Tải bản đầy đủ (.pdf) (184 trang)

Giáo dục lý tưởng vì mục tiêu dân giầu, nước mạnh cho thanh niên việt nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.17 MB, 184 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

ĐỖ ĐỨC DUẨN

GIÁO DỤC LÝ TƯỞNG VÌ MỤC TIÊU ‘‘DÂN GIÀU, NƯỚC MẠNH ”
CHO THANH NIÊN VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HÓA,
HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Triết học

Hà Nội - 2012

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

ĐỖ ĐỨC DUẨN

GIÁO DỤC LÝ TƯỞNG VÌ MỤC TIÊU ‘‘DÂN GIÀU, NƯỚC MẠNH ”
CHO THANH NIÊN VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HÓA,
HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC

Luận văn thạc sỹ: Chuyên ngành triết học
Mã số: 60 22 80


Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Ngô Đình Xây

Hà Nội - 2012

2


LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn PGS.TS Ngô Đình Xây, thầy đã tận
tình hướng dẫn khoa học, quan tâm chia sẻ và tạo mọi điều kiện giúp
đỡ em trong quá trình thực hiện luận văn tốt nghiệp này.
Em xin cảm ơn các thầy, các cô trong Khoa Triết, trường Đại
học Khoa học Xã hội và Nhân văn đã quan tâm dạy bảo, giúp đỡ em
trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu tại Khoa.
Xin cảm ơn Ban Thường vụ tỉnh Đoàn Nam Định, Nghệ An,
Long An, Lâm Đồng và Đoàn thanh niên trường Đại học Kinh tế
quốc dân, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội, Học viện
Báo chí và Tuyên truyền, Học viện Chính sách và phát triển, Học
viện Thanh thiếu niên Việt Nam đã tạo điều kiện, hợp tác chặt chẽ
trong quá trình khảo sát thực hiện đề tài.
Nội dung của Luận văn tốt nghiệp này không tránh khỏi những
thiếu xót và hạn chế, mong nhận được sự quan tâm, góp ý của các
thầy cô và các bạn. Xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày 12 tháng 12 năm 2011
Đỗ Đức Duẩn

3



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU......................................................................................................... 5
NỘI DUNG ...............................................................................................................14
CHƯƠNG 1:GIÁO DỤC LÝ TƯỞNG VÌ MỤC TIÊU “DÂN GIÀU NƯỚC
MẠNH” CHO THANH NIÊN VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ CÔNG
NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC - CƠ SỞ LÝ LUẬN ..............14
1.1. Một số khái niệm cơ bản ........................................................................... 14
1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng cộng
sản Việt Nam về giáo dục lý tưởng vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh” cho thanh
niên trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ................................. 27
1.3. Giáo dục lý tưởng vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh” trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước .................................................................... 39
1.4. Sự cần thiết phải giáo dục thanh niên phấn đấu vì mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh” trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ............................. 48
CHƯƠNG 2:THỰC TRẠNG GIÁO DỤC LÝ TƯỞNG VÌ MỤC TIÊU
“DÂN GIÀU, NƯỚC MẠNH” CHO THANH NIÊN ........................................57
2.1. Tổng quan về tình hình thanh niên hiện nay................................................ 57
2.2. Tình hình thanh niên tham gia vào các hoạt động sản xuất kinh doanh trong
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ................................................. 65
2.3. Tình hình giáo dục lý tưởng vì mục tiêu “dân giàu nước mạnh” cho thanh niên
trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. ....................................... 78
2.4. Nguyên nhân của những thực trạng trên ................................................... 110
CHƯƠNG 3:QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO, GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH GIÁO
DỤC LÝ TƯỞNG VÌ MỤC TIÊU “DÂN GIÀU, NƯỚC MẠNH” CHO
THANH NIÊN TRONG THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
ĐẤT NƯỚC ............................................................................................................123
3.1. Quan điểm chỉ đạo để định hướng cho thanh niên phấn đấu vì mục tiêu “dân
giàu, nước mạnh” trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước .......... 123
3.2. Giải pháp đẩy mạnh giáo dục lý tưởng vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh”
trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ...................................... 131

KẾT LUẬN .............................................................................................................156
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................159

4


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài nghiên cứu
Lý tưởng là một mục tiêu cao đẹp, hình ảnh mẫu mực tương đối hoàn
chỉnh có sức lôi cuốn con người vươn tới nó. Lý tưởng có vai trò quan trọng
đối với con người, nó như “bàn chỉ nam”, là động lực thôi thúc hoạt động mỗi
con người đạt hiệu quả. L.Tôn-xtôi, một nhà văn nổi tiếng thế giới người Liên
Xô, đã khẳng định vai trò quan trọng của lý tưởng như sau:"Lí tưởng là ngọn
đèn chỉ đường. Không có lí tưởng là không có phương hướng kiên định, mà
không có phương hướng kiên định thì không có cuộc sống". Nhà triết học
Didiro cũng từng nói rằng: “Nếu không có mục đích, anh không làm được điều
gì cả. Anh cũng không làm được điều gì vĩ đại nếu mục đích của anh tầm
thường”.
Thanh niên là lực lượng xã hội to lớn, một trong những nhân tố quan trọng
quyết định tương lai, vận mệnh dân tộc; là lực lượng chủ yếu trên nhiều lĩnh
vực, đảm nhiệm những công việc đòi hỏi hy sinh, gian khổ, sức khỏe và sáng
tạo. Vì vậy, việc bồi dưỡng, rèn luyện thế hệ thanh niên để thanh niên có lý
tưởng đúng đắn, cao đẹp là vấn đề sống còn của dân tộc, là một trong những
nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng.
Để thanh niên “làm được điều vĩ đại”, và trở thành “nhân tố quyết định sự
thành bại của cách mạng”, thì thanh niên phải có được lý tưởng đúng đắn, cao
đẹp, mang quy mô quốc gia, dân tộc, thời đại, chứ không phải lý tưởng “tầm
thường”, cá nhân, ích kỷ, hẹp hòi; nghĩa là, lý tưởng mỗi cá nhân thanh niên
phải đồng nhất với lý tưởng xã hội, thời đại.
Trong thời đại hiện nay, lý tưởng đúng đắn, cao đẹp của thanh niên Việt

