Tải bản đầy đủ (.pdf) (121 trang)

Phát triển kinh tế du lịch ở tỉnh Thanh Hóa Luận văn ThS. Kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.47 MB, 121 trang )


đại học quốc gia hà nội
Trung tâm đào tạo và bồi d-ỡng giảng viên lý luận chính trị






Mai thị quy


phát triển kinh tế du lịch ở tỉnh
thanh hóa

luận văn thạc sỹ kinh tế chính trị


.






Hà nội 2011

MỤC LỤC


Trang



Mở đầu
1
Chương 1
Cơ sở lý luận và thực tiễn phát triển kinh tế du lịch
6
1.1
Khái niệm, vai trò và các nhân tố tác động đến phát triển
kinh tế du lịch
6
1.1.1
Khái niệm du lịch và kinh tế du lịch
6
1.1.1.1
Khái niệm du lịch
6
1.1.1.2
Khái niệm kinh tế du lịch
8
1.1.1.3
Các loại hình du lịch
11
1.1.2
Vai trò của kinh tế du lịch
14
1.1.2.1
Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
14
1.1.2.2
Củng cố và phát triển các mối quan hệ kinh tế

16
1.1.2.3
Góp phần phát triển các ngành kinh tế khác
17
1.1.2.4
Giải quyết việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp
19
1.1.2.5
Quảng bá hình ảnh của đất nước
19
1.1.3
Những nhân tố tác động đến kinh tế du lịch
20
1.1.3.1
Nhóm nhân tố tác động đến cầu du lịch
27
1.1.3.2
Nhóm nhân tố tác động đến cung du lịch
27
1.2
Điều kiện để phát triển kinh tế du lịch
32
1.2.1
Tiềm năng du lịch
32
1.2.2
Cơ sở vật chất kinh tế phục vụ kinh doanh du lịch và cơ
sở hạ tầng của du lịch
34
1.2.3

Điều kiện kinh tế
35
1.2.4
Yếu tố dân cư và lao động
37
1.2.5
Nhân tố quốc phòng - an ninh, chính trị xã hội
38
1.3
Kinh nghiệm của một số địa phương về phát triển kinh tế
du lịch
39
1.3.1
Kinh nghiệm phát triển kinh tế du lịch ở Hải Phòng
39
1.3.2
Kinh nghiệm phát triển kinh tế du lịch ở Quảng Ninh
41
Chương 2
Thực trạng phát triển kinh tế du lịch ở tỉnh Thanh Hoá
44
2.1
Khái quát chung của tỉnh Thanh Hoá
44
2.1.1
Điều kiên tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên
44
2.1.2
Điều kiện kinh tế - xã hội
46

2.2
Tiếm năng phát triển kinh tế du lịch của tỉnh Thanh Hoá
47
2.2.1
Tài nguyên du lịch nhân văn - sinh thái
47
2.2.1.1
Các di tích lịch sử văn hoá
47
2.2.1.2
Lễ hội truyền thống
49
2.2.1.3
Các sản phẩm thủ công truyền thống
49
2.2.1.4
Các tài nguyên nhân văn khác
50
2.2.2
Tài nguyên du lịch tự nhiên
51
2.3
Đánh giá thực trạng kinh tế du lịch của tỉnh Thanh Hoá
từ năm 2000 đến nay
51
2.3.1
Những thành tựu đạt được của ngành du lịch Thanh Hoá
51
2.3.1.1
Kết quả hoạt động kinh doanh

51
2.3.1.2
Hiệu quả kinh tế - xã hội
57
2.3.2
Những nguyên nhân và tồn tại của ngành du lịch Thanh
Hoá
61
2.3.2.1
Hạn chế
61
2.3.2.2
Nguyên nhân của những hạn chế trên
62
Chương 3
Phương hướng và giải pháp đẩy mạnh phát triển kinh tế
du lịch của tỉnh Thanh Hoá
76
3.1
Quan điểm phát triển kinh tế du lịch của tỉnh Thanh Hoá
76
3.1.1.
Du lịch phải thực sự được coi là ngành kinh tế mũi nhọn
76
3.1.2
Đặt kinh tế du lịch Thanh Hoá trong sự phát triển du lịch
vùng và quốc gia
77
3.1.3
Phát triển kinh tế du lịch gắn với tổng thể phát triển kinh

tế - xã hội trong tỉnh, phát huy vai trò kinh tế nhiều thành
phần trong phát triển kinh tế du lịch
78
3.1.4
Phải coi trọng hiệu quả kinh tế - xã hội trong phát triển
kinh tế du lịch
79
3.1.5
Phát triển kinh tế du lịch đi đôi với bảo vệ tài nguyên,
môi trường
80
3.1.6
Phát triển kinh tế du lịch phù hợp với xu thế hội nhập và
đảm bảo an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội
83
3.2
Mục tiêu phát triển kinh tế du lịch Thanh Hoá
84
3.3
Phương hướng phát triển kinh tế du lịch Thanh Hoá
86
3.4
Một số giải pháp thúc đẩy phát triển kinh tế du lịch đến
năm 2020 của tỉnh Thanh Hoá
89
3.4.1
Tổ chức bộ máy và cơ chế chính sách
89
3.4.2
Mở rộng nguồn vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn

trong hoạt động kinh tế du lịch
92
3.4.3
Xây dựng các sản phẩm du lịch đặc thù, chất lượng cao
95
3.4.4
Tăng cường công tác tuyên truyền quảng bá, xúc tiến du
lịch
99
3.4.5
Giải pháp đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
100
3.4.6
Phát triển cơ sở vật chất - kỹ thuật phục vụ du lịch
103
3.4.7
Bảo vệ tài nguyên du lịch và môi trường sinh thái
107

Kết luận
110

Danh mục tài liệu tham khảo
112


























BẢNG KÝ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT

1. FDI: vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp
2. GDP: tổng sản phẩm quốc nội
3. LLSX : lực lượng sản xuất
4. ODA: Hỗ trợ phát triển chính thức
5. QHSX: quan hệ sản xuất
6. UNESCO: Tổ chức văn hoá thế giới
7. UNWTO: Tổ chức Du lịch Thế giới
8. ECOSOC: Hội đồng kinh tế và xã hội của Liên hợp quốc
9. THPT: Trung học phổ thông

