Tải bản đầy đủ (.pdf) (114 trang)

Khu vực kinh tế tư nhân ở thành phố hà nội trong thời kỳ đổi mới thực trạng và giải pháp phát triển luận văn ths ki

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (984.09 KB, 114 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

LƯU THỊ HỒNG VIỆT

Khu vực kinh tế tư nhân ở thành phố Hà Nội trong
thời kỳ đổi mới - thực trạng và giải pháp phát triển

LUẬN VĂN THẠC SỸ

Người hướng dẫn: TS. Đinh Quang Ty

Hà nội - 2004


MỤC LỤC
......................................................................................................

1

Chƣơng 1. Sự cần thiết của khu vực kinh tế tƣ nhân đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội ở thành phố Hà Nội................................

5

Mở đầu

1.1. Những luận cứ chủ yếu đúc rút từ lịch sử kinh tế thị trường và
từ hệ quan điểm của các nhà kinh điển mác-xít. ...................................................
5
1.2. Duy trì và khuyến khích sự phát triển lâu dài của khu vực kinh


tế tư nhân ở Hà Nội đã hoàn toàn phù hợp với chủ trương và
chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước ta. ......................................................
21
1.3. Khu vực kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng trong
cấu trúc kinh tế - xã hội của thành phố Hà Nội. ....................................................
29
Chƣơng 2. Tiềm năng, lợi thế phát triển và thực trạng khu vực kinh tế
tƣ nhân ở thành phố Hà Nội......................................................

38

2.1.

Nhận định tổng quát về tiềm năng, lợi thế của thành phố Hà
Nội trong việc phát triển khu vực kinh tế tư nhân. ...............................................
38

2.2.

Tác động của đường lối đổi mới và thực trạng của khu vực kinh
tế tư nhân ở thành phố Hà Nội trong những năm gần đây.....................................
41

2.3.

Một số nhận xét, đánh giá về thành tựu và hạn chế của khu vực
kinh tế tư nhân trên địa bàn thành phố Hà Nội trong những năm
đổi mới vừa qua. ..................................................................................................
64


Chƣơng 3. Mục tiêu, phƣơng hƣớng và các giải pháp phát triển khu
vực kinh tế tƣ nhân ở thành phố Hà Nội trong giai đoạn
2005 - 2010..................................................................................

75

3.1. Mục tiêu và phương hướng phát triển khu vực kinh tế tư nhân
trên địa bàn thành phố Hà Nội..............................................................................
77
3.2. Các giải pháp đẩy mạnh phát triển khu vực kinh tế tư nhân trên
địa bàn thành phố Hà Nội.....................................................................................
84
Kết luận........................................................................................................

101


Danh mục tài liệu tham khảo......................................................................

1

103


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đổi mới cơ chế, hoàn thiện quan hệ sản xuất theo nguyên tắc phù hợp
với trình độ phát triển lực lượng sản xuất của các thành phần kinh tế là một
thành công lớn của Đảng ta trong thời kỳ qúa độ lên chủ nghĩa xã hội. Với
những đổi mới trong tư duy lý luận, cơ chế và chính sách, Đảng và Nhà nước

đã đổi mới cách nhìn nhận về sự tồn tại các loại hình doanh nghiệp và doanh
nhân, khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho lực lượng này mở rộng hoạt
động sản xuất kinh doanh.
Từ Đại hội lần thứ VI đến Đại hội lần thứ IX, Đảng ta luôn luôn nhất
quán đường lối phát triển kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Đường lối và chủ trương của Đảng đã được cụ thể
hoá thành các văn bản pháp luật của Nhà nước, tạo cơ sở pháp lý cho sự ra
đời và phát triển các thành phần kinh tế.
Thành phần kinh tế tư nhân đã được khẳng định là một bộ phận cấu
thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta. Và gần đây, Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khoá IX
đã thông qua nghị quyết về “Tiếp tục đổi mới cơ chế chính sách, khuyến
khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân”.
Nhìn chung trong phạm vi cả nước, kinh tế tư nhân đã và đang từng
bước phát triển cả về quy mô lẫn tốc độ, ở nhiều lĩnh vực, ngành nghề khác
nhau. Tuy nhiên, Nghị quyết Trung ương 5 khoá IX cũng thừa nhận: kinh tế
tư nhân ở nước ta hiện nay còn nhiều hạn chế, phần lớn có quy mô nhỏ, vốn
ít, công nghệ sản xuất còn lạc hậu, trình độ quản lý còn yếu kém, hiệu quả và
sức cạnh tranh yếu, ít đầu tư vào lĩnh vực sản xuất; mặt khác một số cơ chế
chính sách của Nhà nước còn chưa phù hợp với đặc điểm của kinh tế tư nhân.

