Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh nghệ an luận văn ths kinh tế 60 31 01 pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.17 MB, 105 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ

NGUYỄN THỊ TRÂM

Chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh Nghệ An
LUẬN VĂN THẠC SỸ

Người hướng dẫn: PGS.TS. Phan Thanh Phố

Hà nội - 2004


MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung, chuyển dịch cơ cấu lao động nói
riêng là một tất yếu khách quan phản ánh quá trình phát triển lực lƣợng sản
xuất và phân công lao động xã hội. Hình thức, quy mô và bƣớc đi của quá
trình chuyển dịch cơ cấu lao động phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó yếu tố
cơ bản nhất là tạo nên sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình
độ phát triển của lực lƣợng sản xuất trong từng giai đoạn lịch sử nhất định.
Chuyển dịch cơ cấu lao động - thực chất là sự phân công và phân công lại lao
động xã hội một cách thích ứng với việc xây dựng và chuyển dịch cơ cấu kinh
tế theo hƣớng công nghiệp hóa, hiên đại hóa nền kinh tế quốc dân.
Nghệ An là một tỉnh đất rộng ngƣời đông có tiềm năng phát triển kinh
tế. Sau gần 17 năm đổi mới, cùng với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói
chung, cơ cấu lao động nói riêng Nghệ An, có sự chuyển dịch theo hƣớng tiến
bộ, bƣớc đầu tạo nên động lực phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh trong thời
gian qua. Tuy vậy, cho đến nay Nghệ An vẫn là một tỉnh nghèo, tiềm năng về


lao động chƣa đƣợc phát huy đầy đủ, cơ cấu lao động còn nhiều mặt mất cân
đối nghiêm trọng, nhiều lợi thế so sánh của tỉnh chƣa đƣợc khai thác có hiệu
quả. Xuất phát từ thực tế, khả năng, yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của
tỉnh từ nay đến năm 2010 và thực trạng chuyển dịch cơ cấu lao động của tỉnh,
trong thời gian tới cần tiếp tục nghiên cứu, tìm ra những giải pháp tối ƣu để
nhanh chóng chuyển dịch cơ cấu lao động, nhằm sử dụng lao động có hiệu
quả cao, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo
mục tiêu và định hƣớng mà Đại hội Đảng bộ tỉnh Nghệ An lần thứ XV đã đề
ra.

1


Đề tài “Chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá,
hiện đại hoá ở tỉnh Nghệ An” đƣợc chọn để nghiên cứu làm luận văn thạc sĩ
kinh tế là trên ý nghĩa đó.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI

Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế có quan hệ biện chứng với quá
trình chuyển dịch cơ cấu lao động, nhằm khai thác và phát huy có hiệu quả
nguồn lực lao động và các nguồn lực khác của tỉnh. Vấn đề chuyển dịch cơ
cấu lao động đã đƣợc Đảng và Nhà nƣớc ta đề cập trong nhiều chủ trƣơng
chính sách. Cho tới nay, cũng đã có nhiều tác giả và công trình nghiên cứu,
phân tích vấn đề này ở nhiều góc độ khác nhau nhƣ:
- “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá nền kinh tế
quốc dân” của GS. TS. Ngô Đình Giao - NXB Chính trị quốc gia năm 1994
- “Vấn đề lao động và việc làm” của GS. TS. Đỗ Thế Tùng - 1996
- “Phát triển nguồn nhân lực để công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước” của PGS.TS Phan Thanh Phố - Tạp chí kinh tế và phát triển số 5/1995.
- “Lao động và việc làm - Những bước tiến quan trọng” - Nguyễn Thị

Hằng - Tạp chí Cộng sản, số 23 tháng 8, năm 2002.
- “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động nông thôn” của PGS. TS
Nguyễn Sinh Cúc - Tạp chí Cộng sản số 5/ 2001.
- “Thực trạng và giải pháp chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn”
của Hoàng Kim Ngọc - Tạp chí Lao động và Xã hội số tháng 12/2001
- “Các giải pháp gắn đào tạo với cầu lao động kỹ thuật trên thị trường
lao động ở nước ta” của TS Nguyễn hữu Dũng - Tạp chí Lao động và Xã hội
số tháng 10/2002
- “Vấn đề phân công lại lao động xã hội trong quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế ở tỉnh Tiền Giang” Luận án Tiến sĩ của Trần Thị Ngọc Lan - năm
2000.

2


- “Chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn ở Huyện Gia Lâm theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hoá” Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Ngọc
Diệp - năm 1999.
Ở Nghệ An, cũng đã có một số đề tài đƣợc công bố nhƣ: Phân công lao
động xã hội ở nông thôn, phát triển nguồn nhân lực, phát triển kinh tế hộ nông
dân... của các tác giả Hồ Minh Đức, Hoàng Trần Ky, Lê Thị Bông...
Các đề tài nghiên cứu nói trên, mới đi sâu một số khía cạnh, chƣa thành
một đề tài độc lập đƣợc trình bày một cách có hệ thống. Hơn nữa, việc nghiên
cứu chủ đề này trong phạm vi tỉnh, nhất là ở tỉnh Nghệ An cho đến nay chƣa
nhiều.
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI

Trên cơ sở phân tích có hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn của việc
chuyển dịch cơ cấu lao động, luận văn đề xuất một số phƣơng hƣớng và giải
pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu lao động theo hƣớng công

nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh Nghệ An từ nay đến năm 2010.
Để thực hiện đƣợc mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Khái quát một cách có hệ thống lý luận liên quan đến cơ cấu lao động và
chuyển dịch cơ cấu lao động theo hƣớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
- Phân tích, đánh giá thực trạng chuyển dịch cơ cấu lao động trong thời
gian qua, tìm nguyên nhân và những vấn đề mới nẩy sinh cần giải quyết.
- Xây dựng phƣơng hƣớng và giải pháp cơ bản chuyển dịch cơ cấu lao
động trong mối quan hệ với chuyển dịch cơ cấu ngành, cơ cấu vùng và cơ cấu
thành phần kinh tế ở tỉnh Nghệ An đến năm 2010.
4. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

3


- Đề tài lấy việc phân tích thực trạng, phƣơng hƣớng và giải pháp đẩy
mạnh chuyển dịch cơ cấu lao động theo hƣớng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
ở tỉnh Nghệ An làm đối tƣợng nghiên cứu.
- Đề tài chỉ nghiên cứu những giải pháp cơ bản liên quan đến chuyển
dịch cơ cấu lao động ở tỉnh Nghệ An trong thời gian từ ngày tái lập tỉnh đến
năm 2010.
5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Luận văn lấy phƣơng pháp duy vật biện chứng làm phƣơng pháp luận
chung trong quá trình nghiên cứu. Đồng thời còn sử dụng một số các phƣơng
pháp khác nhƣ: phân tích, so sánh, thống kê và phƣơng pháp điều tra, khảo sát
thực tế...
6. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN

- Làm rõ thêm nội dung và xu hƣớng có tính quy luật trong chuyển dịch
cơ cấu lao động theo hƣớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nƣớc ta.