10. UBND: uỷ ban nhân dân















DANH MỤC CÁC BẢNG TRONG LUẬN VĂN

Bảng 2.1
Phân bố các di tích xếp hạng tại Thanh Hoá
48
Bảng 2.2
Khách du lịch đến Thanh Hoá (2000-2009)
52
Bảng 2.3
Doanh thu du lịch Thanh Hoá (2000-2009)
54
Bảng 2.4
Lợi nhuận công ty cổ phần du lịch Thanh Hoá
(2000-2009)

56
Bảng 2.5
Lợi nhuận của công ty du lịch Hồ Thành (2000 - 2009)
56
Bảng 2.6
Mức đóng góp vào ngân sách của ngành du lịch Thanh
Hoá trong ngân sách của tỉnh
57
Bảng 2.7
Cơ cấu ngành kinh tế tỉnh Thanh Hoá (2000 - 2009)
58
Bảng 2.8
Số lượng việc làm cho người lao động ngành kinh tế du
lịch Thanh Hoá đã tạo ra (2000 - 2009)
59
Bảng 2.9
Chất lượng các cơ sở lưu trú du lịch Thanh Hoá (2009)
66
Bảng 2.10
Vị trí trong hệ thống cơ sở lưu trú du lịch Thanh Hoá
(2009)
66
Bảng 2.11
Trình độ lao động ngành kinh tế du lịch (2000 - 2009)
68
Bảng 2.12
Đội ngũ nhân viên phục vụ lưu trú ngành du lịch Thanh
Hoá (2009)
69
Bảng 2.13

Lao động trong doanh nghiệp lữ hành
71


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Du lịch đang trở thành một ngành kinh tế quan trọng của nhiều nước trên thế
giới. Kinh doanh du lịch cũng có lịch sử hơn 150 năm qua. Nếu được tổ chức
kinh doanh và phát triển tốt thì đây là một trong những ngành kinh tế năng động
nhất và mang lại hiệu quả kinh tế cao cho mỗi quốc gia.
Việt Nam trong tiến trình hội nhập cùng phát triển đã được cộng đồng quốc
tế đánh giá là điểm đến an toàn, được ưa chuộng nhất Châu Á. Du lịch được
khẳng định là một trong những ngành kinh tế quan trọng, góp phần thúc đẩy sự
phát triển của các ngành kinh tế liên quan, thúc đẩy giao lưu, tăng cường hiểu
biết giữa các quốc gia, giữa các dân tộc. Để tạo điệu kiện phát triển nhanh và
bền vững ngành du lịch. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX xác định : “Phát
triển du lịch thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, nâng cao chất lượng và
hiệu quả hoạt động trên cơ sở khai thác lợi thế và điều kiện tự nhiên, sinh thái,
truyền thống văn hóa, lịch sử đáp ứng nhu cầu du lịch trong nước và phát triển
nhanh du lịch quốc tế, sớm đạt trình độ phát triển du lịch của khu vực”[23,
tr.48 ].
Thanh Hóa là vùng đất có lịch sử phát triển lâu đời, là một trong những cái
nôi của dân tộc Việt Nam. Thanh Hóa nằm ở phía nam vùng trọng điểm kinh tế
Bắc Bộ, có nhiều tiềm năng phát triển với chính sách đầu tư hấp dẫn, vị trí
mang tính chiến lược lâu dài, rất thuận lợi để phát triển ngành du lịch tỉnh như :
du lịch biển, du lịch sinh thái, du lịch lịch sử - nhân văn,… đặc biệt với các ưu
thế nổi trội cho phát triển các loại hình du lịch biển, văn hóa và sinh thái. Vị thế
của Thanh Hóa đã được đặc biệt chú trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã
hội của đất nước nói chung và du lịch nói riêng. Để phát triển du lịch thì việc

khai thác tiềm năng du lịch có hiệu quả là rất cần thiết. Tỉnh ủy, UBND tỉnh đã
có các nghị quyết và chương trình phát triển du lịch Thanh Hóa với mục tiêu

2
chung là: “Phát triển du lịch thành một ngành kinh tế có thế mạnh, là một trong
năm chương trình trọng tâm phát triển kinh tế của Đảng bộ nhiệm kỳ 2006-
2010…”[ 35, tr.26], “Phấn đấu đến năm 2010 đưa Thanh Hóa trở thành địa bàn
du lịch trọng điểm quốc gia, điểm đến du lịch quan trọng và hấp dẫn của trung
tâm Bắc bộ, quốc gia và khu vực”[ 35, tr.27].
Trong những năm qua, du lịch Thanh Hóa có sự phát triển mọi mặt, cả về số
lượng và chất lượng, góp phần vào sự phát triển của các ngành khác cũng như
sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, làm cho bộ mặt của tỉnh có sự thay đổi rõ
rệt. Tuy nhiên, ngành du lịch Thanh Hóa mới ở giai đoạn đầu của sự phát triển,
còn rất nhiều tiềm năng chưa được khai thác, chưa thực sự trở thành ngành kinh
tế mũi nhọn của Tỉnh. Điều đó đặt ra cho du lịch Thanh Hóa phải đánh giá đúng
thực trạng của ngành và phải có những giải pháp đúng hướng để khai thác triệt
để tiềm năng sẵn có và xây dựng chiến lược phù hợp, nhằm góp phần thúc đẩy
ngành du lịch Thanh Hóa phát triển bền vững, hòa nhập với trào lưu phát triển
du lịch của khu vực và trên thế giới, thực hiện đúng vai trò của ngành du lịch
trong xây dựng và phát triển của Tỉnh trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước.
Với những lý do trên, tác giả chọn đề tài “Phát triển kinh tế du lịch của
tỉnh Thanh Hóa ” làm luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Phát triển kinh tế du lịch là một trong những vấn đề quan trọng đối với sự
phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế. Vì vậy vấn đề này thu hút được nhiều
nhà nghiên cứu quan tâm. Điển hình như một số đề tài :
- “Phát triển du lịch bền vững ở Phong Nha – Kể Bàng”, Luận án tiến sỹ
của Trần Tiến Dũng, 2006.