2


Riêng ở thành phố Hà Nội, khu vực kinh tế tư nhân cũng đang phát
triển nhanh, đóng góp nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước, tạo thêm nhiều
công ăn việc làm, và nhìn chung, đã thể hiện được vai trò cần thiết đối với sự
phát triển kinh tế xã hội. Nhưng theo kết quả khảo sát của các cơ quan chuyên
trách của Thành phố cho thấy: tiềm năng của khu vực kinh tế tư nhân ở thành
phố Hà Nội chưa được khai thác đúng mức; hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, tay

nghề, trình độ kỹ thuật, công nghệ, tính năng động sáng tạo trong hoạt động
sản xuất kinh doanh của khu vực này còn thấp. Vì vậy, việc nghiên cứu để
đánh giá đúng vai trò, vị trí của khu vực kinh tế tư nhân ở thành phố Hà Nội
trong thời gian hiện nay, từ đó đưa ra những giải pháp chính sách hợp lý cho
sự phát triển khu vực kinh tế tư nhân ở thành phố Hà Nội là một vấn đề cần
thiết, nhằm góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển với tốc độ nhanh, chống
“tụt hậu” về kinh tế so với cả nước, tạo điều kiện nhanh chóng hội nhập với
nền kinh tế khu vực và thế giới.
Với những lý do trên, chúng tôi đã lựa chọn đề tài: “Khu vực kinh tế tư
nhân ở thành phố Hà Nội trong thời kỳ đổi mới - thực trạng và giải pháp
phát triển” để thực hiện luận văn cao học, với hy vọng đóng góp một phần
cho sự phát triển kinh tế tư nhân ở thành phố Hà Nội.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm trước đổi mới, theo cách tư duy cũ, thành phần kinh
tế tư nhân được xem là đối tượng cải tạo và phải xoá bỏ, vì thế việc nghiên
cứu và phát triển thành phần kinh tế này hầu như không được đặt ra. Từ khi
Đảng ta khởi xướng công cuộc đổi mới, chủ trương đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước, đặc biệt là chuyển nền kinh tế nước ta sang nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc nghiên cứu về thành
phần kinh tế tư nhân trở nên sôi động và được nhìn nhận theo hướng tích cực
ở nhiều góc độ khác nhau. Từ năm 1986 cho đến nay đã có nhiều bài báo,

3


tham luận khoa học, các công trình nghiên cứu về thành phần kinh tế này cụ
thể như:
- Đào Thị Phương Liên (1995): “Sự phát triển của kinh tế tư nhân
trong giai đoạn chuyển nền kinh tế Việt Nam sang kinh tế thị trường”, Luận
án tiến sĩ kinh tế, Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội.

