát triển theo trình độ phát triển KT-XH và nhu cầu của con người
theo từng giai đoạn lịch sử, vì rằng kinh tế, xã hội phát triển, thì đời sống của
con người cũng được cải thiện tốt hơn, tuy nhiên không phải là tất cả các
nhóm dân cư đều có tốc độ cải thiện giống nhau. Theo quan niệm này, WB
đưa ra khuyến nghị thang đo đói nghèo như sau:
Các cá nhân bị coi là nghèo đói khi mà có thu nhập dưới:
- Đối với nước nghèo là 0,5 USD/ ngày;
- Đối với nước đang phát triển là 1 USD/ ngày;
- Các nước thuộc Châu Mỹ La tinh và Caribe là 2 USD/ngày;
- Các nước Đông Âu là 4 USD/ngày;
- Các nước công nghiệp phát triển là 14,4 USD/ngày.
Tuy vậy, các quốc gia đều tự đưa ra chuẩn riêng của mình, thông
thường nó thấp hơn thang nghèo đói mà WB đưa ra. Ví dụ, Mỹ đưa ra là thu
nhập dưới 16.000 USD đối với một hộ gia đình chuẩn (gia đình 4 người)
trong một năm, tương đương với 11,1 USD/ngày/người, Trung Quốc đưa ra
chuẩn nghèo là 960 Nhân dân tệ/năm/người tương đương 0,33
USD/ngày/người.
Trong quá trình nghiên cứu đói nghèo và thực hiện chương trình
XĐGN ở Việt Nam, WB cũng đã đưa ra hai mức chuẩn nghèo đối với Việt
Nam:
Thứ nhất là số tiền cần thiết để mua một số lương thực, thực phẩm đáp
ứng nhu cầu dinh dưỡng với lượng 2100 Kcalo/người/ngày, gọi là chuẩn
nghèo về lương thực thực phẩm;
Thứ hai là số tiền cần thiết bao gồm cả chi tiêu cho lương thực thực

phẩm và chi tiêu cho các nhu cầu phi lương thực thiết yếu khác, gọi là chuẩn
đói nghèo chung. Theo quan niệm của WB, ngoài chỉ tiêu tối thiểu về lương
thực, thực phẩm để đảm bảo đủ lượng 2.100 Kcalo/người/ngày (tương đương
70% chi tiêu) còn có những khoản chi tiêu tối thiểu phi lương thực, thực

13


phẩm (tương đương 30% chi tiêu). Do đó, chuẩn nghèo chung có mức cao
hơn chuẩn nghèo lương thực, thực phẩm.
Dựa vào số liệu điều tra mức sống dân cư tại nước ta năm 1993, năm
1998, và căn cứ vào sức mua của đồng tiền Việt Nam, WB đưa ra chuẩn
nghèo đối với từng loại ở Việt Nam như sau:
Đơn vị: đồng/người/tháng
Mức chuẩn nghèo

Năm 1993

Năm 1998

Chuẩn nghèo lương thực thực
phẩm

62.500

107.000

Chuẩn nghèo chung

96.600


149.000

1.1.2. Quan niệm của Việt Nam về nghèo đói và xoá đói giảm nghèo
trong điều kiện kinh tế thị trường
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về XĐGN:
Ngay sau khi giành được độc lập năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ
rõ đói và dốt cũng là giặc như giặc ngoại xâm. Con người chỉ thật sự được
giải phóng khi thoát khỏi giặc ngoại xâm, giặc đói và giặc dốt. Do đó, Người
đã xác định một trong những nhiệm vụ trọng tâm của cách mạng Việt Nam là
giữ cho được nền độc lập, đồng thời phải chống giặc đói, giặc dốt, giải phóng
con người khỏi mọi áp bức, bất công, thực hiện công bằng xã hội. Người nói:
“Chúng ta phải thực hiện ngay:
1. Làm cho dân có ăn
2. Làm cho dân có mặc
3. Làm cho dân có chỗ ở
4. Làm cho dân có học hành
Cái mục đích chúng ta muốn đi đến là bốn điều đó. Đi đến để dân
chúng ta xứng đáng với tự do, độc lập và giúp sức cho tự do, độc lập”[34;
tr.125]. Ngay trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, Người đã nêu
vấn đề cấp bách hàng đầu là cứu dân khỏi chết đói. Năm 1947, trong thư gửi

