I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT
V C MNH
TộI PHạM CHƯA HOàN THàNH THEO LUậT HìNH Sự VIệT NAM,
(Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk)
LUN VN THC S LUT HC
H NI - 2015
I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT
V C MNH
TộI PHạM CHƯA HOàN THàNH THEO LUậT HìNH Sự VIệT NAM,
(Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk)
Chuyờn ngnh: Lut hỡnh s v t tng hỡnh s
Mó s: 60 38 01 04
LUN VN THC S LUT HC
Cỏn b hng dn khoa hc: PGS.TS CAO TH OANH
H NI - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Vũ Đức Mạnh
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI PHẠM CHƯA
HOÀN THÀNH TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ....... 8
1.1.
Khái niệm và ý nghĩa của tội phạm chưa hoàn thành ................... 8
1.1.1. Khái niệm tội phạm chưa hoàn thành ................................................. 8
1.1.2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu tội phạm chưa hoàn thành................... 19
1.2.
Khái quát lịch sử lập pháp về tội phạm chưa hoàn thành ........... 20
1.2.1. Giai đoạn sau cách mạng tháng 8 đến trước khi Bộ luật hình sự
năm 1985 có hiệu lực ....................................................................... 20
1.2.2. Giai đoạn Bộ luật hình sự năm 1985 có hiệu lực .............................. 22
1.2.3. Giai đoạn Bộ luật hình sự năm 1999 có hiệu lực .............................. 24
1.3.
Tội phạm chưa hoàn thành quy định trong luật hình sự một
số nước............................................................................................ 27
1.3.1. Tội phạm chưa hoàn thành quy định trong Bộ luật hình sự của
nước Thụy Điển ............................................................................... 27
1.3.2. Tội phạm chưa hoàn thành quy định trong Bộ luật hình sự nước
Cộng hòa liên bang Đức .................................................................. 30
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 VỀ
TỘI PHẠM CHƯA HOÀN THÀNH VÀ THỰC TIỄN ÁP
DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK .................................. 34
2.1.
Quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về khái niệm và
trách nhiệm hình sự đối với tội phạm chưa hoàn thành .............. 34
2.1.1. Quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về khái niệm tội phạm
chưa hoàn thành ............................................................................... 34
2.1.2. Quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về trách nhiệm hình sự
đối với tội phạm chưa hoàn thành .................................................... 36
2.2.
Thực tiễn áp dụng pháp luật về tội phạm chưa hoàn thành
trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk ............................................................. 40
2.2.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật về chuẩn bị phạm tội trên địa bàn
tỉnh Đắk Lắk .................................................................................... 41
2.2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về phạm tội chưa đạt trên địa bàn
tỉnh Đắk Lắk .................................................................................... 42
Chương 3: KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VÀ CÁC GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ XỬ
LÝ ĐỐI VỚI TỘI PHẠM CHƯA HOÀN THÀNH TRÊN
ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK .......................................................... 80
3.1.
Yêu cầu cấp thiết của việc hoàn thiện pháp luật hình sự liên
quan đến tội phạm chưa hoàn thành ............................................ 80
3.2.
Kiến nghị hoàn thiện pháp luật hình sự liên quan đến tội
phạm chưa hoàn thành .................................................................. 82
3.3.
Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật đối
với tội phạm chưa hoàn thành trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk ............. 92
3.3.1. Nâng cao công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành và kiểm tra của
Tòa án cấp trên đối với Tòa án cấp dưới .......................................... 92
3.3.2. Tăng cường giải thích, hướng dẫn áp dụng pháp luật ....................... 93
3.3.3. Nâng cao năng lực của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân................... 94
3.3.4. Nâng cao vai trò của các cơ quan bảo vệ pháp luật .......................... 96
KẾT LUẬN ................................................................................................. 99
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................. 102
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu bảng
Tên bảng
Trang
Bảng 2.1: So sánh tỷ lệ bản án của tội phạm chưa hoàn thành so với
tội phạm đã hoàn thành thông qua nghiên cứu 200 bản án
trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk từ năm 2007 đến năm 2014
41
Bảng 2.2: So sánh tỷ lệ các tội phạm cụ thể trong 20 bản án hình sự
về tội phạm chưa hoàn thành
41
Bảng 2.3: Tỷ lệ giai đoạn chuẩn bị phạm tội trong 20 bản án hình sự
về tội phạm chưa hoàn thành
42
Bảng 2.4: So sánh tỷ lệ giai đoạn chuẩn bị phạm tội so với giai đoạn
phạm tội chưa đạt trong 20 bản án hình sự về tội phạm
chưa hoàn thành
43
Bảng 2.5: So sánh tỷ lệ các trường hợp phạm tội chưa đạt trong 20
bản án hình sự về tội phạm chưa đạt
43
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tội phạm, hiểu theo nghĩa khái quát nhất là hành vi nguy hiểm cho xã
hội, có lỗi, trái pháp luật hình sự và phải chịu hình phạt. Sự xuất hiện của tội
phạm diễn ra cùng với sự ra đời của Nhà nước và pháp luật, khi xã hội phân
chia thành giai cấp đối kháng. Để bảo vệ các quyền lợi của giai cấp cầm
quyền, Nhà nước đã quy định những hành vi nguy hiểm cho xã hội nào là tội
phạm và áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người nào thực hiện các hành vi
đó nên tội phạm lại mang bản chất là một hiện tượng pháp lý. Là hiện tượng
tiêu cực mang thuộc tính xã hội, lịch sử và pháp lý, tội phạm luôn chứa đựng
trong mình đặc tính chống lại Nhà nước, chống lại xã hội, đi ngược với lợi ích
chung của cộng đồng, trật tự xã hội, xâm phạm đến quyền, tự do và các lợi ích
hợp pháp của con người.