3
- “Phát triển kinh tế du lịch ở vùng du lịch Bắc bộ và tác động của nó đối với
quốc phòng an ninh”, Luận văn kinh tế của Nguyễn Đình Sản, 2007
- “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả kinh tế du lịch và dịch vụ du lịch chất
lượng cao, trình độ cao phục vụ hội nhập quốc tế”, đề tài nghiên cứu khoa học
của Lê Thị Lan Hương, 2003.
- TS Trần Thị Kim Thu: “Nghiên cứu thống kê hiệu quả hoạt động kinh
doanh du lịch”, 2005
- Bùi Thu Hằng: “Phát triển du lịch ở An Giang”, Luận văn thạc sỹ kinh tế,
1999
- GS TS Nguyễn Văn Đính, TS Trần Thị Minh Hòa: Kinh tế du lịch,
NXBLĐ – XH, 2004
- Trần Đức Thanh, Nhập môn khoa học du lịch, NXB ĐH Quốc gia Hà Nội,
2003
Các công trình nói trên và còn nhiều công trình khác đã nghiên cứu và đề
cập đến vấn đề lý luận cơ bản và thực tiễn phát triển kinh tế du lịch trong bình
diện cả nước nói chung và ở một số vùng, miền, tỉnh nói riêng. Đây là những
nguồn tài liệu tham khảo rất có ý nghĩa đối với tác giả trong việc thực hiện đề
tài luận văn của mình. Nhưng đến nay chưa có công trình nào đi sâu vào nghiên
cứu về lý luận và thực tiễn phát triển kinh tế du lịch ở tỉnh Thanh Hóa.
Việc nghiên cứu thực trạng và đề ra các giải pháp nhằm đưa ngành du lịch
Thanh Hóa đi lên góp phần tích cực giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho
dân cư và thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý. Do đó, đề tài được
nghiên cứu với mong muốn góp một phần nhỏ bé giải quyết việc khai thác tiềm
năng du lịch một cách hợp lý và có hiệu quả nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế du
lịch ở tỉnh Thanh Hóa. Vì vậy đề tài “Phát triển kinh tế du lịch của tỉnh Thanh
Hóa” là một vấn đề cần được nghiên cứu, phân tích và có tính ứng dụng thực
tiễn cao.


4
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
a. Mục đích
- Trên cơ sở tiếp thu lý luận và thực tiễn phát triển kinh tế du lịch hiện nay,
từ đó mô tả và phân tích thực trạng phát triển kinh tế du lịch ở tỉnh Thanh Hóa
trong những năm vừa qua.
- Tổng kết đánh giá những thành tựu đã đạt được và chỉ ra những tồn tại
của vấn đề này. Từ đó đề xuất một số phương hướng và giải pháp để tiếp tục
đẩy mạnh phát triển kinh tế du lịch của tỉnh đạt kết quả cao hơn trong những
năm sắp tới.
b. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, luận văn thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Hệ thống ngắn gọn lý luận về kinh tế du lịch
- Đánh giá tiềm năng du lịch của tỉnh Thanh Hóa
- Phân tích thực trạng phát triển kinh tế du lịch trong giai đoạn từ năm 2000
đến nay.
- Đề ra phương hướng và giải pháp phát triển kinh tế du lịch nhằm góp phần
phát triển kinh tế - xã hội của Thanh Hóa trong những năm sắp tới .
4. Đối tƣợng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu, làm rõ việc phát triển kinh tế du lịch của
tỉnh Thanh Hóa, không đi sâu nghiên cứu tất cả các nội dung phát triển kinh tế
du lịch của cả nước. Luận văn đi sâu phân tích phát triển kinh tế du lịch trong
giai đoạn từ năm 2000 đến nay và đề ra những phương hướng, giải pháp phát
triển kinh tế du lịch của tỉnh đến năm 2020.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận văn tác giả sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên
cứu, trong đó phương pháp chủ đạo là phương pháp biện duy vật biện chứng,
trừu tượng hóa khoa học, logic - lịch sử.

5

Ngoài ra tác giả còn kết hợp cả phương pháp phân tích, tổng kết thực tiễn,
thống kê, so sánh, mô hình hóa, … nhằm thực hiện tốt mục tiêu đề ra.
6. Đóng góp của luận văn
- Khi đề tài hoàn chỉnh sẽ góp thêm cơ sở khoa học, góp phần làm rõ hơn
vấn đề phát triển kinh tế du lịch ở tỉnh Thanh Hoá.
- Từ lý luận này có thể vận dụng để giải quyết những vấn đề do thực tiễn
của tỉnh đặt ra như quy hoạch và ban hành các quyết sách để phát triển kinh tế
du lịch của tỉnh, nhằm đạt hiệu quả cao và bền vững.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy và học tập
những phần, môn có liên quan đến kinh tế địa phương trong các trường cao
đẳng, trung học chuyên nghiệp của tỉnh.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn được kết cấu thành 3 chương:
- Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn phát triển kinh tế du lịch
- Chƣơng 2: Thực trạng phát triển kinh tế du lịch của tỉnh Thanh Hóa
- Chƣơng 3 : Phƣơng hƣớng và giải pháp đẩy mạnh phát triển kinh tế
du lịch của tỉnh Thanh Hóa








6
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN PHÁT TRIỂN KINH TẾ DU LỊCH


