Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống trong điều kiện việt nam hội nhập quốc tế luận văn ths triết học 60

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (832.59 KB, 110 trang )

TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ



ĐINH THỊ HẠNH

GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY
GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG
TRONG ĐIỀU KIỆN VIỆT NAM HỘI NHẬP QUỐC TẾ

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2012


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ



ĐINH THỊ HẠNH

GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY
GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG
TRONG ĐIỀU KIỆN VIỆT NAM HỘI NHẬP QUỐC TẾ

Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60 22 80

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC


Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THÁI SƠN

HÀ NỘI - 2012


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn khoa học của TS. Nguyễn Thái Sơn. Các số liệu, tài liệu nêu ra
trong luận văn là trung thực, đảm bảo tính khách quan, khoa học. Các tài liệu
tham khảo có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.
Hà Nội, ngày 12 tháng 11 năm 2012.
Tác giả luận văn

Đinh Thị Hạnh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1

Chương 1. GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG DÂN TỘC TRONG ĐIỀU
KIỆN VIỆT NAM HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY ......................... 10
1.1.

Giá trị văn hóa tinh thần truyền thống tiêu biểu của dân tộc Việt
Nam ............................................................................................... 10
1.1.1. Giá trị và giá trị văn hoá tinh thần truyền thống ............................. 10
1.1.2. Một số giá trị văn hóa tinh thần truyền thống tiêu biểu của dân
tộc Việt Nam cần được giữ gìn và phát huy ................................... 15


1.2.

Hội nhập quốc tế và tác động của nó lên giá trị văn hóa truyền
thống.............................................................................................. 46
1.2.1. Hội nhập quốc tế của Việt Nam hiện nay ....................................... 46
1.2.2. Tác động của hội nhập quốc tế đối với giá trị văn hóa tinh thần
truyền thống của Việt Nam ............................................................. 50

Chương 2. GIỮ GÌN, PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG
TRONG ĐIỀU KIỆN VIỆT NAM HỘI NHẬP QUỐC TẾ - THỰC
TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ................................................................... 56

2.1.

Thực trạng giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống trong
điều kiện Việt Nam hội nhập quốc tế và một số vấn đề đặt ra ........ 56
2.1.1. Thực trạng giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống
trong điều kiện Việt Nam hội nhập quốc tế .................................... 56
2.1.2. Một số vấn đề đặt ra đối với việc giữ gìn và phát huy giá trị văn
hóa truyền thống trong điều kiện Việt Nam hội nhập quốc tế......... 69

2.2.

Một số giải pháp cơ bản trong việc giữ gìn và phát huy giá trị
văn hóa truyền thống dân tộc ......................................................... 72
2.2.1. Bảo tồn, làm giàu và lan toả giá trị văn hóa truyền thống dân tộc .. 72
2.2.2. Phòng, chống xu hướng thương mại hóa trong tổ chức các hoạt
động văn hóa truyền thống, gắn phát triển kinh tế với giữ gìn và
phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ................................................... 78



2.2.3. Hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về văn hóa và đào tạo
đội ngũ cán bộ quản lý văn hóa ngang tầm nhiệm vụ ..................... 83
2.2.4. Tuyên truyền, giáo dục để việc giữ gìn và phát huy giá trị văn
hóa truyền thống trở thành tự giác ................................................. 86
2.2.5. Kịp thời nhận thức và xử lý những mâu thuẫn văn hóa xuất hiện
khi Việt Nam hội nhập quốc tế ...................................................... 90
KẾT LUẬN ...................................................................................................... 97
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................. 100


BẢNG QUY ƯỚC CHỮ VIẾT TẮT

KHXH

:

Khoa học Xã hội

TP.HCM

:

Thành phố Hồ Chí Minh



:

Trung ương


XHCN

:

Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời kỳ đổi mới của đất nước, với tư duy đổi mới toàn diện về
kinh tế, chính trị, xã hội, đối ngoại, quốc phòng, an ninh v.v, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã chủ trương đổi mới tư duy trên lĩnh vực văn hóa. Nghị quyết
Trung ương 5, khóa VIII (1998) về Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc đã khẳng định vai trò của văn hóa trong tiến trình lịch
sử dân tộc và tương lai đất nước là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục
tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, với mục đích làm
cho văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng
người, từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng, từng địa bàn dân cư, vào mọi
sinh hoạt và quan hệ con người, tạo ra trên đất nước ta đời sống tinh thần cao
đẹp. Nghị quyết Trung ương 10, khóa IX tiếp tục khẳng định: Bảo đảm sự gắn
kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng, chỉnh đốn Đảng
là then chốt với không ngừng nâng cao văn hóa - nền tảng tinh thần của xã
hội; tạo nên sự phát triển đồng bộ của ba lĩnh vực trên chính là điều kiện
quyết định bảo đảm cho sự phát triển toàn diện và bền vững của đất nước”.
Đại hội X của Đảng nhấn mạnh: “Phương hướng chung của sự nghiệp văn
hóa nước ta là phát huy chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đại đoàn kết dân
tộc, ý thức độc lập tự chủ, tự cường, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa, xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, làm cho văn hóa thấm sâu vào

toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng người, từng gia đình, từng tập
thể và cộng đồng, từng địa bàn dân cư, tạo ra trên đất nước ta đời sống tinh
thần cao đẹp, trình độ dân trí cao, khoa học phát triển, phục vụ đắc lực sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, văn minh, tiến bước vững chắc lên chủ nghĩa xã hội” [16, tr.106].