Nam là phấn đầu vì một xã hội “dân giàu, nước mạnh”, bởi như trong Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung,
phát triển năm 2011) xác định: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân
dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ

5


Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử. Xã hội xã hội chủ nghĩa
mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất
hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện
phát triển toàn diện”.
Do chủ trương trên của Đảng ta, nên công tác giáo dục lý tưởng thanh
niên ở nước ta những năm qua cũng đã đạt được nhiều thành công. Chúng ta đã
xây dựng được một thế hệ thanh niên vừa có đức, nhân cách, vừa có tri thức,
sức khỏe, tư duy năng động và hành động sáng tạo; tiếp nối truyền thống hào
hùng của dân tộc, của Đảng, nêu cao lòng yêu nước, ý thức xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp cách mạng,
tình nguyện vì cộng đồng; sống có trách nhiệm với gia đình và xã hội; có ý chí
vươn lên trong học tập và lao động, công tác, lập thân, lập nghiệp, làm giàu
chính đáng, quyết đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu; mong muốn
được tin tưởng, được cống hiến cho đất nước, có việc làm, thu nhập ổn định,
có đời sống văn hoá, tinh thần phong phú, môi trường sống an toàn, lành mạnh.
Tuy nhiên, trong bối cảnh thế giới và ở nước hiện nay, do nhiều tác nhân chủ
quan và khách quan, cho nên công tác giáo dục lý tưởng cho thanh niên cũng tồn
đọng nhiều vấn đề bất cập, hạn chế. Qua đánh giá của các nhà quản lý và của một
số đề tài nghiên cứu gần đây, vẫn còn một bộ phận thanh niên chưa có sự xác
định lý tưởng phấn đấu, thiếu gắn bó với sinh hoạt tập thể, chưa xác định rõ trách

nhiệm đối với bản thân, gia đình, xã hội; sống thực dụng, hưởng thụ, thiếu văn
hoá; quan hệ tình bạn, tình yêu lệch lạc, chạy theo lối sống vị kỷ, dễ bị lôi kéo vào
các tệ nạn xã hội.
Từ những trình bày trên đây về vai trò, tầm quan trọng và thực trạng công
tác giáo dục lý tưởng cho thanh niên hiện nay, có thể thấy rằng, việc tìm tòi,
nghiên cứu để đề xuất được những giải pháp nhằm xây dựng được một thế hệ
thanh niên có lý tưởng mang tầm quốc gia, dân tộc là vấn đề chiến lược, rất

6


cần thiết và cấp bách. Chính vì lý do ấy, tôi quyết định chọn vấn đề “Giáo dục
lý tưởng vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh” cho thanh niên Việt Nam trong
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” làm luận văn tốt nghiệp thạc
sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Công tác giáo dục lý tưởng cho thanh niên là một bộ phận quan trọng của
công tác tư tưởng. Công tác tư tưởng có vị trí đặc biệt quan trọng đối với bất
kỳ một chế độ chính trị xã hội nào. Thanh niên với tư cách là lực lượng xung
kích đi đầu trong mọi hoạt động của cách mạng, nhất là trong công tác tư
tưởng của Đảng đã được nhiều học giả quan tâm như: Lê Duẩn, Thanh niên với
cách mạng xã hội chủ nghĩa; Thanh niên trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước,
NxbThanh niên. Tác phẩm đã tập hợp nhiều bài viết của Hồ Chí Minh, Phạm
Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Lê Thanh Nghị, Tố Hữu, Song Hào. Bên cạnh
việc khẳng định vai trò của thanh niên cũng như quá trình phấn đấu học tập và
rèn luyện vì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, trong bài viết của
đồng chí Lê Duẩn còn khẳng định vai trò to lớn của lý tưởng cách mạng, coi
đó là cội nguồn sức mạnh của thanh niên.
Để phát huy vai trò là đội quân xung kích của thanh niên, hoạt động giáo
dục tổ chức thanh niên luôn là một trong những nhiệm vụ thường xuyên mà

Đảng, Nhà nước và các đoàn thể xã hội quan tâm, trăn trở làm sao xây dựng
cho thanh niên những lý tưởng sống cao đẹp, học tập, lao động và chiến đấu
hết mình vì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Không ít tác giả
bước đầu đã đưa ra cách nhìn nhận và những giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng công tác giáo dục cho thanh niên như: Phạm Văn Đồng (1969), Đào tạo
thế hệ trẻ của dân tộc thành những người chiến sỹ cách mạng dũng cảm, thông
minh, sáng tạo, Nxb Sự thật, Hà Nội; Quang Vinh (2000), Hồ Chí Minh về giáo
dục và tổ chức thanh niên, NxbThanh niên, Hà Nội; Nhiều tác giả, (1966), Thanh
niên với chủ nghĩa anh hùng cách mạng, NxbThanh niên, Hà Nội.

7


Những vấn đề nghiên cứu thanh niên trong thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước của Viện nghiên cứu thanh niên. “Thanh niên giáo dục
và phát triển” của TS. Dương Tự Đam. “Lý tưởng đạo đức và việc giáo dục lý
tưởng đạo đức cho thanh niên trong điều kiện hiện nay” của Phạm Đình
Nghiệp. “Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào công nghiệp hóa,
hiện đại hóa” của Phạm Minh Hạc. “Định hướng giá trị của thanh niên sinh
viên hiện nay”của Đỗ Ngọc Hà. “Những vấn đề nghiên cứu thanh niên trong
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” của Viện nghiên cứu thanh
niên; “Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục thanh niên" của tác giả Văn
Tùng, xuất bản năm 1999; "Tăng cường công tác giáo dục lý tưởng cách mạng
cho thanh niên hiện nay" do tác giả Dương Tự Đam chủ biên, xuất bản năm
2003…
Ngoài ra còn một số bài viết đăng trên báo tạp chí đề cập đến công tác
giáo dục, bồi dưỡng thanh niên như: Báo chí với việc giáo dục thanh niên cuả
tác giả Lưu Văn Kiền đăng trên tạp chí Công tác tư tưởng tháng 10/2003. “Sự
biến đổi định hướng giá trị của thanh niên trong điều kiện kinh tế thị trường”
của Thái Duy Tuyên, tạp chí triết học số1/1995. “Vấn đề thanh niên – Vị trí

