Tải bản đầy đủ (.pdf) (128 trang)

Hệ thống bảo hiểm xã hội ở việt nam hiện nay thực trạng và giải pháp luận văn ths kinh tế 60 31 01 pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.64 MB, 128 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ

KHƯƠNG THỊ KIỀU OANH

HỆ THỐNG BẢO HIỂM XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY – THỰC
TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

LUẬN VĂN THẠC SỸ

Người hướng dẫn: TS. ĐINH QUANH TỴ

Hà nội - 2004


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................................................... 2
Chương 1

CỞ SỞ LÝ THUYẾT VÀ THỰC TIỄN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI ................................................... 7

1. 1- NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI. ....................................... 7
1. 1. 1- Khái niệm BHXH và lịch sử phát triển............................................................................. 7
1. 1. 2- Sự cần thiết khách quan của BHXH và tác động của BHXH đến đời sống kinh tế - xã hội 8
1. 1. 3- Cơ chế tổ chức Bảo hiểm xã hội .................................................................................... 13
1. 2- KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƢỚC TRONG VIỆC XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN VÀ
VẬN HÀNH HỆ THỐNG BẢO HIỂM XÃ HỘI ........................................................................... 24
1. 2. 1- Kinh nghiệm về xây dựng và phát triển hệ thống BHXH ................................................ 24
1. 2. 2- Kinh nghiệm về thiết lập cơ chế vận hành BHXH ........................................................... 33
Chương 2


THỰC TRẠNG CỦA HỆ THỐNG TỔ CHỨC BẢO HIỂM XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

45

2. 1- ĐỔI MỚI KINH TẾ VÀ NHỮNG YÊU CẦU ĐANG ĐẶT RA VỚI HỆ THỐNG BHXH Ở
VIỆT NAM ................................................................................................................................... 45
2. 1. 1- Đổi mới kinh tế và tác động đến hoạt động của hệ thống BHXH .................................... 45
2. 1. 2- Những yêu cầu mới đối với hệ thống tổ chức BHXH Việt Nam ....................................... 47
2. 2- THỰC TRẠNG HỆ THỐNG BHXH TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY .......................................................................................................................... 49
2. 2. 1- THỰC TRẠNG VỀ HỆ THỐNG TỔ CHỨC CỦA BHXH VIỆT NAM..................... 49
2. 2. 2 - THỰC TRẠNG VỀ ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CỦA BHXH VIỆT NAM ........................... 55
2. 2. 3 - THỰC TRẠNG CƠ CHẾ VẬN HÀNH CỦA HỆ THỐNG BHXH VIỆT NAM ........ 59
2.3- ĐÁNH GIÁ TỔNG QUÁT VỀ HỆ THỐNG BHXH HIỆN CÓ CỦA VIỆT NAM ............... 69
2. 3. 1- NHỮNG KẾT QUẢ CHÍNH ĐÃ ĐẠT ĐƯỢC ........................................................... 69
2. 3. 2. - NHỮNG MẶT HẠN CHẾ ĐÁNG LƯU Ý VÀ NGUYÊN NHÂN ............................ 84
Chương 3 ....... KIẾN NGHỊ VỀ ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM GÓP PHẦN PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG
BHXH VIỆT NAMTRONG TÌNH HÌNH MỚI ........................................................................................... 93
3. 1- VỀ QUAN ĐIỂM VÀ ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN ........................................................ 93
3. 1. 1- Quan điểm phát triển hệ thống BHXH Việt Nam ........................................................... 93
3. 1. 2- Về định hƣớng phát triển BHXH Việt Nam ................................................................. 101
3. 2- GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG BHXH VIỆT NAM .............................................. 104


Luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế
Oanh

Khương Thị Kiều

3. 2. 1- Giải pháp hoàn thiện tổ chức bộ máy BHXH Việt Nam ............................................... 104

3. 2.2- Giải pháp về nâng cao chất lƣợng đội ngũ cán bộ .......................................................... 112
3. 2.3- Hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động BHXH........................................................... 113
3. 2.4- Triển khai có hiệu quả hình thức BHXH tự nguyện ....................................................... 113
3. 2.5- Triển khai chế độ bảo hiểm thất nghiệp ......................................................................... 115
3. 2. 6- Tăng cƣờng quản lý các nguồn thu, chi của quỹ BHXH ............................................... 118
3. 2. 7- Đầu tƣ xây dựng cơ sở vật chất .................................................................................... 119
3. 2. 8- Tăng cƣờng công tác tuyên truyền về BHXH ............................................................... 119
KẾT LUẬN ........................................................................................................................................ 120
HỆ THỐNG CÁC CHÚ THÍCH CỦA LUẬN VĂN. ..................................................................... 124
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO. ......................................................................................... 125

1


Luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế
Oanh

Khương Thị Kiều

PHẦN MỞ ĐẦU
1. SỰ CẦN THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Dù được xây dựng theo những mô hình được coi là hợp lý nhất và ngay cả
khi đã đạt tới trình độ cao, kinh tế thị trường vẫn không thể tránh khỏi một số
khuyết tật và bản thân các quan hệ thị trường tự chúng không đủ sức giải quyết
những vấn đề xã hội nảy sinh trong quá trình phát triển kinh tế. Chính vì vậy,
bảo hiểm xã hội ra đời, trở thành công cụ điều tiết quan trọng và phổ biến đối với
hầu hết các nước trong quá trình phát triển kinh tế thị trường.
Ở Việt Nam, BHXH là một trong những chính sách lớn và trong tương lai
sẽ trở thành một ngành quan trọng. Nó có chức năng, nhiệm vụ góp phần bảo
đảm đời sống của hàng triệu người lao động khi họ gặp phải những bất trắc làm

giảm nguồn thu nhập từ lao động như ốm đau, tuổi già, tai nạn lao động… Lâu
nay, đặc biệt là trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường, Đảng và Nhà
nước ta rất quan tâm đến lĩnh vực này. Tuy nhiên, hệ thống BHXH hiện có của
Việt Nam đang vướng phải những hạn chế và mâu thuẫn, đòi hỏi những biện
pháp khắc phục thiết thực và hữu hiệu.
Đổi mới hệ thống tổ chức BHXH Việt Nam theo cơ chế quản lý mới là
yêu cầu khách quan do chính quá trình chuyển đổi mô hình phát triển kinh tế
nước ta đặt ra. Đó là sự ràng buộc có tính quy luật, bởi lẽ tương ứng với mỗi loại
cơ chế quản lý phải có loại hình tổ chức BHXH phù hợp, và việc đổi mới hệ
thống tổ chức BHXH Việt Nam cũng không thể nằm ngoài ràng buộc đó.