- Đƣa ra những đánh giá có cơ sở khoa học thực trạng chuyển dịch cơ
cấu lao động theo hƣớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Nghệ An thời gian
qua.
- Xây dựng phƣơng hƣớng và giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh chuyển
dịch cơ cấu lao động theo hƣớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Nghệ An từ
nay đến năm 2010.
7. KẾT CẤU LUẬN VĂN

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
đƣợc kết cấu thành 3 chƣơng với 7 tiết.

4


CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU LAO ĐỘNG
THEO HƢỚNG CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
1.1. CƠ CẤU LAO ĐỘNG VÀ SỰ CẦN THIẾT CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU LAO
ĐỘNG THEO HƢỚNG CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ

1.1.1. Một số khái niệm
1.1.1.1. Cơ cấu lao động
Bàn về cơ cấu lao động, theo Mác có nghĩa là bàn về cấu trúc bên trong
của quá trình phân công lao động xã hội. Ngƣời viết: “Cơ cấu là sự phân chia
về chất lƣợng và một tỷ lệ về số lƣợng của quá trình sản xuất xã hội” [22, tr
77]. Đó là các quan hệ tỷ lệ cũng nhƣ xu hƣớng vận động, phát triển nguồn
lao động giữa các ngành kinh tế (Công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ...), các
vùng kinh tế (đồng bằng, trung du, miền núi, ven biển...), các thành phần kinh
tế (Nhà nƣớc, tập thể, cá thể,tiểu chủ, tƣ bản tƣ nhân...).
Sự hình thành và phát triển cơ cấu lao động thƣờng gắn với những điều

kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội từng nƣớc, từng vùng và từng doanh nghiệp
trong từng thời gian nhất định. Cơ cấu lao động tồn tại, biến đổi, thích ứng
với sự biến động của các điều kiện đó.
Mọi sự thay đổi của cơ cấu lao động không thể áp đặt chủ quan theo ý
muốn mà phải dựa vào sự biến đổi của các yếu tố khách quan và các mục tiêu
kinh tế - xã hội đƣợc đặt ra.
Từ đó có thể hiểu Cơ cấu lao động là mối quan hệ tỷ lệ về số lượng và
chất lượng lao động trong các ngành, các vùng, các thành phần kinh tế; phản
ánh trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, của phân công lao động xã
hội; biểu hiện xu thế phát triển của các ngành, các thành phần kinh tế và các
vùng kinh tế.

5


Cơ cấu lao động biểu hiện sự gắn bó hữu cơ với nhau trong hệ thống phân
công lao động xã hội. Việc nghiên cứu cơ cấu lao động phải gắn với điều kiện
không gian, thời gian cụ thể mới có thể xác định đƣợc một cách khoa học cơ cấu
lao động đang tồn tại và xu hƣớng vận động của nó. Từ đó, đƣa ra cách thức tổ
chức và phân bố các yếu tố cơ bản của lực lƣợng sản xuất.
1.1.1.2. Chuyển dịch cơ cấu lao động
Trong tác phẩm “Sự phát triển chủ nghĩa tư bản ở Nga”, khi bàn về sự di
chuyển nguồn lao động, Lênin quan niệm cơ cấu lao động không ở trạng thái
tĩnh, mà luôn ở trạng thái động, luôn có sự thay đổi điều chỉnh quan hệ tỷ lệ, xu
hƣớng vận động của các bộ phận cấu thành nguồn lao động sao cho phù hợp
với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia hay một địa phƣơng
trong từng thời kỳ nhất định. Thực chất của chuyển dịch cơ cấu lao động là quá
trình tổ chức và phân công lại lực lƣợng lao động, qua đó làm thay đổi quan hệ
tỷ lệ giữa các bộ phận của nguồn lao động.
Từ đó có thể xác định khái niệm chuyển dịch cơ cấu lao động: Chuyển

dịch cơ cấu lao động là một phạm trù kinh tế phản ánh sự thay đổi quan hệ tỷ
lệ giữa các bộ phận của nguồn lao động trong nội bộ ngành và giữa các
ngành, các vùng, các thành phần kinh tế trong từng giai đoạn lịch sử nhất
định.
Về mức độ phát triển, sự chuyển dịch cơ cấu lao động có thể diễn ra
các cấp độ sau:
- Nếu theo mức độ tích tụ, tập trung của các nguồn lực, thì sự chuyển
dịch cơ cấu lao động diễn ra từ chỗ lấy việc tập trung lao động làm chính, sau
đó tiếp tục chuyển sang một giai đoạn mới cao hơn là lấy việc tập trung kỹ
thuật tri thức làm nội dung cơ bản để chuyển dịch lao động.
- Nếu theo năng lực tiếp nhận thành tựu của cách mạng khoa học - kỹ
thuật thì chuyển dịch cơ cấu lao động diễn ra trƣớc tiên từ chỗ lấy khả năng

6


giải quyết việc làm cho ngƣời lao động là chính, sang giai đoạn lấy việc nâng
cao trình độ nhận thức và kỹ năng cho ngƣời lao động làm mục tiêu cơ bản.
- Nếu theo mức độ tăng dần của giá trị đầu ra, chuyển dịch cơ cấu lao
động sẽ diễn ra từ chỗ ban đầu có giá trị đầu ra thấp đến các giai đoạn sau có
giá trị đầu ra cao.
- Nếu căn cứ vào không gian di chuyển của lao động thì chuyển dịch cơ
cấu lao động lại có thể diễn ra theo hai cách thức:
Chuyển dịch cơ cấu lao động tại chỗ, đây là sự chuyển dịch lao động
nông nghiệp sang các ngành kinh tế khác ở nông thôn. Đặc điểm cơ bản của
sự chuyển dịch này là không có sự di chuyển nơi sinh sống, nên không làm
thay đổi mật độ dân cƣ sinh sống. Nhƣng cơ cấu lao động lại có sự thay đổi rõ
rệt. Đây chính là phƣơng thức chuyển dịch cơ cấu lao động tích cực nhất.
Chuyển dịch cơ cấu lao động kèm theo sự di cƣ, đây là sự chuyển dịch
lao động về mặt không gian. Hậu quả là tạo ra các dòng di chuyển dân cƣ từ

vùng này sang vùng khác. Đặc điểm của sự chuyển dịch này là sẽ làm giảm
quy mô cũng nhƣ cơ cấu của nguồn lao động nơi ra đi, nhƣng lại tăng quy mô
và thay đổi cơ cấu của nguồn lao động nơi đến. Vì vậy để giảm thiểu hậu quả
của việc di dân và lao động cần phải có các giải pháp tích cực để khắc phục
sự chênh lệch giữa các vùng và các miền.
Về mặt lý thuyết vấn đề chuyển dịch cơ cấu lao động từ trƣớc đến nay ít
nhiều đã đƣợc các nhà kinh điển đề cập với những cách lập luận khác nhau.
- Trong kinh tế học Mác xít, vấn đề chuyển dịch cơ cấu lao động chủ
yếu đƣợc đề cập trong hai học thuyết: Học thuyết về phân công lao động xã
hội và học thuyết tái sản xuất tƣ bản xã hội. Trong học thuyết về phân công
lao động xã hội, các nhà kinh tế học Mác xít đề cập mối quan hệ giữa phân
công lao động xã hội với cách mạng kỹ thuật và cho rằng: tiền đề vật chất và
môi trƣờng thể chế rất quan trọng đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu lao