1.1. Khái niệm, vai trò và các nhân tố tác động đến phát triển kinh tế
du lịch
1.1.1. Khái niệm du lịch và kinh tế du lịch
1.1.1.1. Khái niệm du lịch
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, du lịch được ghi nhận như
một sở thích, một hoạt động nghỉ ngơi tích cực của con người. Quá trình phát
triển của du lịch góp phần phản ánh tính chất và trình độ phát triển của LLSX,
mối quan hệ giữa LLSX và QHSX ở các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau mà
con người đã trải qua.
Thời kỳ đầu xã hội nguyên thuỷ, con người cũng có sự di chuyển từ nơi
này tới nơi khác nhưng hoạt động di chuyển đó do những nguyên nhân như:
phòng tránh thiên tai, những xung đột xảy ra trong xã hội hoặc tìm một nơi
khác phù hợp hơn để sinh sống… Trên phạm vi toàn thế giới, hoạt động đi ra
ngoài với mục đích là du lịch bắt đầu từ giai đoạn cuối xã hội nguyên thuỷ và
được phát triển nhanh chóng ở thời kỳ xã hội nô lệ … Khi ngành thủ công
nghiệp tách hẳn ra khỏi ngành trồng trọt và chăn nuôi, ngành thương nghiệp
xuất hiện, quan hệ hàng hoá - tiền tệ hình thành và phát triển thì du lịch lại càng
phát triển hơn.
Du lịch được phát triển thêm một bước mới kể từ khi LLSX có những
yếu tố biến đổi về chất. Biểu hiện, vào cuối thế kỷ XVII, bắt đầu diễn ra cuộc
cách mạng giao thông trên thế giới. Đầu máy hơi nước được sử dụng rộng rãi
trong các ngành đường sắt, đường bộ, đường thuỷ trong đó ngành công nghiệp
sản xuất ô tô được chú trọng hơn bao giờ hết. Chỉ trong một thời gian ngắn, trên

7
khắp Châu Âu, Châu Mĩ mạng lưới đường sắt được hình thành. Trên biển,
nhiều tàu thuỷ lớn, nhỏ đủ chủng loại, hiện đại, đẹp về kiểu dáng đi lại khắp các
vịnh trên thế giới. Giao thông trở thành yếu tố quan trọng thúc đẩy giao lưu
mạnh mẽ của con người ở các vùng đất khác nhau làm cho du lịch trở thành
hiện tượng đại chúng và cũng từ đó xuất hiện hàng loạt các loại hình du lịch của

mọi tầng lớp khác nhau trong xã hội.
Mặc dù hoạt động du lịch đã xuất hiện rất sớm trong lịch sử và có tốc độ
phát triển ngày càng nhanh, song cho đến nay vẫn còn những nhận thức rất khác
nhau về du lịch và kinh tế du lịch.
Năm 1811 lần đầu tiên tại Anh có khái niệm du lịch: “Du lịch là sự phối
hợp nhịp nhàng giữa lý thuyết và thực hành của các cuộc hành trình với mục
đích là giải trí”[9, tr.15 ]. Ông Kuns, một người Thụy Sỹ cho rằng: “Du lịch là
hiện tượng những người ở chỗ khác ngoài nơi ở thường xuyên, đi đến nơi khác
bằng phương tiện giao thông và sử dụng các xí nghiệp du lịch”[9, tr.16 ].
Các nhà nghiên cứu của Trường tổng hợp kinh tế thành phố Varna,
Bulgarie nêu quan niệm: “Du lịch là một hiện tượng kinh tế - xã hội được lặp đi
lặp lại đều đặn - chính là sản xuất và trao đổi dịch vụ, hàng hoá của các đơn vị
kinh tế riêng biệt, độc lập - đó là các tổ chức, các xí nghiệp với cơ sở vật chất -
kỹ thuật chuyên môn nhằm đảm bảo sự đi lại, lưu trú, ăn uống, nghỉ ngơi với
mục đích thoả mãn các nhu cầu cá thể về vật chất và tinh thần của những người
lưu trú ngoài nơi ở thường xuyên của họ để nghỉ ngơi, chữa bệnh, giải trí (thuộc
các nhu cầu về văn hoá, chính trị, kinh tế …) mà không có mục đích lao động
kiếm lời”[29, tr.9 ].
Tháng 6 năm 1991, Hội nghị quốc tế và thống kê du lịch ở Otawa,
Canada đã đưa ra định nghĩa: “Du lịch là hoạt động của con người đi tới một
nơi ngoài môi trường thường xuyên, trong một khoảng thời gian ít hơn khoảng
thời gian đã được các tổ chức du lịch quy định trước, mục đích của chuyến đi

8
không phải là để tiến hành các hoạt động kiếm tiền trong phạm vi vùng tới
thăm”[9, tr.19 ].
Trên cơ sở tổng hợp những lý luận và thực tiễn của hoạt động du lịch trên
thế giới và ở Việt Nam trong những năm gần đây, Khoa du lịch và khách sạn
trường Đại học kinh tế quốc dân, Hà Nội đưa ra khái niệm: “Du lịch là ngành
kinh doanh bao gồm các hoạt động tổ chức hướng dẫn du lịch, sản xuất, trao đổi

hàng hoá và dịch vụ của những doanh nghiệp, nhằm đáp ứng các nhu cầu về đi
lại, lưu trú, ăn uống, thăm quan, giải trí, tìm hiểu và các nhu cầu khác của khác
du lịch. Các hoạt động đó phải đem lại lợi ích kinh tế, chính trị - xã hội cần thiết
cho nước làm du lịch và cho bản thân doanh nghiệp”[9, tr.19 - 20 ].
Trong Luật du lịch Việt Nam, tại điểm 1, điều 4, chương I “Du lịch”
được nêu như sau: “Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con
người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu thăm
quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định”[3,
tr.9 ].
Như vậy, du lịch là một hoạt động có nhiều đặc thù, bao gồm nhiều thành
phần tham gia, tạo thành một tổng thể hết sức phức tạp. Hoạt động du lịch
không chỉ có đặc điểm của một ngành kinh tế mà còn có đặc điểm văn hoá - xã
hội. Thực tiễn ở nhiều nước trên thế giới đã chứng minh rằng hoạt động du lịch
không chỉ đem lại lợi ích kinh tế mà còn cả lợi ích chính trị, văn hoá, xã hội.
1.1.1.2 Khái niệm kinh tế du lịch
Cùng với sự phát triển của hoạt động du lịch là hoạt động kinh doanh du
lịch. Kinh tế du lịch từng bước trở thành một bộ phận hợp thành của hoạt động
kinh tế xã hội, lấy sự phát triển các loại hình kinh doanh du lịch, biến các tài
nguyên du lịch của một quốc gia, một vùng lãnh thổ thành những hàng hoá và
dịch vụ du lịch đáp ứng nhu cầu cho du khách. Trên thế giới du lịch dần dần
được xã hội hoá, số lượng người đi du lịch ngày một đông, xuất hiện những nhu