Tội phạm không phải lúc nào cũng được thực hiện đến cùng mà có thể
được thực hiện ở những mức độ khác nhau do nhiều nguyên nhân. Tội phạm
diễn ra ở các giai đoạn khác nhau thì mức độ nguy hiểm cho xã hội cũng khác
nhau, việc thực hiện tội phạm cố ý trong nhiều trường hợp nó là một quá trình
thỏa mãn dần các dấu hiệu cơ bản của cấu thành tội phạm cụ thể được quy
định trong phần các tội phạm luật hình sự. Trong quá trình tiến hành dần từng
bước đó, có thể do nhiều nguyên nhân khách quan khác nhau không phụ
thuộc vào ý chí chủ quan của người phạm tội mà hành vi của họ phải dừng lại
khi mới chuẩn bị điều kiện để thực hiện hoặc khi chưa thực hiện hoàn thành
tội phạm nào đó. Trong khi đó, pháp luật hình sự lại đặt ra nhiệm vụ đấu tranh
phòng, chống tội phạm không chỉ bảo vệ các quan hệ xã hội được luật hình sự
xác lập và bảo vệ đã bị tội phạm xâm hại, mà cần bảo vệ các quan hệ xã hội
đó trong những trường hợp chưa bị tội phạm xâm hại đến. Nói một cách khác,
1
pháp luật hình sự của Nhà nước đặt ra yêu cầu phải xử lý đồng bộ tất cả các
hành vi nguy hiểm cho xã hội là hành vi thực hiện hoàn thành một tội phạm
và cả hành vi chưa hoàn thành. Bởi lẽ, việc phát hiện, trừng trị những hành vi
phạm tội chưa hoàn thành là nhằm hạn chế đến mức thấp nhất những thiệt hại
do hành vi phạm tội có thể gây ra cho xã hội, cho Nhà nước và cho công dân.
Nói một cách khác, không để cho tội phạm gây ra nguy hiểm cho xã hội thì
tốt hơn để cho tội phạm xảy ra mới tìm cách khắc phục phòng, chống tội
phạm, do đó đây chính là một yêu cầu có ý nghĩa tiên quyết thể hiện trong
chính sách hình sự của Nhà nước ta [29, tr.125-126].
Qua thực tiễn xét xử cho thấy, so với giai đoạn tội phạm đã hoàn thành
thì số vụ án mà Tòa án xét xử tội phạm ở giai đoạn chưa hoàn thành chiếm tỷ
lệ thấp hơn, nguyên nhân là do có nhiều khó khăn trong việc chứng minh
hành vi phạm tội, người phạm tội không thừa nhận mục đích các hành vi
phạm tội của mình, việc đánh giá chứng cứ từ phía các cơ quan tiến hành tố
tụng còn chưa chính xác. Từ những nguyên nhân trên dẫn đến những khó
khăn đối với cơ quan tố tụng trong quá trình xem xét, đánh giá một cách toàn
diện, đầy đủ các tình tiết, bản chất của sự việc. Hiện nay, tình hình tội phạm
trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk vẫn ngày một gia tăng và gây hậu quả hết sức
nghiêm trọng. Tuy nhiên hiện chưa có công trình nào nghiên cứu đề tài: “Tội
phạm chưa hoàn thành theo Luật hình sự Việt Nam, (trên cơ sở số liệu thực
tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk)’’. Do vậy đòi hỏi phải có sự nghiên cứu cụ thể, rõ
ràng để có những luận cứ khoa học về tội phạm chưa hoàn thành, nhằm hạn
chế đến mức thấp nhất những thiệt hại do hành vi phạm tội có thể gây ra, giúp
chúng ta phát hiện, khởi tố, điều tra và đưa ra xét xử một cách kịp thời đối với
tội phạm chưa hoàn thành, nhằm đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
xử lí đối với tội phạm chưa hoàn thành và làm cho công cuộc đấu tranh
phòng, chống tội phạm hình sự trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk đạt được hiệu quả
2
cao. Vì vậy, tôi chọn đề tài “Tội phạm chưa hoàn thành theo Luật hình sự
Việt Nam, (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk)’’ làm đề tài luận
văn Thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm gần đây, ở nước ta có nhiều công trình nghiên cứu;
sách chuyên khảo, sách tham khảo, giáo trình; các bài viết trên các tạp chí
chuyên ngành; các luận văn, luận về tội phạm chưa hoàn thành như: Luật hình
sự Việt Nam (Quyển I Những vấn đề chung), Đào Trí Úc, Nxb. Khoa học Xã
hội, Hà Nội (2000); Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999 – Phần
chung, Đinh Văn Quế, Nxb. thành phố Hồ chí Minh (năm 2000); Giáo trình
Luật hình sự Việt Nam (Phần chung), Lê Cảm, Nxb. Đại học Quốc gia Hà
Nội, Hà Nội (Chủ biên năm 2003 và 2007); Sách chuyên khảo Sau đại
học: Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (Phần chung), Lê Văn
Cảm, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội (2005); Chế định về các giai
đoạn thực hiện tội phạm và mô hình lý luận của nó trong pháp luật hình sự
Việt Nam, Lê Văn Cảm, tạp chí Dân chủ và pháp luật; Cấu thành tội phạm và
vấn đề xác định giai đoạn thực hiện tội phạm, PGS. TS Cao Thị Oanh, trường
Đại học Luật Hà Nội, năm 2010; “Một số vấn đề về các giai đoạn thực hiện
tội phạm”, trong sách: Luật hình sự Việt Nam – Những vấn đề lý luận và thực
tiễn, Lê Thị Sơn, Nxb. Công an Nhân dân, Hà Nội (1997); “Về trách nhiệm
hình sự của hành vi chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt”, Lê Thị Sơn,
tạp chí Luật học; Chương III, Các giai đoạn phạm tội, trong sách: Những vấn
đề lý luận cơ bản về tội phạm trong luật hình sự Việt Nam, Lâm Minh Hạnh,
Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1986; Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về
phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sỹ luật học của
Th.S. Hoàng Đức Ngọc, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2010; Một
số vấn đề lý luận và thực tiễn về tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự
3
Việt Nam, Luận văn thạc sỹ luật học của Th.S. Hồ Thanh Vinh, Khoa Luật,
Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2014; Chương XII, Các giai đoạn phạm tội,
trong sách: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung) (do TSKH. Lê
