ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
NGUYỄN THỊ NHƯ PHƯƠNG
PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG
CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ TỈNH PHÚ THỌ HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
HÀ NỘI - 2012
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
NGUYỄN THỊ NHƯ PHƯƠNG
PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG
CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ TỈNH PHÚ THỌ HIỆN NAY
Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mã số
: 60 22 85
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN VĂN DƯƠNG
HÀ NỘI - 2012
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................... 1
Chương 1. QUAN NIỆM VỀ VĂN HÓA VÀ VAI TRÒ CỦA VIỆC PHÁ T HUY
GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ
ĐỐI VỚI SỰ PHÁ T TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI TỈNH PHÚ THỌ ............ 8
1.1. Khái niệm văn hóa và giá trị văn hóa truyền thống dân tộc thiểu số ................................. 8
1.2. Vai trò của việc phát huy giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số đối với
sự phát triển kinh tế xã hội tỉnh Phú Thọ ........................................................ 24
Chương 2. THỰC TRẠNG CỦA VIỆC PHÁ T HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA
TRUYỀ N THỐNG CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ TỈ NH PHÚ THỌ
HIỆN NAY ..................................................................................................... 31
2.1. Đặc điểm kinh tế xã hội và đặc trưng giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số Phú Thọ
... 31
2.1.1. Đặc điểm kinh tế xã hội .................................................................................... 31
2.1.2. Đặc trưng giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số Phú Thọ ................................... 37
2.2. Những thành tựu đạt được và hạn chế trong việc phát huy giá trị văn hóa truyền
thống các dân tộc thiểu số tỉnh Phú Thọ hiện nay và những yêu cầu đặt ra ... 52
2.2.1. Những thành tựu đạt được trong việc phát huy giá trị văn hóa truyền thống
các dân tộc thiểu số tỉnh Phú Thọ hiện nay ................................................ 52
2.2.2. Hạn chế trong việc phát huy giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu
số tỉnh Phú Thọ hiện nay và nguyên nhân .................................................. 58
2.2.3. Những yêu cầu đặt ra nhằm phát huy giá trị văn hóa truyền thống các dân
tộc thiểu số tỉnh Phú Thọ hiện nay ............................................................ 65
Chương 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN PHÁ T HUY GIÁ TRỊ VĂN
HÓA TRUYỀN THỐNG CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ TỈNH PHÚ THỌ
TRONG NHỮNG NĂM TỚI........................................................................ 67
3.1. Những quan điể m chỉ đa ̣o ............................................................................................. 67
3.2. Những giải pháp cơ bản................................................................................................ 70
3.2.1. Tập trung phát triển kinh tế, cải thiện đời sống vật chất của đồng bào các
dân tộc thiểu số trong tỉnh............................................................................... 70
3.2.2. Nâng cao dân trí và trình độ nhận thức của đồng bào các dân tộc trong quá
trình giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống ................................76
3.2.3. Chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong tỉnh đáp ứng yêu cầu
phát huy giá trị văn hóa truyền thống dân tộc thiểu số ................................... 79
3.2.4. Kế thừa, phát huy những di sản văn hoá truyền thống tốt đẹp của dân tộc
thiểu số Phú Thọ đồng thời đẩy mạnh giao lưu, tiếp thu các giá trị văn hoá
của các dân tộc anh em ..................................................................................... 83
3.2.5. Phát huy các giá trị văn hóa truyền thống Phú Thọ đi đôi với xây dựng nếp
sống văn hóa mới, bài trừ các hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan ............................. 85
KẾT LUẬN ........................................................................................................................ 88
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................... 90
BẢNG QUY ƯỚC CHỮ VIẾT TẮT
NN & PTNT:
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
THPT:
Trung học phổ thông
UBND:
Ủy ban nhân dân
VH-TT-TT:
Văn hóa - Thông tin - Truyề n thông
VHTT:
Văn hóa thông tin
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là một trong những
nhiệm vụ quan trọng song hành cùng mục tiêu phát triển kinh tế xã hội.Việt
Nam là một quốc gia với 54 dân tộc anh em đã tạo nên một bản sắc văn hóa
phong phú, đa dạng. Nghị quyết 5 của Ban chấp hành trung ương khóa VIII
khẳng định: “nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng
trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Hơn 50 dân tộc sống trên đất nước
ta đều có giá trị và sắc thái văn hóa riêng. Các giá trị và sắc thái đó bổ sung
cho nhau làm phong phú nền văn hóa Việt Nam và củng cố sự thống nhất
dân tộc là cơ sở giữ vững sự bình đẳng và phát huy tính đa dạng văn hóa
của các dân tộc anh em”.
Hiện nay trên thế giới đang diễn ra xu hướng toàn cầu hóa tạo nên
sự biến đổi mọi mặt trong đời sống của mỗi quốc gia. Bên cạnh những tác
động tích cực, quá trình toàn cầu hóa còn có thể triệt tiêu sự khác biệt về
văn hóa của các dân tộc dẫn đến nguy cơ đồng hóa, xâm lăng về văn hóa
của các dân tộc. Vì vậy, vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
có ý nghĩa sống còn với mọi quốc gia và với mỗi dân tộc trong quốc gia đó.
Trong suốt hơn 70 năm lãnh đạo cách mạng, Đảng cộng sản Việt
Nam luôn coi trọng mặt trận văn hóa mà cốt lõi của nó là vấn đề bản sắc
văn hóa dân tộc. Định hướng dân tộc đã trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt
những văn kiện của Đảng về văn hóa, văn nghệ. Nghị quyết số 22 của Bộ
Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VI nhấn mạnh: “Tôn trọng
và phát huy những phong tục tập quán và truyền thống văn hóa tốt đẹp của
các dân tộc”. Đặc biệt là nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa VIII về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc khẳng định: “Bảo tồn, phát huy và phát triển văn
hóa các dân tộc thiểu số”.