9
cầu cần phải được giải quyết như: đảm bảo chỗ ăn, chỗ ngủ cho những người
tạm thời sống ngoài nơi cư trú thường xuyên của họ. Để đáp ứng nhu cầu đó, đã
xuất hiện những nghề mới trong dân chúng ở các vùng có tài nguyên du lịch
như: kinh doanh du lịch, nhà hàng, môi giới, hướng dẫn du lịch … Hàng loạt
các cơ sở chuyên phục vụ du lịch như: khách sạn, quán ăn, cửa hàng, tiệm giải
khát, dịch vụ cho thuê, giặt là, mát xa …cùng các tổ chức du lịch và đội ngũ
phục vụ du khách lần lượt ra đời. Từng bước hình thành một ngành nghề mới là

ngành kinh doanh du lịch và theo đó xuất hiện một thị trường mới là thị trường
du lịch. Giải thích quá trình vận động phát triển của kinh tế du lịch, có nhiều
cách tiếp cận khác nhau.
Trong luận văn về “hoạt động tập thể cho du lịch” (Bordeaux 1933)
Menginet viết: “Du lịch đóng vai trò thúc đẩy. Đó là công nghiệp mẹ, một công
nghiệp then chốt. Sự phát triển du lịch không phải là một nhân tố riêng lẻ về sự
thịnh vượng của một đất nước, nó tác động đến tất cả các ngành, hoạt động
quốc gia mà nó góp phần làm gia tăng hiệu xuất”[21, tr.5 ]. Quan điểm này
nghiên cứu về quá trình phát triển kinh tế du lịch đã bắt đầu tiếp cận du lịch
dưới góc độ là một ngành kinh doanh, kinh doanh các danh lam thắng cảnh của
đất nước mình, mà người nước ngoài đến thăm. Việc kinh doanh này trước hết
cốt là để cho chuyến viếng thăm được tốt hơn, đáp ứng ngay nhu cầu thực tại
của khách đến thăm.
Ở Việt Nam, trong cuốn Kinh tế du lịch, Tiến sỹ Nguyễn Hồng Giáp cho
rằng: “Toàn bộ kinh tế du lịch là một hệ thống gồm những phần nhỏ hay là tiểu
hệ thống, nguyên nó có thể chia nhỏ ra thêm nữa và những biến số độc lập với
nhau cho phép biến đầu vào (nguyên liệu, nguồn nhân lực, tư bản, khoa học kỹ
thuật) thành đầu ra (sản phẩm và dịch vụ)”[11, tr.44 ]. Đây là cách tiếp cận kinh
tế du lịch dưới góc độ lý thuyết kinh tế học hiện đại theo hướng quan tâm đến
toàn bộ nền kinh tế quốc gia ở tầm vĩ mô như sản lượng quốc gia, thu nhập

10
quốc dân, tiêu dùng các hộ gia đình, chi tiêu quốc gia, tiết kiệm, đầu tư, thất
nghiệp, việc làm, tổng cung, tổng cầu của nền kinh tế …
Trong từ điển bách khoa Việt Nam cho rằng: “Kinh tế du lịch là một loại
hình kinh tế có tính đặc thù mang tính du lịch và thường được xem như ngành
công nghiệp không khói, gồm có du lịch quốc tế và du lịch trong nước, có chức
năng, nhiệm vụ tổ chức việc khai thác các tài nguyên và cảnh quan của đất nước
(tài nguyên thiên nhiên, phong cảnh, kinh tế, văn hoá, lịch sử …) nhằm thu hút
khách du lịch trong và ngoài nước, tổ chức buôn bán, xuất nhập khẩu tại chỗ

hàng hoá và dịch vụ cho khách du lịch”[25, tr.586 ]. Định nghĩa này coi kinh tế
du lịch là loại hình kinh tế có tính đặc thù, tổng hợp, đa dạng, bao hàm cả vật
thể lẫn phi vật thể. Mọi hoạt động kinh doanh du lịch đều gắn bó với môi
trường xã hội, văn hoá, lịch sử, kinh tế, chính trị, tự nhiên …Các loại dịch vụ,
hàng hoá cung cấp cho du khách được tạo nên bởi sự kết hợp của việc khai thác
các tài nguyên du lịch thiên nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn với việc sử
dụng các nguồn lực: vốn, khoa học - công nghệ và nguồn lực lao động tại một
cơ sở, một vùng hay một quốc gia nào đó.
Như vậy, kinh tế du lịch là tổng hoà các mối quan hệ giữa các hiện tượng
kinh tế với kinh tế, kinh tế với xã hội của hoạt động du lịch, hình thành trên cơ
sở phát triển sản xuất, trao đổi hàng hoá và nhu cầu về đời sống vật chất, tinh
thần của con người trong xã hội ngày càng không ngừng được nâng cao. Về mặt
lịch sử, hoạt động kinh tế du lịch đã từng bước hàng hoá hoá cùng với sự phát
triển sản xuất và phát triển hàng hoá. Trong quá trình hàng hoá hoá hoạt động
đó, mức độ xã hội hoá của du lịch, hoạt động kinh doanh cũng không ngừng
được nâng cao.
Ngày nay, hoạt động kinh tế du lịch mang tính đại chúng, tính toàn cầu
và tính liên tục, mối liên hệ kinh tế, xã hội trong quá trình đó không ngừng tăng
cường, phạm vi quan hệ kinh tế không ngừng mở rộng, mối quan hệ của nó với