- Nguyễn Huy Oánh (2001): “Vai trò của kinh tế tư nhân trong nền
kinh tế Việt Nam”, Nghiên cứu kinh tế, (12), tr.45 - 55.
- GS.TS Nguyễn Thanh Tuyền (2002): Thành phần kinh tế tư bản tư
nhân trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
- TS Hà Huy Thành (2002): Thành phần kinh tế cá thể tiểu chủ và tư
bản tư nhân, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Nguyễn Minh Thảo (2003): Kinh tế tư nhân ở Việt Nam thực trạng và
giải pháp, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Đại học quốc gia, Hà Nội...
Các công trình nói trên đã nghiên cứu thành phần kinh tế tư nhân ở
nhiều góc độ khác nhau như: phát triển khu vực kinh tế tư nhân, quan điểm
về sự phát triển kinh tế tư nhân, các giải pháp cụ thể về môi trường, thể chế
chính sách nhằm phát triển kinh tế tư nhân trong phạm vi cả nước nói chung.
Song cho đến nay, các đề tài nghiên cứu một cách hệ thống về kinh tế tư nhân
ở Hà Nội, hầu như không đáng kể. Do đó, thực hiện đề tài này dưới góc độ
kinh tế chính trị, chúng tôi sẽ tập trung phân tích và làm rõ bức tranh về khu
vực kinh tế tư nhân ở Hà Nội trong những năm gần đây.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài:
Mục đích: Góp thêm những luận cứ khoa học và thực tiễn để làm rõ
thực trạng phát triển, những chính sách khuyến khích, đồng thời nêu lên
những giải pháp để phát triển khu vực kinh tế tư nhân ở thành phố Hà Nội.

4


Nhiệm vụ: Thông qua phân tích về vai trò, thực trạng của khu vực kinh
tế tư nhân ở thành phố Hà Nội trong thời kỳ đổi mới, luận văn nêu lên một số
giải pháp nhằm thúc đẩy kinh tế tư nhân trên địa bàn thành phố Hà Nội phát
triển trong những năm tới.
4. Đối tƣợng và phạm vị nghiên cứu

Đối tượng: Nghiên cứu vai trò, vị trí và thực trạng của khu vực kinh tế
tư nhân trên địa bàn thành phố Hà Nội
Phạm vi nghiên cứu: Khu vực kinh tế tư nhân trên địa bàn thành phố
Hà Nội trong thời kỳ đổi mới
5. Cơ sở lý luận, phƣơng pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu
Cơ sở lý luận: Dựa trên những luận cứ chủ yếu đúc rút từ lịch sử kinh
tế thị trường và từ hệ quan điểm của các nhà kinh điển mácxít, đặc biệt đi từ
góc độ sở hữu để phân tích về kinh tế tư nhân.
Phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu:
Luận văn vận dụng các phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp
duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin, các phương pháp nghiên cứu khoa
học khác như: tổng hợp, phân tích, thống kê, so sánh... dựa trên các nguồn tài
liệu thu thập được về kinh tế tư nhân ở thành phố Hà Nội.
6. Đóng góp của luận văn: Xác định cơ bản vai trò, vị trí của khu vực
kinh tế tư nhân trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở thành phố Hà Nội
hiện nay, từ đó nêu lên một số giải pháp để phát triển khu vực kinh tế tư nhân
trong những năm tới, nhất là từ năm 2005 - 2010.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu,
giảng dạy và học tập môn học có liên quan.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương, 8 tiết.
5


Chƣơng 1: Sự cần thiết của khu vực kinh tế tư nhân đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội ở thành phố Hà Nội.
Chƣơng 2: Tiềm năng, lợi thế phát triển và thực trạng của khu vực
kinh tế tư nhân ở thành phố Hà Nội.
Chƣơng 3: Mục tiêu, phương hướng và các giải pháp phát triển khu

vực kinh tế tư nhân ở thành phố Hà Nội trong giai đoạn 2005 - 2010.

Chƣơng 1
SỰ CẦN THIẾT CỦA KHU VỰC KINH TẾ TƢ NHÂN
ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Ở Việt Nam nói chung và thành phố Hà Nội nói riêng, trong suốt một