1
Phú Thọ được coi là vùng đất tổ cội nguồn của Việt Nam thuộc khu
vực vùng núi trung du phía Bắc có diện tích là 3465 km2, nơi có hơn 20
dân tộc anh em chung sống: Tày, Việt, Mường, Dao, Thái, Nùng, Cao Lan,
Sán Chay,... với bản sắc văn hóa truyền thống phong phú, đa dạng. Sau
thời gian sát nhập thành tỉnh Vĩnh Phú, từ ngày 1-1-1997, Phú Thọ được tái
lập và công nhận là một tỉnh miền núi. Phú Thọ là vùng đất cổ có nền văn
hóa rực rỡ lâu đời, là cái nôi của nền văn hóa Lạc Việt, trung tâm sinh tụ
của người Việt Cổ thời các vua Hùng dựng nước Văn Lang. Các dân tộc
trong tỉnh cũng có những bản sắc riêng độc đáo của mình : người Mường có
hát ví, hát đúm, ném còn, hội cồng chiêng, người Dao có tết Nhảy, người
Việt có hát xoan, hát ghẹo, chọi trâu,…
Thực hiện Nghị quyết Trung ương khóa VIII về một số nhiệm vụ văn
hóa văn nghệ trước mắt để chấn hưng nền nghệ thuật dân tô ̣c , đặc biệt là
Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về “xây dựng và phát triển nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”, Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân ,
Ủy ban nhân dân, Sở Văn hóa Thông tin đã chủ động xây dựng kế hoạch
phát triển các hoạt động văn hóa với hình thức đa dạng làm phong phú
thêm đời sống tinh thần của nhân dân đồng thời bảo tồn và phát huy di sản
văn hóa các dân tộc: nghiên cứu và khôi phục các lễ hội truyền thống có
giá trị lịch sử và văn hóa như lễ hội cồng chiêng của dân tộc Mường xã Tất
Thắng, Tết Nhảy của đồng bào Cao Lan xã Tây Cốc,… Công tác nghiên
cứu khoa học phục vụ cho các hoạt động bảo tồn và phát huy các giá trị
văn hóa truyền thống của dân tộc được quan tâm đầu tư như: “Điều tra vốn
di sản văn hóa phi vật thể ở Phú Thọ”, “Phục dựng nguyên bản hội Phết
Hiền Quan”, “Làng cổ Tứ Xã”,… làm cho văn hóa ngày càng thấm sâu vào
đời sống tinh thần góp phần giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa các dân
tộc trong tỉnh.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, việc giữ gìn và phát huy giá
trị văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số trong tỉnh còn có những hạn
2
chế cần khắc phục. Có không ít những giá trị văn hóa truyền thống đã và
đang dần bị mai một.
Trước sự ảnh hưởng của cơ chế thị trường, có không ít những giá trị
văn hóa truyền thống đã bị tác động, nhiều phong tục tập quán tốt đẹp, đặc
trưng ngôn ngữ, trang phục với bản sắc độc đáo của các dân tộc đang ít
nhiều bị tác động.
Những tồn tại này đặt ra đòi hỏi các cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn
thể nhân dân trong tỉnh cần nhận thức trên cơ sở nắm vững chủ trương,
đường lối của Đảng, Nhà nước về văn hóa dân tộc nhằm giữ gìn, phát huy
giá trị văn hóa truyền thống, đa dạng của các dân tộc thiểu số tỉnh Phú Thọ.
Việc bồi dưỡng, nâng cao nhận thức để chủ động giữ gìn và phát huy tinh
hoa văn hóa của mỗi tộc người là hết sức cần thiết đặc biệt trong giai đoạn
hiện nay. Nhận thức được tầm quan trọng của việc phát huy giá trị văn hóa
trong quá trình phát triển của đất nước nói chung và Phú Thọ nói riêng, tôi
lựa chọn vấn đề: “Phát huy giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu
số tỉnh Phú Thọ hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sỹ. Đây là đề tài chứa
đựng nhiều vấn đề lí luận và thực tiễn góp phần đi sâu nghiên cứu về các
giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số Phú Thọ giai đoạn
hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong thời gian qua đã có nhiề u công trình, đề tài nghiên cứu về văn
hóa, văn hóa các dân tộc thiểu sổ ở Việt Nam nói chung và văn hóa các dân
tộc Phú Thọ nói riêng. Thực hiện chủ trương chính sách của Đảng, Nhà
nước đối với phát triển miền núi và vùng dân tộc thiểu số, đặc biệt là vấn
đề bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống thì lĩnh vực này
đang ngày càng được quan tâm, trong đó phải kể đến các công trình nghiên
cứu:
Các công trình nghiên cứu về văn hóa dân tộc và văn hóa dân tộc
thiểu số như: “Bản sắc dân tộc của văn hóa”, Viện văn hóa, 1990, Đỗ Huy -
3
Trường Lưu; “Suy nghĩ về về bản sắc văn hóa dân tộc”, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 1994; Nguyễn Từ Chi “Góp phần nghiên cứu văn hóa và tộc
người”, Nxb Văn hóa dân tộc, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, Hà Nội, 2003,
Trần Văn Bính chủ biên; “Văn hóa các dân tộc Tây Bắc - thực trạng và
những vấn đề đặt ra”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004. Phan Hữu
Dật, "Góp phần nghiên cứu dân tộc học Việt Nam", Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2004. Qua các công trình này, các tác giả đã khái quát một cách có
hệ thống những nét truyền thống đặc trưng, vai trò,… của văn hóa trong
đời sống kinh tế xã hội nước ta hiện nay.
Các công trình tiêu biểu nghiên cứu về văn hóa các dân tộc Phú
Thọ: Nguyễn Ngọc Thanh “Gia đình và hôn nhân của người Mường ở tỉnh
Phú Thọ”, Luận án tiến sỹ khoa học lịch sử, Viện dân tộc học, Hà Nội,
1999; “Tổ chức xã hội cổ truyền và những biến đổi của nó ở người Mường
Thanh Sơn - Phú Thọ, Luận án tiến sỹ khoa học lịch sử của Hà Văn Linh,
Viện dân tộc học, Hà Nội, 2005; “Những làng văn hóa, văn nghệ dân gian
đặc sắc ở tỉnh Phú Thọ”, Hội Văn học nghệ thuật Phú Thọ, Nxb Từ điển
bách khoa, 2009; Việt Nam các vùng văn hóa - Phú Thọ - Miền đất cội
nguồn”, Nxb Trẻ, 2010, Dương Huy Thiện. Các công trình này góp phần
nghiên cứu những giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể, khái quát được
những nét đặc trưng của các giá trị văn hóa tinh thần thể hiện qua các hình
thức mang tính dân tộc độc đáo.