11
toàn bộ nền kinh tế xã hội ngày càng phát huy tác dụng và không ngừng được
nâng cao. Nhận thức được hiệu quả và lợi nhuận do kinh tế du lịch mang lại mà
hiện nay trên thế giới các nước tư bản có nền kinh tế phát triển cao, có tiềm lực
tài chính mạnh như: Đức, Pháp, Anh, Mỹ… , đã không ngừng đầu tư để cạnh
tranh phát triển lĩnh vực du lịch. Điều đó vừa góp phần thúc đẩy mạnh mẽ
LLSX phát triển, xong cũng tạo ra sự phân cách giầu nghèo trong xã hội ngày
càng tăng và cũng chính quá trình đó làm cho tài nguyên cạn kiệt, môi trường
huỷ hoại, cạnh tranh diễn ra gay gắt.
Tóm lại, kinh tế du lịch là ngành kinh tế dịch vụ, ngành kinh doanh hoạt

động lĩnh vực cung ứng sản phẩm du lịch, thoả mãn nhu cầu vật chất và tinh
thần của du khách, nhằm đem lại lợi ích kinh tế, chính trị, xã hội thiết thực cho
nước làm du lịch và bản thân doanh nghiệp du lịch. Kinh tế du lịch là ngành
công nghiệp không khói, ngành sản xuất phi vật chất nhưng mang lại những giá
trị vật chất và tinh thần rất cao.
1.1.1.3 Các loại hình du lịch
Để có thể đưa ra các đinh hướng và chính sách phát triển đúng đắn về du
lịch, các nhà quản lý vĩ mô về du lịch cũng như các nhà quản trị doanh nghiệp
du lịch cần phân du lịch thành các loại hình du lịch khác nhau.
Dựa vào các tiêu thức phân loại khác nhau có thể phân du lịch thành các
loại hình khác nhau:
- Căn cứ vào phạm vi lãnh thổ của chuyến đi du lịch. Theo tiêu thức này, du
lịch được phân thành du lịch quốc tế và du lịch nội địa.
+ Du lịch quốc tế: là hình thức du lịch mà ở đó điểm xuất phát và điểm đến
của khách nằm ở lãnh thổ của các quốc gia khác nhau. Ở hình thức du lịch này
khách phải đi qua biên giới và tiêu ngoại tệ ở nơi đến du lịch.
+ Du lịch nội địa: là hình thức đi du lịch mà điểm xuất phát và điểm đến của
khách cùng nằm trong lãnh thổ của một quốc gia.

12
- Căn cứ vào nhu cầu làm nảy sinh hoạt động du lịch. Theo tiêu thức này, du
lịch được phân thành các loại sau:
+ Du lịch chữa bệnh: ở loại này khách đi du lịch do nhu cầu điều trị các
bệnh tật về thể xác và tinh thần của họ.
+ Du lịch nghỉ ngơi, giải trí: nhu cầu chính làm nảy sinh hình thức du lịch
này là sự cần thiết phải nghỉ ngơi để phục hồi thể lực và tinh thần cho con
người. Đây là loại hình du lịch có tác dụng giải trí, làm cuộc sống thêm đa dạng
và giải thoát con người ra khỏi công việc hàng ngày.
+ Du lịch thể thao: gồm du lịch thể thao chủ động và du lịch thể thao thụ
động.

+ Du lịch văn hoá: mục đích chính là nhằm nâng cao hiểu biết cho cá nhân
về mọi lĩnh vực như: lịch sử, kiến trúc, kinh tế, hội hoạ, chế độ xã hội, cuộc
sống của người dân cùng các phong tục tập quán của đất nước du lịch.
+ Du lịch công vụ: mục đích chính của loại hình du lịch này là nhằm thực
hiện nhiệm vụ công tác hoặc nghề nghiệp nào đó. Với múc đích này, khách đi
tham dự các cuộc hội nghị, hội thảo, kỉ niệm các ngày lễ lớn, các cuộc gặp gỡ,
cuộc triển lãm hàng hoá, hội chợ …
+ Du lịch thương gia: mục đích chính của loại hình du lịch này là đi tìm hiểu
thị trường, nghiên cứu dự án đầu tư, kí kết hợp đồng …
+ Du lịch tôn giáo: loại hình du lịch này nhằm thoả mãn nhu cầu tín ngưỡng
đặc biệt của những người theo những đạo giáo khác nhau.
+ Du lịch thăm hỏi, du lịch quê hương: loại hình du lịch này phần lớn nẩy
sinh do nhu cầu của những người xa quê hương đi thăm hỏi ba con họ hàng, bạn
bè thân quen, đi dự lễ cưới, lễ tang …
+ Du lịch quá cảnh: nảy sinh do nhu cầu đi qua lãnh thổ của một nước nào
đó trong thời gian ngắn để đến nước khác.

13
- Căn cứ vào đối tượng khách du lịch. Theo tiêu thức này du lịch được phân
thành:
+ Du lịch thanh, thiếu niên
+ Du lịch dành cho những người cao tuổi
+ Du lịch phụ nữ, du lịch gia đình
- Căn cứ vào hình thức tổ chức chuyến đi. Theo tiêu thức này, du lịch được
phân thành:
+ Du lịch theo đoàn: ở loại hình này, các thành viên tham dự đi theo đoàn
và thường có chuẩn bị chương trình từ trước, trong đó sẽ định ra những nơi sẽ
đến thăm, nơi lưu trú và ăn uống.
+ Du lịch cá nhân: ở loại hình du lịch này khách du lịch có thể thông qua tổ
chức du lịch hoặc đi tự do.