14


đồng bào Thanh Hoá với mong muốn Thanh Hoá phấn đấu thành một tỉnh
kiểu mẫu, Người nhấn mạnh tới tư tưởng con người - gia đình và xã hội phải
trở nên giàu có. Người nêu rõ: phải giúp cho mọi người khỏi bị đói, trở nên
đủ ăn, đủ mặc, vượt qua cái nghèo, trở nên sung túc, khá giả, từ khá giả trở
nên giàu có, dân có giàu thì nước mới mạnh, đã giàu có rồi thì phấn đấu để

giàu có nữa, giàu có mãi. Tư tưởng của Người chính là “làm cho người nghèo
thì đủ ăn, người đủ ăn thì khá giàu, người giàu thì giàu thêm” [34; tr.287].
Người luôn nhấn mạnh phải ra sức tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm,
chống quan liêu, lãng phí, tham ô, phải đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau trong sản
xuất và đời sống, thực hành dân chủ, nâng cao dân trí, coi đây là con đường
lâu dài và chắc chắn đối với công tác XĐGN và không ngừng nâng cao đời
sống của nhân dân. Như vậy, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, xoá đói phải tiến tới
giảm nghèo, tăng giàu. Đây chính là quan điểm phát triển bền vững để tiến tới
một xã hội ngày càng giàu có, văn minh và hạnh phúc.
- Kế tục và phát triển những tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong
suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn lấy độc lập, tư do, hạnh phúc
của nhân dân làm mục đích, lý tưởng của mình. Chính vì vậy mọi chủ trương,
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước đều nhằm làm cho toàn dân có
được cuộc sống ngày càng tốt hơn, hạnh phúc hơn.
Sau 30 năm kháng chiến gian khổ và những năm đầu sau chiến tranh,
kinh tế chưa phát triển, thiếu thốn mọi bề, các sản phẩm xã hội làm ra về cơ
bản được phân phối bình quân (mà thực chất là “chia đều sự nghèo khổ”), thì
ranh giới giàu - nghèo dường như đã bị xoá mờ trong ý thức của đại đa số
người dân, trừ những người có điều kiện so sánh với các hoàn cảnh khác. Vì
thế, khi bắt đầu chuyển sang thời kỳ đổi mới, trong hệ thống chính sách của
Nhà nước chưa thấy đề cập đến chính sách XĐGN.
Phải trải qua 5 năm hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường, sự
phân hoá giàu - nghèo mới dần bộc lộ rõ. Do đó, Đại hội VII của Đảng Cộng
Sản Việt Nam (tháng 6/1991) đã chủ trương: “Khuyến khích làm giàu đi đôi
với giảm số người nghèo, nâng cao phúc lợi xã hội phù hợp với trình độ phát
triển kinh tế”. Tuy nhiên chủ trương đó mới chỉ là tư tưởng định hướng cho