Cảm chủ biên), Nguyễn Ngọc Chí, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội
(2007); Một số vấn đề về giai đoạn phạm tội chưa đạt, Trịnh Quốc Toản, Tạp
chí Khoa học (chuyên san Kinh tế Luật), số 4/2002; Tội phạm và trách nhiệm
hình sự, Trịnh Tiến Việt, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 2013; “Về
phạm tội chưa đạt và một số hình thức phạm tội khác trong quá trình thực
hiện tội phạm”, Khoa học, Chuyên san Luật học, Trịnh Tiến Việt, năm 2009;
Tiếp tục hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự trước yêu cầu mới của
đất nước, Trịnh Tiến Việt, tạp chí Tòa án nhân dân số 14(7)/2008, năm 2008;
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Trịnh Tiến Việt, Luật học 25, năm 2009; Giáo
trình luật hình sự Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Công an
nhân dân, Hà Nội (năm 2010). v.v…
Từ các công trình trên cho thấy đã có nhiều tác giả nghiên cứu về tội
phạm chưa hoàn thành ở những mức độ khác nhau, đề cập đến khái niệm, các
đặc điểm cơ bản, trách nhiệm hình sự và việc quyết định hình phạt đối với tội
phạm chưa hoàn thành, cụ thể là giai đoạn chuẩn bị phạm tội và phạm tội
chưa đạt. Tuy nhiên, chưa có công trình nào đi sâu vào thực tiễn xử lí đối với
tội phạm chưa hoàn thành trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, để nâng cao hiệu quả áp
dụng pháp luật và hiệu quả xử lí đối với tội phạm chưa hoàn thành trên địa
bàn tỉnh Đắk Lắk.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn:
+ Mục đích nghiên cứu: mục đích nghiên cứu của luận văn là đề xuất
các kiến nghị hoàn thiện pháp luật và các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng
pháp luật về tội phạm chưa hoàn thành. Từ đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả xử lí đối với tội phạm chưa hoàn thành trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
4
+ Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Nghiên cứu các vấn đề lý luận về tội phạm chưa hoàn thành.
- Nghiên cứu lịch sử lập pháp về tội phạm chưa hoàn thành trong pháp
luật Việt Nam qua các thời kì.
- Nghiên cứu về tội phạm chưa hoàn thành quy định trong luật hình sự
một số nước.
- Nghiên cứu quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về tội phạm chưa
hoàn thành.
- Nghiên cứu về thực tiễn áp dụng pháp luật về tội phạm chưa hoàn
thành trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
- Kiến nghị hoàn thiện pháp luật hình sự liên quan đến tội phạm chưa
hoàn thành và đưa ra những các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả xử lí đối
với tội phạm chưa hoàn thành trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
+ Đối tượng nghiên cứu của luận văn:
Luận văn được nghiên cứu dưới góc độ quy định của pháp luật Hình sự
về tội phạm chưa hoàn thành và thực tiễn pháp luật về tội phạm chưa hoàn
thành trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk từ năm 2007 đến năm 2014.
+ Phạm vi nghiên cứu của luận văn:
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu những vấn đề liên quan
đến tội phạm chưa hoàn thành, dưới góc độ pháp lý hình sự và thực tiễn áp
dụng pháp luật đối với tội phạm chưa hoàn thành trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk từ
năm 2007 đến năm 2014.
5. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ
nghĩa duy vật biện chứng Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước
5
và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, về công tác đấu tranh,
phòng chống các loại tội phạm, về vấn đề cải cách tư pháp được thể hiện
trong các Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI và Nghị quyết số 08/NQ-TW
ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị “Về một số nhiệm vụ trọng tâm trong công
tác tư pháp trong thời gian tới”, và nhất là trong Nghị quyết số 48/NQ-TW
ngày 02/06/2005 của Bộ chính trị “Về chiến lượng xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật Việt Nam đến năm 2020”, Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày
02/06/2005 của Bộ chính trị “Về chiến lượng cải cách tư pháp đến năm
2020”, cũng như các công trình khoa học của các tác giả nghiên cứu về tội
phạm chưa hoàn thành.
5.2. Các phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp cụ thể được sử dụng nghiên cứu đề tài bao gồm: quy
nạp, diễn dịch, thống kê tội phạm, phân tích, tổng hợp, so sánh, điều tra, khảo
sát, tổng kết kinh nghiệm. Từ đó rút ra những đánh giá, kết luận và đề xuất
các kiến nghị liên quan đến tội phạm chưa hoàn thành.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
- Về lý luận:
Luận văn là công trình nghiên cứu toàn diện về tội phạm chưa hoàn
thành được quy định trong Luật hình sự từ thực tiễn trên địa bàn tỉnh Đắk
Lắk. Dựa trên sự phân tích lý luận và tổng kết thực tiễn để đưa ra những luận
giải, những căn cứ khoa học, để từ đó đưa ra kết luận, kiến nghị có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn về các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả xử lí đối với tội
phạm chưa hoàn thành trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
- Về thực tiễn:
Kết quả nghiên cứu đề tài có thể tham khảo để nâng cao hiệu quả xử lí
đối với tội phạm chưa hoàn thành trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. Đề tài có thể
6
được dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy và học tập
trong các cơ sở đào tạo luật.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về tội phạm chưa hoàn thành trong
pháp luật hình sự Việt Nam.