Ngoài ra còn có rất nhiều bài viết, công trình nghiên cứu về giá trị
văn hóa truyền thống độc đáo của các dân tộc Phú Thọ được đăng trên các
báo, tạp chí điện tử: “Trò chơi dân gian vùng đất Tổ” của giáo sư Trần
Quốc Vượng, Tạp chí Văn hóa Thể thao Du lịch tỉnh Phú Thọ, số 2 - 2009;
Nguyễn Khắc Xương, Hát xoan Phú Thọ, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch
Phú Thọ, 2008… Các nghiên cứu này góp phần chỉ ra sự cần thiết phải xây
dựng, bảo tồn những giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số
tỉnh Phú Thọ giai đoạn hiện nay.
4
Các công trình nghiên cứu trên đã góp phần thể hiện những quan
điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước trong vấn đề bảo tồn và phát huy
các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể trong sự nghiệp phát triển văn hóa
các dân tộc. Đồng thời các nghiên cứu đã cho thấy phương diện văn hóa
tộc người, đặc điểm chính trong đời sống văn hóa tinh thần của các dân tộc
tỉnh Phú Thọ góp phần đề xuất những giải pháp bảo tồn và phát huy vai trò
của văn hóa các dân tộc nói chung và các dân tộc tỉnh Phú Thọ nói riêng.
Những kết quả đã đạt được là hết sức quý báu gợi ra nhiều hướng
nghiên cứu mới trực tiếp phục vụ cho quá trình giữ gìn và phát huy bản sắc
văn hóa các dân tộc trong một nền văn hóa thống nhất. Tuy nhiên, các công
trình trên chỉ đề cập một cách khái quát hoặc một số khía cạnh của văn hóa
dân tộc và văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số Phú Thọ. Trước
những yêu cầu và nhiệm vụ của thời kì mới, việc phát huy giá trị văn hóa
truyền thống độc đáo của các dân tộc thiểu số tỉnh Phú Thọ là cần thiết
nhưng cho đến nay những công trình nghiên cứu vấn đề này còn rất thiếu.
Vì vậy, nghiên cứu một cách cơ bản và hệ thống về việc phát huy các giá
trị văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số tỉnh Phú Thọ được đặt ra đặc
biệt là giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở nghiên cứu các giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc
thiểu số ở tỉnh Phú Thọ và thực trạng phát huy giá trị văn hóa truyền thống,
khảo sát đánh giá thực trạng của quá trình phát huy giá trị văn hóa truyền
thống đó, luận văn đề xuất hệ giải pháp phát huy các giá trị văn hóa truyền
thống của các dân tộc thiểu số Phú Thọ trong thời gian tới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt được mục đích nghiên cứu đã đặt ra, luận văn tập trung giải
quyết những nhiệm vụ sau:
5
Thứ nhất, làm nổi bật những đặc trưng của các giá trị văn hóa truyền
thống Phú Thọ trong quá trình phát triển.
Thứ hai, đánh giá thực trạng phát huy các giá trị văn hóa truyền
thống các dân tộc thiểu số Phú Thọ trong giai đoạn hiện nay.
Thứ ba, nêu lên phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằ m phát huy
các giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số Phú Thọ giai đoạn
hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu những đặc trưng của
giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số tỉnh Phú Thọ.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn chỉ nghiên cứu về những giá trị văn
hóa truyền thống có ý nghĩa tích cực của các dân tộc thiểu số sinh sống trên
địa bàn tỉnh Phú Thọ trong giai đoa ̣n hiê ̣n nay
.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở sử dụng các phương pháp luận
của chủ nghĩa duy vật biện chứng, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính
sách của Đảng và Nhà nước về vấn đề văn hóa dân tộc, giữ gìn và phát huy
bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số.
Các phương pháp chủ yếu được sử dụng : Phương pháp lôgic và li ̣ ch
sử, Phương pháp quy nạp và diễn dịch, Phương pháp phân tích và tổng
hợp,… cùng với các phương pháp liên ngành khác.
6. Những đóng góp mới của luận văn
* Đóng góp mới về mặt khoa học:
Luận văn góp phần nghiên cứu những nét đặc thù của văn hóa các
dân tộc thiể u số Phú Thọ , khẳng định những giá trị văn hóa truyền thống
trong quá trình vận động, biến đổi của xã hội đồng thời đưa ra những giải
pháp cơ bản nhằm phát huy hiệu giá trị văn hóa truyền thống của các dân
tộc thiểu số tỉnh Phú Thọ hiện nay.
6
* Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn:
Luận văn làm rõ và sâu sắc hơn những giá trị văn hóa truyền thống
của các dân tộc thiểu số tỉnh Phú Thọ, sự tác động của thời kì đổi mới, hội
nhập đối với các giá trị văn hóa truyền thống của các đồng bào thiểu số
trong tỉnh, từ đó đề xuất một số phương hướng và giải pháp phát huy giá trị
văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số tỉnh Phú Thọ hiện nay.
Ở một mức độ nhất định, kết quả nghiên cứu của luận văn có thể
được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy những
nội dung có liên quan đến vấn đề giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa truyền
thống các dân tộc thiểu số, giúp cho việc nhận thức đúng đắn về sự cần
thiết phải kế thừa và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống trong quá
trình giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, pần kết luận, luận văn được kết cấu thành 3
chương, 6 tiết:
Chương 1: Quan niệm về văn hóa và vai trò của việc phát huy các
giá trị văn hóa truyền thống dân tộc thiểu số đối với sự phát triển kinh tế xã
hội tỉnh Phú Thọ.
Chương 2: Thực trạng của việc phát huy giá trị văn hóa truyền thống
các dân tộc thiểu số tỉnh Phú Thọ hiện nay.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp cơ bản phát huy giá trị văn hóa
truyền thống các dân tộc thiểu số tỉnh Phú Thọ trong những năm tới.
7
Chương 1
QUAN NIỆM VỀ VĂN HÓA VÀ VAI TRÒ CỦA VIỆC PHÁ T HUY
GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ
ĐỐI VỚI SỰ PHÁ T TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI TỈNH PHÚ THỌ
1.1. Khái niệm văn hóa và giá trị văn hóa truyền thống dân tộc
thiể u số
Về khái niê ̣m văn hóa
Cho đến nay đã có hàng trăm đinh
̣ nghiã
về văn hóa, điều đó có nghĩa
là để định nghĩa một cách chính xác về văn hóa là điều không đơn giản. Văn
hóa nói chung và văn hóa các dân tộc thiểu số nói riêng đang được rất nhiều
sự quan tâm của xã hội với tư cách là một trong những lĩnh vực quan trọng
nhất của đời sống xã hội.