1


Trong quá trình hội nhập và phát triển, bên cạnh những cơ hội thuận
lợi, Đảng ta đã sớm nhận ra những nguy cơ, vấn nạn của “luồng văn hóa độc
hại” xâm nhập vào nước ta từ nhiều con đường khác nhau, Ban Bí thư Trung
ương Đảng đã ra Chỉ thị số 46-CT/TƯ (ngày 27/7/2010) định hướng cho toàn
Đảng, toàn dân và toàn quân quyết tâm giữ gìn, bảo vệ ''bản sắc văn hóa”
trong thời kỳ hội nhập quốc tế; kiên quyết ngăn ngừa, phòng, chống sự xâm
nhập của các sản phẩm văn hóa độc hại, ảnh hưởng đến văn hóa truyền thống
và đạo đức xã hội.
Tiếp thu và phát triển đường lối văn hóa đó, Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung và phát triển năm
2011) đã nêu lên định hướng về văn hóa “Xây dựng nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm
nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết
chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành sức mạnh nội sinh
quan trọng của phát triển. Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa
tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, tiếp thu những tinh hoa văn hóa
của nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh, vì lợi ích chân chính
và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ
ngày càng cao'' [18, tr.74-75].
Giá trị văn hóa truyền thống là những giá trị văn hóa được nhân dân
sáng tạo, giữ gìn và lưu truyền qua các thế hệ trong sinh hoạt đời sống cộng

đồng. Những giá trị văn hóa truyền thống được hun đúc qua hàng nghìn năm
lịch sử đã làm nên cốt cách, diện mạo và bản sắc văn hóa của dân tộc. Giá trị
văn hóa không phải cố định, bất biến mà là yếu tố năng động luôn biến đổi
theo dòng lịch sử. Khi bước sang một thời kỳ mới thì những giá trị văn hóa
truyền thống của dân tộc lại cần được thẩm định, chắt lọc, kế thừa, giữ gìn và
phát huy để trở thành động lực quan trọng cho sự phát triển đất nước.

2


Từ năm 1986, Việt Nam chủ động hội nhập với khu vực và thế giới, đã
làm thay đổi diện mạo nền kinh tế - xã hội đất nước. Nhờ tăng trưởng kinh tế
liên tục đạt ở mức độ cao mà đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được
cải thiện rõ rệt, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng lên. Kết quả
đó chứng tỏ con đường hội nhập của Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn. Quá
trình hội nhập quốc tế đem lại cho nước ta những cơ hội lớn, song cũng đặt ra
nhiều thách thức không nhỏ. Một trong những thách thức đó là sự phai nhạt,
phá vỡ những giá trị văn hóa truyền thống vốn có từ lâu đời của dân tộc. Sự
phát triển của văn hóa chưa đồng bộ và tương xứng với phát triển kinh tế, nhiều
biểu hiện “thương mại hóa”, xu hướng ngoại vọng, lai căng, xa rời bản sắc,
truyền thống văn hóa của dân tộc chưa được ngăn chặn hữu hiệu. Thực tế cho
thấy không ít những sản phẩm văn hóa, những tư tưởng, lối sống ngoại lai đang
có nguy cơ làm băng hoại những giá trị làm nên tinh hoa, cốt cách và bản lĩnh
con người Việt Nam. Nhiều giá trị văn hóa truyền thống đã bị lãng quên, xem
nhẹ, một số thuần phong mỹ tục bị xâm phạm, đã trở thành hiểm hoạ làm cản
trở bước đường đi tới hạnh phúc và phồn vinh của dân tộc ta.
Như vậy, vấn đề đặt ra là phải làm thế nào để trong điều kiện của hội
nhập quốc tế chúng ta không đánh mất những giá trị văn hóa truyền thống của
dân tộc mà còn giữ gìn và phát huy những giá trị đó, biến chúng thành sức
mạnh đưa đất nước phát triển lên một tầm cao mới. Đây thực sự là vấn đề nan

giải, cấp bách được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm, đòi hỏi cần được
tiếp tục nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau.
Do đó, việc nghiên cứu để làm rõ thực trạng và xây dựng những giải
pháp khắc phục những hạn chế, ngăn ngừa những nguy cơ, đi đôi với việc giữ
gìn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc là mối quan tâm
thường xuyên của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Xuất phát từ những vấn đề
nêu trên, chúng tôi thực hiện đề tài “Giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa

3


truyền thống trong điều kiện Việt Nam hội nhập quốc tế” làm luận văn thạc sĩ
Triết học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Văn hóa, di sản văn hóa, giá trị văn hóa luôn được quan tâm thỏa đáng
trong đường lối, chính sách và trong thực tiễn lãnh đạo của Đảng và Nhà
nước Việt Nam qua các thời kỳ. Tiêu biểu là các phẩm “Đề cương văn hóa
Việt Nam” (1943), “Mấy nguyên tắc lớn của cuộc vận động văn hóa mới Việt
Nam hiện nay” (1944). Ngày 23/11/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh
65/SL “Ấn định nhiệm vụ của Đông Phương Bác cổ Học viện” - Sắc lệnh đầu
tiên của Nhà nước ta về việc bảo tồn di sản văn hoá dân tộc. Năm 1948 tác
phẩm “Chủ nghĩa Mác và vấn đề văn hóa Việt Nam” của đồng chí Trường
Chinh đã đề cập tới văn hóa, giá trị, di sản văn hóa và xây dựng văn hóa mới
theo ba nguyên tắc cơ bản là: Dân tộc; Khoa học; Đại chúng. Trong hai cuộc
kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Đảng và Nhà nước ta tiếp tục ban
hành nhiều văn bản để chỉ đạo về vấn đề này. Cùng với sự phát triển đất nước,
đặc biệt là sau khi Việt Nam hoàn toàn thống nhất (1975), Đảng và Nhà nước
ta đã bổ sung, hoàn chỉnh đường lối, chính sách, pháp luật về văn hóa, di sản
văn hóa dân tộc. Đại hội IV, V của Đảng đều chỉ rõ nền văn hóa mới của Việt
Nam “vừa hấp thụ có chọn lọc những thành quả của văn minh loài người,

những thành tựu văn hóa, khoa học hiện đại, vừa là sự kết tinh và nâng cao
lên một tầm cao mới những gì đẹp nhất trong truyền thống bốn ngàn năm của
tâm hồn Việt Nam, của văn hóa Việt Nam” [3, tr.62]. Theo đó, những giá trị
văn hóa truyền thống tốt đẹp là “Truyền thống yêu nước, bất khuất, kiên
cường và mưu trí trong đấu tranh giành độc lập tự do, là tình thương giữa
người lao động, là đức tính cần cù, sáng tạo và tinh thần lạc quan yêu đời” [3,
tr.63]. Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII (1998) về “Xây dựng nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc” và “Luật di sản văn hóa”
là đỉnh cao của việc xây dựng đường lối và thể chế hóa đường lối văn hóa của