1


Luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế
Oanh

Khương Thị Kiều

Khi Việt Nam bước vào thời kỳ xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì chức năng
nhiệm vụ của ngành BHXH ngày càng được tăng cường và mở rộng; đối tượng
phục vụ của ngành BHXH phát triển; loại hình BHXH được đa dạng hoá; phạm
vi hoạt động của BHXH sâu rộng hơn. Cơ chế quản lý quỹ BHXH, cơ chế tài
chính của BHXH cũng phải được hoàn thiện dần theo hướng dựa trên nguyên tắc
tự trang trải chi phí, Nhà nước hỗ trợ một phần trong khuôn khổ điều kiện nền
kinh tế và ngân sách cho phép để bảo đảm thực hiện các chế độ chính sách
BHXH. Vì mục tiêu xã hội, trong cơ chế hoạt động BHXH không thể vượt qua
khả năng thực tế của ngân sách và nền kinh tế, không thể đồng nhất việc thực
hiện các chính sách xã hội dựa vào ngân sách nhà nước với việc thực hiện

BHXH dựa vào sự đóng góp của các bên tham gia BHXH. Sự kết hợp và hỗ trợ
của ngân sách nhà nước trong việc thực hiện các chính sách chế độ BHXH phải
phù hợp với điều kiện mới và bảo đảm tính độc lập của quỹ BHXH với ngân
sách nhà nước. Chính cơ chế quản lý mới này đòi hỏi ngành BHXH Việt Nam
phải đổi mới và cải cách một cách toàn diện để đáp ứng và theo kịp sự phát triển
của đất nước trong tình hình mới.
Như vậy, từ sự phát triển của nền kinh tế thị trường, từ đòi hỏi của cơ chế
quản lý mới cũng như sự mở rộng không ngừng các đối tượng tham gia BHXH,
các loại hình BHXH ngày càng đa dạng, phong phú, phức tạp. Trong khi đó hệ
thống tổ chức của ngành BHXH Việt Nam được hình thành trong quá trình
chuyển đổi cơ chế kinh tế và do sự sát nhập giữa Bảo hiểm y tế và BHXH vừa là
một yêu cầu mới, vừa hàm chứa nhiều vấn đề rất phức tạp, … Do đó, việc tiếp
tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống tổ chức BHXH ở Việt Nam là một trong những
vấn đề cấp bách đang đặt ra, cần được giải quyết.

2


Luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế
Oanh

Khương Thị Kiều

Xuất phát từ những lý do nêu trên, chúng tôi chọn đề tài "Hệ thống BHXH
ở Việt Nam hiện nay- Thực trạng và giải pháp " để thực hiện luận văn thạc sĩ
khoa học kinh tế.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Những vấn đề cơ bản của BHXH trong điều kiện chuyển sang kinh tế thị
trường ở Việt Nam chỉ mới được quan tâm nghiên cứu trong một số năm gần
đây, đặc biệt là từ năm 1995, khi ngành BHXH Việt Nam ra đời.

Những công trình nghiên cứu về BHXH ở nước ta cho đến nay còn ít và
mới chỉ đề cập đến một số nội dung cơ bản như "Đổi mới chính sách BHXH"
(tác giả Trần Quang Hùng và TS. Mạc Văn Tiến - Viện Khoa học lao động &
các vấn đề xã hội); "Góp phần đổi mới và hoàn thiện chính sách bảo đảm xã hội
ở nước ta hiện nay" (PGS - TS Đỗ Minh Cương và các tác giả); và một số tài liệu
hội thảo, một số bài báo đơn lẻ, đề cập đến một vài khía cạnh của BHXH...
Việc nghiên cứu toàn diện và hệ thống về tổ chức BHXH Việt Nam trong
điều kiện chuyển sang kinh tế thị trường và hộ i nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi phải
phân tích sâu về lý luận, đánh giá đúng thực trạng, phát hiện những hạn chế và
nguyên nhân, từ đó đưa ra những giải pháp khắc phục và vận dụng kinh nghiệm
của các nước phát triển và đang phát triển vào thực tiễn Việt Nam. Rõ ràng đây
đang là những vấn đề cần được làm sáng tỏ.
Luận văn này hy vọng sẽ có những đóng góp nhất định để đáp ứng được
những đòi hỏi bức xúc đó về cả hai phương diện lý luận và thực tiễn.
3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu hệ thống tổ chức BHXH Việt Nam trong điều kiện đổi mới
kinh tế, đánh giá các kết quả đã đạt được, những mặt hạn chế và nguyên nhân, từ

3


Luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế
Oanh

Khương Thị Kiều

đó đề xuất các giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện hệ thống tổ chức BHXH Việt
Nam trong thời gian tới.
4. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Hệ thống hoá các nguyên lý tổ chức, đánh giá và phân tích hệ thống các

văn bản pháp quy, các tài liệu, số liệu về BHXH của Việt Nam; phân tích mối
quan hệ kinh tế - xã hội giữa tổ chức cung ứng BHXH và khách hàng của BHXH
Việt Nam, tìm hiểu kinh nghiệm tổ chức, hoạt động BHXH của một số nước trên
thế giới.
Những vấn đề liên quan đến BHXH Việt Nam chủ yếu được nghiên cứu
trong giai đoạn từ năm 1995 trở lại đây.
5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Vận dụng những phương pháp chung của kinh tế chính trị học mác- xít
phù hợp với đối tượng, mục đích nghiên cứu.
- Tập hợp, xử lý và phân tích hệ thống văn bản pháp quy về BHXH có liên
quan đến vấn đề nghiên cứu và các bài viết của các nhà khoa học.
- Đánh giá và phân tích thực trạng của hệ thống tổ chức BHXH, rút ra
những kết luận có tính khoa học, bảo đảm được mục tiêu nghiên cứu của luận
văn.
6. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
- Đưa ra các luận cứ khoa học góp phần tiếp tục đổi mới và hoàn thiện mô
hình, cơ cấu tổ chức bộ máy của BHXH Việt Nam nhằm hoạt động có hiệu lực
và hiệu quả phù hợp với yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa và đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
- Đưa ra các khuyến nghị nhằm góp phần hoàn thiện hơn các cơ chế, chính
sách, chế độ BHXH hiện hành; nâng cao hiệu quả hoạt động thu chi BHXH;