trung tâm trong chiến lược con người” của Vũ Oanh, tạp chí Cộng sản số
3/1993.
Các tác phẩm dù đề cập ở khía cạnh nào cũng đều khẳng định vai trò của
thanh niên và tầm quan trọng của việc tổ chức và giáo dục thanh niên. Với Tố
Hữu, trong bài viết “Lý tưởng cộng sản với thanh niên chúng ta” đã nhấn
mạnh vai trò to lớn của lý tưởng đối với mỗi thanh niên và khẳng định: Lý
tưởng cộng sản chủ nghĩa, chủ nghĩa anh hùng cách mạng đã trở thành xương,
thành tuỷ trong hàng vạn, hàng triệu quần chúng và lý tưởng cộng sản chỉ
thành hình và củng cố trên cơ sở gắn đời mình với Đảng, với cách mạng, với
quần chúng công nông.
Nhìn chung, các tác giả đã đi sâu nghiên cứu một số vấn đề lý luận về
thanh niên: như vị trí, vai trò của thanh niên, quan điểm của chủ nghĩa Mác -

8


Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta về bồi dưỡng, giáo dục thanh niên; thực
trạng về giác ngộ lý tưởng cách mạng của thanh niên hiện nay…Những công
trình khoa học trên đã cung cấp nhiều tư liệu quý, nhiều định hướng, đánh giá
quan trọng để tác giả tham khảo, kế thừa trong quá trình thực hiện luận văn.
Tuy nhiên, đứng ở góc độ chuyên ngành triết học, đến nay tác giả chưa
thấy có công trình nào trực tiếp làm rõ việc giáo dục lý tưởng vì mục tiêu “dân
giàu, nước mạnh” cho thanh niên trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước.
Tác giả cũng ý thức được rằng, đây là một vấn đề khó và cũng là hướng
đi mới cần đi sâu nghiên cứu. Những giá trị của những công trình đã nêu trên
sẽ là những cơ sở lý luận quan trọng để tham khảo và kế thừa trong quá trình
làm luận văn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích

Trên cơ sở lý luận chung và đánh giá thực trạng, tác giả luận văn đề xuất
một số quan điểm, giải pháp để nâng cao chất lượng giáo dục lý tưởng vì mục
tiêu “dân giàu, nước mạnh” cho thanh niên Việt Nam trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên luận văn cần thực hiện nhiệm vụ:
- Khái quát cơ sở lý luận về giáo dục lý tưởng vì mục tiêu “dân giàu,
nước mạnh” cho thanh niên trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.
- Đánh giá thực trạng giáo dục lý tưởng vì mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh” cho thanh niên trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

9


- Đề xuất những quan điểm, giải pháp giáo lý tưởng vì mục tiêu “dân
giàu, nước mạnh” cho thanh niên trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước.
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
4.1. Khách thể nghiên cứu
Thanh niên Việt Nam đang sinh sống, học tập, lao động trên lãnh thổ
Việt Nam.
4.2. Đối tượng nghiên cứu
Giáo dục lý tưởng vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh” cho thanh niên
trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
5. Giới hạn đề tài
- Giới hạn về nội dung nghiên cứu: Đề cập đến lý tưởng là một lĩnh vực
rộng, có thể tiếp cận dưới nhiều góc độ. Trong phạm vi của luận văn triết học,
tác giả chỉ tập trung nghiên cứu giáo dục lý tưởng vì mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh” cho thanh niên trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

6. Đóng góp mới của đề tài
Khi hoàn thành quá trình tìm hiểu nghiên cứu luận văn sẽ có những
đóng góp mới sau:
Lần đầu tiên vấn đề giáo dục lý tưởng vì mục tiên “dân giàu, nước
mạnh” cho thanh niên trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
được xây dựng thành luận văn khoa học triết học.
Luận văn bước đầu hình thành nội dung giáo dục lý tưởng vì tiêu “dân
giàu, nước mạnh” cho thanh niên trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước.

10


Đánh giá đúng thực trạng lý tưởng của thanh niên và việc giáo dục lý
tưởng vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh” trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước.
Đề xuất các quan điểm, giải pháp chủ yếu nhằm giáo dục lý tưởng vì
mục tiêu “dân giàu, nước mạnh” cho thanh niên trong thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp luận nghiên cứu
Luận văn chủ yếu dựa trên các quan điểm triết học Mác – Lênin, đạo
đức Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các văn kiện của Đảng Cộng sản
Việt Nam về giáo dục thanh niên. Bên cạnh đó, luận văn cũng kế thừa các kết
quả nghiên cứu của các công trình có liên quan.
Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp phương pháp logic lịch sử, phân tích,
tổng hợp.
7.2 Các phương pháp nghiên cứu cụ thể
7.2.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận: Khái quát cơ sở lý luận của vấn

đề nghiên cứu; nêu quan điểm tiếp cận vấn đề nghiên cứu.
7.2.2. Phương pháp điều tra: thiết kế phiếu ankét điều tra trên đối tượng
thanh niên, sinh viên nhằm tìm hiểu lý tưởng của thanh niên trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thông qua các bộ câu hỏi.
Phương pháp Ankét nhằm đo lường nhận thức, thái độ, tình cảm của
thanh niên về lý tưởng vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh” trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, một phần tìm hiểu nguyên nhân thực trạng
lý tưởng vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh” của thanh niên và giải pháp giáo

11


dục lý tưởng vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh” cho thanh niên trong thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Người nghiên cứu đã tiến hành khảo sát điều tra xã hội học đối với các đối
tượng thanh niên:
- Thanh niên sinh viên tại các trường Đại học (Sinh viên năm thứ nhất Đại
học Khoa học Xã hội và Nhân Văn, Sinh viên năm thứ 2 tại trường Đại học
kinh tế quốc dân, sinh năm thứ 3 tại trường Học viện Chính sách và phát triển
Việt Nam, sinh viên năm thứ 4 trường Học viện Báo chí và Tuyên truyền, sinh
viên hệ trung cấp tại Học viện Thanh Thiếu niên Việt Nam).
- Thanh niên đang công tác tại các cơ quan Nhà nước: Cán bộ trẻ cơ quan
Trung ương Đoàn, cán bộ giảng dạy tại Học viện Thanh Thiếu niên, Cán bộ trẻ
của một số Bộ, Ban, Ngành của Trung ương.
- Thanh niên nông thôn tại xã Điền Xá, Huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định
và xã Yên Phúc, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định.
- Thanh niên thành thị tại Tp Vinh, tỉnh Nghệ An.
- Thanh niên học sinh tại trường THPT Bình Phong Thạnh, huyện Mộc
Hóa, tỉnh Long An.
- Thanh niên lao động tự do tại tỉnh Lam Đồng.