7


động. Những tiền đề vật chất đƣợc đề cập ở đây đó là sự tách rời giữa thành
thị và nông thôn; quy mô và mật độ của dân số, tăng năng suất lao động xã
hội.Về nguyên tắc, năng suất lao động phải có khả năng đáp ứng đƣợc nhu
cầu lƣơng thực, thực phẩm cho toàn xã hội. Còn môi trƣờng thể chế đóng vai
trò bảo hộ cho quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động. Các Mác đã khẳng định
rằng: “Cơ sở của mọi sự phân công lao động phát triển và lấy sự trao đổi hàng
hoá làm môi giới là sự tách rời giữa thành thị và nông thôn”.[22,tr 77]
Trong học thuyết về tái sản xuất tƣ bản xã hội, vấn đề chuyển dịch cơ
cấu lao động theo ngành đã đƣợc các nhà kinh tế học Mác xít nghiên cứu;
Theo Lênin: “Sản xuất ra tƣ liệu sản xuất để chế tạo tƣ liệu sản xuất phát triển
nhanh nhất; sau đó đến sản xuất tƣ liệu sản xuất để chế tạo tƣ liệu tiêu dùng;
và chậm nhất là sự phát triển của sản xuất tƣ liệu tiêu dùng” [20,tr 98]
Đặt nền móng cho sự phát triển của học thuyết chuyển dịch cơ cấu lao

động trƣớc tiên phải kể đến D. Ricardo với việc mô tả hàm sản xuất trong
nông nghiệp. Theo ông khi tăng tỷ lệ đầu vào lao động lên thì sản lƣợng đầu
ra trong nông nghiệp tăng với tỷ lệ giảm dần và nguyên nhân là do sự hoạt
động của quy luật lợi suất giảm dần trong nông nghiệp gây ra.
Sau D. Ricardo, có E. Engel với việc đề xƣớng quy luật tiêu thụ sản
phẩm. Theo E. Engel: Khi thu nhập của các hộ gia đình phát triển lên thì tỷ lệ
chi tiêu của họ cho lƣơng thực, thực phẩm thấp đi. Do chức năng chính của
khu vực nông nghiệp là sản xuất lƣơng thực, thực phẩm nên có thể suy ra tỷ
trọng nông nghiệp trong toàn bộ nền kinh tế sẽ giảm đi khi thu nhập tăng lên.
Nhƣ vậy quy luật tiêu thụ sản phẩm của E. Engel đã gián tiếp nói lên xu
hƣớng của việc chuyển dịch cơ cấu lao động trong quá trình phát triển kinh tế.
Còn A. Shiser lại cho rằng nguồn lao động xã hội đƣợc chia vào ba khu
vực: Khu vực thứ nhất bao gồm sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp; khu vực
thứ hai bao gồm công nghiệp chế biến và xây dựng; khu vực thứ ba bao gồm

8


vận tải, thông tin, thƣơng nghiệp. Theo ông, trong quá trình phát triển, sự tăng
cƣờng sử dụng máy móc, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật đã tác động
đến sự thay đổi cơ cấu lao động theo hƣớng giảm tỷ lệ lao động nông nghiệp
và tăng tỷ lệ lao động cho công nghiệp, dịch vụ.
Kế thừa những quan điểm của các nhà kinh điển, các nhà kinh tế học
hiện đại tiếp tục đƣa ra cách nhìn nhận của mình về cơ cấu lao động và
chuyển dịch cơ cấu lao động sau:
- Lý thuyết các giai đoạn kinh tế của Rostow: Theo Rostow quá trình
phát triển kinh tế của một nƣớc có thể chia ra 5 giai đoạn:
+ Xã hội truyền thống: Sản xuất nông nghiệp đóng vai trò trung tâm
trong hoạt động kinh tế, năng suất lao động thấp do sản xuất chủ yếu bằng
công cụ thủ công nên cơ cấu lao động mang tính thuần nông.

+ Giai đoạn chuẩn bị cất cánh: Đã có sự áp dụng khoa học - kỹ thuật
vào sản xuất nông nghiệp và công nghiệp kéo theo sự chuyển dịch cơ cấu lao
động trong nông nghiệp sang các ngành khác.
+ Giai đoạn cất cánh: Khoa học - kỹ thuật tác động mạnh vào công
nghiệp và nông nghiệp, tạo ra sự thay đổi về nhận thức và lối sống mới trong
nông dân, một bộ phận lớn lao động nông nghiệp chuyển sang công nghiệp và
dịch vụ, cơ cấu lao động đã có sự chuyển dịch theo hƣớng công nghiệp hoá,
hiện đại hoá.
+ Giai đoạn trƣởng thành: Cơ giới hoá trong nông nghiệp đạt năng suất
cao, tỷ lệ lao động nông nghiệp chuyển sang các ngành công nghiệp và dịch
vụ tăng nhanh hơn.
+ Giai đoạn mức tiêu dùng cao: Thu nhập bình quân đầu ngƣời tăng
nhanh; cơ cấu lao động có sự chuyển dịch theo hƣớng tăng nhanh tỷ lệ lao
động làm việc trong các khu công nghiệp, đô thị và tỷ lệ lao động có trình độ
chuyên môn tay nghề cao.

9


Từ lý thuyết của Rostow ta nhận thấy rằng sự phát triển của khoa học kỹ thuật và việc áp dụng nó vào quá trình sản xuất là nguyên nhân cơ bản tạo
ra sự chuyển dịch cơ cấu lao động.
- Lý thuyết nhị nguyên do A. Lewis khởi xƣớng.
Lý thuyết này cho rằng mối quan hệ giữa hai khu vực nông nghiệp và
công nghiệp xuất phát từ tƣ tƣởng của Ricardo. Theo A. Lewis do khu vực
nông nghiệp có năng suất lao động thấp nên dƣ thừa nhiều lao động, vì vậy xã
hội có thể chuyển một bộ phận lao động nông nghiệp sang khu vực công
nghiệp mà không làm ảnh hƣởng tới sản xuất nông nghiệp tạo ra sự chuyển
dịch cơ cấu lao động.
Nhìn chung các lý thuyết trên đều có một điểm chung là rất coi trọng
tiền đề vật chất cần thiết cho quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động, đó là