4


Đảng và Nhà nước ta. Như vậy, Đảng ta có cách nhìn biện chứng đối với việc
giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Nền văn hóa tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc cần kế thừa những gì tốt đẹp, có giá trị nhất của
văn hóa truyền thống dân tộc, kết tinh lại và nâng nó lên một tầm cao mới cho
phù hợp với việc xây dựng nền văn hóa mới để lan tỏa chứ không phải chỉ là
bảo tồn, phục cổ.
Hiện thực hóa quan điểm trên, đã có nhiều công trình nghiên cứu văn
hóa tiếp cận từ các góc độ và trong các phạm vi khác nhau. Trong đó, cần kể
đến các công trình nghiên cứu thiên về lý luận văn hóa, bản sắc văn hoá như
Ngô Đức Thịnh, Hoàng Vinh (1999): Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn xây
dựng văn hóa ở nước ta. Nxb Văn hóa Thông tin; Trường Lưu (1999): Văn
hóa một số vấn đề lý luận. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Hồ Bá Thâm
(2003): Bản sắc văn hóa dân tộc. Nxb Văn hóa Thông tin v.v. Các đề tài
nghiên cứu cấp quốc gia như KX.06 “Văn hóa, văn minh vì sự phát triển và
tiến bộ của xã hội” do Nguyễn Hồng Phong chủ nhiệm. Chương trình này tập
hợp nhiều chuyên đề văn hóa, di sản văn hóa và giá trị văn hóa dân tộc, ví dụ
như nhánh đề tài KX.06/16 “Chính sách bảo tồn và phát huy di sản văn hóa

dân tộc”. Đề tài KX.07-02 “Các giá trị truyền thống và con người Việt Nam
hiện nay” do Phan Huy Lê chủ nhiệm đã tổng kết một số giá trị văn hóa
truyền thống tiêu biểu của dân tộc và lý giải nhiều vấn đề đang đặt ra trong
mối quan hệ với con người Việt Nam hiện nay của một số giá trị văn hóa
truyền thống tiêu biểu đó. Trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước theo
con đường chủ nghĩa xã hội, việc nghiên cứu giá trị văn hóa truyền thống
trước tác động cơ chế thị trường, của hội nhập quốc tế càng thu hút các nhà
nghiên cứu xác định những giá trị cần được kế thừa và phát huy trong điều
kiện mới. Các công trình nghiên cứu từ góc độ tiếp cận này đã xây dựng được
hệ thống các quan niệm về giá trị và xác định được hệ giá trị văn hóa truyền
thống, tiêu biểu như: Lê Thị Lan (2001) “Nội dung và vị thế của giá trị truyền

5


thống Việt Nam trong giá trị nhân loại” Tạp chí Triết học, số 7/2001; Phẩm
An Ninh (2009) “Quan niệm về giá trị và hệ giá trị văn hóa” Đề tài KX.03.14/
06-10 TP. HCM - Biên Hoà; Hoàng Chí Bảo (2009) “Hệ giá trị văn hóa
truyền thống Việt Nam trong đổi mới và hội nhập”, Tạp chí Cộng sản; Hà
Minh Đức (2009) “Giá trị văn hóa, nhận thức và chuyển đổi” Tạp chí Văn học
v.v. Đã có nhiều bài viết, công trình nghiên cứu về bảo tồn, phát huy bản sắc
và các giá trị văn hóa truyền thống trong giai đoạn hiện nay. Các tác giả của
các công trình này đã phân tích mối quan hệ biện chứng giữa bảo tồn và phát
huy bản sắc văn hóa; về thực trạng của việc bảo tồn và phát huy các giá trị
văn hóa truyền thống từ đó đề ra những giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy
hiệu quả bản sắc văn hóa Việt Nam. Điển hình là các công trình, bài viết như:
Nguyễn Trọng Chuẩn “Văn hóa Việt Nam và sự phát triển lâu bền của quốc
gia” Tạp chí Triết học, số 5/1998; Nguyễn Văn Huyên (1999) “Công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và vấn đề giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc” Tạp chí Triết
học, số 1/1999; Lê Thị Tuyết Ba (1999) “Vấn đề bảo vệ các giá trị đạo đức

truyền thống trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam” Tạp chí Triết học, số
1/1999; Nguyễn Khoa Điềm (chủ biên, 2004) “Xây dựng và phát triển nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”, Nxb Khoa học Xã hội,
Hà Nội; Dương Phú Hiệp (2009) “Quan niệm về mối quan hệ giữa bảo tồn và
phát triển hệ giá trị văn hóa truyền thống với tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân
loại” Đề tài KX.03.14/06-10 TP.HCM - Biên Hòa; v.v. Đáng chú ý là công
trình nghiên cứu của Nguyễn Duy Bắc (chủ biên, 2009) “Sự biến đổi các giá
trị văn hóa trong bối cảnh xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện
nay”, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội. Công trình này đã xây dựng được hệ
thống lý luận cơ bản về văn hóa, giá trị văn hóa, biến đổi giá trị văn hóa.
Đồng thời đã chỉ ra được thực trạng biến đổi các giá trị văn hóa, phát triển
văn hóa trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở
nước ta hiện nay; góp phần bổ sung và hoàn thiện hệ thống đường lối, chính