Thuật ngữ "văn hóa" xuất hiện từ rất sớm trong ngôn ngữ nhân loại
(xuất phát từ gốc chữ latinh "Cultura" - có nghĩa là trồng trọt, canh tác). Cho
đến nay có rất nhiều cách tiếp cận văn hoá theo những quan điểm khác nhau
như cách tiếp cận sinh thái học, chức năng luận với các lý thuyết vị chủng,
tương đối,... Theo quan điểm triết học mác xít , nói văn hóa là nói tới con
người, nói tới sự biểu hiện của phương thức tồn tại người. Văn hóa không
được Mác đề cập như một lĩnh vực nghiên cứu chuyên biệt, độc lập. Nhưng
toàn bộ tư tưởng của Mác về vấn đề này tự nó lại được khái quát lên và thể
hiện ra trong hệ thống các quan điểm duy vật biện chứng của Mác về con
người và xã hội. Trong triết học Mác, bản chất của văn hóa được thể hiện
trong mối quan hệ biện chứng với bản chất của con người và xã hội.
Trước hết , văn hóa là do con người làm nên
, thuô ̣c về con người ,
những gì không do con người làm nên không thuô ̣c về văn hóa
hóa là đặc trưng cơ bản phân biệt con người với động vật đồ
.Từ đó , văn
ng thời cũng là
tiêu chí cơ bản để phân biệt sản phẩm nhân tạo với sản phẩm tự nhiên
8
. Văn
hóa xuất hiện một cách chủ động và có ý thức của con người với tự nhiên , nên
văn hóa cũng là sản phẩ m của sự thić h nghi ấ y
. Do vậy, trình độ phát triển
của văn hóa phụ thuộc vào trình độ nhận thức và sức sáng tạo của con người
trong quá trình hoạt động thực tiễn của họ. Nếu tách văn hóa ra khỏi đời sống
của con người và xã hội loài người thì văn hóa chẳng còn ý nghĩa gì cả.
C.Mác cho rằng: “con người sản xuất” là một “thực thể song trùng” thống
nhất giữa “cái tự nhiên và cái xã hội”. Con người là sản phẩm tự nhiên, là kết
quả của quá trình tiến hoá lâu dài của giới hữu sinh đêù phải tuân theo quy
luâ ̣t vốn có của tự nhiên... Song con người không phải là động vật thuần tuý
như các động vật khác mà xét trên khía cạnh xã hội thì con người là động vật
có tính xã hội, con người là sản phẩm của xã hội, mang bản tính xã hội.
Những yếu tố xã hội là tất cả những quan hệ, những biến đổi xuất hiện do ảnh
hưởng của các điều kiện xã hội khác nhau, những quy định về mặt xã hội ta ̣o
nên con người. Con người chỉ có thể tồn ta ̣i được khi tiến hành lao động sản
xuất của cải vật chất để thoả mãn nhu cầu mình và chính lao động sản xuất là
yếu tố quyết định hình thành con người và ý thức. Lao động là nguồn gốc duy
nhất của văn hoá vật chất và tinh thần. Trong quá trình lao đô ̣ng sản xuât, bản
chất của con người thể hiện ra trong mối quan hệ giữa mỗi người với người
khác, giữa mỗi người với cộng đồng xã hội và thể hiện trong kết cấu xã hội
hiện thực, ở một không gian, thời gian xác định. Trong luận cương về
Phơbách, C.Mác viết: “Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là
tổng hòa những quan hệ xã hội” [38, tr.11].
Con người được sinh ra và sống trong giới tự nhiên. Quá trình cải biến
tự nhiên, con người cũng tạo ra lịch sử cho mình. Con người không những là
sản phẩm của xã hội mà con người còn là chủ thể cải tạo làm cho nó trở thành
giới tự nhiên thứ hai, giới tự nhiên của chính mình, đồng thời qua đó cải biến
chính bản thân mình - Đó chính là văn hóa. C.Mác viết:
9
“Cố nhiên, con vật cũng sản xuất… Nhưng súc vật sản xuất cái mà bản
thân nó hoặc con nó trực tiếp cần đến; nó sản xuất một cách phiến diện, trong
khi con người sản xuất một cách toàn diện; con vật chỉ sản xuất vì bị chi phối
bởi nhu cầu thể xác trực tiếp, còn con người sản xuất ngay cả khi không bị
nhu cầu thể xác ràng buộc, và chỉ khi không bị nhu cầu đó ràng buộc thì con
người mới sản xuất theo ý nghĩa chân chính của từ đó; con vật chỉ tái sản xuất
ra bản thân nó, thế còn con người thì tái sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên”
[39, tr.137].
Trong giới tự nhiên chỉ có duy nhất con người sống và hoạt động với tư
cách là chủ thể của bản thân mình, làm chủ giới tự nhiên, hòa vào giới tự
nhiên nguyên sơ, để tạo nên một “thiên nhiên thứ hai” nhằm thỏa mãn những
nhu cầu, ham muốn chinh phục tự nhiên, xã hội… của bản thân con người Đó là văn hóa. C.Mác cho rằng, xét đến cùng, văn hóa có nguồn gốc từ lao
động. Bởi lẽ, mọi hoạt động sáng tạo của con người nhằm cải biến tự nhiên và
xã hội đều bắt đầu từ lao động. Chính lao động đã sáng tạo ra con người và xã
hội loài người, làm cho con người ngày càng thoát ra khỏi bản năng động vật,
tiến dần đến trình độ trưởng thành về nhân cách, trình độ trưởng thành về văn
hóa của mỗi cá nhân.
Trong quá trình lao động, con người đã in dấu mình vào trong từng
khâu, từng yếu tố, từng mặt, từng bộ phận… của thành quả lao động, làm cho
tự nhiên tự hiện hình trong hoạt động của con người. C.Mác viết: “…Bằng
thực tiễn, bằng con đường cách mạng; họ sẽ làm cho “tồn tại” của mình phù
hợp với bản chất của mình” [40, tr.507]. Sự thić h nghi của con người với tự
nhiên không phải là sự thić h nghi máy móc mà là sự thić h nghi có
sáng tạo ,
phù hợp với các giá tri ̣chân - thiê ̣n - mỹ. Như vậy, theo C.Mác, văn hóa được
hình thành và phát triển trên cơ sở sự hình thành và phát triển con người.