4


Luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế
Oanh

Khương Thị Kiều


quản lý có hiệu quả quỹ BHXH, thúc đẩy việc đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH
trong quá trình hội nhập với các nước trong khu vực và thế giới.
- Đề xuất các giải pháp góp phần nâng cao chất lượng phục vụ và bảo đảm
thực hiện có hiệu quả các chính sách BHXH nói riêng; đồng thời góp phần giảm
bớt những bất hợp lý của hệ thống tổ chức BHXH, làm cho hệ thống này tinh
gọn hơn trên cơ sở hạ thấp mức chi phí, làm cho bộ máy đỡ tốn kém, hiệu quả
hoạt động quản lý được nâng cao.
- Đề xuất các biện pháp xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ làm công tác
BHXH.
7. BỐ CỤC LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chính của luận văn được thiết
kế thành ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý thuyết và kinh nghiệm của một số nước về Bảo hiểm
xã hội,
Chương 2: Thực trạng của hệ thống tổ chức Bảo hiểm xã hội ở Việt Nam
hiện nay,
Chuơng 3: Kiến nghị về định hướng và giải pháp nhằm góp phần phát
triển hệ thống tổ chức Bảo hiểm xã hội ở Việt Nam trong tình hình mới.

5


Luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế
Oanh

Khương Thị Kiều

Chƣơng 1

CỞ SỞ LÝ THUYẾT VÀ THỰC TIỄN VỀ

BẢO HIỂM XÃ HỘI
1. 1- NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI.
1. 1. 1- Khái niệm BHXH và lịch sử phát triển
Trong hai thập kỷ gần đây, cùng với sự chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch
hoá tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
(XHCN), BHXH đã được nhiều người biết đến bởi nó liên quan trực tiếp đến
quyền lợi của đại bộ phận người làm công ăn lương. Mục đích của BHXH là
nhằm bù đắp hoặc thay thế thu nhập cho người lao động khi gặp rủi ro làm giảm
hoặc mất nguồn thu nhập từ lao động, giúp ổn định đời sống cho người lao động
cũng như gia đình họ.
"BHXH là sự thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động
khi họ bị mất hoặc giảm thu nhập do ốm đau, tai nạn lao động - bệnh nghề
nghiệp, tàn tật, tuổi già, tử tuất… dựa trên cơ sở một quỹ tài chính do sự đóng
góp của các bên tham gia BHXH có sự bảo hộ của nhà nước theo pháp luật,
nhằm đảm đảm an toàn đời sống cho người lao động và gia đình họ, đồng thời
góp phần bảo đảm an toàn xã hội" (Từ điển Bách khoa Việt Nam, tập I).
Đối tượng của BHXH là người lao động. Có hai hình thức BHXH là hình
thức bắt buộc và hình thức tự nguyện.
Hình thức bắt buộc thường được thực hiện đối với người làm công ăn
lương, vì đó là những người có công việc, thu nhập và nơi làm việc tương đối ổn
định. Để bảo đảm thu chi cho quỹ BHXH cần nắm chắc số lượng và tình trạng
của người phải đóng BHXH, số lượng và tình trạng của người được bảo hiểm.

6


Luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế
Oanh

Khương Thị Kiều


Hơn nữa, những đối tượng này lại được người sử dụng lao động đóng thêm phí
BHXH cho họ. Mức đóng góp thường quan hệ tỷ lệ thuận với tiền lương của
người lao động. Mặt khác, tiền lương của những đối tượng này bao giờ cũng có
mối quan hệ thuận với tăng trưởng kinh tế, do vậy tổng quỹ lương tăng thì quỹ
BHXH cũng tăng theo.
Hình thức tự nguyện áp dụng đối với người lao động thuộc khu vực phi
thể chế hoá, người lao động độc lập, nông dân, … Những người này thường
không có công việc, thu nhập và nơi làm việc ổn định, đặc biệt họ không được
người sử dụng lao động (nếu có) đóng thêm phí cho mình. Do vậy, việc ấn định
mức phí đóng góp đối với những đối tượng này không hề đơn giản, đòi hỏi phải
có những cân nhắc và tính toán kỹ, và chính việc hình thành quỹ BHXH tự
nguyện sẽ ảnh hưởng đến việc cân đối quỹ BHXH. Ở nhiều nước, hình thức
BHXH tự nguyện thường được áp dụng sau hình thức bắt buộc và ban đầu chỉ
thực hiện một số chế độ thiết yếu đối với người lao động.
Bản chất của BHXH là bảo hiểm nguồn thu nhập cho người lao động nên
mức đóng và mức hưởng BHXH có liên quan chặt chẽ với tiền lương của người
lao động. Mức đóng góp và mức hưởng được tính theo tỷ lệ tiền lương.
1. 1. 2- Sự cần thiết khách quan của BHXH và tác động của BHXH đến
đời sống kinh tế - xã hội
Bàn về sự cần thiết khách quan của BHXH, trước hết phải khẳng định
BHXH là nhu cầu của người lao động. Điều đó được giải thích bởi việc người
lao động luôn bị đe doạ bởi các rủi ro làm giảm hoặc mất khả năng lao động
hoặc mất việc làm dẫn đến giảm hoặc mất nguồn thu nhập, gây khó khăn cho
cuộc sống của người lao động và gia đình họ. Những rủi ro đó có thể do:

7


Luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế

Oanh

Khương Thị Kiều

- Qui luật "sinh - bệnh - lão - tử". Theo qui luật này, trong cuộc đời người
lao động sẽ gặp rủi ro làm giảm hoặc mất nguồn thu nhập từ lao động;
- Lực lượng sản xuất phát triển, một mặt thúc đẩy sản xuất tạo điều kiện
thuận lợi cho người lao động, mặt khác cũng gây những hậu quả không nhỏ như:
tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp…;
- Ô nhiễm môi trường làm cho người lao động suy giảm sức khoẻ, dễ mắc
bệnh…;
- Môi trường kinh tế - xã hội: kinh tế khủng hoảng hoặc kém phát triển
dẫn đến tình trạng thất nghiệp, xã hội kém phát triển dẫn đến ốm đau bệnh tật, …
Để khắc phục những rủi ro đó, ngay từ thời cổ đại, con người phải tự khắc
phục bằng cách tự tiết kiệm, có sự cưu mang giúp đỡ của cộng đồng. Tuy nhiên,
sự tương trợ này chỉ mang tính tự phát trong phạm vi hẹp. Chính vì vậy, nguồn
tài chính để khắc phục rủi ro không chắc chắn.
Đến giai đoạn phân công lao động được mở rộng hơn, sản xuất xã hội phát
triển, quan hệ xã hội, giữa các cá nhân và cộng đồng cũng phát triển hơn, do đó
đã xuất hiện các tổ chức từ thiện nhằm giúp đỡ những người có hoàn cảnh khó
khăn.
Từ đầu thế kỷ 16, khi các ngành công nghiệp ra đời và phát triển thì số
công nhân công nghiệp tăng dần. Đây là những người làm công ăn lương, lấy
tiền lương làm nguồn sống chủ yếu. Những người này chỉ khi làm việc mới có
lương, nếu ốm đau, tai nạn… phải nghỉ việc không có lương và cuộc sống bị đe
doạ. Để giảm thiểu nỗi lo của người làm công ăn lương, nhiều tổ chức với những
hình thức trợ giúp xã hội lần lượt ra đời. Nhiều quỹ tiết kiệm được nhà nước
khuyến khích thành lập, có sự đóng góp của người lao động và người sử dụng

8



Luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế
Oanh

Khương Thị Kiều

lao động, được dùng để chi trả cho người lao động khi ốm đau, tai nạn, chết, …
Đây chính là tiền thân của các tổ chức BHXH.
Đối với người lao động khi gặp rủi ro, thu nhập từ quỹ BHXH dưới hình
thức BHXH trả thay tiền lương hoặc tiền công, được coi là nguồn thu nhập quan
trọng (có khi là chủ yếu) để sống, để khắc phục khó khăn.
Ngày nay, BHXH được pháp luật của nhiều nước ghi nhận, đã trở thành
một trong những quyền con người và được Đại hội đồng Liên hợp quốc thừa
nhận trong Tuyên ngôn Nhân quyền ngày 10/12/1948 như sau: "Tất cả mọi
người với tư cách là thành viên của xã hội có quyền hưởng BHXH. Quyền đó
được đặt cơ sở trên sự thoả mãn các quyền về kinh tế, xã hội và văn hoá cần cho
nhân cách và tự do phát triển của con người".
Sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà được thành lập, Chính phủ ta
cũng đã ban hành nhiều văn bản pháp luật về BHXH như: Sắc lệnh 54/SL qui
định điều kiện nghỉ hưu đối với công chức, Sắc lệnh 29/SL qui định chế độ thai
sản - ốm đau… Ngày 27/12/1961, Điều lệ tạm thời về BHXH ra đời kèm theo
Nghị định 218/CP và Nghị định 161/CP qui định 6 chế độ BHXH đối với công
nhân viên chức và người làm việc thuộc lực lượng vũ trang. Do đặc điểm quản lý
kinh tế của thời kỳ này, chỉ có công nhân viên chức nhà nước mới được tham gia
đóng BHXH, nguồn chi trả chủ yếu lấy từ ngân sách nhà nước.
Khi Việt Nam chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, hệ thống BHXH cũng
phải chuyển đổi cho phù hợp với xu hướng chung, đối tượng tham gia được mở
rộng đến người lao động thuộc mọi thành phần kinh tế, người lao động phải

tham gia đóng BHXH, quỹ BHXH tách ra hoạt động độc lập, tự cân đối thu chi.

9


Luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế
Oanh

Khương Thị Kiều

Những dẫn chứng mang tính lịch sử nêu trên đã chứng tỏ rẳng BHXH thực
sự là nhu cầu thiết yếu của người lao động, đòi hỏi xã hội phải đáp ứng. Mức độ
và hình thức đáp ứng của xã hội về BHXH cho người lao động trong các thời kỳ
khác nhau dĩ nhiên là không giống nhau, do phụ thuộc vào đặc điểm kinh tế - xã
hội và cơ chế vận hành của nền kinh tế trong từng thời kỳ.
Sự cần thiết khách quan của BHXH còn được thể hiện từ góc độ BHXH là
một bộ phận quan trọng của chính sách xã hội.
Chính sách xã hội là loại chính sách được thể chế hoá bằng pháp luật của
nhà nước dưới dạng hệ thống các quan điểm, chủ trương, phương hướng và biện
pháp để giải quyết những vấn đề xã hội nhất định, trước hết là những vấn đề xã
hội liên quan đến công bằng xã hội và phát triển an sinh xã hội, nhằm góp phần
ổn định, phát triển đất nước, thúc đẩy tiến bộ xã hội.
Chính sách BHXH là một trong những chính sách xã hội cơ bản, liên quan
đến quyền và lợi ích của người lao động, có vai trò to lớn trong việc ổn định đời
sống cho đại bộ phận dân cư, từ đó góp phần ổn định xã hội. Chính vì vậy, nhà
nước phải có sự can thiệp và điều tiết nhất định, bảo đảm việc thực hiện những
quyền xã hội của người lao động.
Bước vào công cuộc đổi mới, trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VI, Đảng ta đã khẳng định: "Chính sách xã hội bao trùm mọi mặt của
cuộc sống con người: điều kiện lao động và sinh hoạt, giáo dục và văn hoá, quan

hệ gia đình, quan hệ giai cấp, quan hệ dân tộc…Coi nhẹ chính sách xã hội tức là
coi nhẹ yếu tố con người trong sự nghiệp xây dựng CNXH". Như vậy, chính sách
xã hội đã được Đảng ta nhận thức sâu sắc về vị trí và tầm quan trọng của nó
trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

