Mục lục
Trang
Mở đầu 1
Chơng 1: Đặc điểm c trú, tình hình kinh tế - xã hội,
văn hóa và mối quan hệ của các dân tộc ở
Kiên Giang
6
1.1. Đặc điểm c trú và quá trình hình thành của cộng đồng các
dân tộc thiểu số ở Kiên Giang
6
1.2. Tình hình kinh tế - xã hội, văn hóa của các dân tộc thiểu số ở
tỉnh Kiên Giang
17
1.3. Mối quan hệ giữa các dân tộc thiểu số ở Kiên Giang trong
quá trình đấu tranh dựng nớc và giữ nớc
22
Chơng 2: Thực trạng thực hiện chính sách dân tộc,
những vấn đề đặt ra trong đổi mới thực
hiện chính sách dân tộc và nhu cầu đổi mới
thực hiện chính sách dân tộc ở Kiên Giang
30
2.1. Thực trạng thực hiện chính sách dân tộc ở tỉnh Kiên Giang 30
2.2. Những vấn đề đặt ra trong việc thực hiện chính sách dân tộc và
nhu cầu đổi mới thực hiện chính sách dân tộc ở Kiên Giang
49
Chơng 3: Quan điểm, phơng hớng và giải pháp chủ yếu
nhằm đổi mới việc thực hiện chính sách
dân tộc ở Kiên Giang
57
3.1. Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, t tởng Hồ Chí Minh,
quan điểm của Đảng về vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc
57
3.2. Phơng hớng và giải pháp nhằm đổi mới việc thực hiện chính
sách dân tộc ở tỉnh Kiên Giang
77
Kết luận 84
Danh mục tài liệu tham khảo 88
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nớc ta có 54 dân tộc anh em, các dân tộc đã đoàn kết gắn bó với
nhau trong suốt trờng kỳ lịch sử dựng nớc và giữ nớc. Chính vì vậy, trong
quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam Đảng ta luôn xác định: "Giải quyết
đúng đắn vấn đề dân tộc là một trong những nhiệm vụ có tính chất chiến lợc
của cách mạng Việt Nam".
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, chính sách dân tộc của Đảng và
Nhà nớc ta càng có ý nghĩa quan trọng nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp
của cả cộng đồng các dân tộc ở nớc ta, cũng nh tiềm năng thế mạnh của
từng dân tộc trên nguyên tắc "Bình đẳng, đoàn kết, tơng trợ lẫn nhau" góp
phần xây dựng đất nớc, thực hiện mục tiêu "Dân giàu, nớc mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh".
Trong thời gian qua, Đảng và Nhà nớc đã có nhiều chủ trơng, chỉ
thị, nghị quyết và những chính sách cụ thể nhằm nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số ở các vùng, các miền
trong nớc, củng cố và tăng cờng khối đại đoàn kết dân tộc. Đơng nhiên,
quá trình thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nớc ở từng nơi,
từng lúc còn có nhiều vấn đề đặt ra cần phải đợc tiếp tục nghiên cứu một
cách có hệ thống và đề xuất những giải pháp kịp thời.
Cũng nh đồng bào các dân tộc anh em trên đất nớc Việt Nam, đồng
bào các dân tộc thiểu số ở đồng bằng sông Cửu Long nói chung, ở Kiên
Giang nói riêng có truyền thống đoàn kết, tinh thần yêu nớc, cách mạng
kiên cờng đã góp phần to lớn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ
quốc trớc đây và trong công cuộc xây dựng đất nớc và bảo vệ Tổ quốc hiện
nay. Mặc dù ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số sinh sống hiện nay đã có
đổi mới và tiến bộ hơn trớc, nhng nhìn chung đời sống của đồng bào vẫn
còn nhiều khó khăn và sự chênh lệch về đời sống kinh tế - xã hội, văn hóa,
trình độ dân trí giữa đồng bào các dân tộc thiểu số so với đồng bào Kinh,
giữa đồng bào dân tộc thiểu số này so với đồng bào dân tộc thiểu số khác, ở
cùng một địa bàn dân c hay từng địa phơng nh ở tỉnh Kiên Giang hiện nay
còn khá rõ rệt. Đặc biệt là tình trạng phân hóa giàu nghèo - do tác động của
nền kinh tế thị trờng - đang tiếp tục diễn ra trong vùng đồng bào dân tộc
thiểu số.
Bớc vào thập niên đầu của thế kỷ XXI, xu thế hội nhập nền kinh tế
quốc tế và khu vực tăng lên và các mặt tích cực và tiêu cực của chúng luôn
diễn ra đan xen và tác động nhiều mặt, nhiều chiều. Vấn đề dân tộc và tôn
giáo trên thế giới còn đang diễn biến phức tạp, các thế lực thù địch vẫn tìm
mọi cách thực hiện âm mu "Diễn biến hòa bình" hòng lật đổ chế độ xã hội
chủ nghĩa ở nớc ta. Kiên Giang ở vào một địa bàn rất "nhạy cảm" của đất n-
ớc, trong khu vực, cho nên những diễn biến tình hình nói trên tác động
không ít đến tình hình trong tỉnh.
Do đó, việc thực hiện tốt chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nớc,
nhằm góp phần đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội, ổn định chính
trị để Kiên Giang tránh tụt hậu, hội nhập với tiến trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nớc và xu thế phát triển của khu vực là một yêu cầu cấp
thiết. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài: "Đổi mới việc thực hiện chính sách
dân tộc đối với đồng bào các dân tộc thiểu số tỉnh Kiên Giang hiện nay"
có ý nghĩa quan trọng và thiết thực cả về mặt lý luận và thực tiễn, không
những đáp ứng yêu cầu cấp bách mà còn có ý nghĩa lâu dài.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Vấn đề dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc luôn luôn đợc
Đảng và Nhà nớc quan tâm, thể hiện bằng các chỉ thị, nghị quyết của
Đảng, pháp luật của Nhà nớc. Ngoài ra, gần đây có một số công trình
nghiên cứu, bài viết liên quan đến nội dung của đề tài ở nhiều khía cạnh
khác nhau, chẳng hạn nh: "Bớc đầu tìm hiểu t tởng Hồ Chí Minh về dân
tộc Việt Nam", ủy ban Dân tộc và miền núi, Học viện Chính trị Quốc gia
Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996; Trịnh Quốc Tuấn:
"Giải quyết vấn đề dân tộc ở nớc ta trong chặng đờng đầu của thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội", Tạp chí Nghiên cứu lý luận, số 4/1989; Bùi Xuân
Trờng: "Một số vấn đề dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc của Đảng
và Nhà nớc ta trong giai đoạn hiện nay", Tạp chí Giáo dục lý luận, số
2/1996; C Hòa Vần: "Thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nớc
ta trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa", Tạp chí Quốc phòng
toàn dân, số 1/1998; Đặng Vũ Liêm: "Thực hiện chính sách dân tộc trong
sự nghiệp đổi mới trên các vùng biên giới", Tạp chí Dân tộc và thời đại, số
32/1996; Hoàng Đức Nghi: "Tiếp tục thực hiện tốt chính sách ở các vùng
dân tộc và miền núi, cải thiện đời sống nhân dân", Tạp chí Quốc phòng
toàn dân, số 2/1999; Nguyễn Khắc Mai: "Những vấn đề đặt ra đối với
chính sách dân tộc trong tình hình hiện nay", Tạp chí Quốc phòng toàn
dân, số 2/1998; Lâm Chí Việt: "Các dân tộc thiểu số ở Kiên Giang góp
phần dựng nớc và giữ nớc", các dân tộc thiểu số Việt Nam thế kỷ XXI, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.
Trong những năm qua có nhiều tác giả đề cập đến việc thực hiện chính
sách của Đảng và Nhà nớc ta đối với đồng bào dân tộc thiểu số Việt Nam.
Tuy nhiên, hiện nay cha có luận văn thạc sĩ triết học chuyên ngành
chủ nghĩa xã hội khoa học nghiên cứu trực tiếp và có hệ thống về đề tài:
"Đổi mới việc thực hiện chính sách dân tộc đối với đồng bào các dân tộc
thiểu số Kiên Giang hiện nay".