Chương 2: Quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về tội phạm chưa
hoàn thành và thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
Chương 3: Kiến nghị hoàn thiện pháp luật hình sự và các giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả xử lí đối với tội phạm chưa hoàn
thành trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI PHẠM CHƯA HOÀN THÀNH
TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm và ý nghĩa của tội phạm chưa hoàn thành
1.1.1. Khái niệm tội phạm chưa hoàn thành
Nhìn chung pháp luật hình sự trên thế giới và tại Việt Nam đa phần đều
phân biệt các giai đoạn thực hiện tội phạm, nhằm đánh giá mức độ thực hiện tội
phạm ở các giai đoạn khác nhau và qua đó có cơ sở xác định phạm vi trách
nhiệm hình sự của người phạm tội. Cụ thể, các giai đoạn phạm tội là
những mức độ trong quá trình thực hiện tội phạm do cố ý và bao gồm chuẩn bị
phạm tội, phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành. Các giai đoạn phạm tội
này ngắn hay kéo dài tùy thuộc vào quá trình của hành vi phạm tội và người
phạm tội thực hiện trên thực tế. Việc phân chia các giai đoạn phạm tội trong
luật hình sự thể hiện ý chí chủ quan của các nhà làm luật đối với diễn biến
khách quan của hành vi phạm tội xảy ra trong thực tế [4, tr.151-152]. Tuy
nhiên, có ba điểm khác nhau cơ bản giữa các giai đoạn phạm tội chính là ở
những yếu tố khách quan của hành vi phạm tội bao gồm: 1) Tính chất nguy
hiểm cho xã hội của các hành vi phạm tội; 2) Mức độ thực hiện ý định phạm
tội của chủ thể thực hiện hành vi; 3) Thời điểm chấm dứt của những hành
vi đó [9, tr.61]. Trong thực tế, quá trình thực hiện việc phạm tội của tội
phạm trong nhiều trường hợp người phạm tội phải tiến hành từng bước, từng
bước một để hoàn thành tội phạm (như: hình thành ý định và biểu lộ ý định
phạm tội, chuẩn bị công cụ, phương tiện phạm tội, chuẩn bị thực hiện hành vi
liền kề và dần thực hiện hành vi phạm tội). Tuy vậy, về phương diện chủ quan
có sự đối lập thể hiện ở chỗ: mặc dù hành vi phạm tội bị dừng lại nhưng người
phạm tội đã cố ý thực hiện hành vi đó và vẫn muốn thực hiện tiếp hành vi
8
phạm tội của mình, vì trong tư tưởng, suy nghĩ của họ bao giờ cũng mong
muốn thực hiện toàn bộ quá trình đó để đạt được kết quả như dự định đã đặt ra
ban đầu. Qua thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm cho thấy có không ít
trường hợp người phạm tội không thực hiện được đầy đủ những dự định đó
hoặc họ không tiến hành thực hiện được hành vi phạm tội đến cùng vì những
nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn của mình. Quan điểm về các giai đoạn
thực hiện tội phạm còn được GS.TSKH. Lê Văn Cảm tổng kết trong sách
chuyên khảo sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự
(Phần chung), Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2005 về khái niệm các giai
đoạn thực hiện tội phạm, cụ thể như sau: 1) Các giai đoạn thực hiện tội phạm là
các giai đoạn chuẩn bị và trực tiếp thực hiện tội phạm cố ý, được phân biệt với
nhau theo tính chất (nội dung) của hành vi đã được thực hiện và thời điểm chấm
dứt xử sự có tính chất tội phạm (B.V.Zđravômưxlôv); 2) Các giai đoạn thực hiện
tội phạm là các giai đoạn nhất định của việc chuẩn bị và thực hiện tội phạm cố ý,
được phân biệt với nhau theo tính chất của những hành vi được thực hiện và thời
điểm chấm dứt hành vi ấy (X.G.Kelina); 3) Các giai đoạn của việc chuẩn bị và
trực tiếp thực hiện tội phạm được quy định trong luật và được phân biệt với nhau
theo tính chất và nội dung của hành vi người phạm tội thực hiện, cũng như mức
độ kết thúc hành vi phạm tội (Ê.F.Pobegailô)… [2, tr.440-441].
Tuy nhiên cho đến nay khái niệm tội phạm chưa hoàn thành vẫn chưa
được pháp luật hình sự Việt Nam ghi nhận cụ thể.
Tại Điều 29, Chương 6 trong Bộ luật hình sự của Liên Bang Nga quy
định: “1. Tội phạm chưa hoàn thành là chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa
đạt...” [21, Điều 29]. Trong khoa học luật hình sự Việt Nam, GS.TSKH. Lê
Văn Cảm đưa ra quan điểm về khái niệm tội phạm chưa hoàn thành như sau:
tội phạm chưa hoàn thành là hành vi chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt
[2, tr.440-441]. Theo tác giả, quan điểm của GS.TSKH. Lê Văn Cảm là phù
9
hợp với những quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về các giai đoạn thực
hiện tội phạm của tội phạm chưa hoàn thành, từ đó phân biệt giữa khái niệm
tội phạm chưa hoàn thành và khái niệm tội phạm đã hoàn thành, đồng thời
làm rõ cơ sở để phân chia các giai đoạn phạm tội để xác định đúng và đầy đủ
trách nhiệm hình sự đối với từng giai đoạn thực hiện tội phạm cụ thể.