Thước đo của sự tiến bộ và phát triển này chính là mức độ hình thành và phát
triển bản chất người trong quá trình con người chinh phục và biến đổi tự
10
nhiên, trong mối quan hệ giữa con người với cộng đồng, mà bao trùm là quan
hệ giữa đời sống tinh thần và không gian sống vật chất của con người và của
xã hội loài người. Nếu môi trường đầu tiên cho con người sự hình thành và
phát triển, quyết định sự tồn tại của con người là sản xuất vật chất, thì môi
trường thứ hai cho con người bộc lộ, phát huy những năng lực và bản chất
người trong các hoạt động sống, đó chính là sản xuất văn hóa.
Quan niệm của V.I.Lênin về văn hóa khá rộng và bao quát. Từ cách
tiếp cận hình thái kinh tế - xã hội, V.I.Lênin cho rằng: Sự phát triển của văn
hóa gắn liền với sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội, mỗi một hình
thái kinh tế - xã hội có một nền văn hóa tinh thần đặc trưng (như một giá trị
lịch sử), khi hình thái kinh tế - xã hội thay đổi, thì nền văn hóa tương ứng với
nó cũng có sự thay đổi nhất định. Đây không có nghĩa là sự đứt đoạn hay
đoạn tuyệt với các giá trị văn hóa truyền thống, mà trong quá trình chuyển
hóa, nền văn hóa mới luôn kế thừa những di sản, thành tựu của nền văn hóa
trước đó, đồng thời bổ sung những yếu tố mới phù hợp với những đặc điểm
và quan hệ của hình thái kinh tế - xã hội mới. V.I.Lênin khẳng định: Ở đâu có
hoạt động của con người thì ở đó có văn hóa và văn hóa không chỉ dừng lại ở
văn hóa tinh thần mà còn bao hàm cả văn hóa vật chất. Người coi văn hóa là
phương tiện quan trọng nhất trong tất cả các loại hình hoạt động của con
người và là kết quả của quá trình hoạt động đó. Vì vậy, trong quá trình xây
dựng nền văn hóa mới, V.I.Lênin nhấn mạnh nguyên tắc tính đảng, tính nhân
dân, tính dân tộc, tính nhân loại trong văn hóa, cách mạng văn hóa, trước hết
là cách mạng trong trí tuệ, trong ý thức của quần chúng. Người khẳng định:
hoạt động văn hóa và sản phẩm văn hóa phải là “của” nhân dân, chứ không
phải “cho” nhân dân. Người viết: “Chủ nghĩa xã hội được xây dựng không
phải bằng mệnh lệnh từ trên. Tinh thần của nó xa lạ với bộ máy nhà nước
quan liêu; Chủ nghĩa xã hội sinh động, sáng tạo, tức là sáng tạo của chính
quần chúng” [34, tr.464].
11
Sáng kiến của Người đã khơi dậy tiềm năng, tính chủ động sáng tạo của
quần chúng nhân dân, mở ra hướng đi và nhiệm vụ mới cho cách mạng vô sản
- cách mạng văn hóa. Đó là cuộc cách mạng giải phóng triệt để con người và
xã hội loài người khỏi những áp bức bất công cả trong lao động cũng như
trong mọi hoạt động sáng tạo của họ.
Theo V.I.Lênin, muốn xây dựng một nền văn hóa mới, nền văn hóa vô
sản có khả năng phát triển toàn diện năng lực và bản chất người, cần phải kế
thừa có phê phán các giá trị văn hóa của dân tộc và nhân loại, đồng thời phát
triển nó lên một tầm cao mới, mang đậm chất liệu văn hóa và bản chất người.
Người nói rằng: Nền văn hóa vô sản không phải từ trên trời rơi xuống, nó
không phải là do những người tự cho mình là chuyên gia về văn hóa vô sản
bịa đặt ra… văn hóa vô sản phải là sự phát triển hợp quy luật của vốn kiến
thức mà loài người đã tạo ra dưới ách áp bức của xã hội tư bản, địa chủ và của
xã hội quan liêu [34, tr.402].
Người cũng chỉ ra rằng, chỉ có xây dựng thành công chủ nghiã xã hô ̣i ,
chủ nghĩa cộng sả n thì con người mới có điều kiện thể hiện đầy đủ năng lực
sáng tạo, trình độ làm chủ của mình trước tự nhiên, xã hội và ngay cả trước
bản thân mình. Từ đó, con người và xã hội loài người mới có điều kiện xây
dựng và phát triển sự công bằng, bình đẳng, tự do cho bản thân, các tiêu chí:
chân, thiện, mỹ… mới được xác lập và hoàn thiện, hoạt động sáng tạo của con
người mới có đầy đủ điều kiện đạt tới trình độ nhân văn đích thực. Có thể nói
một cách bao quát: Tất cả những gì có quan hệ với con người (con người với
tư cách cá nhân và cộng đồng) với mọi cách thức tồn tại của nó đều là biểu
hiện của văn hóa.
Kế thừa tư tưởng chủ nghiã Mác -Lênin, Hồ Chí Minh - nhà mácxit Việt
Nam đầ u tiên đã đưa ra mô ̣t đinh
̣ nghiã ở cấ p đô ̣ khái quát về văn hóa đã viế t :
"Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và
phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn
12
học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về ăn, mặc, ở và các
phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn
hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu
hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời
sống và đòi hỏi của sự sinh tồn" [41, tr.431].
Quan điểm của người đã khái quát được nội dung rộng nhất của phạm
trù văn hoá, chỉ ra văn hoá không chỉ bao hàm các hoạt động tinh thần của con
người mà còn bao hàm trong đó cả những hoạt động vật chất. Người cũng chỉ
ra nguồn gốc sâu xa của văn hoá đó chính là nhu cầu sinh tồn của con người,
với tư cách là chủ thể hoạt động của đời sống xã hội. Đồng thời chỉ ra nguồn
gốc động lực sâu xa của văn hoá đó là nhu cầu sinh tồn của con người với tư
cách là chủ thể hoạt động của đời sống xã hội - một hoạt động khác hẳn với
hoạt động sinh tồn bầy đàn của các loài động vật. Theo ý nghĩa này, chất văn
hoá được hàm chứa trong mọi lĩnh vực hoạt động kể cả hoạt động tinh thần và
hoạt động vật chất cùng với các giá trị vật chất và tinh thần mà con người tạo ra
trong hoạt động của mình. Nó biểu hiện sự thống nhất của yếu tố tự nhiên, yếu
tố xã hội trong con người, biểu hiện khả năng và sức sáng tạo của con người.