6


sách về phát triển văn hóa và con người, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến đậm đà bản sắc dân tộc, hình thành các giá trị văn hóa mới trong điều
kiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế; Mai Thị Quý (2009) “Toàn
cầu hóa và vấn đề kế thừa một số giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc
trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay”, Nxb Khoa học Xã hội xuất phát từ
việc phân tích dưới góc độ triết học về thực chất của quá trình toàn cầu hóa để
chỉ ra sự tác động của nó đến giá trị truyền thống và sự cần thiết phải kế thừa
một số giá trị truyền thống của dân tộc. Tác giả luận văn đã kế thừa những kết
quả của các công trình để thực hiện yêu cầu về lý luận và thực tiễn của đề tài
nghiên cứu. Đề tài KX.03.14/06-10 “Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa
truyền thống Việt Nam trong đổi mới và hội nhập” là đề tài lý luận - thực tiễn,
nói cách khác, từ các quan điểm lý thuyết soi rọi vào thực tiễn văn hóa Việt

Nam để làm nổi rõ những giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam, sự chuyển
đổi của nó trong thời kỳ đổi mới và hội nhập, cũng như đề xuất các giải pháp
nhằm phát huy những giá trị văn hóa trong công cuộc xây dựng và phát triển
con người và văn hóa Việt Nam.
Các công trình, đề tài nghiên cứu nêu trên đã đi sâu về mặt lý luận,
phương pháp nghiên cứu và xây dựng được những quan niệm về giá trị, hệ giá
trị văn hóa truyền thống, vấn đề giữ gìn, kế thừa và phát huy các giá trị đó
hiện nay. Song, nghiên cứu từ góc độ triết học để phân tích về hội nhập quốc
tế của Việt Nam, từ đó thấy được mối quan hệ giữa sự tác động của hội nhập
quốc tế đến yêu cầu giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của dân
tộc là vấn đề vẫn hết sức cần thiết, có ý nghĩa thực tiễn, cần được hệ thống
hóa và làm rõ hơn. Bởi việc giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống
trong điều kiện Việt Nam hội nhập quốc tế sẽ nảy sinh nhiều yêu cầu mới cần
được lý giải như: giá trị văn hóa truyền thống nào cần giữ gìn và phát huy?
Giữ gìn và phát huy nó như thế nào? Bằng cách nào? Bên cạnh cái cần giữ gìn

7


và phát huy thì cái nào phải loại bỏ hoặc thay đổi, hoặc tiếp thu? V.v. Đề tài
“Giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống trong điều kiện Việt Nam
hội nhập quốc tế” góp phần thực hiện phần nào những yêu cầu này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Hệ thống hóa những giá trị văn hóa truyền thống tiêu biểu của dân tộc
Việt Nam; phân tích những tác động của hội nhập quốc tế và nêu thực trạng
việc giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống tiêu biểu của dân tộc trong
điều kiện hội nhập quốc tế, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm giữ gìn và
phát huy hiệu quả hơn nữa các giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Làm rõ thêm các khái niệm “văn hóa”, “giá trị”, “giá trị văn hóa
truyền thống”; xác định một số “giá trị văn hóa truyền thống tiêu biểu”, “giá
trị văn hóa tinh thần truyền thống” của dân tộc cần được giữ gìn, phát huy;
- Làm rõ sự tác động của hội nhập quốc tế đối với việc giữ gìn và phát
huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc;
- Phân tích thực trạng việc giữ gìn, phát huy những giá trị ấy trong điều
kiện Việt Nam hội nhập quốc tế và xác định một số vấn đề đặt ra trong quá
trình này;
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm giữ gìn và phát huy giá trị văn
hóa truyền thống trong điều kiện Việt Nam hội nhập quốc tế.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn là một số giá trị văn hóa
truyền thống của Việt Nam dưới góc độ triết học trong sự tác động của hội
nhập quốc tế;
4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn là giữ gìn và phát huy các giá
trị văn hóa tinh thần truyền thống trong hội nhập quốc tế của Việt Nam.

8


5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam về văn hóa, bản sắc
văn hóa, giá trị văn hóa truyền thống;
Luận văn kế thừa cách tiếp cận và phương pháp, kết quả nghiên cứu
của các công trình, đề tài liên quan đã được công bố.
5.2. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp,
phương pháp luận chung nhất của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa
duy vật lịch sử như: lịch sử và lôgic; phân tích và tổng hợp; quy nạp và diễn
dịch; so sánh, trừu tượng hóa, khái quát hóa... nhằm đạt mục đích và nhiệm vụ
mà luận văn đã đề ra.

6. Đóng góp mới về lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn tổng hợp các kết quả nghiên cứu đã công bố mà tác giả luận
văn thu thập được trong quá trình nghiên cứu sẽ làm rõ hơn nữa thực trạng
việc giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống dân tộc trong điều kiện
hội nhập quốc tế;
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản định hướng cho việc giữ gìn và phát
huy các giá trị văn hóa truyền thống trong điều kiện Việt Nam hội nhập quốc tế.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn được trình bày trong 2 chương, 4 tiết:
Chương 1: Giá trị văn hóa truyền thống dân tộc trong điều kiện Việt
Nam hội nhập quốc tế hiện nay.
Chương 2: Giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống trong điều
kiện Việt Nam hội nhập quốc tế - Thực trạng và giải pháp.

9


Chương 1
GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG DÂN TỘC
TRONG ĐIỀU KIỆN VIỆT NAM HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY

1.1. Giá trị văn hóa tinh thần truyền thống tiêu biểu của dân tộc
Việt Nam
1.1.1. Giá trị và giá trị văn hóa tinh thần truyền thống
1.1.1.1. Khái niệm văn hóa
Văn hóa có mặt ở mọi không gian, thời gian, nó xuất hiện và tồn tại
cùng với loài người. Văn hóa là khái niệm được sử dụng với nội hàm hết sức
phong phú và đa dạng. Mỗi nhà nghiên cứu từ các góc độ chuyên môn hay do
những mục đích nghiên cứu mà có những quan niệm hay định nghĩa khác