Như vậy, chúng ta có thể hiểu khái niệm tội phạm chưa hoàn thành là
hành vi chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt, nội dung cụ thể của hai giai
đoạn thực hiện tội phạm này như sau:
+ Giai đoạn chuẩn bị phạm tội:
Chuẩn bị phạm tội là một giai đoạn phạm tội trong tội phạm chưa hoàn
thành và là một phần của quá trình thực hiện tội phạm cố ý. Ở giai đoạn chuẩn
bị phạm tội, người phạm tội đã có hành vi nhằm tạo ra những điều kiện cần
thiết, tạo tiền đề cho việc thực tiện tội phạm, tuy nhiên người phạm tội chưa
bắt đầu thực hiện tội phạm đó, tức là chưa có hành vi xâm phạm đến đối
tượng tác động. Ví dụ như: A chuẩn bị các công cụ sử dụng để phá khóa với
mục đích đến nhà B phá khóa trộm cắp tài sản của gia đình B, nhưng khi
chuẩn bị thực hiện hành vi thì bị lực lượng dân quân tự vệ phát hiện nên A
không thực hiện hành vi trộm cắp tại nhà B.
Giai đoạn chuẩn bị phạm tội được quy định tại Điều 17 Bộ luật hình
sự, theo đó chuẩn bị phạm tội là tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện
hoặc tạo ra những điều kiện khác để thực hiện tội phạm. Người chuẩn bị
phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng phải chịu trách
nhiệm hình sự [16, Điều 17].
Pháp luật hình sự quy định thời điểm sớm nhất của giai đoạn chuẩn bị
phạm tội là khi tội phạm đã bắt đầu thực hiện những hành vi với mục đích tạo
ra những điều kiện vật chất, tinh thần để cho quá trình phạm tội diễn ra thuận
lợi, dễ dàng và ngay trước khi người phạm tội bắt đầu thực hiện hành vi
10
khách quan được phản ánh trong cấu thành tội phạm là thời điểm muộn nhất
của giai đoạn chuẩn bị phạm tội, một khi người phạm tội đã bắt đầu thực hiện
tội phạm thì mặc nhiên đã không còn ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội.
Đặc điểm của hành vi chuẩn bị phạm tội là chưa trực tiếp làm biến đổi
tình trạng của đối tượng tác động của tội phạm để gây thiệt hại cho các quan
hệ xã hội là khách thể của loại tội phạm định thực hiện nhưng có ảnh hưởng
tới khả năng gây thiệt hại của tội phạm.
Kết quả của việc thực hiện tội phạm phần nào phụ thuộc vào hành vi
chuẩn bị phạm tội, nếu quá trình chuẩn bị phạm tội càng chi tiết, kĩ lưỡng thì
quá trình thực hiện tội phạm có khả năng gây ra hậu quả cao hơn, nghiêm
trọng hơn. Theo luật hình sự Việt Nam, không phải hành vi chuẩn bị phạm tội
nào cũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự, việc truy cứu trách nhiệm hình sự
đối với hành vi chuẩn bị phạm tội được đánh giá và phân biệt thành hai loại:
loại hành vi chuẩn bị phạm tội phải truy cứu trách nhiệm hình sự (nếu tội định
phạm là tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng) và loại không bị
truy cứu trách nhiệm hình sự, mặc dù cả hai loại đều chưa gây ra hậu quả,
nhưng tính chất nguy hiểm của hành vi chuẩn bị phạm tội có khác nhau và sự
khác nhau đó lại không phụ thuộc vào tính chất và mức độ của hành vi chuẩn
bị phạm tội mà nó hoàn toàn phụ thuộc vào tính chất nghiêm trọng của tội
phạm mà người đó định thực hiện.
Hành vi chuẩn bị phạm tội thường được thể hiện dưới các dạng sau:
- Chuẩn bị kế hoạch phạm tội như: bàn bạc, phân công trách nhiệm cho
từng người, kế hoạch tiêu thụ tài sản hay kế hoạch che giấu tội phạm... Dạng
chuẩn bị phạm tội này thường xảy ra đối với những tội phạm được thực hiện
có đồng phạm hoặc có tổ chức. Tuy nhiên cũng có trường hợp tội phạm chỉ
do một người thực hiện vẫn có sự chuẩn bị kế hoạch phạm tội. Ví dụ: A có ý
định đầu độc B, tự A đã vạch ra một kế hoạch như mua thuốc độc ở đâu, bỏ
11
thuốc độc vào nước cho B uống như thế nào, sau khi B trúng độc thì làm thế
nào để che giấu được tội phạm...
- Thăm dò hoặc tìm địa điểm phạm tội, dạng chuẩn bị này chủ yếu đối
với các tội xâm phạm sở hữu hoặc xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm của công dân. Ví dụ: A muốn trộm cắp nhà B, nên A đã nhiều lần
đến nhà B thăm dò xem gia đình B thường vắng mặt nhà vào giờ nào, quy luật
sinh hoạt của gia đình ra sao để tiến hành trộm cắp.
- Chuẩn bị công cụ phương tiện phạm tội: chuẩn bị xe máy để đi cướp
tài sản, chuẩn bị dao để giết người, chuẩn bị thuốc độc để đầu độc, chuẩn bị
xăng để đốt nhà, chuẩn bị thuốc mê để gây mê cho người có tài sản nhằm
chiếm đoạt tài sản của họ, chuẩn bị con dấu giả để lừa đảo...
- Loại trừ trước những trở ngại khách quan để thực hiện tội phạm được
thuận lợi, dễ dàng như: tắt hệ thống camera để đêm đột nhập vào công ty trộm
tài sản, cho bảo vệ uống rượu say để đột nhập vào cơ quan được dễ dàng...
Khi người phạm tội thực hiện tội phạm ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội,
trong trường hợp hành vi phạm tội đã cấu thành tội phạm độc lập khác thì
người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự về tội độc lập đó. Ví dụ như: A
có ý định giết B nên đã tìm mua một khẩu súng quân dụng, sau đó A đi tìm B
để giết, nhưng trên đường đi đã bị công an xã bắt. Vậy hành vi của A đã cấu
thành một tội độc lập là tội mua bán trái phép vũ khí quân dụng (Điều 230 Bộ
luật hình sự), ngoài ra A còn phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người ở
giai đoạn chuẩn bị phạm tội.