10


Luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế
Oanh

Khương Thị Kiều

Việc quy định người lao động phải đóng BHXH có tác dụng quan trọng
trong việc phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia. Có thể là phân
phối lại thu nhập theo chiều ngang được thực hiện giữa những người lao động
trẻ, khoẻ với những người lao động già, ốm yếu; giữa những người đang làm
việc và những người đã về hưu…. Có thể là phân phối thu nhập theo chiều dọc
được thực hiện giữa những người có thu nhập cao và những người có thu nhập
thấp…. Sự phân phối lại thu nhập thông qua BHXH có tác dụng góp phần thực
hiện công bằng, ổn định và tiến bộ xã hội.
BHXH xuất hiện và dần dần trở thành một lĩnh vực kinh tế quan trọng, có
quan hệ chặt chẽ với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Thông qua việc đóng BHXH,
nền kinh tế huy động được một lượng tiền đáng kể để đầu tư cho phát triển.
Nguồn thu BHXH là một nguồn tiết kiệm nội bộ quan trọng vì các khoản chi trợ
cấp, nhất là trợ cấp tuổi già, tử tuất chưa thực hiện ngay. Nguồn thu từ các khoản
nhàn rỗi được tích tụ thành quỹ có quy mô ngày càng lớn, quỹ này được đầu tư
để sinh lời. Do phải bảo đảm an toàn, chi trả kịp thời, có ích với xã hội nên các
khoản mục đầu tư thường do nhà nước xét duyệt. Nhà nước thường khuyến
khích đầu tư vào phát triển hạ tầng, y tế, giáo dục, … Như vậy, chính sách

BHXH đã góp phần vào thực hiện các chính sách xã hội khác, thúc đẩy xã hội
tiến bộ.
Có thể nói, chính sách BHXH là một bộ phận quan trọng của chính sách
xã hội. BHXH giúp người lao động tự bảo đảm cuộc sống cho chính bản thân và
gia đình mình, góp phần ổn định, phát triển và tiến bộ xã hội, góp phần thực
hiện có hiệu quả các mục tiêu mà chính sách xã hội đặt ra.
Để phân tích tác động của BHXH đến đời sống kinh tế - xã hội,
cần đánh giá từ nhiều góc độ khác nhau.

11


Luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế
Oanh

Khương Thị Kiều

Trước hết, hoàn toàn có cơ sở khẳng định rằng BHXH có vai trò quan
trọng trong đời sống xã hội. BHXH góp phần ổn định đời sống cho người tham
gia bảo hiểm. Khi rơi vào những trường hợp rủi ro (như đã đề cập ở trên), thu
nhập của người lao động bị giảm sút, họ và gia đình sẽ lâm vào cảnh khó khăn
và khi đó, khoản tiền BHXH sẽ là thu nhập chính.
Ngoài việc giải quyết các rủi ro xảy ra đối với người lao động, BHXH còn
giúp họ nhanh chóng phục hồi sức khoẻ, yên tâm làm việc, nâng cao năng suất
lao động, còn góp phần thúc đẩy đầu tư vào nền sản xuất xã hội thông qua việc
sử dụng nguồn quỹ đã tích luỹ, góp phần tạo ra mức độ tăng trưởng cao của nền
kinh tế.
BHXH còn có vai trò quan trọng trong việc ổn định đời sống xã hội.
Chính sách BHXH được thực hiện cho phần lớn người lao động thuộc mọi thành
phần kinh tế, do vậy, có vai trò góp phần thực hiện công bằng xã hội giữa "làm"

và "hưởng", giữa người lao động trong các thành phần kinh tế, làm lành mạnh
hoá thị trường lao động, tạo điều kiện cho người lao động tự do di chuyển, củng
cố lòng tin của nguời dân vào chế độ, tạo nền tảng vững chắc cho một thể chế
chính trị xã hội . Mặt khác, gia đình là tế bào của xã hội, gia đình ổn định và phát
triển góp phần làm cho xã hội ổn định và phát triển.
1. 1. 3- Cơ chế tổ chức Bảo hiểm xã hội
a) Bộ máy Bảo hiểm xã hội
Bộ máy BHXH là cơ quan đề ra cơ chế chính sách về BHXH và tổ chức
thực hiện các cơ chế chính sách BHXH. Hiệu lực và hiệu quả hoạt động của bộ
máy phụ thuộc vào mô hình tổ chức, cách thức giao chức năng nhiệm vụ, nguyên
tắc vận hành của hệ thống tổ chức và khung pháp lý cho hoạt động của hệ thống
BHXH.

12


Luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế
Oanh

Khương Thị Kiều

Để bộ máy hoạt động có hiệu quả, trong tổ chức bộ máy người ta thành
lập một hệ thống bộ máy có sự "phân tách quyền" cho các bên nhằm tạo ra một
cơ chế có thể kiểm tra kiểm soát hoạt động của bộ phận nắm quyền thu chi
BHXH, thông qua đó, bảo đảm sự nghiêm túc trong hoạt động thu chi BHXH.
Có thể thể hiện điều đó trong sơ đồ 1 (xem trang 14).
Theo sơ đồ này, nghị viện (quốc hội) sẽ là cơ quan ban hành các văn bản
luật về BHXH trên cơ sở dự thảo luật do cơ quan quản lý nhà nước về BHXH đệ
trình thông qua chính phủ. Sau khi luật được nghị viện (quốc hội) thông qua và
có hiệu lực thi hành, chính phủ sẽ ban hành các văn bản (nghị định, quyết định,

chỉ thị …) về việc thi hành một số điều của luật. Cơ quan quản lý nhà nước về
BHXH sẽ ra các văn bản (thông tư, công văn, quyết định v. v…) hướng dẫn thi
hành văn bản của chính phủ và tổ chức thực hiện thanh, kiểm tra việc thực hiện
hệ thống văn bản này của cơ quan hoạt động BHXH.
Trên cơ sở hệ thống các văn bản luật, dưới luật, cơ quan tổ chức thực hiện
các hoạt động BHXH sẽ tổ chức thực hiện các hoạt động thu chi BHXH. Hoạt
động thu chi này được đặt dưới sự kiểm tra, kiểm soát của cơ quan quản lý nhà
nước về BHXH.
SƠ ĐỒ 1: MÔ HÌNH TỔ CHỨC QUẢN LÝ VÀ HOẠT ĐỘNG BHXH