Kế thừa kết quả của những công trình khoa học, những bài viết trớc
đây, luận văn tiếp tục nghiên cứu để góp phần làm sáng tỏ vấn đề trên.
3. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đồng bào các dân tộc thiểu số ở tỉnh Kiên Giang, chủ yếu là đồng
bào dân tộc Khơ-me chiếm 12,19% và đồng bào dân tộc Hoa chiếm 2,16%
so với tỷ lệ dân số trong toàn tỉnh, còn đồng bào các dân tộc thiểu số khác
chiếm tỷ lệ không đáng kể. Do đó, đối tợng và phạm vi nghiên cứu của luận
văn là tìm hiểu việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nớc
đối với đồng bào dân tộc Khơ-me (có ít nhiều so sánh với đồng bào dân tộc
Hoa) c trú trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.
- Thời gian khảo sát chủ yếu từ khi đất nớc bớc vào công cuộc đổi
mới cho đến nay.
4. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
4.1. Mục đích
Mục đích của luận văn là góp phần xây dựng cơ sở khoa học và thực
tiễn, đề xuất phơng hớng giải pháp nhằm đổi mới việc thực hiện chính sách
dân tộc của Đảng đối với đồng bào dân tộc thiểu số ở tỉnh Kiên Giang hiện
nay.
4.2. Nhiệm vụ
- Phân tích thực trạng tình hình kinh tế - xã hội, văn hóa, giáo dục và
việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng đối với đồng bào dân tộc thiểu
số ở tỉnh Kiên Giang.
- Xác định những nhu cầu bức thiết về đổi mới việc thực hiện chính
sách dân tộc của Đảng đối với đồng bào dân tộc thiểu số ở tỉnh Kiên Giang.
- Xác định phơng hớng và giải pháp chủ yếu đổi mới việc thực
hiện chính sách dân tộc của Đảng đối với đồng bào dân tộc thiểu số ở
tỉnh Kiên Giang.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phơng pháp nghiên cứu
- Luận văn dựa trên cơ sở lý luận và phơng pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, t tởng Hồ Chí Minh, quan điểm đờng lối, chủ trơng, chính
sách, pháp luật của Đảng và Nhà nớc ta về vấn đề dân tộc và chính sách dân
tộc.
- Cơ sở thực tiễn của luận văn là thực trạng đời sống kinh tế - xã hội
và văn hóa vùng đồng bào dân tộc thiểu số và việc triển khai thực hiện
chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nớc ở tỉnh Kiên Giang.
- Để giải quyết các vấn đề đặt ra, trong quá trình nghiên cứu luận
văn vận dụng tổng hợp phơng pháp luận: Chủ nghĩa duy vật biện chứng,
chủ nghĩa duy vật lịch sử, phơng pháp lịch sử và lôgíc, phân tích và tổng
hợp, so sánh, hệ thống, điều tra xã hội học.
6. Đóng góp mới của luận văn
- Luận văn góp phần tạo lập cơ sở lý luận cho việc xác định những
yêu cầu khách quan và nội dung của sự đổi mới việc thực hiện chính sách
dân tộc của Đảng đối với đồng bào dân tộc thiểu số ở tỉnh Kiên Giang. Từ
thực trạng việc thực hiện chính sách dân tộc ở tỉnh Kiên Giang luận văn đề
xuất một số phơng hớng và giải pháp chủ yếu nhằm đổi mới việc thực hiện
chính sách dân tộc của Đảng cho phù hợp với tình hình thực tế ở tỉnh Kiên
Giang.
- Kết quả đạt đợc trong luận văn có thể đợc sử dụng làm tài liệu
tham khảo trong nghiên cứu những vấn đề liên quan đến dân tộc và thực
hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nớc, đồng thời làm tài liệu tham
khảo cho công tác giảng dạy các môn dân tộc học, văn hóa học, chủ nghĩa
xã hội khoa học, triết học
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn đợc trình bày trong 3 chơng, 7 tiết.
Chơng 1
đặc điểm c trú, tình hình kinh tế - xã hội, văn hóa
và mối quan hệ của các dân tộc ở tỉnh Kiên giang
1.1. Đặc điểm c trú và quá trình hình thành của cộng
đồng các dân tộc thiểu số ở kiên giang
Kiên Giang là một tỉnh nằm ở phía Tây Nam đất nớc với bờ biển dài
200 km, đờng biên giới 56,8 km giáp Vơng quốc Campuchia, phía đông và
đông nam giáp tỉnh An Giang và tỉnh Cần Thơ, phía nam giáp tỉnh Cà Mau,
phía tây giáp Vịnh Thái Lan.
Kiên Giang là một tỉnh thuộc khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Diện
tích tự nhiên là 6.245 km
2
trong đó đất nông nghiệp 388.000 ha, đất lâm
nghiệp 220.000 ha; dân số 1.517.000 ngời, mật độ bình quân 243 ngời/km
2
.
Kiên Giang là tỉnh có nhiều dân tộc sinh sống, dân tộc kinh chiếm 84,6%,
dân tộc Khơ-me chiếm 12,98%, dân tộc Hoa chiếm 2,16%, ngoài ra còn các
dân tộc Tày, Nùng
Kiên Giang chia thành bốn vùng kinh tế: Vùng tứ giác Hà Tiên, vùng
sông Hậu, vùng bán đảo Cà Mau, vùng biển Hải Đảo. Có thể nói rằng, cách
đây vài ba thế kỷ, cha ông ta đã dày công khai phá vùng đất hoang vu xa
kia, xây đắp nên vùng đất Nam Bộ trù phú tơi đẹp ngày nay, trong đó tỉnh
Kiên Giang là một tỉnh thuộc vùng đất cực Tây Nam Bộ. Tỉnh Kiên Giang
gồm một nửa đất liền, một nửa còn lại là đảo, phần đất liền là lu vực của
các kênh, rạch, sông Cái Lớn, sông Cái Bé. Vốn là một nửa của dải đất sông
Hậu và biển tạo thành đồng bằng của các sông thuộc các huyện nh: huyện
Giồng Riềng, huyện Gò Quao, huyện Châu Thành là vùng đất phù sa mầu mỡ.
Trớc kia vốn đợc nói tới là vùng đất "làm chơi ăn thật", phía Nam
tỉnh Kiên Giang từ sông Cái Lớn trở xuống bán đảo Cà Mau là những cánh
rừng tràm bát ngát với các "sân chim", "vờn chim, máng chim" nổi tiếng.
Về phần đảo, có trên 100 hòn đảo lớn nhỏ, trong đó lớn nhất là đảo
Phú Quốc ở vùng biển phía Tây Nam tỉnh Kiên Giang. Cách bờ biển Hà
Tiên 45 km, cách thị xã Rạch Giá 115 km; phần đảo và các núi đá xung quanh
thị xã Hà Tiên chủ yếu là núi đá vôi, đá hoa cơng và nhiều loại đá quý.
Nhìn trên bản đồ hành chính, tỉnh Kiên Giang có hình dáng nh chiếc
thớc thợ (chữ L). Về địa lý là một tỉnh có nhiều nét khá độc đáo; bởi lẽ có
rừng, đảo, biển, đồng bằng, núi; các sông, kênh, rạch đều chảy theo hớng
Tây, vì biển Kiên Giang ở phía Tây; khí hậu nóng ẩm, ma nhiều mang tính
chất "nửa Đại Tây Dơng, nửa xích đạo".
Đồng bào dân tộc thiểu số ở Kiên Giang thờng sống xen kẽ với
đồng bào dân tộc Kinh. Trong quá trình lịch sử lâu dài, phần nhiều đồng
bào các dân tộc thiểu số sinh sống vùng sâu, vùng xa trục lộ giao thông,
chủ yếu sống bằng nghề nông, trồng lúa nớc. Do đó, từ xa đến nay đồng
bào các dân tộc thiểu số luôn gặp khó khăn trong cuộc sống, thậm chí
hiện nay nhiều nơi vẫn cha thoát khỏi cảnh đói nghèo do thiếu vốn sản
xuất, đông con, cha biết tính toán làm ăn nên mức sống rất thấp so với
đồng bào dân tộc Kinh.