+ Giai đoạn phạm tội chưa đạt:
Điều 18 của Bộ luật hình sự quy định: “Phạm tội chưa đạt là cố ý thực
hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân
ngoài ý muốn của người phạm tội” [16, Điều 18].
Chỉ có các tội được thực hiện do cố ý thì mới có phạm tội chưa đạt.
12
Điều luật không quy định hình thức cố ý trực tiếp hay cố ý gián tiếp, nhưng
căn cứ vào nội dung của điều luật quy định “không thực hiện được đến cùng”,
tức là người phạm tội có mục đích thực hiện tội phạm đến cùng, nên họ mong
muốn cho hậu quả xảy ra chứ không phải để mặc cho hậu quả xảy ra. Do đó
phạm tội chưa đạt chỉ có thể xảy ra đối với trường hợp cố ý trực tiếp.
Theo luật hình sự Việt Nam, có ba dấu hiệu xác định trường hợp phạm
tội chưa đạt [23, tr.156-158]:
Dấu hiệu thứ nhất: người phạm tội đã bắt đầu thực hiện tội phạm. Đây
là dấu hiệu phân biệt phạm tội chưa đạt với chuẩn bị phạm tội. Sự bắt đầu này
thể hiện ở chỗ: người phạm tội đã thực hiện hành vi khách quan được mô tả
trong cấu thành tội phạm. Ví dụ: kẻ giết người đã thực hiện hành vi tước đoạt
tính mạng người khác (như đã đâm, đã bắn, đã chém) là hành vi được mô tả
trong cấu thành tội phạm tội giết người (Điều 93 Bộ luật hình sự). Cũng được
coi là đã bắt đầu thực hiện tội phạm nếu người phạm tội đã thực hiện được
hành vi đi liền trước hành vi khách quan. Đó là những hành vi (xét về khách
quan và chủ quan) thể hiện là sự bắt đầu của hành vi khách quan và kế tiếp
ngay sau nó hành vi khách quan sẽ xảy ra. Ví dụ: hành vi nhặt dao để đâm,
lắp đạn để bắn trong trường hợp phạm tội giết người được coi là hành vi đi
liền trước. Những hành vi này chưa phải là hành vi khách quan, chưa phải là
hành vi tước đoạt tính mạng người khác (hành vi đâm, hành vi bắn) nhưng nó
là sự bắt đầu của hành vi khách quan và ngay sau nó hành vi khách quan
(hành vi đâm, hành vi bắn) sẽ xảy ra. Những hành vi “đi liền trước” như vậy
tuy thể hiện là sự chuẩn bị nhưng vì rất gần với hành vi khách quan, không
tách ra được nên cũng được coi là hành vi thực hiện tội phạm.
Dấu hiệu thứ hai: người phạm tội không thực hiện tội phạm được đến
cùng (về mặt pháp lí), nghĩa là hành vi của họ chưa thỏa mãn hết các dấu hiệu
(thuộc mặt khách quan) của cấu thành tội phạm. Những trường hợp hành vi
13
phạm tội chưa thỏa mãn hết các dấu hiệu (thuộc mặt khách quan) của cấu
thành tội phạm có thể xảy ra ở một trong những dạng dưới đây:
- Chủ thể chưa thực hiện được hành vi khách quan mà mới chỉ thực
hiện được “hành vi đi liền trước”. Ví dụ: kẻ giết người mới nhặt dao để đâm
thì bị bắt giữ.
- Chủ thể đã thực hiện được hành vi khách quan nhưng chưa gây ra hậu
quả của tội phạm. Ví dụ: kẻ giết người đã đâm được nạn nhân nhưng nạn
nhân không chết.
- Chủ thể đã thực hiện được hành vi khách quan nhưng chưa thực hiện
hết. Ví dụ: kẻ hiếp dâm mới vật ngã được nạn nhân nhưng chưa thực hiện
được việc giao cấu thì bị bắt giữ.
- Hậu quả thiệt hại tuy đã xảy ra nhưng không có quan hệ nhân quả
với hành vi khách quan mà chủ thể đã thực hiện. Ví dụ: A cầm dao đột nhập
vào nhà để giết B, A thấy B chùm chăn nằm trên giường liền lao tới và đâm
nhiều nhát vào người B, nghĩ rằng B đã chết nên A bỏ đi. Tuy nhiên trên
thực tế, trước khi A đột nhập vào nhà B thì B đã chết, như vậy hậu quả chết
người tuy đã xảy ra với B nhưng không có quan hệ nhân quả với hành vi
khách quan của A.
Trong bốn dạng có thể xảy ra nêu trên, hai dạng (2 và 4) chỉ có thể có ở
những tội phạm có cấu thành tội phạm vật chất.
Dấu hiệu thứ ba: người phạm tội không thực hiện tội phạm được đến
cùng là do những nguyên nhân ngoài ý muốn của họ. Bản thân người phạm
tội vẫn muốn tội phạm hoàn thành nhưng tội phạm không hoàn thành là do:
- Nạn nhân hoặc người bị hại đã chống cự lại được hoặc đã tránh được;
- Người khác đã ngăn chặn được;
- Có những trở ngại khác như bắn nhưng đạn không nổ; thuốc độc để
đầu độc không đủ liều lượng.