tăng năng suất lao động và mức thu nhập; phƣơng thức để thực hiện các mục
tiêu đó là tiến bộ kỹ thuật và việc ứng dụng chúng vào quá trình sản xuất [16;
37].
Lý luận và thực thực tiễn, khái niệm chuyển dịch cơ cấu lao động cần
đƣợc hiểu theo nghĩa rộng và theo nghĩa hẹp:
- Theo nghĩa rộng, chuyển dịch cơ cấu lao động là sự thay đổi trong quan
hệ tỷ lệ, cũng nhƣ xu hƣớng vận động của các bộ phận cấu thành nên nguồn lao
động của nền sản xuất xã hội trong từng giai đoạn lịch sử nhất định.
- Theo nghĩa hẹp, chuyển dịch cơ cấu lao động gắn liền với sự phân
công và phân công lại lao động xã hội theo hƣớng: Tỷ trọng lao động nông
nghiệp giảm xuống, tỷ trọng lao động công nghiệp và dịch vụ tăng lên, trong
đó: Tỷ trọng lao động dịch vụ tăng nhanh hơn tỷ trọng lao động công nghiệp
trong tổng lao động xã hội; tỷ trọng lao động giản đơn giảm dần và tỷ trọng
lao động trí tuệ (lao động phức tạp) tăng nhanh và ngày càng chiếm ƣu thế
trong cơ cấu lao động.

10


Chuyển dịch cơ cấu lao động là một khái niệm có nội hàm rộng, phức
tạp có quan hệ chặt chẽ và song song với chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Việc xác
định đúng khái niệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế góp phần làm rõ nội dung và
vai trò cũng nhƣ phƣơng hƣớng chuyển dịch cơ cấu lao động. Ở nƣớc ta trong
một thời gian dài tầm quan trọng của chuyển dịch cơ cấu lao động chƣa đƣợc
nhận thức đúng mức nên hiệu quả đem lại rất thấp. Đã đến lúc cần nhận thức
đúng đắn khái niệm chuyển dịch cơ cấu lao động, từ đó góp phần giải quyết
những vấn dề cụ thể có liên quan đến chuyển dịch cơ cấu lao động mà thực tế
đang đặt ra.
Dƣới góc độ không gian lãnh thổ của mỗi nƣớc, mỗi vùng ngƣời ta có
thể lựa chọn những xu hƣớng thích hợp nhƣ chuyển dịch cơ cấu lao động gắn

với sự thay đổi cơ cấu chuyên môn kỹ thuật; chuyển dịch cơ cấu lao động gắn
với sự thay đổi của hình thức tổ chức và phƣơng pháp lao động... Song tất cả
các xu hƣớng đó cũng đều phản ánh sự chuyển dịch cơ cấu lao động theo
hƣớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Chuyển dịch cơ cấu lao động là xu hƣớng có tính quy luật của các quốc
gia đã và đang tiến hành công nghiệp hoá. Thực chất của xu hƣớng này là quá
trình chuyển đổi cơ cấu lao động từ nông nghiệp là chủ yếu sang công nghiệp
và dịch vụ để giải quyết việc làm, tăng năng suất lao động, nâng cao đời sống
cho nhân dân. Chuyển đổi cơ cấu lao động là quá trình giảm số lƣợng tuyệt
đối và tỷ trọng lao động nông nghiệp, tăng số lƣợng tuyệt đối và tỷ trọng lao
động công nghiệp và dịch vụ. Nội dung cơ bản của quá trình chuyển dịch cơ
cấu lao động theo hƣớng công nghiệp hoá là giải phóng lao động ở ngành có
năng suất lao động thấp (nông nghiệp) sang ngành có năng suất cao hơn (công
nghiệp và dịch vụ), từ đó tạo ra nhiều của cải vật chất và sản phẩm dịch vụ
tiến tới hiện đại hoá nền kinh tế.

11


1.1.1.3. Chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá,
hiện đại hoá
CNH, HĐH là quá trình biến đổi các hoạt động sản xuất từ chỗ dựa vào
khai thác tự nhiên lấy lao động thủ công là chính, sang phƣơng pháp sản xuất
công nghiệp với lao động bằng máy móc là chủ yếu, trên cơ sở đó tạo ra một
năng suất lao động xã hội cao.
Trên thực tế, mặc dù có một số cách hiểu khác nhau về công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, song nhƣ Đảng ta đã chỉ rõ: CNH, HĐH là quá trình
chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và
quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng
một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phƣơng tiện và phƣơng

pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa
học công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao [11]
Để tạo sự chuyển biến nền kinh tế lạc hậu sang nền kinh tế phát triển và
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
với điểm xuất phát thấp nhƣ nƣớc ta, CNH, HĐH phải đƣợc coi là nhiệm vụ
trung tâm trong chiến lƣợc phát triển kinh tế - xã hội của đất nƣớc.
Tiến trình CNH, HĐH sẽ tạo ra những động lực có tác dụng to lớn đối
với nền kinh tế quốc dân nhƣ: Thúc đẩy nhanh sự phát triển kinh tế - xã hội,
nâng cao đời sống cho nhân dân, góp phần hình thành cơ cấu kỹ thuật và công
nghệ theo hƣớng hiện đại, thông qua chuyển dịch để hình thành cơ cấu kinh tế
hợp lý giữa các ngành, các thành phần kinh tế và các vùng, miền của đất
nƣớc. Thúc đẩy nhanh quan hệ kinh tế đối ngoại, phát huy lợi thế so sánh của
quốc gia, dân tộc.
Tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá sẽ thúc đẩy sự phát triển phân
công lao động, tạo điều kiện thực hiện sự chuyển dịch cơ cấu lao động theo
hƣớng giảm tỷ trọng lao động nông nghiệp, tăng tỷ trọng lao động trong các

12


ngành công nghiệp và dịch vụ, không ngừng nâng cao chất lƣợng, cơ cấu và
trình độ chuyên môn cho ngƣời lao động.
Quá trình công nghiệp hoá biểu hiện qua các dấu hiệu: Có sự thay đổi
của quy mô sản xuất từ chỗ chỉ lấy quy mô sản xuất gia đình làm chính sang
quy mô sản xuất theo kiểu công xƣởng lớn. Tỷ trọng sản xuất công nghiệp,
dịch vụ ngày càng tăng, còn tỷ trọng nông nghiệp giảm dần. Cơ cấu lao động
có sự chuyển dịch theo hƣớng giảm tỷ trọng lao động nông nghiệp, tăng tỷ
trọng lao động công nghiệp, dịch vụ... tốc độ đô thị hoá tăng lên, thể hiện
thông qua việc gia tăng tỷ lệ dân cƣ tập trung tại các đô thị và khu công
nghiệp.