Đồng bào các dân tộc thiểu số Kiên Giang định c chủ yếu ở vùng
sâu, vùng xa vùng đất phèn mặn, vùng kháng chiến cũ, căn cứ địa cách
mạng, xa trục lộ giao thông, thiếu nớc ngọt cho sản xuất, cũng nh cho đời
sống hàng ngày. Có một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số sống xen kẽ với
các dân tộc Kinh ở thị trấn, thị xã nhng họ ít tham gia buôn bán. Ngoài ra,
còn một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số sống theo trục lộ giao thông nh
ở huyện Hòn Đất, Châu Thành, Hà Tiên, Gò Quao Nhiều tài liệu cho thấy
trên vùng đất đồng bằng sông Cửu Long nói chung và vùng đất Kiên Giang
nói riêng, đến lập nghiệp sinh sống sớm nhất là ngời Khơ-me. Vì vậy, từ lâu
họ đã quen với vùng đất ngập nớc, lụt lội, trên rừng có cọp, dới sông thì cá
sấu, họ vẫn luôn bám đất để sinh sống bằng nghề trồng trọt, chăn nuôi gia
súc. Họ đã sớm cải tạo vùng đất trũng, đầm lầy bao quanh để trồng cây lúa n-
ớc ngay khi cha xuất hiện ngời Kinh và ngời Hoa.
Đồng bào các dân tộc thiểu số ở Kiên Giang đã sớm tìm đợc giống
lúa và kỹ thuật canh tác thích hợp, họ biết lợi dụng thủy triều lên đa nớc vào
ruộng, đắp đập giữ nớc, rồi phá đập khai nớc ra để rửa phèn cho đất ruộng.
Cứ nh vậy họ tạo ra đồng ruộng chứa đầy phù sa. Mặt khác, đối với một số
ruộng ở xa kênh rạch thì họ đắp bờ thành từng ô vuông giữ nớc ma, khi cần
họ tát nớc vào ruộng bằng gầu vai, gầu sòng. Có thể xem đó là một phát
minh độc đáo của đồng bào dân tộc thiểu số trong thời kỳ đầu làm thủy lợi,
cải tạo tự nhiên và kỹ thuật canh tác.
Để phù hợp với vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, đồng bào các dân tộc
thiểu số ở Kiên Giang thờng định c trên giồng đất để khai thác vùng đất
trũng, ngập nớc phèn mặn xung quanh mình. Những điểm tụ c đó dần dần
thu hút một số tộc ngời khác đến cùng sinh sống, tạo thành những phum và
sóc. Phum, sóc là đơn vị c trú của đồng bào dân tộc Khơ-me ở Kiên Giang
nói riêng, đồng bào dân tộc Khơ-me đồng bằng Nam Bộ nói chung và đồng
bào các dân tộc thiểu số khác ở khu vực này. Hiện nay phum và sóc của
đồng bào các dân tộc thiểu số ở Kiên Giang tuy không phải là đơn vị hành
chính chính thức, nhng đó là một thực thể tồn tại qua nhiều thế kỷ nay.
Trong từng phum, sóc đồng bào sống hòa thuận, đùm bọc lẫn nhau, đồng
thời họ sống trung thực, hòa hợp với tất cả các dân tộc anh em ở xung
quanh cùng nhau hớng về hạnh phúc bình dị. Trong từng sóc có ngôi chùa
phật là trung tâm sinh hoạt tôn giáo đồng thời cũng là trung tâm sinh hoạt
văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số.
Tóm lại, tỉnh Kiên Giang là vùng đất nằm ở cực Tây Nam Bộ của
Việt Nam, có những nét đặc thù về vị trí, địa lý, điều kiện tự nhiên có núi,
rừng, bờ biển, một phần đất liền - đồng bằng, một phần là biển đảo. Đã
nhiều thế kỷ qua, đất ở vùng duyên hải Kiên Giang vẫn không ngừng vơn ra
biển. Tỉnh Kiên Giang không chỉ nổi bật ở sự sinh động về cảnh quan thiên
nhiên mà còn nổi bật ở vị trí thuận lợi cho quá trình tiếp xúc, giao lu kinh tế
văn hóa với những miền quê khác. Vị trí mở cửa đó là một trong những
tiềm năng phát triển kinh tế văn hóa, xã hội của tỉnh Kiên Giang, đồng thời
cũng đặt ra những nhiệm vụ nặng nề trong lĩnh vực an ninh vùng biên giới
của tỉnh.
Trong thực tế, lịch sử hình thành và phát triển tỉnh Kiên Giang có
quan hệ mật thiết với lịch sử hình thành phát triển các cộng đồng dân tộc ở
đồng bằng Nam Bộ. Tiến trình lịch sử phát triển Kiên Giang thể hiện nét
đặc thù riêng trên một ý nghĩa tơng đối, nhng đó là nét đặc thù trong sự
thống nhất của cả cộng đồng các dân tộc cùng một lãnh thổ quốc gia Việt Nam.
- Vào thế kỷ XIV, XV ở Campuchia, đế chế Ăng-co, Nhà nớc quân
chủ chuyên chế trung ơng tập quyền, cai trị hà khắc bắt dân chịu su cao
thuế nặng, để thỏa mãn sự xa hoa lãng phí cung đình. Sự phản kháng của
nhân dân và giới quý tộc ly khai bị triều đình dùng quân đội nhà nghề và
hình phạt dã man để đàn áp. Cùng lúc đó giặc ngoại xâm (quân Xiêm) vào
giày xéo, gây bao cảnh tang tóc cho nhân dân. Trong hoàn cảnh đó một số
khá đông đồng bào dân tộc Campuchia chạy loạn về đồng bằng sông Cửu
Long (trong đó có Kiên Giang) tạo thành tộc ngời Khơ-me Nam Bộ, tách
khỏi khối đồng tộc của mình ở Campuchia và trở thành một dân tộc trong
cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Vào thế kỷ XVII, ở nớc ta chiến tranh giữa Chúa Trịnh và Chúa
Nguyễn diễn ra liên miên, nhân dân đói khổ vì su cao, thuế nặng, lại bị bọn
tham quan ô lại áp bức bóc lột dã man, bị bắt đi lính để phục vụ cho chiến
tranh cùng với nhiều lý do khác nữa, một bộ phận khá đông trong số họ
phải rời bỏ quê hơng để tìm đến đồng bằng sông Cửu Long. Đối với những
ngời dân tha phơng cầu thực thì đây là nơi dung thân lý tởng. Họ dựng lều
lập xóm để nơng tựa nhau làm ăn, sinh sống. Đặc biệt là vào khoảng thời
gian 1658-1669, để gấp rút xây dựng lực lợng chống đàng ngoài (chúa
Trịnh), chúa Nguyễn bằng nhiều chính sách - từ khuyến khích đến cỡng bức
- đã tạo ra làn sóng di dân ồ ạt đến vùng này.
Đến cuối thế kỷ thứ XVII, đầu thế kỷ XVIII đã hình thành khu dân c
đồng bào dân tộc Việt và chính thức đợc đặt thành trấn Hà Tiên (năm 1714)
do Mạc Cửu làm tổng binh. Trấn Hà Tiên đã xuất hiện trên bản đồ nớc Đại
Việt từ đó.
Nh vậy ở Kiên Giang, đầu thế kỷ XVIII đã hình thành cộng đồng dân
c và đợc xác nhận trong bản đồ hành chính của nớc ta. Cộng đồng dân c đó
gồm nhiều dân tộc, trong đó nhiều nhất là dân tộc Kinh (đa số), sau đó là
dân tộc Khơ-me và sau nữa là dân tộc Hoa. Các dân tộc thiểu số Khơ-me,
Hoa là một bộ phận của cộng đồng dân c ở Kiên Giang nói riêng, của Nam
Bộ Việt Nam nói chung.
Đồng bào dân tộc Khơ-me c trú trên địa bàn tỉnh Kiên Giang, hình
thành khu c trú phum, sóc mang nặng tính chất làng, xã, nông thôn in đậm
dấu vết của các làng, xã, gia tộc khác hẳn ở Campuchia phum, sóc là đơn vị
hành chính. Do đó, ở Kiên Giang ngời đứng đầu trong phum, sóc do chính
nhân dân trong phum, sóc lựa chọn, không có quan địa phơng, cấp chính
quyền trung gian, điều đó cho thấy rằng vùng đất Kiên Giang không đợc
Nhà nớc Ăng-co quản lý.