14
Căn cứ vào thái độ tâm lí của người phạm tội đối với hành vi mà họ đã
thực hiện, khoa học pháp lý chia phạm tội chưa đạt thành hai loại: chưa đạt đã
hoàn thành và chưa đạt chưa hoàn thành, cụ thể:
- Phạm tội chưa đạt đã hoàn thành là trường hợp người phạm tội đã
thực hiện đầy đủ những hành vi mà họ cho là cần thiết để gây hậu quả, nhưng
vì nguyên nhân khách quan (ngoài ý muốn) hậu quả đó không xảy ra (chưa
đạt về hậu quả, hoàn thành về hành vi). Ví dụ một người có ý định giết người
khác, đã dùng dao đâm 3 phát vào người nạn nhân và tin nạn nhân đã chết nên
bỏ đi, nhưng sau đó nạn nhân được cứu chữa nên không chết. Ở đây người
phạm tội đã hành động như ý muốn và tin là hậu quả sẽ xảy ra nhưng lại
không xảy ra. Trường hợp này người phạm tội dừng lại mặc dù không còn gì
ngăn cản nhưng cũng không được coi là tự nguyện nửa chừng chấm dứt thực
hiện tội phạm, vì người phạm tội đã thỏa mãn với hành vi nhưng chưa thỏa
mãn về hậu quả.
- Phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành là trường hợp người phạm tội vì
nguyên nhân khách quan, chưa thực hiện hết các hành vi mà họ cho là cần
thiết để gây ra hậu quả nên hậu quả không xảy ra (chưa đạt về hậu quả, chưa
hoàn thành về hành vi). Ví dụ: một người có ý định giết người khác nên dùng
dao đâm vào người khác để tước đoạt tính mạng người đó, nhưng mới đâm
được một nhát thì bị người dân xung quanh ngăn cản, không đâm tiếp được
nữa và nạn nhân không chết, chỉ bị thương. Trường hợp này người phạm tội
chưa đâm được như ý muốn và hậu quả cũng chưa xảy ra.
Căn cứ vào tính chất đặc biệt của nguyên nhân dẫn đến việc chưa đạt
thì luật hình sự còn có trường hợp phạm tội chưa đạt vô hiệu, đây là trường
hợp phạm tội chưa đạt mà nguyên nhân khách quan của việc chưa đạt gắn với
công cụ, phương tiện, với đối tượng tác động của tội phạm.
15
*/ Từ khái niệm về tội phạm chưa hoàn thành, chúng ta có thể thấy
được các đặc điểm của tội phạm chưa hoàn thành như sau:
- Trong Luật hình sự Việt Nam chưa có khái niệm cụ thể về tội phạm
chưa hoàn thành, qua đó khái niệm chuẩn bị phạm tội và phạm tôi chưa đạt
dùng để phân biệt với khái niệm tội phạm hoàn thành. Theo đó, tội phạm chưa
hoàn thành là hành vi chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt, diễn ra trước
giai đoạn tội phạm hoàn thành.
- Tội phạm chưa hoàn thành chưa thể hiện đầy đủ tính nguy hiểm cho
xã hội, chưa gây ra hậu quả nguy hại hoặc hậu quả xảy ra không phải là hậu
quả được quy định đối với tội đó.
- Để đánh giá mức độ thực hiện tội phạm và qua đó có cơ sở xác định
phạm vi trách nhiệm hình sự của người phạm tội nên đối với tội phạm chưa
hoàn thành, pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành phân biệt hai mức độ thực
hiện tội phạm là: chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt. Cụ thể hành vi
chuẩn bị phạm tội là hành vi tạo ra những điều kiện cần thiết để thực hiện tội
phạm, người chuẩn bị phạm tội chưa trực tiếp bắt tay vào việc thực hiện tội
phạm, các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ mới bị đe dọa gây thiệt hại
chứ chưa bị gây thiệt hại, còn đối với phạm tội chưa đạt thì người phạm tội đã
bắt tay vào việc thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì
những nguyên nhân ngoài ý muốn của người đó. Sự khác nhau giữa chuẩn bị
phạm tội với phạm tội chưa đạt là ở chỗ hành vi chuẩn bị phạm tội mới là
hành vi tạo ra những điều kiện cần thiết để thực hiện tội phạm, chứ chưa phải
là hành vi thực hiện tội phạm. Người chuẩn bị phạm tội chưa trực tiếp bắt tay
vào việc thực hiện tội phạm còn người phạm tội chưa đạt đã bắt tay vào việc
thực hiện tội phạm, bắt tay vào việc thực hiện hành vi thuộc mặt khách quan
của một cấu thành tội phạm cụ thể (mà dấu hiệu của mặt khách quan được
quy định tại một điều luật cụ thể phần các tội phạm của Bộ luật hình sự) hoặc
những hành vi đi liền trước hành vi thuộc mặt khách quan đó.
16
- Mặt khách quan của cấu thành tội phạm chưa hoàn thành chưa có các
dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm hoàn thành hoặc chưa thỏa mãn
hết các dấu hiệu bắt buộc thuộc mặt khách quan của tội phạm hoàn thành.
- Mặt chủ quan của cấu thành tội phạm chưa hoàn thành bao giờ cũng
được thực hiện bằng lỗi trực tiếp, người chuẩn bị phạm tội và người phạm tội
chưa đạt đã có ý thức lựa chọn thái độ phủ định với các yêu cầu và chuẩn mực
xã hội, người chuẩn bị phạm tội và người phạm tội chưa đạt chưa thực hiện
được tội phạm đến cùng hoàn toàn do những nguyên nhân khách quan ngoài ý
muốn của họ. Bên cạnh đó cũng có quan điểm cho rằng việc chỉ thừa nhận có
giai đoạn chuẩn bị phạm tội và giai đoạn phạm tội chưa đạt trong các tội
phạm thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp cần phải được xem xét lại. Theo quan
điểm này, cần phải thừa nhận các giai đoạn phạm tội, đặc biệt là giai đoạn
phạm tội chưa đạt đối với các tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý gián tiếp.
Bởi lẽ, khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội với lỗi cố ý gián tiếp,
người thực hiện hành vi đã nhận thức rõ tính chất nguy hiểm cho xã hội của
hành vi của mình, đã thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi đó.