Hiện đại hoá đƣợc hiểu là việc trang bị, sử dụng những yếu tố khoa học
- công nghệ tiên tiến mà thời đại đã đạt đƣợc vào quá trình sản xuất, kinh
doanh.
Trong thời đại ngày nay CNH, HĐH, có quan hệ mật thiết với nhau và
in dấu đậm nét sự biến đổi về số lƣợng và chất lƣợng lao động và trong
chuyển dịch cơ cấu lao động. Nhƣ vậy, chuyển dịch cơ cấu lao động theo
hƣớng CNH, HĐH là một yêu cầu khách quan và là điều kiện không thể thiếu
đƣợc để đƣa nền kinh tế tăng trƣởng và phát triển.
Từ phân tích về những nội dung chủ yếu của CNH, HĐH và dặt nó
trong mối quan hệ với chuyển dịch cơ cấu lao động, chúng ta có thể rút ra
khái niệm chuyển dịch cơ cấu lao động theo hƣớng công nghiệp hoá, hiện đại
hoá là:
Chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại
hoá là sự thay đổi quan hệ tỷ lệ, xu hướng vận động của các bộ phận cấu
thành nguồn lao động trong các ngành, các vùng và các thành phần kinh tế,
từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức
lao động cùng với trang thiết bị, phương pháp công nghệ tiên tiến hiện đại

13


nhằm tạo ra năng suất lao động xã hội ngày càng cao trong từng giai đoạn
lịch sử nhất định.
Sự chuyển dịch cơ cấu lao động theo hƣớng công nghiệp hoá, hiện đại
hoá không do ý muốn chủ quan mà dựa trên những đặc điểm tự nhiên, kinh tế,
xã hội và nhu cầu của thị trƣờng trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Bởi vì lao động của con ngƣời là yếu tố quyết định, sự phát triển kinh tế - xã
hội ở mọi thời đại lịch sử. Vì vậy khi nghiên cứu chuyển dịch cơ cấu lao động
phải chú ý nguồn lao động, phải xuất phát từ lao động để nghiên cứu cơ cấu
lao động.

1.1.2. Sự cần thiết chuyển dịch cơ cấu lao động theo hƣớng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá
1.1.2.1. Do yêu cầu phát huy vai trò của lao động đối với công nghiệp
hóa, hiện đại hóa phát triển theo con đường rút ngắn hiện đại
Các nhà kinh điển của Chủ nghĩa Mác Lênin đã từng nhiều lần nhấn
mạnh vai trò to lớn của lao động. Mác viết: “Lao động trƣớc hết là một quá
trình diễn ra giữa con ngƣời và tự nhiên, một quá trình trong đó bằng hoạt
động chính mình, con ngƣời làm trung gian điều tiết và kiểm soát sự trao đổi
chất giữa họ và tự nhiên” [23,tr 230].Ông còn cho rằng: “Con ngƣời không
chỉ làm biến đổi hình thái những cái do tự nhiên cung cấp..., con ngƣời cũng
đồng thời thực hiện các mục đích tự giác của mình, mục đích ấy quyết định
phƣơng thức hành động của họ, giống nhƣ một quy luật và bắt ý chí của họ
phải phục tùng nó”[23,tr 321]. Trong bộ tƣ bản Mác còn phân tích một cách
khoa học vai trò của tƣ bản khả biến đối với việc sản xuất giá trị thặng dƣ.
Lênin đánh giá vai trò của lao động là: “Lực lƣợng sản xuất hàng đầu của toàn
thể nhân loại là công nhân, là ngƣời lao động” [21, tr 30].
Kế thừa và phát huy những di sản quý báu của các nhà kinh điển chủ
nghĩa Mác - Lênin và chọn lọc những kiến thức, những thành quả của kinh tế

14


học hiện đại, vận đụng sáng tạo vào thực tiễn nƣớc ta, Đảng, Nhà nƣớc ta
luôn luôn quan tâm đến con ngƣời, tạo mọi điều kiện để con ngƣời phát triển
hoàn thiện.. Tại Văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ VI, Đảng đã khẳng định:
“Phát huy yếu tố con ngƣời và lấy con ngƣời làm mục đích cao nhất của mọi
hoạt động”[9,tr 82] Đại hội lần thứ VII của Đảng, trong chiến lƣợc phát triển
kinh tế xã hội đã đặt con ngƣời vào vị trí trọng tâm, lấy mục tiêu và động lực
chính của sự phát triển là vì con ngƣời, do con ngƣời, Đại hội đã khẳng định:
“Nguồn lao động dồi dào, con ngƣời Việt Nam có truyền thống yêu nƣớc, cần

cù, sáng tạo... có khả năng nắm bắt nhanh khoa học và công nghệ... đó là
nguồn lực quan trọng nhất” [8, tr5,23]. Đến Đại hội toàn quốc lần thứ VIII,
Đảng ta lại khẳng định: “ Lấy việc phát huy nguồn lực con ngƣời làm yếu tố
cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững...” [9,tr 85]. Công nghiệp hóa,
hiện đại hóa phát triển theo con đƣờng rút ngắn hiện đại ở nƣớc ta nói chung
và mỗi địa phƣơng nói riêng phụ thuộc khá lớn vào việc khai thác, sử dụng có
hiệu quả các nguồn lực, bao gồm nguồn tài nguyên, nguồn vốn, khoa học công nghệ đặc biệt là nguồn lao động, trong đó nguồn lực lao động có ý nghĩa
quyết định bởi vì mọi hoạt động sản xuất vật chất và tinh thần rút cuộc đều là
hoạt động của ngƣời lao động. Chính vì thế mà Đại hội Đảng IX đã xác định:
“Nguồn nhân lực là nhân tố quyết định sự phát triển đất nƣớc trong thời kỳ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá...”{10, tr 17, 201]
Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hƣớng công nghiệp hoá, hiện
đại hoá càng đòi hỏi phải có lực lƣợng lao động có trình độ kỹ thuật, tay nghề
và ý thức tổ chức kỷ luật cao. Do vậy, với tƣ cách là ngƣời lao động hơn bao
giờ hết phải có nhận thức sâu sắc để không ngừng bồi dƣỡng và nâng cao
trình độ văn hoá và chuyên môn là yêu cầu cấp bách để sử dụng và tiếp thu có
hiệu quả những thành tựu khoa học - công nghệ tiên tiến của thế giới góp
phần làm thay đổi cơ cấu lao động phù hợp với quan điểm của đại hội Đảng

15


lần thứ IX: “Con đƣờng CNH, HĐH của nƣớc ta cần và có thể rút ngắn thời
gian, vừa có những bƣớc tuần tự, vừa có bƣớc nhảy vọt”.[10, tr 91]
1.1.2.2. Do yêu cầu phải đẩy nhanh nhịp độ chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, một nội dung của công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta
Với điểm xuất phát là một nƣớc nông nghiệp đang ở thời kỳ đầu của
quá trình CNH, HĐH, nông thôn nƣớc ta theo số liệu thống kê đến năm
2001chiếm 76% dân số và 74% lao động xã hội. Trong những năm gần đây,
Đảng và Nhà nƣớc đã chú trọng đến việc chuyển dịch cơ cấu lao động nhằm

tạo việc làm, nâng cao thu nhập cải thiện đời sống cho nhân dân bằng nhiều
chủ trƣơng, chính sách. Do đó, cơ cấu lao động đã chuyển dịch theo hƣớng
tăng tỷ trọng lao động công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng lao động nông
nghiệp. Tuy nhiên quá trình chuyển dịch này diễn ra còn chậm, chƣa đồng
đều so với yêu cầu và khả năng thực tế. Nhìn chung cơ cấu lao động còn bất
hợp lý giữa các ngành, vùng và thành phần kinh tế. (Xem bảng 1.1)
Bảng 1.1: Cơ cấu lao động theo ngành từ 1991 - 2000 [19].