15



việc hoạch định chính sách. Thật ra, tư tưởng về chính sách XĐGN ở Việt
Nam đã được Đại hội VII của Đảng nêu lên, nhưng bản thân chính sách
XĐGN lại được bắt đầu từ dưới lên sau đó mới từng bước được bổ sung hoàn
chỉnh từ trên xuống.
Năm 1992, chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh đã đi đầu trong việc
đề ra chính sách XĐGN. Sáng kiến của Thành phố Hồ Chí Minh nhanh chóng
đựơc các địa phương khác trong cả nước nhiệt liệt hưởng ứng. Phát huy sáng
kiến của chính quyền địa phương các cấp và căn cứ vào kết quả điều tra mức
sống dân cư lần thứ nhất, từ năm 1993, Chính phủ mới lần lượt ban hành các
chính sách có liên quan đến XĐGN được thực hiện trên phạm vi cả nước và
đặt trong mối quan hệ gắn bó mật thiết với Chiến lược ổn định và phát triển
kinh tế – xã hội 10 năm 1991 - 2000.
Năm 1995, Báo cáo quốc gia của Chính phủ Việt Nam tại Hội nghị
Thượng đỉnh Compenhagen về phát triển xã hội đã khẳng định XĐGN là một
chính sách quốc gia quan trọng. Chính vì vậy đến Đại hội VIII của Đảng, với
quan điểm: “Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và CBXH ngay
trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển. CBXH phải thể hiện ở cả
khâu phân phối hợp lý TLSX lẫn ở khâu phân phối kết quả sản xuất, ở việc
tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực
của mình”[18; tr.113]; “Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực
XĐGN. Thu hẹp dần khoảng cách về trình độ phát triển, về mức sống giữa
các vùng, các dân tộc, các tầng lớp dân cư”[18; tr.114], chủ trương XĐGN đã
được đưa lên thành Chương trình về XĐGN với mục tiêu: “Giảm tỷ lệ nghèo
đói trong tổng số hộ của cả nước từ 20-25% hiện nay xuống còn khoảng 10%
vào năm 2000, bình quân giảm 300.000 hộ/năm. Trong 2-3 năm đầu của kế
hoạch 5 năm, tập trung xoá về cơ bản nạn đói kinh niên”[18; tr.221].
Tiếp theo Chính phủ đã cho tiến hành điều tra mức sống dân cư lần thứ
hai (năm 1997 - 1998) và trên cơ sở đó xây dựng, ban hành Chương trình mục
tiêu XĐGN giai đoạn 1998 - 2000 theo quyết định 133/1998/QĐ - TTg ngày
20 tháng 7 năm 1998, gọi tắt là chương trình 133. Chương trình này bao gồm


16


một hệ thống các chính sách có nội dung trực tiếp hoặc gián tiếp hướng tới
mục tiêu XĐGN.
Tại Đại hội IX, Đảng ta chỉ rõ: “ Thực hiện chương trình XĐGN thông
qua những biện pháp cụ thể, sát với tình hình từng địa phương, sớm đạt mục
tiêu không còn hộ đói, giảm mạnh các hộ nghèo“ [19; tr.106]. Trong Định
hướng phát triển các lĩnh vực xã hội đến năm 2005, nhấn mạnh: “Tiếp tục
thực hiện có hiệu quả chương trình XĐGN..., phải rất coi trọng việc tạo nguồn
lực cần thiết để dân cư ở các vùng nghèo, xã nghèo đẩy mạnh sản xuất, phát
triển ngành nghề, tăng thu nhập. Phấn đấu đến năm 2005 về cơ bản không còn
hộ đói và chỉ còn khoảng 10% số hộ thuộc diện nghèo... Nâng dần mức sống
của các hộ đã thoát nghèo, tránh tình trạng tái nghèo” [19; tr.299].
Đại hội X của Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Khuyến khích mọi người
dân làm giàu theo pháp luật, đồng thời thực hiện có hiệu quả các chính sách
XĐGN, thực hiện tốt hơn công bằng xã hội”, phấn đấu đến năm 2010, “tỷ lệ
hộ nghèo (theo chuẩn mới) giảm xuống còn 10 -11%” [3].
Như vậy, tư tưởng nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam về XĐGN
thể hiện trong các văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VII, VIII, IX, X :
- Cùng với quan điểm đổi mới, tăng trưởng kinh tế phải tiến hành công
cuộc XĐGN, thực hiện CBXH, bình đẳng giới, giảm sự phân hoá giàu nghèo.
- Khuyến khích nhân dân làm giàu hợp pháp, đi đôi với XĐGN bền
vững, chú trọng phát triển nông nghiệp nông thôn, vì 90% người nghèo sống
ở vùng nông thôn.
- XĐGN là một chủ trương lớn, một quyết sách lớn của Đảng và Nhà
nước, XĐGN là một cuộc cách mạng xã hội sâu sắc, là phong trào của quần
chúng, nhất là ở địa phương, cơ sở.
- Hình thành được hệ thống chính sách và chương trình mục tiêu quốc