Chính phủ (cơ quan triển
khai các luật)

Nghị viện (Quốc hội) - cơ quan ban
hành khung pháp lý về BHXH

Cơ quan quản lý nhà nước
về BHXH

Cơ quan hoạt động BHXH

13


Luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế
Oanh

Khương Thị Kiều

Mặt khác, để bảo đảm tính nghiêm minh trong tổ chức hoạt động của bộ

máy BHXH, có thể bổ sung thêm thiết chế cho hoạt động của nó. Một trong
những cách bổ sung này là việc thiết lập một cơ chế hoạt động của bộ máy tư
pháp giám sát các hoạt động BHXH, trong đó những vi phạm pháp luật về
BHXH có thể được đưa ra xét xử nghiêm minh theo phân cấp ở từng thời kỳ.
Riêng đối với cơ quan hoạt động BHXH, để thực hiện chức năng nhiệm vụ
của mình, điều quan trọng là phải tổ chức được bộ máy đủ năng lực hoạt động và
hoạt động có hiệu quả. Có hai hình thức tổ chức quản lý chủ yếu:
- Hình thức thứ nhất: Tổ chức bộ máy theo mô hình trực tuyến chức
năng, thực hiện quản lý trực tuyến từ trung ương đến địa phương.
Kiểu tổ chức quản lý này có thể được thể hiện qua sơ đồ sau:
SƠ ĐỒ 2: MÔ HÌNH TỔ CHỨC CƠ QUAN BHXH THEO KIỂU TRỰC TUYẾN
Văn phòng BHXH cấp trung ương

Văn phòng BHXH thứ nhất ở cấp
địa phương

……

Văn phòng BHXH thứ n ở
cấp địa phương

Trong mô hình này, hệ thống BHXH là thống nhất. Cấp trung ương trực
tiếp quản lý các văn phòng BHXH ở địa phương. Văn phòng BHXH địa phương
có thể được chia nhỏ ra thành:
- Văn phòng BHXH cấp vùng.
- Văn phòng BHXH cấp tỉnh.

14



Luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế
Oanh

Khương Thị Kiều

- Văn phòng BHXH cấp huyện.
Chính quyền địa phương không có quyền can thiệp vào hệ thống BHXH,
song có thể tham gia giám sát hoạt động BHXH. Cách tổ chức này chú trọng
quyền lực của trung ương, thu BHXH về một đầu mối quản lý, nâng cao tính
trách nhiệm và tính chuyên môn hoá trong việc thực hiện các hoạt động BHXH,
song ít tranh thủ được sự hỗ trợ của chính quyền địa phương.
- Hình thức thứ hai: Tổ chức bộ máy theo kiểu kết hợp quản lý giữa
trung ương và địa phương. Tổ chức này có thể được thực hiện qua sơ đồ 3 (xem
trang 16).
Mô hình quản lý này đòi hỏi sự tham gia quản lý của chính quyền địa
phương. Chính quyền địa phương chi phối hoạt động của hệ thống BHXH cả về
tài chính, nhân sự, tổ chức hoạt động. BHXH cấp trung ương chỉ thực hiện quản
lý về chuyên môn.
Kiểu tổ chức này có lợi thế là tranh thủ được sự ủng hộ và hỗ trợ của
chính quyền địa phương, song vai trò của cấp trung ương quá thấp, tính chuyên
môn hoá của đội ngũ cán bộ có thể bị giảm. Nếu việc tổ chức quản lý của địa
phương không nghiêm có thể để xảy ra tham nhũng.
SƠ ĐỒ 3: MÔ HÌNH TỔ CHỨC CƠ QUAN BHXH THEO KIỂU KẾT HỢP QUẢN
LÝ GIỮA TRUNG ƢƠNG VÀ ĐỊA PHƢƠNG

Văn phòng BHXH cấp trung ương

Văn phòng BHXH cấp địa
phương


Văn phòng BHXH cấp địa
phương

15
Chính quyền địa phương


Luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế
Oanh

Khương Thị Kiều

Ghi chú:
- - - - - - - - - - - : Chỉ sự quản lý về chuyên môn.
_____________: Chỉ sự quản lý trực tiếp, toàn diện.
Trong cả hai hình thức trên, cần lưu ý là tổ chức bộ máy của một văn
phòng BHXH đều nên theo một mô hình chung là mô hình trực tuyến chức năng,
trong đó những bộ phận chức năng không thể thiếu là:
- Thu BHXH,
- Chi BHXH,
- Quản lý nhân sự,
- Thanh tra,
- Kế toán tài vụ.
Ngoài ra, tuỳ từng trường hợp cụ thể và quan điểm quản lý của từng quốc
gia, có thể hình thành những phòng chức năng khác.
Về công tác cán bộ, điều quan trọng là phải phân định rõ các chức danh
chuyên môn - nghiệp vụ trong bộ máy và thiết lập tiêu chuẩn của từng chức
danh. Khi bố trí công việc, tổ chức đào tạo cho nhân viên bộ máy, cần dựa trên
hệ thống tiêu chuẩn các chức danh. Có như vậy hệ thống BHXH mới hoạt động
hiệu quả.

b) Giao chức năng, nhiệm vụ
Nguyên tắc chung của việc giao chức năng, nhiệm vụ trong cơ cấu tổ chức
bộ máy nói chung và của BHXH nói riêng là:

16


Luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế
Oanh

Khương Thị Kiều

- Tập hợp các chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận trong bộ máy phải
bảo đảm bao quát hết các chức năng, nhiệm vụ của bộ máy.
- Chức năng, nhiệm vụ của từng bộ phận của bộ máy phải rõ ràng, không
có sự chồng chéo.
- Tạo lập được cơ chế phối kết hợp trong tổ chức hoạt động của bộ máy.
- Phân rõ trách nhiệm, quyền hạn cho từng bộ phận của bộ máy.
Đối với việc giao chức năng, nhiệm vụ cho nhân viên của bộ máy, nguyên
tắc chung là:
+ Giao nhiệm vụ phải đúng với khả năng, sở trường của người lao động.
+ Nhiệm vụ giao cho bất kỳ nhóm nào đều phải có người chịu trách nhiệm
chính.
+ Nhiệm vụ không được chồng chéo, có quy định rõ tiến độ thực hiện.
c) Nguyên tắc vận hành hệ thống Bảo hiểm xã hội
Hệ thống BHXH nói chung được vận hành theo 9 nguyên tắc sau:
- Nguyên tắc 1: Mọi người lao động trong mọi trường hợp bị giảm hoặc
mất thu nhập do bị giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc mất việc làm đều có
quyền được hưởng BHXH.
Quyền được BHXH của người lao động là một trong những biểu hiện cụ

thể của quyền con người. Nhưng BHXH không phải là cái có sẵn nên trước hết
phải tìm cách tạo ra nó. Ở mỗi nước khi muốn xây dựng hệ thống BHXH, nhà
nước phải tạo điều kiện và môi trường kinh tế - xã hội, về chính sách và luật
pháp, về tổ chức và cơ chế quản lý cần thiết. Đồng thời, những người sử dụng
lao động và người lao động phải thực hiện trách nhiệm đóng góp tài c hính của
mình để bảo đảm hoạt động của hệ thống này. Đây cũng là điều kiện cơ bản để
người lao động được hưởng quyền BHXH.

17


Luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế
Oanh

Khương Thị Kiều

Biểu hiện cụ thể quyền được hưởng BHXH của người lao động là việc họ
được hưởng trợ cấp BHXH theo các chế độ xác định gắn với trường hợp họ bị
giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm, dẫn đến giảm hoặc mất nguồn
sinh sống. Trong nền kinh tế thị trường, những trường hợp đó rất nhiều và có thể
xẩy ra ngẫu nhiên. Về nguyên lý, trong những trường hợp như vậy, người lao
động được BHXH. Song, giữa nguyên lý và thực tiễn bao giờ cũng có khoảng
cách. Khoảng cách đó do các điều kiện kinh tế - xã hội quy định. Do vậy, cần
căn cứ vào điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể của đất nước trong từng giai đoạn
phát triển để tổ chức và hoàn thiện dần việc BHXH đối với các trường hợp làm
giảm hoặc mất thu nhập của người lao động.
- Nguyên tắc 2: Nhà nước và người sử dụng lao động có trách nhiệm
phải BHXH đối với người lao động, người lao động cũng có trách nhiệm phải tự
BHXH cho mình.
Nguyên tắc này đề cập đến quan hệ ba bên: nhà nước, người sử dụng lao

động và người lao động trong hoạt động BHXH. Trong đó, nhà nước giữ vai trò
điều tiết vĩ mô thông qua các công cụ chính sách của mình và dành một phần
ngân sách cho BHXH để giải quyết những trường hợp được quy định cụ thể
trong từng thời kỳ. Việc làm đó của nhà nước sẽ giúp người lao động yên tâm
sản xuất - công tác, góp phần tăng năng suất lao động xã hội, đồng thời bảo đảm
sự ổn định chính trị - xã hội, tạo nền tảng cho phát triển kinh tế - xã hội. Người
sử dụng lao động, để tạo động lực và ổn định tâm lý cho người lao động, cũng
cần bảo hiểm cho người lao động trong các trường hợp rủi ro do lao động như
ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp v. v…Đối với người lao động, dù
gặp bất cứ rủi ro nào thì trước hết, đó cũng là rủi ro của chính bản thân họ, do
vậy, họ cần phải tự BHXH cho chính mình.

18


Luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế
Oanh

Khương Thị Kiều

- Nguyên tắc 3: BHXH phải dựa trên sự đóng góp của các bên tham gia
để hình thành quỹ BHXH độc lập và tập trung.
Nhờ sự đóng góp của các bên tham gia (nhà nước, người sử dụng lao
động,và bản thân người lao động) mà phương thức riêng có của BHXH là dàn
trải rủi ro theo nhiều chiều, tạo điều kiện để phân phối lại thu nhập theo cả chiều
dọc và chiều ngang, tạo mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ giữa trách nhiệm và
quyền lợi, góp phần phòng chống những hiện tượng nhiễu trong hệ thống, mang
lại nhiều lợi ích cho những người có liên quan.
Song, những đóng góp đó cần được thu về một mối - tức là cho cơ quan
BHXH chuyên nghiệp và được tích tụ dần thành một quỹ tài chính độc lập và tập

trung do một cơ quan chuyên nghiệp về BHXH chịu trách nhiệm quản lý, điều
hành.
- Nguyên tắc 4: BHXH phải lấy số đông bù số ít.
Trong số đông người tham gia đóng góp BHXH, chỉ có những người lao
động mới là đối tượng hưởng trợ cấp. Trong số những người lao động lại chỉ có
những người bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động hay tuổi già, đủ những điều
kiện cần thiết mới thực sự được hưởng trợ cấp. Trong số đó có những người
tham gia đóng góp từ lâu, nhưng cũng có những người mới tham gia đóng góp,

Điều đó lý giải tại sao BHXH lại phải lấy số đông bù số ít.
- Nguyên tắc 5: Phải kết hợp hài hoà các dạng lợi ích, các khả năng và
phương thức đáp ứng nhu cầu BHXH.
Trong BHXH các bên tham gia đều nhận được lợi ích, song các lợi ích
không phải luôn như nhau, vẫn có lúc các lợi ích này mâu thuẫn nhau. Ví dụ, nếu
tăng mức trợ cấp sẽ có lợi cho người lao động nhưng lại không có lợi cho người