Người nghiên cứu tiến hành phát ra 1000 phiếu điều tra và kết quả thu về
838 phiếu.
7.2.3. Phương pháp phỏng vấn sâu: Trực tiếp gặp gỡ, trò chuyện để họ
bày tỏ quan điểm của mình về các vấn đề trong cuộc sống hiện tại, tương lai để
bổ sung cho các đánh giá định lượng của đề tài.
7.2.4. Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia: Xin ý kiến các chuyên gia
nghiên cứu lý luận và thực tiễn nhiều năm về thanh niên để có thêm cơ sở nhận
định về lý tưởng của thanh niên trong kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất.

12


7.2.5. Phương pháp xử lý và phân tích thông tin: Sử dụng phần mềm
SPSS 11.5 for Window để xử lý và phân tích số liệu của đề tài.
8. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận
văn được kết cấu thành 3 chương, 10 tiết

13


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
GIÁO DỤC LÝ TƯỞNG VÌ MỤC TIÊU “DÂN GIÀU NƯỚC MẠNH”
CHO THANH NIÊN VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP
HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC - CƠ SỞ LÝ LUẬN

1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Lý tưởng
a) Khái niệm về lý tưởng

Trong lịch sử tư tưởng nhân loại đã có nhiều trường phái, học thuyết đưa
ra khái niệm lý tưởng. Ngay từ thời kỳ cổ đại, các triết học ở phương Đông và
Phương Tây đã đưa ra những quan niệm, tư tưởng về lý tưởng của con người.
Theo từ điển tiếng Việt, lý tưởng là mục đích cao nhất, tốt đẹp nhất mà
người ta phải phấn đấu để đạt tới. Lý tưởng là khái niệm được các nhà nghiên
cứu xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau. Ở đây, chúng ta tiếp cận vấn đề
dưới góc độ triết học và tâm lý - giáo dục học.
Theo từ điển Triết học, lý tưởng là sự phản ánh hiện thực khách quan
một cách đặc thù vào ý thức con người hoặc một nhóm xã hội nào đó dưới
dạng một mô hình, hình mẫu hoàn thiện. Bởi vậy, nội dung của lý tưởng được
quy định bởi các quan hệ xã hội thống trị và những đặc điểm tinh thần, tâm lý
của nhân cách.
Dưới góc độ tâm lý học, lý tưởng được xem xét là một bộ phận hợp
thành quan trọng của xu hướng nhân cách cùng với nhu cầu, hứng thú, thế giới
quan và niềm tin…Vì thế, lý tưởng là một mục tiêu cao đẹp của hình ảnh mẫu
mực tương đối hoàn chỉnh có sức lôi cuốn con người vươn tới nó.

14


b) Tính chất của lý tưởng
Lý tưởng vừa có tính hiện thực, vừa có tính lãng mạn. Hình ảnh lý tưởng
được xây dựng từ những chất liệu vốn có trong hiện thực. Đó là tính hiện thực
của lý tưởng. Đồng thời, lý tưởng còn có tính lãng mạn. Bởi vì, mục tiêu của
nó là cái gì đó có thể đạt được trong tương lai. Trong một chừng mực nào đó,
nó đi trước cuộc sống và phản ánh xu thế phát triển hợp quy luật của con
người, nhóm xã hội, toàn xã hội. Có thể nói, tại một thời điểm xác định, con
người chỉ có khả năng tiếp cận tới lý tưởng (cũng như tiếp cận tới chân lý) chứ
không thể đạt tới một cách tuyệt đối.
Lý tưởng còn mang tính xã hội do chỗ con người không ai có thể vượt

qua khỏi thời đại của mình. Hoạt động của họ diễn ra trong những điều kiện cụ
thể của một xã hội cụ thể. Sống và lao động trong xã hội đó, họ thường xuyên
phân tích, đánh giá, chọn lọc và khái quát hoá thực tại để đi đến xây dựng cho
bản thân mình một hình ảnh hoàn hảo, mẫu mực làm kim chỉ nam cho mọi
hoạt động của mình. Mặc dù, lý tưởng là một bộ phận cấu thành của ý thức con
người nhưng sự tồn tại của nó đối với mỗi con người là một hiện tượng khách
quan. Đối với mỗi con người cụ thể, các hình mẫu hoàn thiện là có thể khác
nhau nhưng đã là con người thì ai cũng phải có lý tưởng riêng của mình.
Lý tưởng vừa là mục tiêu cao cả mà con người hướng tới, vừa là động
lực thôi thúc con người hành động. Sức hấp dẫn của nó rất khó diễn tả. Có
người đã sử dụng thuật ngữ "say lý tưởng". Nếu thiếu lý tưởng, con người sẽ
cảm thấy mất phương hướng, cuộc đời trở nên vô vị, nhạt nhẽo. Chính lý
tưởng khơi dậy sự nỗ lực nhận thức, sự nồng nhiệt tình cảm, quyết tâm của ý
chí và quyết tâm trong hành động, giúp con người vươn tới mục tiêu cao cả
nào đó, bất chấp gian khổ hy sinh. Như vậy, trong lý tưởng đã có sự thống nhất
giữa tình cảm, ý chí, hành động. Nhờ đó, nó vừa có tác dụng như chiếc đèn
định hướng, vừa như một động lực mạnh mẽ thúc đẩy con người hành động
một cách sáng tạo và có kết quả để đạt tới mục đích mà mình đã ấp ủ, lựa
chọn, tôn thờ.