Đồng bào dân tộc Khơ-me ở Kiên Giang có quan hệ gắn bó với đồng
bào dân tộc Campuchia, nếp sinh hoạt, phong tục tập quán, nghi lễ tôn giáo
và ngôn ngữ có nhiều điểm giống nhau, những diễn biến tình hình ở
Campuchia và Việt Nam nói chung đều tác động ảnh hởng đến tâm t đồng
bào dân tộc Khơ-me hai nớc (Việt Nam - Campuchia). Đồng bào dân tộc
Khơ-me với bản chất thật thà, dễ tin, có tinh thần đoàn kết dân tộc nhng
cũng nặng t tởng hẹp hòi dân tộc, sợ bị đồng hóa, tin vào phép nhiệm mầu
của Trời và lòng nhân ái bao la của Phật, nhng cũng nặng mê tín, dị đoan,
một bộ phận lớn trình độ giác ngộ về giai cấp còn thấp.
Đối với đồng bào dân tộc Khơ-me vấn đề dân tộc và tôn giáo gắn bó
với nhau chặt chẽ, họ rất mộ đạo, đại bộ phận theo phật giáo tiểu thừa,
thanh niên khi đến tuổi trởng thành đều đi tu, coi đó nh một nghĩa vụ đền
đáp công ơn cha mẹ và có nh vậy mới đợc mọi ngời kính trọng, đợc coi nh
là ngời có học thức. S sãi dân tộc Khơ-me phần đông xuất thân từ thành
phần lao động, họ sống chủ yếu nhờ sự dâng cơm của đồng bào dân tộc
Khơ-me ở các sóc. Vì vậy, họ gắn bó với đồng bào dân tộc Khơ-me, ảnh h-
ởng rất sâu sắc đến đời sống tinh thần của quần chúng Khơ-me. Đồng bào
dân tộc Khơ-me coi s sãi là hiện thân của đức phật nên rất tôn trọng và tin t-
ởng. Ngôi chùa của đồng bào dân tộc Khơ-me, là trung tâm sinh hoạt văn
hóa, do đó đợc đồng bào dân tộc Khơ-me góp công xây dựng và bảo vệ.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, kẻ địch có
nhiều âm mu thủ đoạn thâm độc thực hiện chính sách "chia để trị" gây sự
chia rẽ kỳ thị dân tộc, chúng "dùng đồng bào dân tộc Khơ-me chống đồng
bào dân tộc Kinh" và "dùng đồng bào dân tộc Kinh chống lại đồng bào dân
tộc Khơ-me". Trong các cơ quan hành chính và quân đội của Mỹ - Ngụy có
nhiều ngời dân tộc Khơ-me tham gia, một số trí thức dân tộc Khơ-me đợc
đào tạo ở các trờng của Pháp rồi đa trở lại Việt Nam, bổ sung vào guồng
máy cai trị của chủ nghĩa thực dân Pháp. Tiếp theo, đế quốc Mỹ tuyển chọn
ngời trong các tầng lớp trên của dân tộc Khơ-me, đào tạo trở thành tay sai
đắc lực phục vụ âm mu chống phá cách mạng hai nớc Việt Nam -
Campuchia tiểu biểu nh: Sơn Ngọc Thành, Sơn Thái Nguyên; chúng dựng
lên và nuôi dỡng các tổ chức đảng phái chính trị phản động dùng màu sắc
tôn giáo dân tộc để lừa mị quần chúng nhân dân, tập hợp lực lợng chống
phá cách mạng Việt Nam, tiểu biểu nh: các tổ chức "Khơ-me Sơ rây", "Cơ
quan tổng nha Miên vụ"
Sau khi đất nớc thống nhất, đặc biệt từ 1976- 1985 bọn phản động
luôn lợi dụng vấn đề dân tộc để chống phá sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ
quốc, chúng kích động gây chia rẽ hận thù dân tộc. Lợi dụng mọi sơ hở
thiếu sót của Đảng ta trong việc thực hiện chính sách dân tộc để kích động
t tởng chống đảng, chống chính quyền, chống chế độ xã hội chủ nghĩa. Một
số tên đứng ra tập hợp nhen nhóm tổ chức nh: "Đảng khăn trắng", "Linh
hồn", "Khơ-me" lôi kéo từ 300 - 500 ngời tham gia, gây bạo loạn ở Tào
Hợi - Giục Tợng, huyện Châu Thành - Kiên Giang.
Có những tổ chức bị ta phá, nhng sau đó chúng khôi phục lại nh
"Đảng khăn trắng" làm cho tình hình an ninh trật tự vùng đồng bào Khơ-me
từng lúc diễn biến phức tạp.
Đến tháng 7/1993 Chính phủ Liên hiệp ở Campuchia thành lập, các
đảng phái phản động ở Campuchia tăng cờng hoạt động mạnh, sử dụng địa
bàn Campuchia làm nơi đứng chân, dùng bọn phản động Việt Nam lu vong,
làm lực lợng xung kích, tiêu biểu nh: Trần Hồ (tức Phi Hùng), Nguyễn Văn
Quân (Quang Lộc) bọn này móc nối với tớng Kim Anh (Campuchia) tiến
hành các hoạt động chống phá Việt Nam. Chúng lập ra các tổ chức nhân
danh đồng bào dân tộc Khơ-me Nam Bộ, đòi quyền lợi hoặc nhân danh các
đảng phái tuyên truyền các luận điệu "Lục tỉnh Nam Bộ là đất của
Campuchia" để xuyên tạc vu cáo Việt Nam đàn áp đồng bào dân tộc Khơ-
me; kích động t tởng gây hận thù dân tộc, lôi kéo mua chuộc để tuyển chọn
ngời trong vùng đồng bào dân tộc Khơ-me đa đi huấn luyện, đào tạo, rồi
cho xâm nhập trở lại Việt Nam hoạt động chống phá cách mạng nớc ta,
nhằm gây ra những vụ lộn xộn nội bộ và trên biên giới, buộc ta phải đối
phó, giải quyết.
Tại Campuchia nổi lên 5 hội đợc gọi là: Vùng lãnh thổ Khơ-me hạ
của Campuchia, Khơ-me krôm nh: ("Hội ngời Khơ-me Krôm" do Kiên An
(Sóc Trăng) cầm đầu); "Hội ái hữu Khơ-me" "Campuchia Krôm" do Kim
Phiên ở Trà Vinh cầm đầu, "Hội bảo cứu Khơ-me krôm" do San Mô Ni
(quê Trà Vinh) sáng lập và do Lâm Sung cầm đầu, "Hội bảo vệ nhân
quyền Campuchia Krôm do Hen Sa Đoan (quê Trà Vinh) cầm đầu, "Hội s
sãi Campuchia Krôm" do Thạch Sa Môn (quê Trà Vinh) cầm đầu. Các hoạt
động chiến tranh tâm lý diễn biến khá phức tạp, nổi lên là tuyên truyền,
kích động t tởng hẹp hòi gây mâu thuẫn, nghi kỵ trong nội bộ, chia rẽ
giữa đồng bào dân tộc Kinh và đồng bào dân tộc Khơ-me, giữa cán bộ
ngời Kinh và cán bộ ngời Khơ-me, gây sự hoài nghi về chính sách dân
tộc của Đảng ta. Ví dụ đa ra luận điệu cho rằng: đồng bào Khơ-me Nam
Bộ nói chung (trong đó có Kiên Giang) không đợc tôn trọng, không đợc
đối xử bình đẳng, Đảng Cộng sản cha thật tin ở cán bộ ngời dân tộc Khơ-
me. Một số nơi xuất hiện băng hình video, cát sét có nội dung xấu, ví dụ
nói rằng: "Ai phản đạo là phản dân tộc Campuchia", phao tin là đang chuẩn
bị giải phóng vùng Khơ-me Nam Bộ", đa ra các hình ảnh nhằm ca ngợi ng-
ời lính chế độ cũ, cùng tranh ảnh sách báo đồi trụy lu truyền trong các vùng
đồng bào dân tộc Khơ-me. Đây là một trong những nguyên nhân làm cho
đạo đức xã hội xuống cấp, trực tiếp ảnh hởng đến tâm t tình cảm và lòng tin
của đồng bào Khơ-me đối với Đảng.