Quan điể m về văn hóa của Người bao chứa trong đó rấ t nhiề u nô ̣i dung
: văn
hóa là sự phát triển tự thân và t ất yếu, mang tính xã hô ̣i cao , do nhu cầ u tồ n ta ̣i
của con người , văn hóa là phương thức hoa ̣t đô ̣ng và không ngừng nâng cao
phương thức theo tiế n triể n xã hô ̣i ; trong cái chung về phương thức hoa ̣t đô ̣ng
có cái riêng về công cụ cho sinh hoa ̣t hằ ng ngày ,… Từ các mă ̣t đó, vai trò sáng
tạo và giá trị nhân văn đã trở thành cốt lõi của văn hóa.
Văn hóa luôn luôn gắn với những cái mang giá trị tinh thần tốt đẹp cho
con người, phục vụ con người. Cần lưu ý ở đây là những giá trị tinh thần tốt
đẹp chứ không phải mọi giá trị tinh thần. Những hành vi, sản phẩm gây ra sự
đau đớn cả về vật chất và tinh thần cho con người đều không thể coi là giá trị
văn hóa. Văn hóa phải gắn với cái nhân văn, nhân đạo.
13
UNESCO trong “Thâ ̣p kỷ thế giới phát triể n văn hóa” đã đưa ra đinh
̣
nghĩa văn hóa là “tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo của con người
đã diễn ra trong quá khứ cũng như trong hiện tại. Qua hàng thế kỷ các hoạt
động sá ng tạo ấy đã cấu thành nên một hệ thống các giá trị, truyền thống thị
hiếu thẩm mỹ và lối sống mà dựa trên đó từng dân tộc khẳng định bản sắc
riêng của mình” [52, tr.5].
UNESCO thừa nhận văn hóa là cội nguồn trực tiếp của phát triển xã
hội, có vị trí trung tâm và đóng vai trò điều tiết xã hội. Nó không những là
yếu tố nội sinh của sự phát triển, mà còn là mục tiêu động lực cho sự phát
triển xã hội. Văn hóa là những gì còn lại sau những chu trình lịch sử khác
nhau, qua đó người ta có thể phân biệt được các dân tộc với nhau. Thông qua
mỗi chu kỳ của sự phát triển, các dân tộc đó tương tác với mình và với những
dân tộc khác cái còn lại được gọi là bản sắc. Theo cách tiếp cận này, văn hóa
là cái bản sắc để phân biệt dân tộc này với dân tộc khác.
Trong quan niệm của Đảng ta, văn hoá là một lĩnh vực thực tiễn của
đời sống xã hội, nó cũng có quy luật vận động phát triển riêng, trong đó tính
dân tộc được coi là thuộc tính cơ bản của văn hoá, phản ánh mối quan hệ giữa
dân tộc và văn hoá trong điều kiện dân tộc đã hình thành. Tính dân tộc là nội
dung quan trọng luôn được Đảng ta đặt lên vị trí hàng đầu. Trong bản đề
cương văn hoá (1943) Đảng ta khẳng định nền văn hoá mới, phải đảm bảo
tính dân tộc, tức là bảo tồn và phát huy những giá trị truyền thống của văn hoá
dân tộc. Quan điểm này tiếp tục được khẳng định trong suốt quá trình tiến
hành cuộc cách mạng tư tưởng văn hoá. Tới Hội nghị Trung ương 5 khoá VIII
quan điểm đó được cụ thể hoá trong nghị quyết “Xây dựng và phát triển nền
văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Gần đây tại Đại hội IX,
nghị quyết Đại hội một lần nữa khẳng định: “Xây dựng nền văn hoá tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển
xã hội [16, tr.114].
14
Dưới góc độ tiếp cận xem lao động sáng tạo là cội nguồn, khởi điểm
của văn hóa hướng về các giá trị nhân bản nhằm hoàn thiện con người,
nhà nghiên cứu Hoàng Vinh đã có quan niệm xác đáng rằng: "Văn hóa là toàn
bộ sáng tạo của con người, tích lũy lại trong quá trình hoạt động thực tiễn xã
hội, được đúc kết thành hệ giá trị và chuẩn mực xã hội, biểu hiện thông qua
vốn di sản văn hóa và hệ ứng xử văn hóa của cộng đồng người. Hệ giá trị xã
hội là một thành tố cốt lõi làm nên bản sắc riêng của một cộng đồng xã hội,
nó có khả năng chi phối đời sống tâm lý và một họat động của những con
người sống trong cộng đồng xã hội ấy" [54, tr.43].
Nghiên cứu về văn hóa các nhà văn hóa Việt Nam cũng đưa nhiều định
nghĩa khác nhau: “Văn hóa là khái niệm dùng để chỉ tổng thể những năng lực
bản chất người trong tất cả các dạng hoạt động của họ, là tổng thể các hệ
thống giá trị - cả giá trị vật chất và giá trị tinh thần do con người sáng tạo ra
trong hoạt động thực tiễn và lịch sử xã hội của mình” [44, tr.13-14].
Như vậy, nói đến văn hóa là nói đến con người. Lịch sử văn hóa là lịch
sử của con người và loài người: Con người tạo ra văn hóa và văn hóa làm cho
con người trở thành Người. Điều đó có nghĩa là tất cả những gì liên quan đến
con người, đến mọi cách thức tồn tại của con người đều mang trong nó cái gọi
là văn hóa.
Trong thực tế, văn hóa vật chất và tinh thần luôn gắn bó mật thiết với
nhau và có thể chuyển hóa cho nhau, không phải ngẫu nhiên mà K.Marx nói
rằng "Tư tưởng sẽ trở thành những lực lượng vật chất khi nó được quần chúng
hiểu rõ”. Đôi khi, chúng ta không thể phân chia văn hóa một cách rạch ròi
thành “văn hóa vật chất” hay “văn hóa tinh thần”. Bởi vì, cái gọi là “văn hóa
vật chất” thực chất chỉ là sự “vật chất hóa” các giá trị tinh thần, bản thân các
giá trị tinh thần cũng hiếm khi tồn tại dưới dạng tinh thần thuần túy, mà nó
thường được “vật thể hóa” trong các dạng tồn tại của vật chất. Ngay cả các
giá trị tinh thần tồn tại dưới dạng phi vật thể nhưng vẫn mang tính vật chất
15
khách quan như văn hóa trong các lĩnh vực đạo đức, giao tiếp, ứng xử, lối
sống, phong tục, tập quán… khi tiếp cận vấn đề văn hóa cần phải xét văn hóa
dưới dạng cấu trúc hoàn chỉnh. Dù là văn hoá vật chất hay văn hoá tinh
thần cũng đều là sản phẩm trực tiếp hay gián tiếp của con người, do con
người sáng tạo ra vì mục đích của cuộc sống.