15


Tóm lại, thực chất của lý tưởng là phạm trù của ý thức xã hội, phản ánh
hiện thực khách quan dưới dạng một mô hình, một hình mẫu hoàn thiện, vừa là
mục tiêu cao cả, vừa là động lực mạnh mẽ thúc đẩy con người hành động. Lý
tưởng được tạo nên bởi sự kết hợp cao độ giữa nhận thức sâu sắc, tình cảm
mãnh liệt, ý chí kiên cường của mỗi con người. Lý tưởng quyết định thái độ lựa
chọn của mỗi con người đối với hiện thực khách quan.
c) Phân loại lý tưởng

Xét về mặt cấu trúc, người ta chia lý tưởng theo các cách khác nhau,
nhưng thông thường, người ta chia theo các cách sau:
Cách thứ nhất, lý tưởng bao gồm lý tưởng xã hội và lý tưởng cá nhân.
Theo các tác giả đề tài "Giáo dục lý tưởng cách mạng cho thanh niên", lý
tưởng cách mạng được hiểu là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Theo đó, ta
thấy, nếu như trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, lý tưởng của thanh
niên là "không có gì quý hơn độc lập tự do" và hướng tới một xã hội ấm no
hạnh phúc, thì ngày nay, lý tưởng ấy được cụ thể hoá là "dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ và văn minh" dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam.
Dưới góc độ lý tưởng cá nhân, chúng ta có thể hiểu đó chính là mô hình
nhân cách của con người mới xã hội chủ nghĩa. Trong những con người đó có
sự thống nhất giữa đạo đức cách mạng và tri thức cách mạng. Họ vừa là sản
phẩm, vừa là chủ thể của quá trình xây dựng xã hội mới. Nói một cách khái
quát đó là "con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể lực, phong
phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức".
Dưới góc độ khác, người ta phân loại lý tưởng thành bốn loại: lý tưởng
chính trị xã hội, lý tưởng đạo đức, lý tưởng nghề nghiệp và lý tưởng thẩm mỹ.

16


Lý tưởng chính trị xã hội là những quan điểm về một xã hội có tổ chức
cao nhất của những người lao động tự do bình đẳng và tự giác, của những
người làm chủ bản thân, tự nhiên và xã hội.
Lý tưởng đạo đức là hình ảnh về một nhân cách hoàn thiện với những
phẩm chất cao quý nhất như: Chủ nghĩa tập thể, tinh thần tương trợ đồng chí,
chủ nghĩa quốc tế, lòng yêu nước, ý thức cao cả về nghĩa vụ xã hội, lòng chân
thật, tính khiêm tốn….
Lý tưởng nghề nghiệp là hướng tới nghề nghiệp hoàn toàn phù hợp

với năng lực, sở trường của bản thân, được xã hội coi trọng, có lợi cho bản
thân, gia đình và xã hội.
Lý tưởng thẩm mỹ là những quan điểm về cái đẹp, cái hoàn thiện mà cơ
sở của nó là những tư tưởng của sự phát triển toàn diện những năng lực sáng
tạo của mỗi con người, là sự kết hợp hài hoà giữa sự phong phú về tinh thần và
trong sáng về đạo đức, thể chất.
d) Lý tưởng có các chức năng sau đây
Thứ nhất, với tư cách là "hình chiếu tinh thần" của hiện tại vào tương lai,
lý tưởng quyết định những mục tiêu mà mỗi người đặt ra cho mình; Lý tưởng
xác định mục tiêu và chiều hướng phát triển của cá nhân. Mục tiêu của lý tưởng
chính là mục đích cuộc sống của cá nhân, là mục đích mà cá nhân phải đi tới
trong tương lai.
Thứ hai, khi được xét như là quan niệm về cái hoàn thiện được hình
thành trong mỗi cá nhân thì lý tưởng được xem như là tiêu chuẩn, là thước đo
để cá nhân có thể tự đánh giá bản thân mình.
Thứ ba, lý tưởng không chỉ là một hiện tượng của ý thức thuần tuý mà
trở thành một động lực thực sự của hoạt động tinh thần và hoạt động thực tiễn
cụ thể của con người hướng tới việc hiện thực hoá lý tưởng đó. Sự thôi thúc
của nhận thức, tình cảm trong lý tưởng làm cho con người có được sức mạnh

17


vượt qua được mọi khó khăn, trở ngại, tham gia vào hoạt động để đạt được
mục tiêu lý tưởng. Lý tưởng trực tiếp chi phối sự hình thành và phát triển tâm
lý của cá nhân, nó được giữ vai trò lớn trong quá trình tự giáo dục của cá nhân.
Bởi vì, lý tưởng đã chứa đựng tính chân lý khách quan trong bản thân nó.
1.1.2. Khái niệm thanh niên
Thanh niên là một khái niệm được hiểu và định nghĩa theo nhiều cách
khác nhau. Nó là một đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác

nhau. Tuỳ theo nội dung tiếp cận, góc độ nhìn nhận hoặc cấp độ đánh giá mà
người ta đưa ra các định nghĩa khác nhau về thanh niên.
Theo từ điển Tiếng Việt do Viện ngôn ngữ học công bố vào năm 2003
(in lần thứ 9, có sửa đổi, bổ sung) thì mục từ “Thanh niên” được giải thích như
sau: “Người còn trẻ, đang ở độ tuổi trưởng thành” [64, tr.913]
Trong tiếng Anh, bộ từ điển Oxford giải thích mục từ “youth” (thanh
niên) như sau:“Là người trẻ tuổi, trong giai đoạn giữa tuổi thơ ấu và tuổi
người lớn, hăng hái, nhiệt tình hoặc thiếu kinh nghiệm hoặc chỉ những đặc
trưng khác của độ tuổi này. Khi được dùng ở dạng số nhiều thì từ này chỉ tập
hợp những người trẻ tuổi”[1, tr.877]
Theo Chiến lược phát triển Việt Nam đến năm 2010 do Thủ tướng
Chính phủ ký phê duyệt kèm theo Quyết định số 70/2003/QĐ-TTg ngày 29-42003 thì thanh niên nước ta được cho là những công dân Việt Nam có độ tuổi
từ 15 đến 34. Chỉ hai năm sau, Luật Thanh niên (Luật số 53/2003/QH11) được
Quốc hội khóa XI thông qua đã quy định tại Điều 1: “Thanh niên quy định
trong luật này là công dân Việt Nam từ đủ 16 tuổi đến 30 tuổi”. Đây cũng là
điều được ghi nhận trong, Điều 1, mục 2 của Điều lệ Đoàn Thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh (2007). Qua đó cho có thể thấy trong các văn bản pháp lý
quan trọng nhất về thanh niên Việt Nam, nội hàm của thuật ngữ này cũng
không được quy định nhất quán.