nhau về văn hóa.
Ở phương Tây khái niệm “văn hóa” theo tiếng Latinh là “Cultura” với
nghĩa “trồng trọt”, “nuôi dưỡng”, “cư trú”, “luyện tập”, “lưu tâm”. Theo
nghĩa này, văn hóa được hiểu là quá trình làm nảy sinh, nuôi dưỡng, chăm sóc
các hiện tượng, quá trình hoạt động của con người, nhằm tạo nên các giá trị
vật chất và tinh thần của một cộng đồng người. Sự phát triển của văn hóa luôn
gắn với sự phát triển của các khoa học về con người nên cách hiểu “văn hóa”
ngày càng gắn với những hoạt động của nó. E.B.Taylor, trong công trình
“Primitive Culture” (1871) lần đầu tiên đã đưa ra khái niệm văn hóa: toàn bộ
những tri thức, những tín ngưỡng, những nghệ thuật, những giá trị, những luật
lệ, phong tục và tất cả những năng lực và tập quán khác mà con người với tư
cách thành viên của xã hội nắm bắt được. Nhà nhân học Roy d’Andrade
khuyến nghị không nên lầm lẫn khái niệm văn hóa với tổng số những tri thức
được một nhóm người nào đó chia sẻ. Bởi nếu hiểu như vậy thì văn hóa là sự
tác động tới cách mà con người suy nghĩ và hành động và nếu như vậy, văn
hóa có những chức năng như: Chức năng “biểu tượng”: văn hóa chuyển tải

10


những tri thức và tín ngưỡng về thế giới quanh ta cũng như cách thế giới ấy
vận hành và biến đổi; Chức năng xây dựng: văn hóa làm tồn tại những thể chế
như hôn nhân, tiền bạc, luật pháp, ngôn ngữ mà con người chấp nhận hoặc
không chấp nhận những hệ quả của chúng; Chức năng hướng dẫn: bằng cách
nhập tâm, văn hóa thúc đẩy con người tuân theo những chuẩn mực hành vi.
Chức năng gợi ý (évocative): đối mặt với các sự kiện, văn hóa làm cho con
người cảm nhận tình cảm, thể hiện thái độ, do đó, văn hóa đều mang xúc cảm,
có liên hệ với văn hóa. Định nghĩa rất rộng này về văn hóa và về tất cả những
gì được gán cho nó dẫn đến chỗ làm cho văn hóa trở thành một hiện thực tinh
thần hơn là vật chất. Tuy nhiên, đó không phải là những “nhận thức” đơn

giản, mà là một tập hợp những biểu tượng huy động “toàn bộ đời sống tinh
thần”, từ trí tuệ đến hành động, từ suy luận đến xúc cảm. Điều này gây hệ quả
là có quá nhiều góc nhìn thích hợp để có thể mô tả cái con người hiểu là văn
hóa: từ những đồ vật nó chứa đựng (các tác phẩm, các tri thức, các tín ngưỡng
v.v) đến những thể chế và chuẩn mực được nó sử dụng, hoặc từ những thiết bị
và những ứng xử do nó quy định.
Tuyên bố về những chính sách văn hóa tại Hội nghị quốc tế do
UNESCO chủ trì từ 26/7 - 6/8/1982 tại Mêhicô định nghĩa “Văn hóa là tổng
thể những nét riêng biệt tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định
tính cách của một xã hội hay của một nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao
gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con
người, những hệ thống các giá trị, những tập tục và những tín ngưỡng. Văn
hóa đem lại cho con người khả năng suy xét về bản thân. Chính văn hóa đã
làm cho chúng ta trở thành những sinh vật đặc biệt nhân bản, có lý tính, có óc
phê phán và dấn thân một cách có đạo lý. Chính nhờ văn hóa mà con người tự
thể hiện, tự ý thức được bản thân, tự biến mình là một phương án chưa hoàn
thành đặt ra để xem xét những thành tựu của bản thân, tìm tòi không biết mệt

11


mỏi những ý nghĩa mới mẻ và sáng tạo nên những công trình vượt trội lên bản
thân” [66, tr.24].
Ở phương Đông, vào thế kỷ VI tr.CN, Khổng Tử đã dùng thuật ngữ
“văn” với nghĩa là hình thức đẹp đẽ biểu hiện trong lễ, nhạc, trong ngôn ngữ,
trong giao tiếp và ứng xử của con người với đồng loại. Đến thế kỷ III tr.CN,
Tuân Tử giải thích “văn” là cái “ngụy” (cái do con người tạo nên, không tự
nhiên mà có). Người sử dụng thuật ngữ “văn hóa” sớm nhất ở phương Đông
có lẽ là Lưu Hướng thời Tây Hán với nghĩa như một phương thức giáo hóa
con người - văn trị giáo hóa. Sau này “văn” được hiểu là vẻ đẹp, “hóa” là biến

cải, biến đổi và “văn hóa” là biến cải, biến đổi, bồi đắp cho đẹp ra.
Theo quan điểm của triết học duy vật biện chứng, văn hóa là đặc trưng
vốn có của con người và xã hội loài người. Nếu hoạt động của con vật là hoạt
động bản năng, thì hoạt động của con người là hoạt động tự giác, hoạt động
phục vụ hiểu biết, khám phá và sáng tạo. Trong tác phẩm “Phê phán cương
lĩnh Gôta”, C.Mác vạch rõ nguồn gốc của văn hóa gắn liền với sức sáng tạo
và năng lực của con người, sự sáng tạo đó bao giờ cũng bắt đầu từ lao động.
Lao động đã sáng tạo ra con người và xã hội loài người. Nếu như loài vật chỉ
kiếm sống bằng cách lợi dụng các vật có sẵn trong tự nhiên và nhờ đó xác lập
bản chất của chúng, thì ngược lại qua lao động các quan hệ của con người
được xác lập biến đổi, kể cả quan hệ với tự nhiên. Cái làm nên bản chất
người, tạo nên sự khác biệt giữa con người với bất kì giống loài nào của tự
nhiên, chính là “hoạt động sống” của con người. Đó là hoạt động sản xuất và
tái sản xuất ra bản thân con người với tư cách là một thực thể xã hội. Cũng
chính trong quá trình lao động, văn hóa đã in dấu của mình trong đó, thẩm
thấu trong từng yếu tố của lao động, làm cho lao động, lúc ban đầu như là cái
“bản năng”, đã trở thành “văn hóa lao động” của con người.
Như vậy, C.Mác đã đề cập tới cội nguồn sâu xa của văn hóa, giải quyết
mỗi quan hệ giữa khách thể và chủ thể văn hóa, coi văn hóa là sự “thăng hoa”