Kế thừa những quan điểm nêu trên, có thể khái quát về văn hóa như
sau: Văn hóa là tổng thể các hệ thống giá trị (cả giá trị vật chất lẫn giá trị
tinh thần) do con người sáng tạo ra trong quá trình hoạt động thực tiễn lịch
sử xã hội của mình được tích lũy, duy trì, bảo tồn và phát triển trong suốt
chiều dài lịch sử, theo đó từng dân tộc tự khẳng định bản sắc riêng của mình.
Văn hóa là sản phẩm của con người, văn hóa được tạo ra và phát triển
trong quan hệ qua lại giữa con người và xã hội. Song chính văn hóa lại tham
gia vào việc tạo nên con người và duy trì sự bền vững và trật tự xã hội. Văn
hóa là trình độ phát triển của con người và của xã hội được biểu hiện trong
các kiểu và hình thức tổ chức đời sống và hành động của con người cũng như
trong các giá trị vật chất và tinh thần do con người tạo ra. Vì vậy, nói tới văn
hóa là nói tới con người, phát huy năng lực bản chất của con người. Cơ sở của
mọi hoạt động văn hóa là khát vọng vươn tới cái “chân”, “thiện”, “mỹ”. Đó là
ba cột trụ vĩnh hằng của sự phát triển văn hóa nhân loại. Có thể nói, văn hóa
là sự hóa thân vào đời sống nó thấm vào mọi hoạt động của con người và trở
thành thước đo trình độ phát triển của xã hội, quốc gia nhân loại.
Vậy, giá trị văn hoá truyền thống được hiểu như thế nào?
Giá trị là hạt nhân của văn hóa truyền thống. Theo các tác giả Viện
Điển sử Lai-xich, thì:
Giá trị như là những điểm tích tụ (tập trung) của tư tưởng một giai cấp
nhất định hoặc một chế độ xã hội nhất định. Tức là, các giá trị thể hiện một
cách lịch sử, cụ thể các mục tiêu, quy tắc, lý tưởng của lợi ích xã hội, các yêu
cầu của mỗi chế độ xã hội và mỗi giai cấp nhất định. Và do đó, giá trị trong
16
nhiều trường hợp là định hướng phát triển cơ bản của đời sống tinh thần nhân
loại trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định [20, tr.129].
Theo đây, giá trị gắn liền với tư tưởng, cụ thể hơn, gắn với quan niệm về
lợi ích của một cộng đồng nhất định, mà hạt nhân của nó là quan điểm giai cấp.
Giá trị văn hoá được xem là sự kết tinh những thành tựu của con người
trong quá trình hoạt động thực tiễn, cải tạo thế giới và cải tạo chính bản thân.
Đó là những phẩm chất cao quý, có ý nghĩa mà cả xã hội cùng ao ước và chia
sẻ. Ví dụ: lòng yêu nước, lòng nhân ái, đức tính bao dung, tinh thần đoàn kết...
Giá trị không tồn tại riêng lẻ mà hợp thành một hệ thống phản ánh quan
niệm thống nhất của một cộng đồng về ý nghĩa của các sự vật, hiện tượng
trong đời sống. Do vậy, giá trị như hạt nhân tinh thần liên kết cộng đồng, là
tấm biển chỉ dẫn hành vi của con người. Các nhà nghiên cứu Nga cho rằng
với tư cách là yếu tố điều chỉnh, giá trị "thống trị" đời sống văn hoá.
Có nhiều quan niệm về hệ thống các giá trị. Nho giáo Trung Hoa đề
cao trung, hiếu, tiết, nghĩa. Trong khi đó, người Nhật đề cao thiện - ích - mỹ.
Nếu xem xét hoạt động sống của con người từ ba góc độ nhận thức,
hành động và cảm xúc, chúng ta thấy hệ giá trị văn hoá bao gồm ba phạm trù
cơ bản là: Chân - Thiện - Mỹ. Trong đó, Chân là đối tượng của nhận thức và
sáng tạo khoa học, Thiện là đối tượng của nhận thức và hành vi đạo đức, Mỹ
là đối tượng của nhận thức và hoạt động thẩm mỹ - nghệ thuật. Chân, Thiện
và Mỹ thống nhất nhau, phản ánh quan niệm của con người về những mối
quan hệ ứng xử với tự nhiên và xã hội, khả năng sáng tạo theo các quy luật của
cái đẹp của con người. Phạm trù Chân - Thiện - Mỹ đã hàm nghĩa phân biệt với
các hiện tượng phản giá trị đối lập như: giả - ác - xấu. Điều này cũng cho thấy
văn hoá là quá trình vận động của chủ thể người và xã hội theo hướng ngày càng
tiếp cận và khẳng định các giá trị Chân - Thiện - Mỹ, đấu tranh với cái phản giá
trị (cái giả - ác - xấu) trong con người và xã hội.
17
Nói tới giá trị là nói tới mối liên hệ không thể chia cắt được của văn hóa
đối với con người. Trong mối quan hệ này, con người tồn tại với tư cách vừa là
chủ thể của thế giới văn hóa, vừa là khách thể - sản phẩm của thế giới văn
hóa, lại vừa là đại biểu mang giá trị văn hóa do chính mình tạo ra. Cho nên,
xét về mặt chức năng, khái niệm "văn hóa" và "giá trị" là gần như trùng hợp.
Có thể nói rằng, "giá trị", đó là thực chất của văn hóa.
Vậy, văn hóa truyền thống là gì? Theo GS.TSKH Trần Ngọc Thêm:
“Truyền thống văn hóa là những giá trị tương đối ổn định (những kinh
nghiệm tập thể) thể hiện dưới những khuôn mẫu xã hội được tích lũy và tái
tạo trong cộng đồng người qua không gian và được cố định hóa dười dạng
những phong tục tập quán, nghi lễ, luật pháp, dư luận…” [51, tr.26].