18


Tùy theo góc độ tiếp cận của mỗi ngành khoa học mà người ta đưa ra
các định nghĩa khác nhau về thanh niên.
Về mặt sinh học, các nhà nghiên cứu coi thanh niên là một giai đoạn xác
định trong quá trình tiến hoá của cơ thể, trong đó thấy rõ sự cường tráng về thể
lực, sự phát triển về trí tuệ, sự trưởng thành về sinh dục, tính dục.
Các nhà tâm lý học lại thường nhìn nhận thanh niên gắn với những quy
luật biến đổi, phát triển tâm lý lứa tuổi và thế hệ như sự phát triển khả năng

phân tích và suy luận, ham thích cái mới, sự hăng say hoạt động và sáng tạo,
sự tự khẳng định, tự ý thức.
Các nhà xã hội học lại xem thanh niên là một giai đoạn xã hội hoá cá
nhân, giai đoạn tiếp thu các giá trị xã hội để hình thành nhân cách; là thời kỳ
chuyển tiếp từ tuổi thơ phụ thuộc sang giai đoạn xác lập vai trò cá nhân qua
các hoạt động độc lập, từng bước hình thành ý thức trách nhiệm công dân,
chuẩn bị và tự nâng cao kiến thức để lao động, cống hiến.
Dưới góc độ kinh tế học, thanh niên chủ yếu được nhìn nhận là lực
lượng lao động xã hội hùng hậu, là nguồn lực thường xuyên bổ sung cho đội
ngũ lao động trên mọi lĩnh vực, là bộ phận quan trọng cấu thành lực lượng sản
xuất, rất năng động, nhạy cảm, gắn bó với tiến trình phát triển xã hội với tư
cách là lớp người xung kích, đi đầu trong cuộc đấu tranh sáng tạo ra xã hội
mới.
Với triết gia, văn nghệ sĩ, thanh niên được định nghĩa bằng cách so sánh
hình tượng "thanh niên là mùa xuân của nhân loại", là "bình minh của cuộc
đời".
Theo Tiến sỹ Phạm Đình Nghiệp, Viện Nghiên cứu Thanh niên Việt
Nam: "Thanh niên được hiểu là một nhóm nhân khẩu xã hội đặc thù có độ tuổi
từ 14, 15 đến trên dưới 30 tuổi, gắn với mọi giai cấp, mọi tầng lớp xã hội và có
mặt trên mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội".

19


Tùy thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, chính trị, xã hội, đạo đức,
truyền thống… mà mỗi quốc gia có quy định độ tuổi thanh niên khác nhau.
Nhưng hầu hết các nước trên thế giới đều thống nhất tuổi thanh niên bắt đầu từ
14 hoặc 15. Còn thanh niên kết thúc ở tuổi nào thì có sự khác biệt. Có nước
quy định là 25 tuổi, có nước quy định là 30 và cũng có nước cho đó là tuổi 40.
Nhưng xu thế chung là nâng dần giới hạn kết thúc của tuổi thanh niên.

1.1.3. Lý tưởng của thanh niên
Cuộc sống luôn đặt ra cho mỗi người, nhất là đặt ra cho lớp trẻ nhiều
câu hỏi cần phải giải đáp. Một trong những câu hỏi lớn nhất là mục đích sống,
nói một cách dễ hiểu và gần gũi hơn là sống để làm gì? Hoặc nói một cách phổ
biến như hiện nay: lý tưởng mà thanh niên đang phấn đấu là gì?
Lý tưởng gắn bó với thanh niên như ánh sáng mặt trời với cuộc sống
như chính sự đòi hỏi tự thân. Nó có vai trò quan trọng và quyết định đối với
tuổi trẻ. Trước hết, tuỳ vào lứa tuổi, thanh niên bao giờ cũng sống với những
ước mơ, hoài bão, bao giờ cũng mang trong mình tâm lý hướng tới cái cao đẹp
và họ luôn cần đến một điểm tựa tinh thần để giúp mình vượt qua những khó
khăn, thử thách. Điều mà thanh niên sợ nhất như Kalinin - nhà giáo lớn của
nước Nga đã nói là sự "trống rỗng trong tâm hồn, sự hẫng hụt trong định
hướng". Ngay từ tuổi thiếu niên, lúc đang còn sống trong vòng tay của gia đình
cho đến khi bước đến trường tiếp nhận những kiến thức về xã hội, nhân văn,
khoa học kỹ thuật…lớp trẻ đã phải trả lời câu hỏi: học để làm gì? Một câu trả
lời tưởng chừng như đơn giản những mỗi lúc, mỗi thời kỳ lại có cách trả lời
không giống nhau.
Trong chế độ cũ, cha mẹ khuyên con cái học để ra làm quan, học để
không phải chân lấm tay bùn, để mưu lợi cho bản thân và gia đình…, chung
quy lại là vì lợi ích cá nhân. Đó cũng là một mục đích sống hẹp hòi, ích kỷ mà
thực dân phong kiến đã gieo cho thanh niên như trong thư gửi cho thanh niên
Bác Hồ đã đề cập.