12


của quá trình sản xuất vật chất, là cơ sở để con người tự khẳng định bản thân
mình với tư cách là chủ thể có ý nghĩa. Chính ý thức đã làm cho con người trở
thành chủ nhân đầy trách nhiệm trước tự nhiên, trở thành một thực thể xã hội
có cảm xúc, có tình cảm cao quý. Trong toàn bộ các tác phẩm kinh điển của
mình C.Mác không để lại một tác phẩm nào với tư cách là sự trình bày hệ
thống các quan điểm của mình về văn hóa. Văn hoá không được C.Mác đề
cập đến như một lĩnh vực chuyên biệt, độc lập. Trong triết học Mác bản chất

văn hóa được thể hiện trong mối quan hệ biện chứng với bản chất của con
người và xã hội. C.Mác trình bày vấn đề văn hóa trong các tác phẩm: Hệ tư
tưởng Đức (1845 - 1846), Góp phần phê phán khoa Kinh tế, chính trị (1859).
Qua các tác phẩm, ta thấy, C.Mác cho rằng, văn hóa bắt nguồn từ lao động,
văn hóa như là sự thăng hoa của quá trình sản xuất vật chất, là cái để con
người khẳng định mình. Do vậy, bản chất con người luôn sáng tạo theo quy
luật của cái đẹp, C.Mác viết: “Súc vật chỉ nhào nặn vật chất theo thước đo và
nhu cầu của giống loài nó, còn con người thì có thể sản xuất theo thước đo
của bất cứ giống nào và ở đâu cũng có thể áp dụng thước đo thích dụng cho
đối tượng; do đó con người cũng nhào nặn vật chất theo quy luật của cái đẹp”
[30, tr.93-94].
Ở Việt Nam, học giả Đào Duy Anh đồng nhất văn hóa với xã hội:
“Người ta thường cho rằng văn hóa thường là những học thuật tư tưởng của
loài người, nhân thế mà xem văn hóa vốn có tính chất cao thượng đặc biệt.
Thực ra, không phải như vậy. Học thuật tư tưởng cố nhiên là ở trong phạm vi
của văn hóa, nhưng phàm sự sinh hoạt về kinh tế, về chính trị, về xã hội, cùng
hết thảy các phong tục tập quán tầm thường lại không phải phạm vi của văn
hóa hay sao? Hai tiếng “văn hóa” chẳng qua chỉ chung tất cả các phương diện
của loài người. Cho nên, ta có thể nói rằng: văn hóa tức là sinh hoạt” [1, tr.13].
Văn hóa thường được hiểu theo nghĩa hẹp và nghĩa rộng. Theo nghĩa
hẹp, văn hóa được coi như một lĩnh vực hoạt động. Với nghĩa này, Hồ Chí

13


Minh nói: trong công cuộc kiến thiết nước nhà, có bốn điều cần phải chú ý
đến, cùng phải coi trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa. Ở đây
văn hóa được đặt ngang hàng với chính trị, kinh tế, xã hội tạo thành bốn vấn
đề của đời sống xã hội. Văn hóa còn được hiểu là văn hóa - nghệ thuật xếp
cạnh giáo dục, khoa học. Còn hẹp hơn nữa là khi văn hóa được dùng với

nghĩa học vấn, học thức.
Theo nghĩa rộng, văn hóa thường được xem là tất cả những gì do con
người sáng tạo ra. Trong khi nhiều nhà khoa học trên thế giới còn đang bàn
cãi, tranh luận về khái niệm văn hóa thì ở phần cuối “Nhật ký trong tù” (19421943), Hồ Chí Minh đã nêu lên định nghĩa về văn hóa như sau: “Vì lẽ sinh tồn
cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra
ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, tôn giáo, khoa học, nghệ thuật, những
công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng.
Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp
mọi phương thức sinh hoạt và những biểu hiện của nó mà loài người đã sản
sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”
[34, tr.431].
Hồ Chí Minh xuất phát từ phạm trù “sinh tồn” để kiến giải phạm trù
“văn hóa” là kết quả tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt của loài người,
đồng thời là động lực để loài người thích ứng với những nhu cầu cuộc sống và
đòi hỏi của sự sinh tồn. Đây là một quan niệm về văn hóa dễ hiểu, dễ gần đời
sống hơn, đó là coi văn hóa gắn với các phương thức hoạt động và sinh hoạt
của con người, giống với cách hiểu văn hóa của Đào Duy Anh. Từ sau Cách
mạng Tháng Tám, văn hóa được Hồ Chí Minh xác định là đời sống tinh thần,
thuộc kiến trúc thượng tầng của xã hội.
Từ cách tiếp cận trên, theo hướng nghiên cứu của mình chúng tôi đã sử
dụng định nghĩa về văn hóa như sau “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá
trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích luỹ qua quá trình hoạt

14


động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và
xã hội của mình” [56, tr.20]. Với định nghĩa này, văn hóa không phải là lĩnh
vực riêng biệt, mà là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do con người
sáng tạo ra. Văn hóa là chìa khoá của sự phát triển.