gia XĐGN.
- Tập trung nguồn lực để xoá nhanh các hộ đói, xã đặc biệt khó khăn,
giảm mạnh các hộ nghèo, xã nghèo.

17


- Thực hiện xã hội hoá công tác XĐGN, đa dạng hoá các nguồn lực
trong nước, phát huy nội lực tại chỗ và tranh thủ hợp tác, trợ giúp quốc tế, tạo
thành phong trào sôi động trong cả nước, lấy ngày 17 tháng 10 hàng năm là
“Ngày vì người nghèo”.
Từ những quan điểm XĐGN của Đảng ta và những thành tựu đã đạt
được, có thể khẳng định XĐGN luôn là một trong những định hướng lớn
trong chính sách xã hội của Đảng. Trên cơ sở đường lối, chủ trương của
Đảng, các ngành chức năng đã cụ thể hoá tiêu chí đói nghèo để thực hiện
trong cả nước.
Ở Việt Nam, ngoài gợi ý về cách xác định chuẩn đói nghèo theo mức
thụ hưởng Calo do bữa ăn mang lại hàng ngày quy đổi ra thu nhập của WB đã
nêu trên, các nhà nghiên cứu và các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan đã
nêu ra các mức xác định chuẩn mực đói nghèo khác nhau, điển hình là cách
xác định của Tổng cục Thống kê (TCTK) và của Bộ LĐ-TB &XH.
- Cách xác định của Tổng cục Thống kê:
Theo quan niệm của TCTK, tiêu chuẩn nghèo được xác định thông qua
tiêu thụ lương thực, thực phẩm, chưa tính đến việc tiêu thụ hàng hoá phi
lương thực, thực phẩm. Những hộ có mức thu nhập bình quân đầu người dưới
chuẩn này thuộc vào diện hộ nghèo. Tiêu chuẩn nghèo được tính riêng cho 2
khu vực: thành thị và nông thôn. Trên cơ sở định mức chuẩn dinh dưỡng 2100
Kcalo/ngày/người, TCTK đã xác định chuẩn mực nghèo của Việt Nam qua
các năm như sau:
Đối với thành thị


Đối với nông thôn

Năm 1993:

70.000 đ/người/tháng

51.000 đồng/người/tháng

Năm 1994:

102.000 đ/người/tháng

76.000 đồng/người/tháng

Năm 1995:

125.000 đ/người/tháng

95.000 đồng/người/tháng

Năm 1996:

130.000 đ/người/tháng

100.000 đồng/người/tháng

Năm 1997-1998, TCTK không tiến hành điều tra đa mục tiêu như các
năm trước, mà phối hợp với WB tiến hành điều tra mức sống hộ gia đình Việt