- Căn vứ vào phương tiện giao thông được sử dụng. Theo tiêu chí này, du
lịch được phân thành:
+ Du lịch bằng xe đạp
+ Du lịch bằng xe máy
+ Du lịch bằng ô tô
+ Du lịch bằng tàu hoả
+ Du lịch bằng tàu thuỷ
+ Du lịch bằng máy bay
- Căn cứ vào phương tiện lưu trú được sử dụng. Theo tiêu thức này, du lịch
được phân thành.
+ Du lịch ở khách sạn
+ Du lịch ở khách sạn ven đường
+ Du lịch ở lều trại
+ Du lịch ở làng du lịch
- Căn cứ vào thời gian đi du lịch. Theo tiêu chí này, du lịch được phân thành:

14
+ Du lịch dài ngày
+ Du lịch ngắn ngày
- Căn cứ vào vị trí địa lý của nơi đến du lịch. Theo tiêu chí này du lịch được
phân thành:
+ Du lịch nghỉ núi
+ Du lịch nghỉ biển, sông, hồ
+ Du lịch thành phố
+ Du lịch đồng quê.
Ngày nay, trên thế giới có rất nhiều cách phân loại du lịch dựa trên những
tiêu chí khác nhau, đặc biệt ở các nước phát triển do nhu cầu của khách du lịch
rất đa dạng nên các loại hình du lịch cũng rất phong phú và ở mỗi nước, mỗi
khu vực lại có những đặc trưng riêng với những sản phẩm du lịch đặc trưng.
Chẳng hạn, ở Thái Lan phát triển loại hình du lịch sex thì ở Việt Nam chú trọng

phát triển loại hình du lịch sinh thái….
1.1.2. Vai trò của kinh tế du lịch
1.1.2.1. Thúc đẩy tăng trƣởng kinh tế
- Phát triển du lịch nội địa: Trong phạm vi một quốc gia, sự phát triển của
ngành kinh tế du lịch sẽ tham gia tích cực vào quá trình tạo nên thu nhập quốc
dân. Chẳng hạn, việc sản xuất ra đồ lưu niệm, chế biến thực phẩm, xây dựng
các cơ sở vật chất kỹ thuật … góp phần làm tăng thêm tổng thu nhập quốc nội
(GDP).
Hoạt động kinh tế du lịch sẽ tham gia tích cực vào quá trình phân phối lại
thu nhập quốc dân giữa các vùng. Hay nói cách khác, kinh tế du lịch tác động
vào việc làm cân đối cấu trúc của thu nhập và chỉ tiêu của nhân dân theo các
vùng (thường thì các vùng phát triển mạnh du lịch lại là những vùng kém sản
xuất ra của cải vật chất dẫn đến thu nhập của người dân tại những vùng đó tự
sản xuất là thấp).

15
Du lịch nội địa là ngành kinh tế huy động tốt nhất kết cấu vật chất kinh tế
- xã hội, các nguồn lực khác nhau của các thành phần kinh tế cho phát triển kinh
tế quốc dân nói chung và mỗi vùng, mỗi địa phương nói riêng.
Ngoài ra, việc phát triển tốt du lịch nội địa sẽ góp phần củng cố sức khoẻ
cho nhân dân lao động và do vậy góp phần làm tăng năng suất lao động xã hội.
Đồng thời, du lịch nội địa giúp cho việc sử dụng cơ sở vật chất - kỹ thuật của du
lịch quốc tế được hợp lý hơn. Vào trước và sau thời vụ du lịch, khi khách quốc
tế vắng có thể sử dụng cơ sở vật chất - kỹ thuật ấy vào phục vụ khách du lịch
nội địa. Theo cách đó vừa có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của du lịch nội địa,
vừa tận dụng được cơ sở vật chất - kỹ thuật.
- Phát triển du lịch quốc tế: Trong phạm vi quốc tế, sự phát triển của du
lịch tác động tích cực vào việc làm tăng thu nhập quốc dân thông qua thu ngoại
tệ, đóng góp vai trò to lớn trong việc cân bằng cán cân thanh toán quốc tế.
Thực tế cho thấy, cùng với hàng không dân dụng, cung ứng tàu biển, kiều

hối, bưu điện quốc tế, chuyển giao công nghệ và các dịch vụ thu ngoại tệ khác,
du lịch quốc tế hàng năm đem lại cho các quốc gia nhiều ngoại tệ. Đây là tác
động trực tiếp nhất của du lịch đối với nền kinh tế, nhiều nước trong khu vực và
trên thế giới đã thu hàng tỷ USD mỗi năm thông qua việc phát triển du lịch.
Trong lĩnh vực xuất khẩu, du lịch là hoạt động xuất khẩu có hiệu quả rất
cao. Tính hiệu quả cao trong kinh doanh du lịch thể hiện trước hết ở chỗ, du
lịch là một ngành “xuất khẩu tại chỗ” những hàng hoá công nghiệp, hàng tiêu
dùng, thủ công mỹ nghệ, đồ cổ phục chế, nông lâm sản … theo giá bán lẻ cao
hơn (nếu như bán qua xuất khẩu sẽ theo giá bán buôn). Được trao đổi thông qua
con đường du lịch, các hàng hoá được xuất khẩu mà không phải chịu hàng rào
thuế quan mậu dịch quốc tế.
Du lịch không chỉ là ngành “xuất khẩu tại chỗ” mà còn là ngành “xuất
khẩu vô hình” hàng hoá du lịch. Đó là các cảnh quan thiên nhiên khí hậu và ánh

16
sáng mặt trời vùng nhiệt đới, những giá trị của những di tích lịch sử - văn hoá,
tính độc đáo trong truyền thống, phong tục tập quán …
Với hai hình thức xuất khẩu trên cho thấy hàng hoá và dịch vụ bán thông
qua du lịch đem lại lợi nhuận kinh tế cao hơn, do tiết kiệm được đáng kể các chi
phí đóng gói, bao bì, bảo quản, vận chuyển và thuế xuất khẩu, có khả năng thu
hồi vốn nhanh và lãi xuất cao do nhu cầu du lịch là nhu cầu cao cấp có khả năng
thanh toán.
Kinh tế du lịch phát triển sẽ làm tăng nguồn thu ngân sách cho các địa
phương, nó góp phần tạo nguồn thu ngân sách cho các địa phương từ các khoản
trích nộp ngân sách của các cơ sở du lịch thuộc sự quản lý trực tiếp của dân địa
phương và từ các khoản thuế phải nộp của các doanh nghiệp du lịch kinh doanh
trên địa bàn.
- Đối với lĩnh vực đầu tư cho quá trình phát triển. Du lịch có vai trò
khuyến khích và thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Theo quy luật có tính phổ biến
của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên thế giới hiện nay, giá trị ngành du