Do sự tác động lôi kéo của kẻ thù, mối quan hệ giữa đồng bào dân
tộc Khơ-me ở nớc ta và ở Campuchia diễn ra không bình thờng. Sự hoạt
động của các phần tử xấu trốn sang Campuchia đã làm cho trên tuyến biên
giới bộ và vùng nớc đã xảy ra hàng trăm vụ cớp vũ trang, tống tiền, tranh
chấp tài nguyên, ng trờng gây thiệt hại lớn đến tính mạng và tài sản của
nhân dân ta. Tình hình xâm canh, xâm c ở biên giới còn xảy ra, đặc biệt là
các vụ tranh chấp đều có sự khuyến khích của chính quyền Campuchia. Bọn
phản động đã tuyển lựa huấn luyện, cài cắm ngời vào nội địa ta. Các tổ
chức phi chính phủ quốc tế, núp dới danh nghĩa hoạt động từ thiện đã lợi
dụng đi sâu vào vùng dân tộc Khơ-me, xâm nhập vào chùa chiền, tiếp xúc
s sãi để thu nhập tin tức, chúng đã tuyển ngời để huấn luyện cách thu thập,
moi tin thờng xuyên báo cáo về nớc Mỹ.
Tình hình đặc điểm trên là nguyên nhân của mọi nguyên nhân tạo ra
những nhân tố có thể dẫn đến bùng nổ vấn đề dân tộc, nếu chúng ta thiếu
quan tâm thực hiện chính sách dân tộc của Đảng, thiếu chủ động cảnh giác
phòng ngừa. Vì vậy, các cấp lãnh đạo và chỉ đạo đều cần nhận thấy rõ
những đặc điểm tình hình để có những giải pháp hữu hiệu, thực hiện đúng
đắn đờng lối của Đảng, và thực hiện chính sách dân tộc phù hợp với từng
địa phơng trong thời kỳ đổi mới đất nớc.
Cách đây hai, ba thế kỷ, lúc đầu ngời Khơ-me cha đủ mạnh để khai
phá vùng đầm lầy mênh mông hoang dã ở đồng bằng sông Cửu Long, họ
chỉ quần c thành từng Phum, Sóc theo vùng đất cao ở ven sông, ven biển,
xung quanh vùng Bảy núi. Đến thế kỷ XVII, khi ngời Việt và một bộ phận
ngời Hoa di c đến cùng chung sống với ngời Khơ-me khai phá vùng đất mới
này, từ đó đồng bằng sông Cửu Long mới đợc khai khẩn thực sự.
Ngời Hoa ở Kiên Giang, theo các tài liệu cho thấy, từ trớc năm 1754,
Mạc Cửu cùng khoảng 400 ngời Hoa di dân từ các tỉnh Quảng Đông, Phúc
Kiến ở Trung Quốc đến khai phá vùng đất Hà Tiên; Trên địa bàn rộng lớn
trấn Hà Tiên lúc bấy giờ gồm có các tỉnh nh: Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng,
Cần Thơ và Kiên Giang, đã có mặt những ngời Việt và ngời Khơ-me, ngời
Hoa đều đến định c lập nghiệp. Đặc biệt Mạc Cửu là ngời đã có công tập
hợp các c dân thành 7 xã để làm nơi sinh sống; tiêu biểu thời Mạc Thiên
Tích (Mạc Thiên Tứ) con trai của Mạc Cửu. Địa bàn dân c đa dân tộc ở trấn
Hà Tiên, đợc mở rộng đến tận bờ Tây sông Hậu. Ngày nay ngời Hoa sinh
sống tại Kiên Giang, phần lớn là có nguồn gốc từ những di dân ngời Hoa,
hầu hết họ đều là những ngời lao động nghèo, trốn tránh ách áp bức bóc lột,
và chính sách kỳ thị dân tộc của nhà Thanh - Triều đình phong kiến thống
trị ở nớc Trung Hoa lúc bấy giờ.
Về đời sống tâm linh, ngời Hoa thờng thờ tổ tiên, thần tài, thần đất,
thần nhà trong gia đình, ở cộng đồng họ đều thờ phật, thờ quan Công, thờ
ông Bổn, Bà Thiên Hậu.
Ngày nay, trong sự nghiệp đổi mới đất nớc, ngời Hoa ở Kiên Giang
cũng nh các dân tộc khác, đều ý thức đợc mình là một dân tộc trong đại gia
đình dân tộc Việt Nam. Vì vậy, đồng bào dân tộc Hoa ở địa phơng đã tích
cực tham gia quản lý chính quyền tại các xã trong tỉnh. Hơn nữa, có nhiều
ngời Hoa là cán bộ lãnh đạo, quản lý, tham gia các tổ chức xã hội ở địa phơng.
- Đồng bào dân tộc thiểu số (mà số đông là đồng bào Khơ-me) sống
xen kẽ với đồng bào dân tộc Kinh, tơng đối tập trung ở một số huyện: Hòn
Đất, Gò Quao, Giồng Riềng, Châu Thành, Kiên Lơng
Từ lịch sử lâu đời, số đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống ở
vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới. Chính nơi đây đều là căn cứ địa cách
mạng, nơi che chở nuôi dỡng bảo vệ cán bộ, chiến sĩ trong suốt quá trình
đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nớc.
Từ khi có Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, đồng bào các dân tộc
luôn luôn gắn bó với Đảng, cách mạng, đoàn kết đấu tranh chống bọn đế
quốc xâm lợc, giải phóng dân tộc, giành độc lập tự do cho dân tộc, đồng
bào các dân tộc thiểu số tin tởng vào sự lãnh đạo của Đảng trong tiến trình
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, cũng nh trong công cuộc xây dựng xã
hội chủ nghĩa. Họ biết ơn Đảng đã đem lại hòa bình, cuộc sống ấm no hạnh
phúc cho toàn dân tộc. Hơn nữa đồng bào các dân tộc thiểu số giữ vững
khối đoàn kết giữa các dân tộc anh em, bền vững lâu dài, cùng chung sống
hòa thuận, giúp nhau góp phần xây dựng và bảo vệ đất nớc. Đồng thời họ
cùng chung sức làm thất bại mọi âm mu thủ đoạn của kẻ thù, đặc biệt là
làm thất bại âm mu và thủ đoạn của chủ nghĩa đế quốc dùng chiến lợc "diễn
biến hòa bình" để chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc và chống phá chế độ xã
hội chủ nghĩa nớc ta.
Nhng hiện nay vùng đồng bào các dân tộc thiểu số nói chung, đồng
bào Khơ-me nói riêng còn chậm phát triển về kinh tế - xã hội so với vùng
đồng bằng và đô thị, sự chênh lệch còn rất rõ rệt, đời sống của đồng bào
gặp không ít khó khăn. Đặc điểm sống xen kẽ với các dân tộc anh em, tạo
nên mối quan hệ giao lu hiểu biết lẫn nhau, giúp đỡ nhau cùng nhau tiến bộ,
tuy nhiên, cũng có những biểu hiện cha thông cảm nhau về tâm lý, tình
cảm, phong tục và điều đó cũng ít nhiều gây trở ngại cho việc củng cố
quan hệ đoàn kết giữa các dân tộc anh em.
- Đồng bào các dân tộc thiểu số ở Kiên Giang, chủ yếu xuất thân từ
nông dân lao động, chuyên sống bằng nghề nông, canh tác độc canh cây
lúa, với tâm lý sản xuất nhỏ, phân tán, trình độ văn hóa thấp so với ngời
Kinh và ngời Hoa.