18


Nam, trong đó tình trạng nghèo được nghiên cứu theo phương pháp đo lường
mức sống của WB. Theo TCTK, tiêu chuẩn nghèo của TCTK và WB tương
đương nhau, tỷ lệ nghèo do hai cơ quan này đưa ra cũng rất gần nhau và đều
dựa trên số liệu về thu nhập hoặc chi tiêu được điều tra công phu, khách quan.
- Cách xác định của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội:
Qua nhiều cuộc khảo sát, nghiên cứu và đi đến thống nhất ở các Bộ,
Ngành, Bộ LĐ-TB&XH (cơ quan thường trực của Chính phủ trong việc tổ
chức, triển khai, thực hiện chương trình XĐGN) đã đưa ra các khái niệm đói
nghèo ở Việt Nam như sau:
Đói là tình trạng của một bộ phận dân cư nghèo có mức sống dưới mức
sống tối thiểu, không đảm bảo nhu cầu vật chất để duy trì cuộc sống.
Nghèo là tình trạng của một bộ phận dân cư chỉ có khả năng thoả mãn
một phần các nhu cầu cơ bản của con người và có mức sống ngang bằng mức
sống tối thiểu của cộng đồng xét trên mọi phương diện.
Hộ đói là hộ cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, con cái thất học, ốm
đau không có tiền chữa trị, nhà cửa rách nát.
Hộ nghèo là hộ thiếu ăn nhưng không đứt bữa, mặc không lành và
không đủ ấm, không có khả năng phát triển sản xuất…
Bộ LĐ-TB&XH đồng tình với quan điểm về đói nghèo của Hội nghị
chống đói nghèo khu vực Châu Á - Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức tại
Băng Kốc (Thái Lan) tháng 09/1993. Chuẩn nghèo được dùng để đánh giá
mức độ đói nghèo ở Việt Nam là tính theo thu nhập nhân khẩu một tháng
hoặc một năm và được đo bằng giá trị hoặc hiện vật quy đổi. Vì chuẩn nghèo
là một khái niệm động, nó biến động theo không gian và thời gian. Về không
gian, ở Việt Nam, chuẩn nghèo biến động theo 3 vùng sinh thái khác nhau, đó
là: vùng thành thị, vùng nông thôn đồng bằng và vùng nông thôn miền núi.
Về thời gian, Bộ LĐ-TB&XH đã đưa ra chuẩn đói nghèo chủ yếu dựa vào các

số liệu về thu nhập của hộ gia đình tuỳ theo thời kỳ phát triển của đất nước.
Theo phương pháp trên và căn cứ vào mức sống thực tế của các địa
phương, Bộ LĐ-TB&XH đã 3 lần công bố chuẩn nghèo tính theo thu nhập

19


bình quân đầu người cho các giai đoạn cụ thể khác nhau: giai đoạn 19931995, giai đoạn 1996-2000, giai đoạn 2001-2005.
- Năm 1993, với yêu cầu cấp bách về chỉ đạo XĐGN, Bộ LĐ-TB&XH
đã đưa ra chuẩn đói nghèo ở nước ta là:
Hộ đói là hộ có thu nhập bình quân đầu người trong 1 tháng quy đổi ra
gạo dưới 8 kg ở nông thôn, dưới 13 kg ở thành thị;
Hộ nghèo là hộ có thu nhập bình quân đầu người trong 1 tháng quy đổi
ra gạo dưới 13 kg ở nông thôn, dưới 20 kg ở thành thị.
- Đến năm 1997, Bộ LĐ-TB&XH đã đưa ra tiêu chí chi tiết hơn cho
từng mức độ đói nghèo và từng khu vực, cụ thể được quy định như sau:
Hộ đói là hộ có bình quân thu nhập đầu người trong 1 tháng quy ra gạo
dưới 13kg, tương đương với 40.000 đồng Việt Nam (đối với tất cả các vùng).
Hộ nghèo là hộ có mức thu nhập bình quân đầu người/tháng được phân
biệt theo vùng như sau:
+ Vùng nông thôn miền núi, hải đảo: dưới 15kg gạo (tương đương với
50.000 đồng Việt Nam);
+ Vùng nông thôn đồng bằng, trung du: dưới 20 kg gạo (tương đương
với 70.000 đồng Việt Nam);
+ Vùng thành thị: dưới 25 kg gạo (tương đương với 90.000đ Việt
Nam).
- Từ năm 2001, thực hiện Quyết định số 1143/2000/QĐ-LĐTBXH
ngày 01/11/2000 của Bộ LĐ-TB&XH, hộ đói nghèo nước ta giai đoạn 20012005 được điều chỉnh theo mức chuẩn mới với mức thu nhập bình quân 1 đầu
người trong hộ cho từng vùng như sau:
+ Vùng nông thôn miền núi, hải đảo:


80.000 đồng/tháng;

+ Vùng nông thôn đồng bằng:

100.000 đồng/tháng;

+ Vùng thành thị:

150.000 đồng/tháng.