Công nghiệp

Tổng số lao động

Nông, lâm

(Ngàn người )

nghiệp (%)

1991

30.794

72,6

13,9

13,5

1992


31.819

72,9

13,4

13,7

1993

32.716

73,0

13,3

13,7

1994

33.664

70,0

13,2

16,8

1995


34.589

69,7

13,2

17,3

1996

35.792

69,2

12,5

18,2

1997

36.994

68,7

12,5

18,7

1998


38.194

68,2

12,7

19,0

Năm

16

xây dựng
(%)

Dịch vụ
(%)


1999

39.394

66,7

12,9

19,3

2000


36.205

62,6

13,1

24,3

Nguồn: Tổng cục Thống kê; niên giám thống kê từ 1991 -2002
Từ số liệu ở bảng1.1 cho thấy: Hàng năm tổng nguồn lao động tăng lên
gần 900.000 ngƣời, nhƣng 4/5 số tăng thêm này vẫn còn nằm lại ở khu vực
nông nghiệp. Vì vậy, trên thực tế, tỷ trọng lao động trong nông nghiệp vẫn
còn rất cao (hơn 70% so với tổng nguồn lao động xã hội), trong những năm
qua chẳng những không hề giảm đi mà lại còn có xu hƣớng tăng lên. Trong
khi đó, công nghiệp và dịch vụ năm cao nhất chỉ thu hút đƣợc từ 8,5% đến
12,4% số lao động tăng thêm, thậm chí có năm công nghiệp chỉ nhận thêm
0,3% tổng số lao động tăng thêm của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Vì thế mà
tỷ trọng lao động công nghiệp và dịch vụ trong tổng nguồn lao động xã hội
hầu nhƣ không thay đổi thậm chí có lúc giảm xuống.

Mặt khác, sự phân

công nội bộ ngành nông nghiệp: chăn nuôi phát triển, nâng tỷ trọng chăn nuôi
trong tổng sản phẩm nông nghiệp chiếm độ 30%, còn lại là 70% trồng trọt.
Chăn nuôi phát triển thoát khỏi tính tự cung, tự cấp mà chuyển sang sản xuất
hàng hoá tạo ra nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và thực phẩm xuất
khẩu.
Trong lĩnh vực trồng trọt cũng có sự phân bố lại cho phù hợp với nhu
cầu tiêu dùng của thị trƣờng thế giới đƣợc thực hiện thông qua việc quy hoạch

các vùng trồng cây công nghiệp có giá trị xuất khẩu lớn nhƣ: Chè, cà phê, cao
su, tiêu...Sự thay đổi đó, đòi hỏi phải có lực lƣợng lao động có trình độ kỹ
thuật, chuyên môn sử dụng đƣợc tiến bộ khoa học kỹ thuật - công nghệ, sử
dụng đƣợc công cụ lao động cơ giới trong nông nghiệp, có kiến thức mới về
công nghệ sinh học, biết cách chọn giống và chăm sóc giống mới. Có thể nói,
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn đồi hỏi cơ cấu lao động trong nội bộ
ngành nông nghiệp đã và đang đòi hỏi phải có sự thay đổi lớn về chất. Chính

17


sự chuyển dịch cơ cấu lao động đã bƣớc đầu hình thành một đội ngũ công
nhân nông nghiệp có trình độ khoa học - kỹ thuật. Thế nhƣng do lao động
nông thôn tăng nhanh, tỷ lệ nghịch với quỹ đất dai ngày càng thu hẹp, đã gây
trở ngại cho việc chuyển dịch cơ cấu lao động. Hiện nay, cả nƣớc có 29 triệu
lao động ở nông thôn, mỗi năm tăng thêm trên một triệu lao động. Trong khi
đó đất nông nghiệp chỉ có 8,1 triệu ha, bình quân một lao động chỉ có 0,27 ha.
Nhƣ vậy, còn khoảng 9 - 10 triệu lao động ở nông thôn không có việc làm.
Ngoài ra số lao động nông nhàn cũng rất đáng kể chỉ sử dụng 30% thời gian
làm việc, còn lại 70% thiếu việc làm.
Việc hình thành các khu công nghiệp tập trung, khu chế xuất cũng đã
thu hút một số lao động có trình độ phổ thông dịch chuyển từ nông thôn vào
các khu công nghiệp: may mặc, dệt, da, lắp ráp, điện tử... vào các hoạt động
dịch vụ mua bán, ăn uống, giải khát... trong khu vực kinh tế Nhà nƣớc từ
12.300 doanh nghiệp, qua sắp xếp chỉ còn 6.000 doanh nghiệp. Việc sắp xếp
lại doanh nghiệp nhà nƣớc tuy đã góp phần thay đổi một bƣớc cơ cấu và chất
lƣợng lao động, nhƣng số lao động dôi dƣ sau sắp xếp hiện nay đang là một
thách thức lớn.
Cho đến nay sự phân bố lực lƣợng lao động có trình độ chƣa hợp lý đã
dẫn đến tình trạng vừa thừa vừa thiếu lao động có tay nghề cao. Phần lớn cán

bộ có trình độ chuyên môn cao đều tập trung ở đô thị, chủ yếu là ở Hà Nội,
Thành phố Hồ Chí Minh, vì ở những nơi này có nhiều Viện nghiên cứu, nhiều
xí nghiệp liên doanh với nƣớc ngoài. Nhiều vùng nông thôn mặc dù còn thiếu
nhiều lao động có trình độ chuyên môn, song sức thu hút đội ngũ lao động có
trình độ chuyên môn đang còn hạn chế. Có thể nói cho đến nay, cơ cấu lao
động đang còn mất cân đối giữa các ngành, các khu vực( giữa sản xuất và phi
sản xuất), giữa các vùng (đô thị và nông thôn), giữa các thành phần kinh tế
(nhà nƣớc, tập thể và tƣ nhân..) đã gây ra sự hạn chế cho quá trình phát triển