Từ khi Đảng và Nhà nớc ta thực hiện công cuộc đổi mới, từ nền sản
xuất phân tán, tập trung bao cấp chuyển sang nền sản xuất hàng hóa nhiều
thành phần vận động theo cơ chế thị trờng, có sự quản lý của Nhà nớc theo
định hớng xã hội chủ nghĩa, đã từng bớc làm thay đổi đời sống đồng bào
dân tộc thiểu số ở nông thôn. Phần đông đồng bào dân tộc tích cực tham gia
chuyển đổi cơ cấu kinh tế, góp phần phát triển nông thôn mới. Tuy thế, đời
sống xã hội ở nhiều vùng còn gặp khó khăn so với nhiều nơi khác trên địa
bàn của tỉnh. Đặc điểm này cũng ảnh hởng đến quá trình phát triển kinh tế -
xã hội của tỉnh Kiên Giang.
- Tuyệt đại đa số đồng bào dân tộc thiểu số Kiên Giang là những ngời
lao động cần cù, thật thà, chất phác ngay thẳng trong cuộc sống, rất ghét sự
lừa dối.
Trong phong tục tập quán, đồng bào vẫn còn giữ truyền thống lâu
đời, nam thanh niên khi đến tuổi nhất thiết phải vào tu ở ngôi chùa. Họ
quan niệm rằng chỉ bằng con đờng "tu thân tích đức" thì trình độ con ngời
mới đợc nâng lên và có đủ cơ sở để lý giải những vấn đề phức tạp trong
cuộc sống, mới tránh đợc mọi đau khổ trong đời, làm cho tâm con ngời có
đợc sự tĩnh tại, thông minh sáng suốt để quyết đoán công việc. Tôn trọng
đạo Phật, giáo lý đạo Phật đã ăn sâu vào tâm t tình cảm của họ, nhng cũng
từ đó dễ dẫn đến hiện tợng mê tín dị đoan, thờ cúng, bói toán, lên đồng, lên
tổ trong khi đau yếu hoặc khi gặp những việc không may trong cuộc sống.
Các lễ hội hàng năm một mặt thể hiện lòng mê tín của đồng bào đối
với thần linh, mà theo họ vẫn còn là lực lợng thiêng liêng phù hộ, độ trì. Mặt
khác, cũng thể hiện lòng tôn trọng truyền thống, lấy đó làm nguồn động
viên nhau vợt qua những khó khăn thử thách, để xây dựng cuộc sống mới.
- Đồng bào dân tộc thiểu số Kiên Giang có truyền thống yêu quê h-
ơng đất nớc.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ và cuộc chiến tranh
biên giới Tây Nam, đồng bào Khơ-me nói riêng, đồng bào các dân tộc thiểu
số nói chung ở đây đã thể hiện tinh thần đoàn kết cộng đồng cùng chiến
đấu bảo vệ Tổ quốc. Nhiều đồng bào dân tộc thiểu số đã hy sinh anh dũng,
nhiều vùng đồng bào dân tộc là căn cứ địa cách mạng, là cơ sở tin cậy của
nhiều cán bộ. Ngoài ra, đồng bào dân tộc còn góp nhiều của cải và sức ngời
cho cuộc chiến tranh nhân dân. ý chí tiến công cách mạng của đồng bào
dân tộc thiểu số vì lý tởng sống "Không có gì quí hơn độc lập tự do" đợc
biểu hiện nổi bật. Ngày nay cần tiếp tục phát huy truyền thống yêu nớc của
đồng bào Khơ-me và đồng bào các dân tộc thiểu số khác nhằm phát triển
kinh tế - xã hội, để từng bớc đa dân tộc thiểu số thoát cảnh nghèo khó,
trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nớc.
1.2. Tình hình kinh tế - xã hội, văn hóa của các dân tộc
thiểu số ở tỉnh Kiên Giang
Quán triệt việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng nói chung,
cụ thể là Chỉ thị 117 CT/TƯ ngày 29/9/1981, Chỉ thị 68CT/TW ngày
18/4/1991 của Ban Chấp hành Trung ơng về công tác vùng đồng bào dân
tộc Khơ-me, Tỉnh ủy, ủy ban nhân dân tỉnh đã chỉ đạo các ngành, các
cấp tăng cờng công tác dân tộc, bằng những chủ trơng, biện pháp tích
cực, đã làm chuyển biến một bớc quan trọng đối với đồng bào các dân
tộc thiểu số ở Kiên Giang nói chung, đồng bào Khơ-me Kiên Giang nói
riêng. Những thành tựu đã đạt đợc là:
Về kinh tế - xã hội
Trong nông nghiệp, cùng với việc tập trung chỉ đạo chuyển đổi cơ
cấu kinh tế, việc xác định hộ gia đình là đơn vị kinh tế tự chủ, thực hiện
cơ chế giao đất giao rừng lâu dài cho nông dân sản xuất, thâm canh tăng
vụ, đẩy mạnh chăn nuôi, cải tạo vờn tạp trồng cây ăn trái, đánh bắt nuôi
trồng, chế biến nông, lâm, thủy sản, tiểu thủ công nghiệp đã góp phần
tạo việc làm, tăng thu nhập cho nhân dân lao động. Trình độ sản xuất
kinh tế hộ gia đình ngày càng đợc nâng lên theo hớng sản xuất hàng hóa.
Nhiều hộ gia đình đã mạnh dạn mua sắm máy cày, máy xới, máy bơm n-
ớc; sử dụng giống mới có năng suất chất lợng cao, ứng dụng các biện
pháp canh tác tiến bộ, đa khoa học kỹ thuật vào đồng ruộng, hình thành
các mô hình kinh doanh tổng hợp VAC, VACR, nông - lâm - ng kết hợp
để tiết kiệm kinh phí, nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp. Kinh tế
hộ nông dân đã có bớc phát triển, bớc đầu hình thành mô hình kinh tế
trang trại làm ăn đạt hiệu quả.
Trong công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ mọi ngời đợc tự
do sản xuất kinh doanh đúng pháp luật. Việc sắp xếp lại sản xuất, bố trí lại
lao động, thực hiện khoán sản phẩm, đổi mới trang thiết bị, công nghệ gắn
với kinh doanh, khuyến khích đầu t trong nớc, đã làm xuất hiện các phong
trào thi đua lao động sáng tạo nâng cao chất lợng sản phẩm, tạo việc làm,
tăng thu nhập cho ngời lao động, góp phần đa sản xuất công nghiệp, tiểu
thủ công nghiệp, dịch vụ phát triển theo cơ chế mới tạo nên sự thay đổi về
cơ cấu, ngành nghề và địa bàn lao động.
Những năm qua, Kiên Giang đã khai hoang hơn 70.000 ha đất đa vào
sản xuất nông, lâm, ng nghiệp; diện tích lúa hai vụ từ 40.000 ha đến
230.000 ha năm 2000, tăng xấp xỉ 6 lần so với 1987. Sản lợng lơng thực từ
1,6 triệu tấn thóc năm 1995 đến 1999 là 2 triệu tấn thóc, bình quân lơng
thực tăng từ 1.200 kg/ngời năm 1995, lên 1.400 kg/ngời năm 1999, hình
thành một số vùng nguyên liệu chế biến, trồng và khoanh nuôi tái sinh
47.000 ha rừng. Đánh bắt hải sản tiếp tục có bớc phát triển, đóng mới và
sửa chữa đa vào sử dụng 7.043 chiếc tàu với tổng công suất tăng gấp 3 lần so
với trớc đây, đặc biệt là phơng tiện đánh bắt xa bờ tăng 530 chiếc tàu. Sản l-
ợng đánh bắt cá tăng từ 190.755 tấn đến 218.500 tấn năm 1999 [57, tr. 4].
Đợc sự hỗ trợ của Trung ơng và sự đầu t của tỉnh, nhiều công trình cơ
sở hạ tầng đã đợc xây dựng ở vùng đồng bào dân tộc Khơ-me nh thủy lợi,
giao thông, điện, đờng, nớc phục vụ cho sinh hoạt Nhờ đó diện tích đất
canh tác đợc thâm canh tăng vụ, số hộ có nớc sạch sử dụng ngày nhiều hơn,
chơng trình xóa cầu khỉ, tôn tạo nền nhà "sống chung với lũ" cũng đã góp
phần việc tháo gỡ khó khăn đối với đồng bào dân tộc Khơ-me, đặc biệt đối
với đồng bào dân tộc vùng sâu, vùng xa.