20


- Thực hiện Quyết định số 170/2005/QĐ-TTg, ngày 08/07/2005 của
Thủ tướng Chính phủ Về việc ban hành chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn
2006-2010 như sau:
+ Khu vực nông thôn: những hộ có mức thu nhập bình quân từ 200.000
đồng/người/tháng (2.400.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo;
+ Khu vực thành thị: những hộ có mức thu nhập bình quân từ 260.000
đồng/người/tháng (3.120.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo.
Chuẩn nghèo ở giai đoạn sau cao hơn giai đoạn trước là căn cứ vào
mức sống dân cư. Ví dụ, so với chuẩn nghèo giai đoạn 1996-2000, chuẩn
nghèo giai đoạn 2001-2005 tăng khoảng 1,5 lần. Sở dĩ có lựa chọn phương án
tăng lên 1,5 lần là vì trong 5 năm (1996-2000) mức sống dân cư Việt Nam
tăng lên khoảng 1,47 lần. Theo chuẩn trên, đầu năm 2001, Việt Nam có
khoảng 2,8 triệu hộ nghèo, chiếm tỷ lệ 17,2%. Theo chuẩn nghèo giai đoạn
2006-2010, hiện nay nước ta có khoảng 3,7 triệu hộ nghèo, chiếm tỷ lệ
19,5%.
Ngoài ra, Bộ LĐ-TB&XH còn căn cứ vào những nghiên cứu và thử

nghiệm trong thực tiễn để xác định chuẩn mực đói nghèo, những căn cứ chủ
yếu đó là: căn cứ vào nhu cầu năng lượng bình quân ngày/người (quy thóc) và
nhu cầu năng lượng tối thiểu 2100 Kcalo/ngày/người, năng lượng này được
tính bằng tiền trên cơ sở quy đổi ra lương thực để tính toán. Cách xác định đói
nghèo của Bộ LĐ-TB&XH dựa trên cơ sở kê khai thu nhập của các hộ gia
đình, rà soát đánh giá của Ban chỉ đạo XĐGN xã và Hội nghị thôn thảo luận
bình xét của các hộ gia đình, từ đó lập danh sách hộ đói nghèo.
Theo nhiều ý kiến của cán bộ làm công tác XĐGN, việc đưa ra chuẩn
đói nghèo của Bộ LĐ-TB&XH là phù hợp với điều kiện của Việt Nam, tiện
lợi cho việc Nhà nước có một bức tranh tổng quát về đói nghèo, đặc biệt là ở
vùng nông thôn và miền núi để có thể đưa ra các giải pháp XĐGN trong cả
nước. Quan niệm này đúng đắn và hợp lý vì nó dựa trên tiền đề là sự tồn tại
của con người để tìm chuẩn mực. Song quan niệm đó chưa thể hiện tính đầy
đủ và lý giải được sâu sắc bản chất của sự phát triển con người, nó dừng lại ở
tiền đề tối thiểu của xã hội mà chưa đi vào chất lượng xã hội, chưa thấy được

21


khía cạnh nhân văn và văn hoá của sự phát triển con người và xã hội: phát
triển là cơ cấu của nhiều tầng bậc, nhiều cấp độ. Ngay trong nhu cầu tồn tại và
tiêu dùng vật chất nếu chỉ dùng lại ở mô tả về lượng mà không bao quát xu
hướng gia tăng chất lượng là không đầy đủ. Bởi vậy, trong khi tập trung mọi
nỗ lực chống đói nghèo về kinh tế, Nhà nước cần chú ý đến những nguy cơ và
tác hại của đói nghèo về văn hoá, nếu không sớm kiểm soát nó một cách chủ
động, xã hội không tránh khỏi những thua thiệt bởi phải trả giá đắt cho sự
thiếu hụt văn hoá. Vì vậy cùng với chuẩn mực đói nghèo về vật chất, cần thiết
phải đề ra chuẩn mực đói nghèo về văn hoá (như trình độ học vấn tối thiểu...)
phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước.
* Quan niệm về hộ dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn: theo quy định