20


Trong cuộc chiến tranh chống đế quốc Pháp, người anh hùng trẻ tuổi Lý
Tự Trọng đã hi sinh cho lý tưởng cách mạng cao đẹp. Nếu như thế hệ cha anh
biến nhà tù thực dân thành trường học cách mạng thì câu nói khẳng khái và
anh dũng của anh Lý Tự Trọng đã biến phiên tòa đế quốc thành nơi hùng biện

cho lý tưởng thanh niên. Câu nói: “Con đường của thanh niên chỉ là con
đường cách mạng, không thể có con đường nào khác” – đã trở thành lý tưởng
sống, lời tuyên ngôn của biết bao thế hệ thanh niên “Cảm tử cho Tổ quốc quyết
sinh”. Ngày 20/10 hằng năm chúng ta hướng về anh bằng tất cả lòng cảm phục
và kính trọng tấm gương hi sinh cao quý để cho khí tiết cách mạng mãi ngân
vang như là một điệp khúc hào hùng mãi soi sáng cho thế hệ thanh niên trong
thời đại mới với những biến đổi và phát triển không ngừng. Vậy, lý tưởng sống
của thanh niên trong thời đại hiện nay là gì? Lý tưởng có phải là những gì lớn
lao khó thực hiện hay không?
Để “lý tưởng” không trở thành “ảo tưởng”, lý tưởng phải gắn liền với
hiện thực và được cụ thể hóa bằng hành động. Lý tưởng cao đẹp không thể
tách rời nghĩa cử chính nghĩa, cao thượng. Vì vậy, đòi hỏi mỗi thanh niên phải
dám dấn thân, trải nghiệm và khẳng định chính mình, không trở thành sự phản
ánh rập khuôn một hình ảnh của cá nhân con người lý tưởng nào đó. Bên cạnh
đó, những mục tiêu này đòi hỏi con người thực hiện trong một thời gian dài, do
đó, mỗi cá nhân cần đặt ra cho chính mình những “lộ trình” cụ thể và học cách
hài lòng với những thành quả đạt được trong từng giai đoạn. Song song đó,
một chặng đường dài hơi đòi hỏi sự rèn luyện bản thân không ngừng nghỉ, sự
kiên trì, vì khi mục tiêu dần định hình đồng nghĩa với khó khăn ngày càng tăng
lên. Lý tưởng ở đây như đi lên bậc thang của sự phát triển, lên cao đuối sức sẽ
là lý tưởng nửa vời; hoặc không kiên định con đường, rẽ sang hướng khác, sẽ
là chệch hướng lý tưởng.
Muốn đi đến cùng một lý tưởng cao đẹp, thể hiện nét văn hóa ứng xử là
một cách trong tổng thể các cách thức để đạt được mục tiêu đó. Môi trường xã
hội là nơi đào luyện tích cực, song bên cạnh đó đòi hỏi sự quyết tâm rất lớn từ
chính bản thân mỗi thanh niên. Để xác định con người cá nhân hiện tại và con

21



người lý tưởng đòi hỏi sự phấn đấu không ngừng để dần xóa đi khoảng cách.
Nhưng không phải chỉ tập trung vào những việc lớn lao mà quên đi những
hành động nhỏ nhoi đời thường. Với tính chất này, có thể nói, lý tưởng là một
phần của văn hóa – toàn bộ giá trị vật chất và tinh thần của con người. Trong
thời đại ngày nay, kinh tế là khóa mà văn hóa là chìa. Một nghĩa cử đẹp là một
hành vi có văn hóa, xuất phát từ những việc làm giản dị. Đó là tấm lòng hướng
về nơi bão lũ Tây Nguyên và miền Trung bằng những hành động cụ thể; là
không xả rác ngoài đường; là giao tiếp lịch sự, không kì thị với những người
đã từng lầm lỡ, biết lắng nghe và chia sẻ với mọi người…Điều này đòi hỏi
thanh niên phải trung thực với chính bản thân mình.“Luật” cho bản thân là vô
cùng quan trọng, bởi con người ta không tránh khỏi sự phán xét của “tòa án
lương tâm”. Như vậy, sự quyết tâm của bản thân là yếu tố quyết định, có tính
chất cộng hưởng cùng với môi trường xã hội tác động đến lý tưởng và chuẩn
mực hành vi của con người.
Đất nước đã trải qua những năm tháng chiến tranh, do đó, lý tưởng độc
lập, tự do đòi hỏi sự hy sinh xương máu của nhiều thế hệ trẻ tuổi. Trong quá
trình vận động lớp lớp thanh niên đánh giặc, chúng ta có nhiều phong trào lớn
như: "Tòng quân giết giặc cứu nước", "Ba sẵn sàng", "Năm xung phong"…để
thực hiện lý tưởng độc lập, tự do, thống nhất đất nước.
Giờ đây, lẽ sống vì “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh” đã và đang đi vào cuộc sống của thanh niên qua con đường lập
thân, lập nghiệp, cống hiến cho Tổ quốc. Nói cách khác, đây chính là lý tưởng
phấn đấu không chỉ trước mắt mà còn rất lâu dài. Bởi lẽ, dân giàu, nước mạnh,
công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước là công việc của nhiều thế hệ, trong
đó, mỗi thế hệ lại có mục tiêu cụ thể của mình.
Lý tưởng hiện nay của thanh niên trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước là cần rèn luyện, phấn đấu và vươn lên thực hiện mục tiêu xây
dựng xã hội “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đó là
mục tiêu phấn đấu của mỗi thanh niên – người chủ tương lai của đất nước, là


22


trọng tâm công tác bồi dưỡng giáo dục tuổi trẻ, đối với Đoàn TNCS Hồ Chí
Minh với chức năng là trường học xã hội chủ nghĩa của thanh niên thì vấn đề
này càng trở nên quan trọng và cấp thiết hơn bao giờ hết.
Đoàn thanh niên với tư cách là tổ chức chính trị – xã hội của thanh niên,
là trường học xã hội chủ nghĩa của thanh niên. Với vai trò, chức năng của
mình, Đoàn Thanh niên đã thực hiện tốt công tác giáo dục tư tưởng, định
hướng hành động của đoàn viên, thanh niên, là cầu nối đưa thanh niên đến với
tri thức và lý tưởng cao đẹp. Bởi lý tưởng thanh niên là một định nghĩa có nội
hàm rộng lớn nhưng bao hàm trong nó là lý tưởng cách mạng cao đẹp; lý
tưởng của thanh niên với ý nghĩa đó mới tạo nên sự hài hòa, mới không tách
rời cái chung của xã hội
Chúng ta không chính trị hóa lý tưởng thanh niên, song, lý tưởng thanh
niên trong thời đại mới gắn liền với lý tưởng cộng sản, hướng đến sự nhân
đạo, văn minh và nghĩa tình.
Lý tưởng là một con đường đầy thử thách nhưng cũng lắm vinh quang.
Và vinh quang sẽ đến với ai dám dấn thân, đi đến cùng mục tiêu, lý tưởng của
mình để hoàn thiện nhân cách, sống có ích cho xã hội, trọn tình trọn nghĩa
trong cuộc sống. Mỗi thanh niên trong thời đại ngày nay cần xây dựng cho
mình một hoài bão, một lý tưởng cao đẹp để thực hiện mục tiêu “dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” mà Đảng ta đã xác định.
Như vậy, đã là con người, ai cũng cần có lý tưởng để phấn đấu. Đặc biệt
ở lứa tuổi thanh niên - Tuổi đẹp nhất của đời người, mỗi thanh niên dù ở điều
kiện và cương vị khác nhau đều hướng tới những mơ ước cao nhất và đẹp nhất
của đời mình. Tuy nhiên, phấn đấu để đạt được lý tưởng bao giờ cũng là sự
phấn đấu lâu dài và đầy gian nan, thậm chí phải xả thân quên mình.
Từ việc phân tích một số khía cạnh nói trên, chúng ta tạm đưa ra quan
niệm về lý tưởng của thanh niên như sau: Lý tưởng của thanh niên là mục tiêu