1.1.1.2. Quan niệm về giá trị và giá trị văn hóa.
Giá trị (value) là một khái niệm của nhiều bộ môn khoa học khác nhau,
trong mỗi bộ môn khoa học ấy, khái niệm này lại mang những hàm nghĩa
rộng, hẹp, cụ thể khác nhau. Trước thế kỷ XIX, những kiến thức về giá trị gắn
liền với triết học. Đến đầu thế kỷ XX, giá trị học mới hình thành như một
khoa học riêng và khái niệm giá trị trở thành trung tâm của giá trị học nhưng
có nhiều cách tiếp cận khác nhau tới khái niệm giá trị do các công trình
nghiên cứu xuất phát từ những góc độ khoa học, mục đích khác nhau.
Theo Từ điển Bách khoa toàn thư Xôviết, “Giá trị là sự khẳng định
hoặc phủ định ý nghĩa của các đối tượng thuộc thế giới chung quanh đối với
con người, giai cấp, nhóm hoặc toàn bộ xã hội nói chung. Giá trị được xác
định không phải bởi bản thân các thuộc tính tự nhiên, mà là bởi tính chất cuốn
hút (lôi cuốn) của các thuộc tính ấy vào phạm vi hoạt động sống của con
người, phạm vi các hứng thú và nhu cầu, các mối quan hệ xã hội, các chuẩn
mực và phương thức đánh giá ý nghĩa nói trên được biểu hiện trong các
nguyên tắc và chuẩn mực đạo đức, trong lý tưởng, tâm thế và mục đích” [9,
tr.72]. Từ điển Tiếng Việt coi giá trị là cái làm cho một vật có ích lợi, có ý
nghĩa, là đáng quý về một mặt nào đó. V.E.Đaviđôvích quan niệm rằng, “giá
trị, sự đánh giá, cái được ưa thích, cái được mong đợi, cái được chờ đợi, nội
dung tốt - tất cả những điều đó nói lên một cái gì đó tích cực đối với con
người và đời sống của con người” [9, tr.73].
Có nhiều cách tiếp cận khác nhau, song cách tiếp cận giá trị từ góc độ
triết học là có tính khái quát nhất. Chủ nghĩa duy vật biện chứng nhấn mạnh
bản chất xã hội, tính lịch sử, tính nhận thức được và tính thực tiễn của giá trị.

15


Theo đó, “giá trị” là hiện tượng xã hội đặc thù và nguồn gốc của mọi giá trị
đều từ quá trình lao động sáng tạo của con người. Giá trị không phải là ý niệm

về sự vật hay chuẩn mực chủ quan về sự vật mà là những hiện tượng xã hội
hiện thực có ý nghĩa hiện thực đối với con người. Song, giá trị bao giờ cũng
được xác định trong mối quan hệ giữa một bên là khách thể - bản thân sự vật,
với những thuộc tính khách quan của nó và một bên là chủ thể - con người với
sự cảm nhận, đánh giá về khách thể.
Xét về mặt khách thể, giá trị là khách quan bởi sự vật, hiện tượng mang
trong chính mình những thuộc tính có thể thoả mãn những nhu cầu hết sức đa
dạng và không ngừng tăng của con người, mang lại lợi ích cho con người,
được con người cảm nhận và đánh giá. Giá trị không phải là chủ quan mà là
những chuẩn mực chung trong đời sống của cộng đồng, là sản phẩm của sự
đánh giá và xác nhận của xã hội, được thực tiễn kiểm nghiệm, được lịch sử
xác nhận là phù hợp với yêu cầu tồn tại và phát triển của mỗi xã hội. Cần
nhấn mạnh rằng, “giá trị là ý nghĩa của sự vật, hiện tượng chứ không phải bản
thân sự vật hiện tượng và chỉ có thể là sự vật, hiện tượng mang giá trị mà
thôi” [53, tr.75]. “Phải phân biệt giá trị với quan hệ, giá trị với hoạt động, giá
trị với các sự vật của hiện thực để khẳng định rõ giá trị chỉ là những thuộc
tính chính diện (mặt tích cực trong ý nghĩa) chứ không phải bất kỳ thuộc tính
nào” [24, tr.374].
Xét về mặt chủ thể, giá trị phải là sự cảm nhận, đánh giá của con người
đối với khách thể. Việc xác định giá trị phụ thuộc nhiều yếu tố, tuỳ vào mỗi
lúc, mỗi nơi, mỗi chủ thể, nên không có một chuẩn chung để đong, đo giá trị
cho mọi đối tượng. Một sự vật, hiện tượng đối với chủ thể này là có giá trị,
đối với chủ thể khác lại không có ý nghĩa gì cả, thậm chí cùng một chủ thể ở
thời điểm này thì có giá trị nhưng ở thời điểm khác nó lại là phản giá trị. Theo
đó giá trị là “những cái gì là cần, là tốt, là hay, là đẹp, nói cách khác đó là
những cái được con người cho là chân, thiện, mỹ, giúp khẳng định và nâng

16



cao bản chất người” [58, tr.11]. Tất nhiên, sự đánh giá của con người luôn
mang tính lịch sử - cụ thể. Mỗi thời đại lịch sử, mỗi cộng đồng, mỗi dân tộc
sẽ có những quan niệm khác nhau về giá trị, do chính quá trình lao động sáng
tạo đã hình thành, nó được giữ gìn và phát huy trong đời sống xã hội hiện
thực. Vì vậy, giá trị là một phạm trù biểu hiện trình độ văn minh, sức sáng tạo
và năng lực vươn lên của con người trong quá trình chinh phục giới tự nhiên,
cải biến xã hội và chính mình.
Cũng từ góc độ triết học còn cho thấy, giá trị của mỗi cộng đồng, dân
tộc bao giờ cũng tạo thành một hệ thống các giá trị, chúng nảy sinh, tồn tại,
biến đổi trong sự liên hệ, tác động hữu cơ với nhau. Trong những hoàn cảnh
lịch sử - xã hội cụ thể của mỗi cộng đồng, dân tộc lại luôn tồn tại hệ giá trị
tổng quát (gồm những giá trị chung nhất, mang tính phổ quát, có vai trò định
hướng đối với mọi hoạt động của cả cộng đồng, dân tộc) và hệ giá trị bộ phận
(là những giá trị được đúc rút trong từng lĩnh vực của đời sống và có vai trò
định hướng trong từng lĩnh vực riêng lẻ ấy).
Từ những cách tiếp cận khác nhau, các nhà nghiên cứu còn tiến hành
phân loại các giá trị dựa trên các tiêu chí khác nhau: Căn cứ vào sự thoả mãn
nhu cầu vật chất hay tinh thần giá trị được phân thành 3 dạng: giá trị vật chất,
giá trị tinh thần và giá trị vật chất - tinh thần. Còn theo chiều dài của lịch sử,
giá trị được chia thành giá trị truyền thống và giá trị hiện đại. Nếu dựa vào các
lĩnh vực nhu cầu khác nhau của đời sống con người, giá trị được phân thành
giá trị sinh học; giá trị kinh tế; giá trị tri thức; giá trị tâm linh; giá trị chính trị
v.v. Ngoài ra còn có những giá trị chung cho toàn nhân loại, có những giá trị
riêng của một cộng đồng, dân tộc hay của cá nhân; có những giá trị nội sinh
và có những giá trị ngoại nhập v.v.
Đến nay, đã có nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đưa ra những
khái niệm khác nhau về giá trị. Mặc dù cách tiếp cận, mục đích và ngôn từ