Việc giúp đỡ cho đồng bào dân tộc Khơ-me vay vốn sản xuất đợc
quan tâm hơn. Hàng năm đồng bào dân tộc Khơ-me vay bằng nhiều nguồn
vốn khác nhau. Riêng nguồn vốn hỗ trợ đồng bào dân tộc đặc biệt khó khăn
từ năm 1991 - 1999 đã lên tới trên 10 tỷ đồng, trong đó 5 tỷ đồng hỗ trợ cho
sản xuất. Để khắc phục tình trạng thiếu đất canh tác đối với đồng bào dân
tộc, các địa phơng trong tỉnh đã vận động đa 312 hộ dân tộc Khơ-me không
có đất sản xuất đến khai thác, canh tác sản xuất ở huyện Hà Tiên, huyện
Hòn Đất thuộc vùng tứ giác Long Xuyên, đến nay nhiều hộ đã ổn định sản
xuất và cuộc sống dần đợc cải thiện [64, tr. 2].
Nhờ nguồn vốn vay từ ngân hàng và nguồn vốn vay của các chơng
trình dự án khác, cùng việc hớng dẫn áp dụng các tiến bộ khoa học - kỹ
thuật, nhiều vùng dân tộc Khơ-me ổn định đời sống, số hộ đủ ăn, khá ngày
càng tăng, đặc biệt đã giảm hộ nghèo đáng kể (từ 60% năm 1991 xuống
còn dới 30% năm 1998. So với tỷ lệ chung toàn tỉnh còn 14,7%).
Mặc dù đời sống của đồng bào dân tộc Khơ-me có đợc nâng lên, nh-
ng còn chậm so với các đồng bào Kinh và Hoa. Sự chênh lệch giữa các dân
tộc trong khu vực còn khá lớn và sự phân hóa giàu nghèo tăng nhanh, số hộ
nghèo không có đất và thiếu đất vẫn còn nhiều, đặc biệt ở một số vùng sâu,
vùng xa tỷ lệ hộ đói nghèo là 50%, trong khi bình quân chung toàn tỉnh chỉ
có trên 14%, có khoảng 8% số hộ không có đất và thiếu đất sản xuất; việc
chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong vùng đồng bào dân tộc Khơ-me còn nhiều
khó khăn, ngành nghề phát triển chậm [64, tr.12].
* Văn hóa - giáo dục y tế
Cùng với tiến bộ kinh tế, đời sống tinh thần các dân tộc nói chung,
dân tộc Khơ-me nói riêng cũng có những chuyển biến tích cực.
- Bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc đợc tôn
trọng bảo vệ và phát huy, nhiều lễ hội truyền thống đợc duy trì, di tích
lịch sử văn hóa của đồng bào đợc sự quan tâm giúp đỡ đầu t để tôn tạo
sửa chữa. Đoàn Nghệ thuật dân tộc Khơ-me tỉnh Kiên Giang đợc duy trì
và đầu t kinh phí hoạt động thờng xuyên. Mạng lới thông tin tuyên
truyền đợc chú ý và phát triển tốt. Thông qua việc cấp máy thu hình,
băng casette cho các chùa để sử dụng làm phơng tiện phục vụ đồng bào
dân tộc, thờng xuyên đợc cấp băng, tài liệu có nội dung tuyên truyền phổ
biến pháp luật của Nhà nớc, đã phát huy tác động tích cực của các chùa
trong việc góp phần nâng cao dân trí, tuyên truyền sâu rộng chủ trơng
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nớc trong đồng bào dân tộc
Khơ-me.
Tất nhiên, bên cạnh việc tôn trọng tập quán của các dân tộc, chính
quyền, đoàn thể địa phơng, cơ sở còn quan tâm vận động, giáo dục đồng
bào từng bớc cải tiến lễ hội, tập tục lạc hậu cho phù hợp với tiến trình đổi
mới và sự phát triển chung của tỉnh và cả nớc.
Hệ thống trờng dân tộc nội trú ba huyện Giồng Riềng, Gò Quao,
Hà Tiên có số đông đồng bào dân tộc Khơ-me đã hoạt động tốt. Hiện nay
tỉnh Kiên Giang có 4 trờng dân tộc nội trú, trong đó có 1 trờng cấp tỉnh,
3 trờng cấp huyện, có tổng số 990 em học sinh dân tộc Khơ-me, trong đó
có 730 em đợc trợ cấp học bổng. Ngoài ra, số học sinh dân tộc toàn tỉnh
đợc huy động đến trờng hàng năm đều tăng lên khá rõ rệt Công tác bổ túc
văn hóa, mẫu giáo đợc chú trọng, việc xóa mù, phổ cập giáo dục tiểu học đ-
ợc quan tâm hơn. Nhiều huyện, xã có đồng bào dân tộc Khơ-me đợc công
nhận đạt tiêu chuẩn quốc gia về xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học.
ở bậc tiểu học có tài liệu giáo trình song ngữ để dạy và học. Lãnh đạo
tỉnh thực hiện chính sách giảm miễn học phí và cấp học bổng, sách giáo
khoa cho con em dân tộc học giỏi và con em các gia đình thuộc diện chính
sách. Tuy nhiên, đội ngũ giáo viên ngời dân tộc còn thiếu, số lợng chất lợng
giáo dục nhìn chung cha cao, so với công tác giáo dục của tỉnh.
Về chăm sóc sức khỏe, đến nay hầu hết các xã ở vùng đồng bào dân
tộc Khơ-me đều đã có trạm y tế, y cụ và thuốc chữa bệnh đợc tăng cờng tốt
hơn. Công tác tiêm chủng mở rộng đợc thực hiện đều khắp trên địa bàn, các
loại bệnh phụ khoa, đờng ruột, phòng chống suy dinh dỡng ở trẻ em bớc
đầu thực hiện có hiệu quả, công tác kế hoạch hóa gia đình đợc đẩy mạnh
hơn, việc giữ gìn vệ sinh và bảo vệ môi trờng đợc chú ý hơn. Đội ngũ cán
bộ y tế ngời dân tộc Khơ-me từng bớc đợc đào tạo tăng về số lợng và nâng
cao trình độ nghiệp vụ.
Nhìn chung, tình hình đặc điểm, kinh tế - xã hội, văn hóa, giáo dục y
tế của đồng bào dân tộc Khơ-me Kiên Giang có nét đặc thù, nhng không
tách biệt với đặc điểm chung của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Ngợc
lại, nét đặc thù đó làm phong phú thêm nền văn hóa dân tộc Việt Nam, góp
phần củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, tạo thành sức mạnh tổng hợp của
cộng đồng các dân tộc ở Việt Nam.
1.3. Mối quan hệ giữa các dân tộc thiểu số ở Kiên Giang
trong quá trình đấu tranh dựng nớc và giữ nớc
Trải qua quá trình lịch sử dựng nớc và giữ nớc đồng bào dân tộc Khơ-
me đoàn kết gắn bó với đồng bào dân tộc Kinh và đồng bào dân tộc Hoa
cùng nhau khai phá cải tạo thiên nhiên, biến mảnh đất hoang vu xa kia trở
thành vùng đất phì nhiêu màu mỡ, có vị trí chiến lợc quan trọng về kinh tế -
an ninh quốc phòng.
Kiên Giang là một tỉnh nằm giáp biển, chịu sự tác động của biển, của
nhịp độ thủy triều. Kiên Giang có vùng đất nớc ngọt quanh năm và cũng có
vùng đất phèn mặn, thiếu nớc ngọt trầm trọng ảnh hởng đến sản xuất nông
nghiệp, nhất vào mùa khô. Những vùng đất thiếu nớc ngọt này thờng tập
trung những c dân nghèo, thờng là vùng căn cứ cách mạng trớc đây, đã từng
chịu hậu quả nặng nề của hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ
của đất nớc ta.