18


kinh tế-xã hội và tạo ra sự chênh lệch về phân bố lao động giữa các ngành,
các vùng và các thành phần kinh tế trong quá trình CNH, HĐH.
1.1.2.3. Do yêu cầu của sự hình thành và phát triển thị trường sức
lao động theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Thị trƣờng sức lao động là thị trƣờng mà ở đó cung cầu về sức lao động
biểu hiện thông qua hợp đồng lao động đƣợc ký kết giữa ngƣời cung ứng sức
lao động và ngƣời sử dụng sức lao động.
Thị trƣờng sức lao động phản ảnh các quan hệ kinh tế hình thành thông
qua cung cầu sức lao động. Mặc dù, tiền công do giá trị sức lao động chi phối,
tuy nhiên trên thị trƣờng sức lao động sự thay đổi mức cung cầu sức lao động
cũng ảnh hƣởng tới tiền công và ngƣợc lại sự thay đổi mức tiền công cũng
ảnh hƣởng tới cung, cầu về sức lao động. Đối tƣợng tham gia thị trƣờng sức
lao động bao gồm những ngƣời sử dụng sức lao động của ngƣời khác và
những ngƣời có khả năng cung ứng sức lao động để đƣợc nhận một khoản
tiền công nhất định.
Thị trƣờng sức lao động là nơi gắn kết giữa cung sức lao động với cầu
sức lao động gắn với các thông số nhƣ số lƣợng, chất lƣợng và cơ cấu lao
động để ngƣời lao động có nhiều cơ hội tìm việc làm. Trong mối quan hệ gắn

kết giữa cung sức lao động với cầu sức lao động và giải quyết việc làm phải
dựa trên cơ sở và xoay quanh các trục trung tâm là “cầu sức lao động” trên thị
trƣờng sức lao động. Mọi sự thay đổi của cầu sức lao động về số lƣợng, chất
lƣợng và cơ cấu lao động giữa các ngành, các vùng, các thành phần kinh tế
trên thị trƣờng sức lao động phải đƣợc nhận biết, phân tích xem xét và điều
chỉnh trong cung sức lao động. Đây là sự thay đổi căn bản nhất trong cung
sức lao động của nền kinh tế hiện đại so với nền kinh tế truyền thống. Thông
qua thị trƣờng sức lao động sẽ giúp cho ngƣời lao động nắm bắt đƣợc những

19


yêu cầu, thông tin theo định hƣớng cầu sức lao động để từ đó mà điều chỉnh
khả năng cung sức lao động cho phù hợp.
Thực tế cho thấy nƣớc ta là nƣớc đang phát triển, các yếu tố của thị
trƣờng phát triển chƣa đồng bộ và hoàn chỉnh; thị trƣờng sức lao động còn sơ
khai; còn tồn tại song hành hai khu vực kinh tế (truyền thống và hiện đại)
đang diễn ra sự chuyển hoá về tỷ trọng với nhau. Khu vực kinh tế truyền
thống vẫn còn chiếm tỷ trọng lớn, là nơi thu hút nhiều lao động, nhất là nông
nghiệp, nông thôn, song cũng đang có xu hƣớng giảm dần. Khu vực kinh tế
hiện đại (nơi có thị trƣờng sức lao động phát triển) đang có sự biến động cả về
quy mô và tốc độ, ngày càng thu hút nhiều sức lao động hơn, trƣớc hết là ở
các vùng đô thị, khu công nghiệp tập trung. Khu vực kinh tế này, cầu sức lao
động cũng có những thay đổi lớn và nhanh chóng, đòi hỏi cần có sự điều
chỉnh cơ cấu lao động cho phù hợp.
Thị trƣờng sức lao động giữa các vùng phát triển chƣa đồng đều, hệ
thống tổ chức cung ứng sức lao động chƣa phát triển và hoạt động chƣa có
hiệu quả, nên chƣa trở thành cầu nối, gắn kết giữa cung sức lao động và cầu
sức lao động. Điều đó biểu hiện: Việc tuyển dụng chủ yếu qua quan hệ cá
nhân; thông tin thị trƣờng sức lao động còn yếu kém; công tác dự báo chƣa

đƣợc coi trọng... đó là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm cho cung cầu sức lao động không ăn khớp với nhau trong chuyển dịch cơ cấu lao động
giữa các ngành, các vùng, các thành phần kinh tế.
Có thể nói, việc tổ chức và phát huy tốt vai trò của thị trƣờng sức lao
động sẽ thúc đẩy việc phân bố và sử dụng sức lao động một cách có hiệu quả,
khắc phục từng bƣớc sự mất cân bằng giữa cung cầu sức lao động theo hƣớng
nâng cao chất lƣợng lao động cho phù hợp với yêu cầu của khoa học - công
nghệ hiện đại trong tiến trình CNH, HĐH.

20


1.1.2.4. Do yêu cầu của việc ứng dụng và phát triển khoa học - công
nghệ
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đã và đang diễn ra
nhanh chóng và tác động mạnh mẽ đến các Châu lục trên thế giới. Quy mô
GDP và tốc độ tăng trƣởng kinh tế ở các nƣớc phát triển chủ yếu dựa vào lao
động trí tuệ và công nghệ cao. Đến lƣợt nó, sự phát triển của các nƣớc này sẽ
tạo ra nhiều cơ hội phát triển cho các quốc gia khác cho phép duy trì tốc độ
tăng trƣởng cao; đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu lao động hợp lý, tạo ra nhiều
công ăn việc làm, cải thiện đời sống cho ngƣời lao động. Tuy nhiên, để làm
đƣợc điều đó đòi hỏi các quốc gia đang phát triển phải thay đổi cơ cấu và chất
lƣợng nguồn lực con ngƣời trên cơ sở đầu tƣ phát triển phát triển con ngƣời,
tạo lập kỹ năng, tay nghề, năng lực sáng tạo để làm ra các sản phẩm có hàm
lƣợng chất xám cao. Ngƣời lao động, với tƣ cách là ngƣời cung ứng sức lao
động, cần nhanh chóng tri thức hoá để có có sức cạnh tranh trên thị trƣờng
sức lao động và có khả năng thích ứng cao trong giai đoạn mới- giai đoạn
kinh tế tri thức-hiện nay.
1.1.2.5. Do yêu cầu của việc thực hiện chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình đi liền với toàn cầu hóa kinh tế mà

trọng tâm là mở cửa nền kinh tế, tham dự phân công hợp tác quốc tế, tạo điều
kiện kết hợp có hiệu quả nguồn lực trong nƣớc với bên ngoài, mở rộng không
gian và môi trƣờng để phát triển, chiếm lĩnh vị trí phù hợp nhất có thể đƣợc
trong quan hệ kinh tế quốc tế.
Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại đã tạo nên sự gắn kết
giữa các quốc gia lại với nhau, đã làm cho tính xã hội hoá của lực lƣợng sản
xuất vƣợt qua khuôn khổ quốc gia, làm cho sự chuyển dịch cơ cấu lao động
vừa phổ cập toàn diện rộng, vừa phát triển theo chiều sâu. Muốn thực hiện