của Uỷ ban dân tộc, hộ dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn được áp dụng đối
với các gia đình dân tộc thiểu số cư trú ở các xã khu vực III thuộc chương
trình phát triển KT-XH, các xã đặc biệt khó khăn, miền núi và vùng sâu, vùng
xa (gọi tắt là chương trình 135), tiêu chí cụ thể như sau:
Tiêu chí 1: Hộ dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn là các hộ gia đình dân
tộc thiểu số ở vùng dân tộc, miền núi và vùng sâu, vùng xa có mức thu nhập
bình quân đầu người từ 80.000đ/người/ tháng trở xuống.
Tiêu chí 2: Hộ dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn là các hộ có tập quán
sản xuất còn mang nặng tính tự nhiên hái lượm, chủ yếu phát rẫy làm nương,
chăn nuôi theo tập quán cũ, lạc hậu, công cụ sản xuất thô sơ, thiếu thốn, thiếu
đất hoặc chưa có đất sản xuất (tính theo mức bình quân diện tích đất canh tác
cho mỗi hộ gia đình của địa phương).
Tiêu chí 3: Hộ dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn là các hộ có tổng giá
trị tài sản bình quân đầu người dưới một triệu đồng (không tính giá trị sử
dụng của đất, giá trị của các lán trại trên nương rẫy); hộ có hoàn cảnh neo
đơn, thiếu lao động hoặc có người ốm đau kéo dài, không có điều kiện tiếp
cận các thông tin để phục vụ cho sản xuất và đời sống.
Ngoài tiêu chí xác định hộ nghèo, hộ dân tộc đặc biệt khó khăn, Việt
Nam còn có tiêu chí xác định xã đặc biết khó khăn và tiêu chí xã nghèo (ngoài
số xã đặc biệt khó khăn). Xã đặc biệt khó khăn là xã đáp ứng 5 tiêu chí sau:

22


- Vị trí địa lý của xã ở xa trung tâm KT-XH, xa đường quốc lộ, phương
tiện giao thông khó khăn.
- Môi trường xã hội chưa phát triển, trình độ dân trí thấp còn nhiều tập
tục lạc hậu.
- Trình độ sản xuất còn lạc hậu, chủ yếu mang tính tự cung tự cấp, công
cụ thô sơ.

- Đời sống của nhân dân còn nhiều khó khăn thiếu thốn, mức sống thấp.
- Hạ tầng cơ sở chưa phát triển, chưa đủ các công trình thiết yếu như:
điện, đường giao thông, trường học, trạm xá, nước sạch, chợ...
Theo tiêu chí nêu trên, Việt Nam có khoảng 2361 xã đặc biệt khó khăn.
* Xã nghèo: được xác định trên cơ sở tỷ lệ đói nghèo trên địa bàn và
tình trạng cơ sở hạ tầng thiết yếu.
- Thời kỳ 1996-2000, Bộ LĐ-TB&XH đưa ra hướng dẫn xác định xã
nghèo như sau:
+ Tỷ lệ hộ đói nghèo của xã chiếm từ 40% trở lên;
+ Thiếu 1 trong số các công trình cơ sở hạ tầng thiết yếu (đường giao
thông, điện thắp sáng, trường học, trạm y tế, nước sạch sinh hoạt, chợ).
- Theo Quyết định số 587/2002/QĐ-LĐTBXH ngày 22/05/2002 của Bộ
LĐ-TB&XH về việc ban hành tiêu chí xã nghèo giai đoạn 2001-2005, thời kỳ
2001-2005, xã nghèo là xã đáp ứng 2 tiêu chí sau:
+ Tỷ lệ hộ đói nghèo của xã chiếm từ 25% trở lên;
+ Chưa đủ 3 trên tổng số 6 công trình hạ tầng cơ sở thiết yếu (điện,
đường giao thông, nước sạch, phong học, trạm xá và chợ) biểu hiện cụ thể:
 Dưới 50% số hộ sử dụng điện sinh hoạt
 Dưới 30% số hộ sử dụng nước sạch
 Chưa có đường ô tô tới trung tâm xã hoặc có nhưng không đi lại
được cả năm
 Chưa có đủ phòng học theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo

23


 Chưa có trạm xá hoặc có nhưng còn tạm bợ
 Chưa có chợ hoặc mới có chợ tạm
Theo tiêu chí xã nghèo nêu trên (mức độ khó khăn thấp hơn xã đặc biệt
khó khăn) thì nước ta có khoảng 921 xã thuộc diện nghèo.

Với cách xác định hộ nghèo, hộ dân tộc đặc biệt khó khăn, xã nghèo, xã
đặc biệt khó khăn chỉ dựa vào các chỉ tiêu định lượng sẽ không phản ánh hết
tính đa dạng của nghèo đói, đặc biệt là các khía cạnh về quyền sở hữu tài sản,
đất đai, tư liệu, công cụ sản xuất, tình trạng nhà ở, chăm sóc sức khỏe, tình
trạng giáo dục, môi trường sống, khả năng tiếp cận các dịch vụ sản xuất, dịch
vụ đô thị, dịch vụ xã hội cơ bản, vị thế xã hội của người nghèo... Ngược lại,
nếu xác định hộ nghèo chỉ dựa vào các chỉ tiêu định tính (dạng mô tả như
quan niệm của người dân về nghèo đói), tuy có ưu điểm là phản ánh rõ hơn
tính đa dạng của nghèo đói nhưng sẽ gặp khó khăn cho việc xác định, đánh
giá, nhất là những trường hợp giáp ranh nghèo và không nghèo, việc so sánh
sẽ thiếu tính đồng nhất, tư liệu thu nhập được độ tin cậy không cao. Nếu vận
dụng cả chỉ tiêu định lượng và định tính để xác định hộ nghèo thì về mặt lý
thuyết có vẻ toàn vẹn hơn, đầy đủ hơn, nhưng thực tế sẽ gặp nhiều khó khăn,
trở ngại cho việc thu nhập thông tin, giám sát, đánh giá. Trong thời gian vừa
qua, đối với nhiều quốc gia trong đó có nước ta đều phải lựa chọn một trong
ba cách tiếp cận xác định hộ nghèo nêu trên và cách tối ưu nhất, thuận lợi
nhất cho việc nhận dạng, theo dõi, đánh giá nghèo đói là sử dụng các chỉ tiêu
định lượng đồng thời có chú ý đến các chỉ tiêu định tính để khắc phục các hạn
chế trong việc đưa ra các nhận dạng mang tính định lượng và đáp ứng các giải
pháp về cơ chế, chính sách nhằm giải quyết các khía cạnh đa dạng của nghèo
đói, đặc biệt là các chính sách, giải pháp trợ giúp về y tế, giáo dục, nhà ở,
nước sạch và các dịch vụ xã hội cơ bản khác...
* Vệt (vùng) nghèo: là nơi có tỷ lệ nghèo cao hơn nhiều và mức sống
dân cư thấp hơn nhiều so với mức sống chung của cả nước xét trong cùng một
thời điểm. Vùng nghèo, vệt nghèo là chỉ một địa bàn tương đối rộng: có thể là
một số xã liền kề nhau (hoặc một vùng dân cư) nằm ở vị trí rất khó khăn,
hiểm trở, giao thông không thuận lợi, các cơ sở hạ tầng còn thiếu thốn, không

24



×