Ngày nay, Kiên Giang là hai tỉnh Rạch Giá và Hà Tiên sát nhập lại,
với đơn vị hành chính là 11 huyện, và 2 thị xã: Thị xã Rạch Giá, thị xã Hà
Tiên. Kiên Giang là vùng đất có nhiều dân tộc c trú hỗn hợp trong lịch sử và
hiện tại, nhng chủ yếu là dân c thuộc đồng bào dân tộc Kinh, đồng bào dân
tộc Khơ-me, đồng bào dân tộc Hoa. Theo số liệu thống kê, tổng điều tra dân
số năm 1999 dân số Kiên Giang là 1.487.553 ngời, trong đó dân tộc kinh là
1.273.378 ngời, chiếm 85,6%, dân tộc Khơ-me 181.338 ngời chiếm
12,19%, dân tộc Hoa 32.150 ngời chiếm 2,16%, các dân tộc khác chiếm
0,05%. Nh vậy, có thể khẳng định rằng, ở tỉnh Kiên Giang dân tộc thiểu số
chủ yếu là đồng bào dân tộc Khơ-me sau đó là đồng bào dân tộc Hoa.
Tín ngỡng tôn giáo, Kiên Giang là vùng đất có nhiều tôn giáo chẳng
hạn nh: Thiên chúa giáo, Tin lành, Phật giáo đại thừa và tiểu thừa, Is Lam
giáo, đều là những tôn giáo phổ biến trên thế giới; đồng thời có những tôn
giáo địa phơng, chỉ tồn tại ở Nam Bộ nh: đạo Hòa Hảo, đạo Cao Đài, đạo
Tứ Ân Hiếu Nghĩa và nhiều hình thức tín ngỡng thờ kiek-tà-arặc. Thờ các
vị thần có công với nớc nh: Trần Hng Đạo, Nguyễn Trung Trực đã trở thành
phong tục trong dân gian, dân tộc từ lâu đời.
Đặc điểm c trú của đồng bào các dân tộc thiểu số là sống xen kẽ với
đồng bào dân tộc khác, ngoài một bộ phận c trú ở các thị xã, thị trấn, còn
phần đông đồng bào dân tộc thiểu số đều sinh sống ở vùng nông thôn, đất
phèn, nớc mặn, tập trung ở các huyện nh: huyện Châu Thành, huyện Gò
Quao, huyện Giồng Riềng, huyện Kiên Lơng, huyện Hòn Đất, huyện Phú
Quốc Nếu đồng bào dân tộc Khơ-me sinh sống chủ yếu bằng nghề sản
xuất nông nghiệp, trồng cây lúa nớc ở đất ruộng thì đồng bào dân tộc Hoa
lại sống chủ yếu bằng nghề buôn bán nhỏ và làm rẫy, chẳng hạn nh: có
nhiều gia đình dân tộc Hoa có từ 5-10 ha rẫy trồng hoa màu. Tuy nhiên, cả
đồng bào dân tộc Khơ-me và đồng bào dân tộc Hoa, đều sống đan xen với
đồng bào dân tộc Kinh trên địa bàn Kiên Giang.
Vì vậy, tỉnh Kiên Giang là vùng đất cộng c chung chủ yếu của ba dân
tộc anh em cùng sinh sống, họ đều chung vui những lễ, tết hàng năm nh: tết
Nguyên Đán của đồng bào dân tộc Kinh, tết nửa năm (mừng 5 tháng năm
âm lịch) hay tết chôl chnăm thmây của đồng bào dân tộc Khơ-me. Trong
các ngày lễ, tết, đồng bào các dân tộc đều đi thăm mộ tổ tiên, cúng chùa,
thăm hỏi chúc mừng tuổi thọ của nhau, đồng thời làm những thứ bánh đặc
trng truyền thống. Đặc biệt là trong những gia đình hỗn hợp có Việt - Khơ-
me - Hoa hoặc Khơ-me - Hoa hay Việt - Hoa thì những ngày tết lễ của ba
dân tộc đều không thể thiếu đợc trong đời sống từng gia đình. Nhiều ngời
Khơ-me, ngời Hoa nghe và nói đợc tiếng tiếng phổ thông và ngợc lại, nhiều
đồng bào dân tộc Kinh cũng nghe và biết tiếng Khơ-me, tiếng Hoa họ
quan hệ giao tiếp hàng ngày, có thể chuyển từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ
kia một cách tự nhiên. Hàng ngày, khi cần trao đổi giao lu hàng hóa, khoa
học kỹ thuật, chính trị, tình cảm họ thờng bắt đầu từ ngôn ngữ phổ thông.
Thực tế cho thấy, sự đan xen và giao lu về tín ngỡng, tôn giáo giữa ba
dân tộc anh em trên địa bàn Kiên Giang khá đậm nét. Trớc đây việc thờ
cúng ông bà của đồng bào dân tộc Khơ-me chủ yếu tập trung ở các chùa
thuộc phum và sóc. Ngày nay thì cả ba dân tộc đều lập bàn thờ ông bà ở
nhà, bàn thờ phật của đồng bào dân tộc Khơ-me đợc đặt ngay giữa nhà theo
lối đồng bào dân tộc Hoa và cũng không nhất thiết là phải quay về hớng
mặt trời nh trớc đây. Ngoài ra, đồng bào dân tộc Khơ-me còn thờ thần linh,
thợng đế gần giống nh đồng bào các dân tộc Việt, đồng bào dân tộc Hoa.
Nh vậy, các dân tộc có sự tiếp thu những yếu tố văn hóa của nhau, nhng
vẫn bảo tồn và phát huy những giá trị và sắc thái văn hóa truyền thống của
dân tộc mình, đồng thời cùng góp phần làm giàu cho các loại hình văn hóa
nghệ thuật truyền thống Việt Nam.
Thờng năm đồng bào Khơ-me tổ chức các lễ Hội biểu hiện đậm sắc
thái văn hóa dân tộc Khơ-me nh: Lễ vào năm mới (tết Chôl chnăm thmây).
Lễ cúng ông bà (tết Sen Đôn ta); lễ cúng trăng (Oóc om boóc). Ngoài việc
tổ chức lễ cúng tạ ơn mặt trăng đã đem lại mùa màng bội thu, đồng bào ở
khắp nơi trong tỉnh đều tập trung tổ chức đua ghe ngo ở huyện Gò Quao.
Lễ hội đó có ý nghĩa tợng trng cho sức mạnh đoàn kết giữa các dân tộc
và đồng bào dân tộc thiểu số ở Kiên Giang. Từ đó không chỉ thu hút đồng
bào dân tộc Khơ-me mà còn thu hút đồng bào các dân tộc Kinh và Hoa
nhiệt tình ủng hộ tham gia tích cực, làm cho quan hệ giữa các dân tộc ngày
càng tốt đẹp.
Trong thời kỳ thực dân Pháp xâm lợc và thống trị ở nớc ta, chúng
thực hiện chính sách "chia để trị", bọn thực dân Pháp thực hiện nhiều chính
sách về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội để áp bức bóc lột, gây chia rẽ dân
tộc, nhằm tạo ra sự biến động lớn trong đời sống xã hội của đồng bào các
dân tộc ở Kiên Giang.
Truyền thống đoàn kết đợc phát huy, đồng bào các dân tộc Kinh,
Hoa, Khơ-me luôn luôn kề vai sát cánh nhau trong công cuộc đấu tranh
chống áp bức bóc lột, giành độc lập cho dân tộc. Từ đó có nhiều cuộc khởi
nghĩa mà tiêu biểu nhất là cuộc khởi nghĩa của vị anh hùng áo vải Nguyễn
Trung Trực đã thu hút đông đảo đồng bào Kinh, Khơ-me, Hoa tham gia
nghĩa quân cùng nhau chống Pháp.
Giữa những năm 1930, chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam đầu tiên đ-
ợc thành lập ở Rạch Giá, từ đó phong trào cách mạng chuyển sang giai
đoạn mới. Dới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, theo quan điểm "Đoàn kết
các dân tộc trên nguyên tắc bình đẳng tơng trợ để đấu tranh cho độc lập tự
do và hạnh phúc chung" chi bộ Đảng Cộng sản hớng phong trào đấu tranh
của các đồng bào dân tộc Kiên giang vào mục tiêu trớc mắt là giành lại
ruộng đất từ tay địa chủ và bọn thực dân, tiến hành cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân, đánh đổ đế quốc phong kiến giành lại độc lập dân tộc.