21


đƣợc sự phân công lao động quốc tế trƣớc hết phải thúc đẩy chuyển dịch cơ
cấu lao động trong nƣớc. Ngày nay, xu thế hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo nên
nhiều sự liên kết giữa các nền kinh tế quốc tế, tạo điều kiện đẩy việc chuyển
dịch cơ cấu lao động nƣớc ta từ chuyển dịch cơ cấu lao động theo số lƣợng
sang chuyển dịch cơ cấu lao động theo chất lƣợng đạt tới mức độ chuyên sâu
so với trình độ khu vực và quốc tế. Bằng cách đó, thực hiện chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế.
1.2. NHÂN TỐ ẢNH HƢỞNG, XU HƢỚNG VÀ NỘI DUNG CHUYỂN DỊCH
CƠ CẤU LAO ĐỘNG THEO HƢỚNG CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ

1.2.1. Những nhân tố ảnh hƣởng đến chuyển dịch cơ cấu lao động
1.2.1.1. Trình độ cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế
Trong Bộ Tƣ bản, khi nghiên cứu tích luỹ tƣ bản, Mác đã đề cập đến
mối quan hệ giữa sự tăng lên của cấu tạo hữu cơ tƣ bản với sự biến đổi của
quy mô, cơ cấu và chất lƣợng lao động.Theo Ông, cấu tạo hữu cơ tƣ bản tăng
lên, phản ảnh sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và công nghệ ngày càng hiện
đại, làm cho việc thu hút lao động về số lƣợng sẽ giảm tƣơng đối, đồng thời
cơ cấu lao động cũng thay đổ theo hƣớng tỷ trọng lao động giản đơn giảm

xuống và tỷ trọng lao động phức tạp tăng lên trong tổng lao động xã hội trong
từng thời kỳ tƣơng ứng. Từ ý tƣởng trên có thể thấy việc chuyển dịch cơ cấu
lao động theo hƣớng CNH, HĐH cả nƣớc nói chung và mỗi địa phƣơng nói
riêng không thể không xem xét một cách nghiêm túc mối quan hệ tác động
giữa nó với trình độ cơ sở vật chất kỷ thuật.
CNH, HĐH xét về thực chất của là xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật,
thay thế lao động thủ công bằng lao động cơ khí hoá và một phần tự động hoá
trong các ngành; đồng thời trên cơ sở trình độ đã đạt đƣợc của cơ sở vật chất kỹ thuật mới mà cải biến cơ cấu kinh tế lạc hậu, què quặt, thúc đẩy quá trình

22


chuyển đổi cơ cấu lao động, mở rộng thị trƣờng, phát triển sản xuất và lƣu
thông hàng hoá trong nƣớc và quốc tế.
Trình độ cơ sở vật chất - kỹ thuật ngày càng cao do quá trình CNH,
HĐH mang lại đã tạo thêm nhiều điều kiện cho lao động chuyển dịch theo
hƣớng giảm dần tỷ trọng lao động trong ngành nông nghiệp, tỷ trọng lao động
trong ngành công nghiệp và dịch vụ tăng lên, gắn liền với các giai đoạn phát
triển của công nghiệp, trình độ của ngƣời lao động không ngừng đƣợc nâng
cao. Nhờ đó mà sự giúp đỡ của công nghiệp đối với nông nghiệp đƣợc tăng
cƣờng và có hiệu quả [17,tr 81,82].
Cơ sở vật chất- kỹ thuật đạt đƣợc trong quá trình CNH, HĐH còn tạo ra
những điều kiện vật chất thuận lợi để thực hiện sự bình đẳng về kinh tế giữa
các dân tộc; nâng cao sức cạnh tranh và thực hiện chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế.
1.2.1.2. Trình độ học vấn và chuyên môn kỹ thuật của người lao
động
Đây là một nhân tố cơ bản có ý nghiã quyết định đến việc chuyển dịch
cơ cấu lao động. Vì khi trình độ học vấn và chuyên môn kỹ thuật đƣợc nâng
cao tạo điều kiện cho ngƣời lao động tiếp cận và vận dụng các thành tựu khoa

học kỹ thuật và công nghệ tiên tiến vào quá trình sản xuất, đáp ứng yêu cầu
phân công lao động xã hội. Lý luận và thực tiễn cho thấy: Một nƣớc, một địa
phƣơng tỷ trọng lao động có trình độ đại học, cao đẳng trung học chuyên
nghiệp và phổ thông trung học càng cao thì tỷ trọng lao động công nghiệp và
dịch vụ trong cơ cấu lao động ngành kinh tế càng cao và ngƣợc lại. Nói cách
khác, tỷ trọng lao động nông nghiệp có quan hệ tỷ lệ nghịch với trình độ học
vấn, còn tỷ trọng lao động công nghiệp và dịch vụ có quan hệ tỷ lệ thuận với
trình độ học vấn của ngƣời lao động

23


1.2.1.3. Tình hình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nhất là cơ cấu ngành
và nội bộ ngành kinh tế trong từng thời kỳ
Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn liền với quá trình chuyển dịch
cơ cấu lao động. Sự thay đổi trong cơ cấu kinh tế nhất là cơ cấu ngành kinh tế
tất yếu kéo theo sự thay đổi trong cơ cấu lao động, tạo ra sự phân công lao
động mới. Cơ cấu lao động một mặt phản ánh cơ cấu kinh tế nhƣng mặt khác
nó cũng là một nhân tố quan trọng nhất có tính quyết định đến sự thành bại
của chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Kinh nghiệm của các nƣớc và lãnh thổ Châu
Á nhƣ Trung Quốc, Đài Loan, Thái Lan... cho thấy trong tiến trình CNH,
HĐH đất nƣớc, nhất thiết phải xây dựng chiến lƣợc chuyển dịch cơ cấu kinh
tế và cơ cấu lao động theo hƣớng chuyển từ nông nghiệp sang công nghiệp và
dịch vụ. Tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động là thƣớc đo kết quả
của quá trình CNH-HĐH đất nƣớc, là hiệu quả của các chính sách phát triển
kinh tế - xã hội theo ngành là chủ yếu.
Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trong thời gian qua ở nƣớc ta đã
bƣớc đầu phát triển mạnh các ngành công nghiệp chế biến nông sản, tiểu thủ
công nghiệp truyền thống sản xuất các mặt hàng phục vụ tiêu dùng, xuất
khẩu, những hoạt động dịch vụ, vận tải, thu gom nông sản, thƣơng mại trên

cơ sở kinh tế hộ gia đình và các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã hình thành và
phát triển. Các hoạt động này đã tạo ra thị trƣờng mới, thu hút lao động dƣ
thừa từ nông nghiệp, biến lao động thuần nông, giản đơn thành lao động tiểu
thủ công nghiệp và dịch vụ có trình độ kỷ thuật.
Trong nội bộ ngành nông nghiệp (theo nghĩa rộng), quá trình chuyển
dịch cơ cấu ngành kinh tế cũng đƣợc thực hiện theo hƣớng quy mô mở rộng
tăng tỷ trọng lâm nghiệp, thuỷ sản; giảm tỷ trọng nông nghiệp. Kết quả đã tạo
ra nền nông nghiệp đa canh có cơ cấu ngành kinh tế phù hợp với điều kiện đất

24


×