Nghĩa là, người thực hiện hành vi với lỗi cố ý gián tiếp đã có ý thức lựa chọn
một hành vi phạm tội, lựa chọn thái độ phủ định đối với các yêu cầu và chuẩn
mực xã hội (đã được quy định thành chuẩn mực pháp lý) và chấp nhận (để
mặc) cho hậu quả nguy hiểm cho xã hội xảy ra. Hậu quả nguy hiểm cho xã
hội xảy ra hay không xảy ra hoàn toàn phụ thuộc vào các điều kiện khách
quan bên ngoài. Bởi vậy, cả trong trường hợp hậu quả nguy hiểm cho xã hội
không xảy ra thì việc xác định trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội do lỗi cố ý gián tiếp vẫn là cần thiết. Theo tác
giả, đối với tội cố ý gián tiếp hay vô ý chỉ có thể có trường hợp có tội hay
không có tội, trong tội cố ý gián tiếp người phạm tội không nhận thức trước
được hậu quả nguy hiểm cho xã hội, không mong muốn hậu quả xảy ra, nên
17
không thể có các giai đoạn chuẩn bị phạm tội cũng như phạm tội chưa đạt, do
đó tác giả cho rằng việc xác định trách nhiệm hình sự đối với tội phạm chưa
hoàn thành do lỗi cố ý gián tiếp là chưa thật sự hợp lý.
- Nguyên nhân của tội phạm chưa hoàn thành là do những nguyên nhân
khách quan ngoài ý muốn, trong trường hợp này người phạm tội chỉ mới thực
hiện được giai đoạn đầu tiên của quá trình thực hiện tội phạm do cố ý trực
tiếp, tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện
khác để thực hiện tội phạm hay khi người phạm tội đã bắt đầu thực hiện hành
vi được mô tả trong cấu thành tội phạm, đe dọa, xâm hại đến khách thể của tội
phạm một cách trực tiếp nhưng chưa thực hiện hết các hành vi được cho là
cần thiết để gây ra hậu quả của tội phạm, không thực hiện được đến cùng
hành vi phạm tội.
- Về nguyên tắc, người phạm tội ở giai đoạn tội phạm chưa hoàn thành
phải chịu trách nhiệm hình sự như trường hợp tội phạm hoàn thành, theo cùng
một điều luật, cùng tội danh và cùng trong phạm vi khung hình phạt quy định
tại điều luật đó. Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự nước ta thừa nhận, khi
định tội đối với hành vi phạm tội chưa đạt, phải định tội danh là chuẩn bị phạm
tội hoặc phạm tội chưa đạt về tội gì và phải viện dẫn điều luật quy định về tội
đó, đồng thời viện dẫn thêm Điều 17 Bộ luật hình sự (nếu là hành vi chuẩn bị
phạm tội) hoặc Điều 18 Bộ luật hình sự (nếu là hành vi phạm tội chưa đạt), ví
dụ: bản án xử những trường hợp phạm tội chưa đạt phải định tội danh là phạm
tội chưa đạt về tội gì (ví dụ tội giết người chưa đạt) và phải viện dẫn điều luật
quy định về tội đó (như Điều 93 Bộ luật hình sự về tội giết người) và Điều 18
Bộ luật hình sự về phạm tội chưa đạt. Tuy nhiên căn cứ theo tính chất và mức
độ nguy hiểm cho xã hội, pháp luật Hình sự Việt Nam quy định trách nhiệm
hình sự đối với tội phạm chưa hoàn thành nhẹ hơn tội phạm đã hoàn thành, cụ
thể về khách quan, trong những điều kiện giống nhau hành vi chuẩn bị phạm
18
tội nguy hiểm cho xã hội ít hơn so với hành vi phạm tội chưa đạt và hành vi
phạm tội chưa đạt ít nguy hiểm hơn so với tội phạm hoàn thành tương ứng: bởi
vậy với những điều kiện giống nhau, trách nhiệm hình sự đối với hành vi chuẩn
bị phạm tội nhẹ hơn trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội chưa đạt và
trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội chưa đạt nhẹ hơn trách nhiệm
hình sự đối với tội phạm hoàn thành tương ứng.
- Nguyên tắc chung của việc quyết định hình phạt đối với tội phạm
chưa hoàn thành là không những phải căn cứ vào căn cứ chung (Điều 45 Bộ
luật hình sự) mà còn phải dựa vào căn cứ riêng (Điều 52 Bộ luật hình sự) khi
quyết định hình phạt đối với trường hợp này.
1.1.2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu tội phạm chưa hoàn thành
Do Bộ luật hình sự Việt Nam không có quy định cụ thể về tội phạm chưa
hoàn thành, nên việc nghiên cứu tội phạm chưa hoàn thành có ý nghĩa rất quan
trọng trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự và quyết định hình phạt. Việc
truy cứu trách nhiệm hình sự và quyết định hình phạt kịp thời, chính xác và
đúng pháp luật, tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi phạm tội sẽ mang lại hiệu quả cao trong việc giáo dục, răn đe người
phạm tội, từ đó nâng cao cho công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm,
nhằm hạn chế các sự việc phạm tội có thể xảy ra. Mặt khác, quyết định hình
phạt đúng còn là cơ sở để đạt được các mục đích của hình phạt, vừa mang tính
giáo dục, vừa thể hiện được sự công minh và nghiêm khắc của pháp luật.
Xác định một cách chính xác về tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã
hội của tội phạm chưa hoàn thành, về mặt nội dung pháp luật Việt Nam quy
định trách nhiệm hình sự đối với tội phạm chưa hoàn thành bao giờ cũng nhẹ
hơn tội phạm đã hoàn thành, cụ thể trong những điều kiện giống nhau, tính
chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đối với hành vi chuẩn bị phạm tội nhẹ
hơn tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đối với hành vi phạm tội chưa
19