17



diễn đạt không đồng nhất, song qua các khái niệm, quan niệm về giá trị nêu
trên, chúng ta có thể rút ra một số điểm chung sau:
Thứ nhất, giá trị là những cái có thể thoả mãn những nhu cầu tích cực
của con người và góp phần thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Khẳng định điều
này cũng có nghĩa là đã phân biệt với những cái không mang giá trị, “phản giá
trị”, “vô giá trị”, đi ngược lại xu hướng phát triển của lịch sử, ngăn cản sự tiến
bộ của xã hội. Giá trị là cơ sở, chuẩn mực để dựa vào đó con người xác định
mục đích, phương hướng hoạt động, là cơ sở để đánh giá thái độ, hành vi
đúng sai, nên làm hay không làm. “Nói đến giá trị là muốn khẳng định mặt
tích cực, mặt chính diện, nghĩa là bao hàm quan điểm coi giá trị gắn liền với
cái đúng, cái tốt, cái hay, cái đẹp; là nói đến cái có khả năng thôi thúc con
người hành động và nỗ lực vươn tới” [6, tr.16].
Thứ hai, giá trị có tính lịch sử khách quan, nghĩa là sự xuất hiện, tồn tại
hay mất đi của một giá trị cụ thể nào đó không phải do ý thức của con người,
mà do yêu cầu của thời đại lịch sử. Điều này cho thấy, giá trị hay một hệ giá
trị không phái là cái “nhất thành bất biến” trái lại nó luôn biến đổi, chuyển đổi
theo lịch sử và do yêu cầu của thực tiễn.
Thứ ba, giá trị bao giờ cũng chứa đựng các yếu tố thuộc về chủ thể qua
đó nó thể hiện sự lựa chọn, đánh giá và xác nhận của chủ thể.
Thứ tư, giá trị còn được xác định trong mối quan hệ thực tiễn với con
người. Giá trị phải được đánh giá và kiểm nghiệm bởi thực tiễn. Tiêu chuẩn
chân lý của giá trị phải là thực tiễn, do đó một sự vật hiện tượng có giá trị hay
không không chỉ căn cứ vào nhu cầu, lợi ích của chủ thể mà còn phải căn cứ
vào thực tiễn, vào hiệu quả xã hội của những hoạt động mà chủ thể nhằm theo
đuổi giá trị ấy.
Thứ năm, giá trị khi đã được xác nhận sẽ trở thành động lực và là
khuôn mẫu cho mọi hoạt động của con người, vì mỗi cá nhân để hoàn thiện

18



nhân cách của mình đều cần đối chiếu những mục đích, nhu cầu của mình với
hệ giá trị đã được hình thành.
Như vậy, từ góc độ triết học, giá trị “dùng để chỉ ý nghĩa tích cực của
các sự vật, hiện tượng, quá trình, quan hệ… (cả vật chất lẫn tinh thần) đối với
một cá nhân, một cộng đồng, một giai cấp, một xã hội hay toàn thể nhân loại
trong một điều kiện lịch sử cụ thể. Điều đó cũng có nghĩa là, các sự vật, hiện
tượng, quá trình, quan hệ… có thể được coi là có giá trị khi chúng có khả
năng thoả mãn những nhu cầu vật chất và tinh thần mang tính tích cực, lành
mạnh của con người” [53, tr.75].
Giá trị, như đã phân tích có nhiều cấp độ, nhiều lĩnh vực khác nhau
song giá trị văn hóa là rộng nhất, bao trùm nhất, vì theo nghĩa rộng văn hóa là
tất cả những gì “do con người sáng tạo ra”. Song, đã có nhiều quan niệm về
“giá trị văn hóa” theo nghĩa hẹp và đồng nhất “giá trị văn hóa” với “giá trị đạo
đức”, “giá trị tinh thần” hoặc với “chuẩn mực”. Theo chúng tôi những quan
niệm như vậy là không đúng, bởi lẽ, văn hóa rộng hơn đạo đức, đạo đức chỉ là
một khía cạnh, một thành tố của văn hóa, văn hóa không chỉ là tinh thần và hệ
giá trị văn hóa gồm cả giá trị vật chất lẫn giá trị tinh thần. Trong giá trị văn
hóa có các chuẩn mực nhưng không hoàn toàn là một, giữa chúng được phân
biệt với nhau theo tiêu chí thời gian. Giá trị văn hóa có tính lịch sử (gồm các
giá trị do con người sáng tạo ra trong quá khứ và hiện tại) trong khi chuẩn
mực là những giá trị mà con người hướng tới trong hiện tại và tương lai. Như
vậy, “Giá trị văn hóa đối lập với giá trị tự nhiên và bao gồm tất cả các loại
giá trị đạo đức, giá trị kinh tế, giá trị pháp lý, giá trị ký hiệu học, giá trị toán
học, v.v, vì mọi giá trị và hệ giá trị do con người sáng tạo ra đều thuộc văn
hoá cả rồi” [57, tr.100].
Giá trị văn hóa có ở mọi loại giá trị khác, bởi lẽ bên cạnh giá trị đặc thù
của mỗi lĩnh vực luôn có những chuẩn mực chung để điều chỉnh hành vi, định
hướng hoạt động của con người trong việc ứng xử với môi trường, ứng xử với


19


×