lịch ngày càng chiếm tỷ lệ cao trong tổng sản phẩm xã hội. Do vậy, các nhà
kinh doanh khi đi tìm hiệu quả của đồng vốn, thì du lịch là một lĩnh vực kinh
doanh hấp dẫn so với nhiều ngành kinh tế khác. Du lịch đem lại tỷ xuất lợi
nhuận cao, vì vốn đầu tư vào du lịch tương đối ít so với ngành công nghiệp
nặng, giao thông vận tải mà khả năng thu hồi vốn lại nhanh, kỹ thuật không
phức tạp, mức độ rủi ro thấp. Đặc biệt, trong lĩnh vực kinh doanh dịch vụ bổ
sung thì nhu cầu về vốn đầu tư không lớn như lĩnh vực kinh doanh dịch vụ cơ
bản, mà thu hồi vốn nhanh, doanh thu cao, thu hút được nhiều lao động góp
phần giải quyết nhu cầu về việc làm, giảm sức ép cho toàn xã hội.
1.1.2.2. Củng cố và phát triển các mối quan hệ kinh tế
Kinh tế du lịch góp phần củng cố và phát triển các mối quan hệ kinh tế
thông qua các mặt sau:

17
Một là, để đạt được mục tiêu phát triển ngành kinh tế du lịch, các tổ chức
quốc tế mang tính chất chính phủ và phi chính phủ về du lịch đã tác động tích
cực với nhau nhờ đó mà hình thành những mối quan hệ kinh tế.
Hai là, kinh tế du lịch quốc tế phát triển, nhiều du khách có xu hướng
khám phá những miền đất lạ, đi đến nhiều điểm du lịch trong một chuyến hành
trình của mình… Vì vậy, để đáp ứng yêu cầu đi lại thuận tiện cho quá trình du
lịch của du khách mà ngành giao thông quốc tế đã không ngừng quan tâm đầu
tư phát triển.
Ba là, du lịch quốc tế như một đầu mối “xuất - nhập khẩu” ngoại tệ, góp
phần làm phát triển quan hệ ngoại hối quốc tế…
Tại Việt Nam, kinh tế du lịch là cầu nối giao lưu quốc tế có quan hệ chặt
chẽ với chính sách mở cửa của Đảng và Nhà nước. Trong kinh doanh du lịch
quốc tế, khách du lịch quốc tế có thể là thương nhân. Mở rộng du lịch quốc tế
gắn liền với tăng lượng khách phục vụ, trong đó sự đi lại, tìm hiểu thị trường
của khách thương nhân được chú trọng. Từ đó, du lịch thúc đẩy đầu tư, buôn
bán quốc tế … Tuy nhiên, điều kiện hiện nay nước ta còn nghèo nàn, lạc hậu,

thiếu vốn đầu tư … nên cần phải hiện đại hoá nền kinh tế Việt Nam thì điều đó
càng có ý nghĩa to lớn. Bản thân hoạt động kinh doanh du lịch cũng phát triển
theo hướng quốc tế hoá, vì khách du lịch thường đến nhiều nước trong một
chuyến đi du lịch dài ngày. Hình thức liên doanh, liên kết ở phạm vi quốc tế
trong kinh doanh du lịch là phương tiện kinh doanh đem lại lợi nhuận kinh tế
cao, đến lượt nó kích thích đầu tư nước ngoài vào du lịch và tăng cường chính
sách mở cửa. Thực tiễn phát triển kinh tế ở Thái lan, Singapore, Malaysia… đã
chọn du lịch là một hướng mở cửa của nền kinh tế.
1.1.2.3. Góp phần phát triển các ngành kinh tế khác
Phát triển du lịch có thể kéo theo sự phát triển của các ngành kinh tế khác,
thúc đẩy sự phát triển của kinh tế khu vực.

18
Trước hết, hoạt động kinh doanh du lịch đòi hỏi sự hỗ trợ liên ngành, yêu
cầu về sự hỗ trợ liên ngành là cơ sở cho các ngành khác (như giao thông vận tải,
công nghiệp, nông nghiệp, tài chính, bưu điện, hải quan, điện lực …) phát triển,
đối với nền sản xuất xã hội, du lịch mở ra một thị trường tiêu thụ hàng hoá. Mặt
khác, sự phát triển du lịch tạo các điều kiện để khách du lịch tìm hiểu thị trường,
ký kết hợp đồng về sản xuất kinh doanh trong nước, tận dụng các cơ sở vật chất
- kỹ thuật ở các ngành kinh tế khác.
Phát triển du lịch sẽ mở mang, hoàn thiện cơ sở hạ tầng kinh tế như mạng
lưới giao thông công cộng, mạng lưới điện nước, các phương tiện thông tin đại
chúng … Đặc biệt là ở những vùng phát triển du lịch, do xuất hiện nhu cầu đi
lại, vận chuyển thông tin liên lạc … của khách du lịch, cũng như những điều
kiện cần thiết cho cơ sở kinh doanh du lịch hoạt động nên các ngành này phát
triển. Ngoài ra, du khách không chỉ dừng lại ở điểm du lịch mà trước đó và sau
đó du khách có nhu cầu đi lại giữa các điểm du lịch, trên cơ sở đó ngành giao
thông vận tải phát triển.
Đối với những vùng lạc hậu, xa xôi hẻo lánh, kinh tế khó khăn không
thích hợp phát triển công nghiệp thì phát triển du lịch sẽ có ý nghĩa quan trọng

đến việc xoá đói, giảm nghèo, dần đi đến làm giầu. Đồng thời, sự phát triển của
ngành kinh tế du lịch sẽ trực tiếp tăng thu nhập tài chính của nước nơi đón tiếp.
Ngoài ra, du lịch phát triển còn “đánh thức” một số ngành sản xuất thủ công mỹ
nghệ truyền thống của các dân tộc bởi các lý do sau:
Khách du lịch rất thích mua các đồ lưu niệm mang tính dân tộc, đó là các
sản phẩm của các nghề thủ công mỹ nghệ cổ truyền. Nhờ vậy, nghề thủ công
mỹ nghệ cổ truyền như: nghề khảm, sơn mài, tạc tượng, làm tranh lụa, gốm
sứ… có điều kiện phục hồi và phát triển.

×