19


Luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế
Oanh

Khương Thị Kiều

sử dụng lao động. Nếu giảm bất lợi cho người sử dụng lao động thì nhà nước lại
phải gánh chịu.
Đối với người lao động, muốn hưởng BHXH cao thì mức đóng góp
BHXH phải cao. Song nếu đóng BHXH cao thì phần thu nhập để nuôi sống bản
thân và gia đình sẽ giảm. Do vậy, khi nghiên cứu xây dựng thiết chế BHXH, cần
xác định tỷ lệ đóng góp hợp lý để vừa bảo đảm lợi ích trước mắt (chi tiêu hằng

ngày), vừa bảo đảm lợi ích lâu dài (mức hưởng bảo hiểm) của người lao động.
Muốn phát triển quỹ BHXH, cần tăng nguồn thu BHXH, song trong việc
thu BHXH (từ người lao động, người sử dụng lao động và nhà nước), có những
giới hạn không được phép vượt. Do vậy, cần tìm các nguồn thu khác để bổ sung
cho quỹ. Những cách làm có thể là:
- Đầu tư phần vốn nhàn rỗi tương đối của quỹ để sinh lợi.
- Hợp tác quốc tế về BHXH để có thêm phần chênh lệch do tái bảo hiểm
sinh ra.
- Tìm tòi, áp dụng nhiều phương thức BHXH khác (ví dụ cho phép các
doanh nghiệp có thể BHXH thêm ngoài phần quy định cứng của nhà nước).
- Nguyên tắc 6: Mức trợ cấp BHXH phải thấp hơn mức tiền lương đang đi
làm, nhưng không được thấp hơn mức sống tối thiểu.
Nguyên tắc này đề cập đến các loại trợ cấp thay thế cho tiền lương như trợ
cấp ốm đau, thai sản, hưu trí tuổi già. Mức trợ cấp phải thấp hơn tiền lương khi
người lao động đang đi làm để người lao động cố gắng không gặp các rủi ro dẫn
đến việc nhận trợ cấp, cố gắng làm việc. Hơn nữa, cách lập quỹ theo phương
thức dàn trải rủi ro không cho phép trả mức phụ cấp cao hơn mức lương, vì nếu
như vậy, gánh nặng mà những người đang đi làm phải gánh cho những người
được bảo hiểm sẽ quá cao. Mặt khác, do tuổi thọ của người dân ngày càng được

20


Luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế
Oanh

Khương Thị Kiều

nâng cao, thời gian hưởng bảo hiểm tuổi già (hưu trí) ngày càng dài, tổng thời
gian chi cho bảo hiểm tuổi già ngày càng lớn cũng không cho phép đặt ra mức

trợ cấp quá cao dành cho những người lao động gặp rủi ro.
Tuy nhiên, khi trả trợ cấp BHXH, để ít nhất là bảo đảm tái sản xuất giản
đơn sức lao động cho người lao động, cần trả mức trợ cấp không thấp hơn mức
sống tối thiểu.
- Nguyên tắc 7: Có sự kết hợp giữa BHXH bắt buộc và tự nguyện.
Nhu cầu BHXH, đặc biệt là bảo hiểm tuổi già, có ở nhiều người lao động.
Đối với người lao động làm việc ở khu vực kinh tế chính thức, việc tham gia
BHXH là bắt buộc. Nhà nước, người sử dụng lao động và người lao động cùng
tham gia đóng góp BHXH nên mức đóng của người lao động không cao, người
lao động được bảo đảm về quyền lợi. Đối với người lao động ở khu vực kinh tế
phi chính quy, cần có loại hình BHXH tự nguyện để những người có nhu cầu
được BHXH tham gia đóng góp.
- Nguyên tắc 8: Phải bảo đảm tính thống nhất của BHXH trên phạm vi cả
nước, đồng thời phải phát huy tính đa dạng, năng động của các bộ phận cấu
thành.
Hệ thống BHXH của một nước gồm nhiều bộ phận cấu thành, trong đó bộ
phận lớn nhất do nhà nước tổ chức và bảo hộ đặc biệt bao trùm toàn bộ những
người được hưởng lương từ ngân sách nhà nước và những người lao động thuộc
các khu vực nhà nước. Các bộ phận nhỏ hơn do các đơn vị kinh tế và tư nhân tổ
chức ra để bảo hiểm cho một số đối tượng được quy định bởi luật pháp. Trong
bộ phận do nhà nước tổ chức, còn có thể có một số bộ phận bảo hiểm chuyên
ngành như BHXH đối với công chức, BHXH đối với quân nhân hưởng lương và
một số bộ phận BHXH theo những ngành kinh tế đặc thù (đường sắt, khai thác

21


Luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế
Oanh


Khương Thị Kiều

mỏ v.v…). Cách thức tổ chức, phạm vi và đối tượng được áp dụng do nhà nước
quy định cụ thể.
Để BHXH hoạt động có hiệu quả, cần bảo đảm tính thống nhất trên những
vấn đề lớn hoặc cơ bản nhất để tránh sự tuỳ tiện, cục bộ hoặc những mâu thuẫn
nảy sinh, đồng thời phải có cơ chế để mỗi bộ phận cấu thành có thể năng động
trong hoạt động của chúng để chúng có thể bù đắp, bổ sung cho nhau, phối hợp
với nhau trong quá trình hoạt động.
- Nguyên tắc 9: BHXH phải được phát triển dần từng bước phù hợp với
các điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước trong từng giai đoạn phát triển cụ
thể.
BHXH của một nước gắn rất chặt với trạng thái kinh tế, điều kiện kinh tế xã hội, cơ chế và trình độ quản lý, đặc biệt là sự đồng bộ, hoàn chỉnh của luật
pháp. Việc xây dựng và phát triển BHXH phải bảo đảm chắc chắn, tính toán thận
trọng từng bước đi cho phù hợp.
Sự phát triển của BHXH biểu hiện trên nhiều mặt: cơ cấu các bộ phận của
hệ thống, số lượng và cơ cấu các chế độ trợ cấp, mức trợ cấp, thời hạn nghỉ việc
để hưởng trợ cấp, mức đóng phí, … Nếu không lựa chọn bước đi hợp lý và cân
nhắc, tính toán thận trọng, có thể phát sinh trục trặc không thể kiểm soát được.
d) Khung pháp lý cho hoạt động của hệ thống BHXH
BHXH là hoạt động tài chính được hình thành bởi hoạt động thu và chi
BHXH, một hoạt động mang tính nhạy cảm cao. Do vậy, phải có khung pháp lý
chặt chẽ quy định cụ thể vấn đề này. Mỗi kẻ hở trong quy định của luật pháp có
thể bị trả giá bởi những vi phạm nghiêm trọng. Khung pháp lý cho hoạt động
BHXH phải bao hàm các quy định cho các nội dung sau:

22



×