cao cả, vừa là động lực mạnh mẽ thúc đẩy thanh niên hành động, mang tính
định hướng và tính lịch sử xã hội. Mỗi quốc gia, mỗi thời đại và giai đoạn lịch

23


sử đều xây dựng lý tưởng của thanh niên cho phù hợp với những yêu cầu mà
xã hội đạt ra.
1.1.4. Khái niệm “dân giàu, nước mạnh”
Nội hàm khái niệm “dân giàu, nước mạnh” đã được Hồ Chí Minh nhắc
đến trong nhiều bài báo, bài nói chuyện. Tuy nhiên, phải đến Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần VII, Đảng ta mới đưa khái niệm này vào trong Văn kiện: “Phát
triển kinh tế - xã hội theo con đường củng cố độc lập dân tộc và xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta là quá trình thực hiện dân giàu, nước mạnh, tiến lên
hiện đại trong một xã hội nhân dân làm chủ, nhân ái, có văn hoá, có kỷ cương,
xoá bỏ áp bức, bất công, tạo điều kiện cho mọi người có cuộc sống ấm no, tự
do, hạnh phúc”.
Trước đó, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Đảng ta cũng đã có
những quan điểm chỉ đạo nói lên tầm quan trọng của CNXH, và khẳng định
chỉ có CNXH mới làm cho đất nước ta vững chắc hơn, dân ta giàu hơn: “Ngày
nay, nước nhà đã hoàn toàn độc lập thì Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội là một.
Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới làm cho nhân dân ta vĩnh viễn thoát khỏi nghèo
nàn, lạc hậu, có cuộc sống văn minh, hạnh phúc. Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới
đem lại cho nhân dân ta quyền làm chủ đầy đủ, mới làm cho Tổ quốc ta độc
lập, tự do vững chắc và ngày càng giàu mạnh”. Khái niệm “dân giàu, nước
mạnh” đã được nhắc đến trong nhiều văn kiện như văn kiện Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần VIII, IX, X, XI của Đảng. Đây cũng chính là mục tiêu xây dựng
đất nước trong thời công nghiệp hóa, hiện đại hóa mà Đảng ta đã xác định:
“xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn
minh, không còn người bóc lột người, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội

và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản” [17, tr.4]
Xã hội mà mỗi người dân đang từng ngày, từng giờ cố gắng xây dựng đó
là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân
dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại
và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc

24


dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát
triển toàn diện; có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì
dân.
“Dân giàu” ở đây không chỉ có nghĩa “giàu” về vật chất, với phương
tiện dồi dào, cơm no, áo ấm. “Dân giàu” còn có nghĩa là được hưởng một đời
sống tinh thần phong phú. Nghĩa là Đảng ta không chỉ lo phát triển kinh tế, tạo
công ăn việc làm để người dân có tiền, có nhà cửa và phương tiện vật chất dồi
dào vì cái giàu như thế này chưa phải là trọn vẹn. Cái giàu trọn vẹn của người
dân là phải giàu thêm cả về đời sống tinh thần, giàu lòng nhân ái, giàu lòng nhân
đạo, giàu lòng ái quốc, giàu lòng vị tha. Cho nên khi nói đến việc tạo dựng cho
người dân một cuộc sống giàu có, là nói đến sự giàu có trên các mặt (thể chất),
Tâm (tâm hồn) và Trí (trí tuệ).
“Nước mạnh” ở đây có không phải chỉ đến một nghĩa là “một đất nước
có nền quân sự hùng mạnh”, nước mạnh ở đây còn thể hiện ở tư thế được tôn
trọng trên trường quốc tế, không bị lấn át về lãnh thổ… “Nước mạnh” là nước
có một nền kinh tế tiến bộ, sản xuất cao có thể bảo đảm được tiềm lực quốc gia
phát triển không thua gì các nước khác trên thế giới. Chúng ta không thể xây
dựng một xã hội văn minh, người dân giàu có trên một nền kinh tế nghèo nàn,
lạc hậu, và ngược lại, nếu nền kinh tế phát triển cao mà không đặt trọng tâm
phục vụ con người thì xã hội đó sẽ bị băng hoại, đời sống người dân xuống
cấp. Xã hội văn minh không chỉ ở chỗ có nền kinh tế phát triển và tạo một

cuộc sống dồi dào về vật chất cho mọi người, mà xã hội đó còn phải thể hiện ở
sự tương quan tốt đẹp giữa con người và con người, ở sự công bằng, ở một đời
sống tinh thần phong phú, qua sự đánh giá bằng nhân phẩm, trí tuệ, đạo đức
của con người với xã hội và với đất nước.
Mặt khác, “Dân giàu, nước mạnh” còn nhấn mạnh đến quan niệm dân là
gốc của nước và nước mạnh là do dân. Khi lấy dân làm gốc của nước tức là
dân lập nên nước, và dân quy định lấy những cơ chế để bảo vệ và ổn định xã
hội và phát triển. Xét cho cùng, quan niệm “Dân giàu, nước mạnh” là lấy con

25


×