Giáo sư Trần Văn Giàu khẳng định: “Giá trị truyền thống được hiểu là
cái tốt, bởi vì những cái tốt mới được gọi là giá trị. Thậm chí không phải bất
cứ cái gì tốt đều được gọi là giá trị; mà phải là cái tốt cơ bản, phổ biến, có
nhiều tác dụng tích cực cho đạo đức, cho sự hướng dẫn nhận định, đánh giá
và dẫn dắt hành động của một dân tộc thì mới mang đầy đủ ý nghĩa của khái
niệm “giá trị truyền thống” [2, tr.26].
Ý kiến khác cho rằng: “nền văn hóa được truyền lại được gọi là truyền
thống văn hóa. Như vậy, nó phản ánh được những thành tựu của con người,
tích tập trong quá trình tìm hiểu, thực hiện và truyền bá ý nghĩa sâu lắng nhất
của cuộc sống. Đó chính là truyền thống theo nghĩa hài hòa của nó như là một
hiện thân trí tuệ” [25, tr.19].
Theo TS.Nguyên Việt thì: “Theo đó có thể coi truyền thống là một bộ
phận tương đối ổn định của ý thức xã hội, được lặp đi lặp lại trong suốt tiến
trình hình thành và phát triển của các nền văn hóa tinh thần và vật chất, là một
giá trị nhất định đối với từng nhóm người, từng giai cấp, cộng đồng và xã hội
nói chung” [25, tr.113].
18
Như vậy có thể khái quát văn hóa truyền thống có những tính chất cơ
bản:
Thứ nhất: Tính giá trị. Cũng như văn hóa nói chung, văn hóa truyền
thống mang tính giá trị. Đối với mỗi dân tộc, văn hóa là căn cước, là chứng
chỉ, nó chỉ rõ anh là ai, thiếu nó anh không tồn tại như một giá trị. Bản sắc
dân tộc bao gồm cả hai mặt: Một mặt, nó là cái cốt lõi bên trong, cái sức mạnh
tiềm tàng, bền vững, nó chi phối tư tưởng, hành vi của dân tộc. Mặt khác, nó
là biểu hiện ra bên ngoài thành những phong tục, tập quán trong sinh hoạt,
thường được gọi là hình thức, màu sắc, hay sắc thái dân tộc.
Về mặt lịch sử, cái “tự nhiên thứ hai”, cái tự nhiên rất người, hay văn hóa
không phải được tạo ra một lần và tồn tại mãi mãi, mà ở các cộng đồng người
khác nhau, không gian và phương thức sống khác nhau thì văn hóa sẽ mang
những diện mạo khác nhau. Hạt nhân của mỗi nền văn hóa là hệ thống các giá
trị. Hệ giá trị (hay bảng giá trị) là một tập hợp các phạm trù giá trị khác nhau,
được cấu trúc theo những thứ bậc khác nhau, và có mối liên hệ có tính lịch sử
cụ thể với nhau để thực hiện một hay một số chức năng nhất định. Nó có tính
phát triển nội tại và có khả năng chuyển hóa sang một hệ thống khác, nhằm
thích ứng với điều kiện và môi trường lịch sử - xã hội. Hạt nhân của mỗi nền
văn hóa là hệ thống giá trị. Có thể coi hệ thống giá trị là chỉ số đánh giá trình
độ và tính chất đã đạt được của một nền văn hóa.
Văn hóa truyền thống trở thành một bộ phận thiết yếu của cuộc sống và
góp phần phát triển cuộc sống. Văn hóa truyền thống mang giá trị bởi vì đó là
những chuẩn mực, là thước đo cho hành vi đạo đức, cho những quan hệ ứng
xử giữa người với người trong một cộng đồng, một quốc gia, một dân tộc nhất
định. Hệ giá trị là những gì nhân dân quan tâm, là niềm tin mà nhân dân cho
là thiêng liêng bất khả xâm phạm. Giá trị là nhân tố nền tảng góp phần quyết
định nhận thức và hành động các nhân cách; đóng vai trò điều chỉnh các
nguyện vọng và hành động của con người và cộng đồng; là chỗ dựa để đánh
19
giá hành động của người khác và để định đoạt lợi ích xã hội của các thành
viên trong cộng đồng. Do đó, giá trị xác định tiêu chuẩn của thang bậc xã hội.
Khi được chuyển thành các chuẩn mực xã hội, nó định hướng cho sự lự a chọn
trong hành động của cá nhân và cộng đồng. Vì vậy, nó là cơ sở tinh thần cho
sự ổn định xã hội và sự vững vàng của chế độ.
Thứ hai: Tính lưu truyền. Văn hóa ra đời suốt chiều dài của dân tộc
phát triển trong sử dân tộc, những giá trị của nó được chuyển giao và tiếp nối
qua nhiều thế hệ đã làm cho giá tị văn hóa truyền thống được giữ gìn và phát
huy lên một tầm cao mới. Đó chính là những giá trị kinh tế, văn hóa, xã hội,
đạo đức, tư tưởng, phong tục tập quán, lối sống,… có tác động tới các thành
viên trong cộng đồng được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Qua hàng ngàn năm lịch sử, những giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam
như chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa nhăn văn, tinh thần đoàn kết tương thân
tương ái được lưu truyền phát triển tạo thành một hệ giá trị mới của dân tộc Việt
Nam. Quá khứ, hiện tại, tương lai của mỗi dân tộc là một quá trình phát triển
liên tục, có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Biết phát huy mặt tích cực của
truyền thống chính là khai thác một nguồn động lực quan trọng vào công cuộc
xây dựng xã hội mới đồng thời giữ gìn được bản sắc văn hóa dân tộc.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “mỗi dân tộc phải chăm lo đặc tính của
mình” trong văn hoá, nghệ thuật và các dân tộc “nên chú ý phát huy cốt cách
dân tộc”, phát huy những bản sắc văn hoá riêng của dân tộc mình. Hơn ai hết,
Người thấu hiểu rằng: không có một nền văn hoá của dân tộc nào trường tồn
lại tách rời khỏi những giá trị của truyền thống, đoạn tuyệt với những giá trị
làm nên bản sắc độc đáo của một dân tộc nhất định (dù đó là dân tộc đa số
hay dân tộc thiểu số) và giá trị vượt không gian, vượt thời gian của mọi nền
văn hoá, đó chính là chân, thiện, mỹ, là những giá trị được lưu truyền hàm
chứa trong di sản văn hoá vật thể, phi vật thể của mỗi dân tộc.
20