thời gian dài từ sau 1954 đến 1985, kinh tế tư nhân được coi là đối tượng
chính của cải tạo xã hội chủ nghĩa, bị cấm đoán ngặt nghèo và kỳ thị rất nặng
nề. Từ năm 1986 đến nay, với đường lối đổi mới, nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa đang được hình thành ngày càng rõ nét, nhờ đó, thế
và lực của đất nước được nâng lên đáng kể, và trong bối cảnh đó, khu vực
kinh tế tư nhân trên địa bàn thành phố Hà Nội cũng như ở tất cả các địa
phương trong cả nước được khuyến khích phát triển, ngày càng thể hiện rõ
vai trò và ảnh hưởng tích cực đến đời sống kinh tế - xã hội của đất nước.
Tuy nhiên cho đến nay, sau gần 20 năm thực hiện đường lối đổi mới,
bên trong xã hội Việt Nam vẫn còn những vướng mắc lớn không chỉ về nhận
thức lý luận mà ngay cả trong hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách đối
với khu vực kinh tế tư nhân.
Xuất phát từ tình hình nói trên, việc luận chứng để khẳng định về sự
cần thiết của khu vực kinh tế tư nhân đối với sự phát triển kinh tế - xã hội lâu
dài của Việt Nam nói chung và của thành phố Hà Nội nói riêng được chúng
tôi coi là nhiệm vụ đầu tiên trong công trình nghiên cứu này.
6


1.1. Những luận cứ chủ yếu đúc rút từ lịch sử kinh tế thị trƣờng và
từ hệ quan điểm của các nhà kinh điển mác-xít
1.1.1. Phân tích từ góc độ lịch sử và thông lệ của kinh tế thị trường
trên thế giới

Để có nhận thức đúng và chính sách đúng đối với kinh tế tư nhân ở
Việt Nam nói chung và ở thành phố Hà Nội nói riêng, dĩ nhiên là cần phải
bám sát thực tế và những đặc điểm riêng của quốc gia, của địa phương. Ở đây,
chúng tôi chưa đi sâu vào khía cạnh này, vấn đề mà chúng tôi muốn nhấn
mạnh là: không thể biệt lập hoá kinh tế tư nhân ở Việt Nam nói chung và ở
Hà Nội nói riêng; trái lại phải đặt nó trong mối liên hệ với những trật tự khách
quan và có tính phổ biến đã được kiểm nghiệm bởi lịch sử hình thành và phát
triển của nền kinh tế thị trường trên thế giới nói chung.
1.1.1.1. Lịch sử phát triển kinh tế của nhân loại không thể tách rời vai
trò của kinh tế tư nhân
Xét về góc độ lịch sử của nhân loại nói chung, kinh tế tư nhân ra đời
tồn tại và phát triển là một tất yếu khách quan. Điều đó về căn bản được quy
định bởi quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất. Ở các xã hội khác nhau, kinh tế tư nhân đạt tới
trình độ phát triển khác nhau và có vai trò cụ thể khác nhau, và vì vậy, sự nhìn
nhận về vị trí của kinh tế tư nhân ở từng thời kỳ cũng khác nhau.
Ngay từ khi nền sản xuất hàng hoá mới ra đời, ở nhiều nước châu Âu,
kinh tế tư nhân đã bắt đầu xâm nhập vào hầu hết các lĩnh vực trong đời sống
kinh tế - xã hội. Dựa trên nền tảng của sở hữu tư nhân, kinh tế tư nhân phát
triển một cách tự phát và khá nhanh bên trong nền sản xuất hàng hoá giản
đơn, với nhiều loại hình sản xuất, kinh doanh, buôn bán đa dạng và phong
phú. Trong nền kinh tế hàng hoá có quy mô nhỏ, kinh tế tư nhân chiếm tỉ
trọng lớn nhất và có vai trò rất quan trọng trong việc đáp ứng những nhu cầu
tiêu dùng cơ bản của xã hội loài người.
7


Trong xã hội phong kiến ở các nước phương Đông, do sự thống trị của
tầng lớp vua chúa và quan lại, với cơ chế ban phát - cống nạp, quan hệ buôn
bán dường như bị ngăn cấm, bài xích. Kinh tế tư nhân dưới cơ chế này bị

kiểm soát chặt chẽ và hạn chế phát triển. Trong bối cảnh đó, kinh tế tư nhân
không có ưu thế như ở các nước phong kiến Tây Âu. Việc đề cao mệnh lệnh
của nhà nước phong kiến và sự tập trung ruộng đất cùng một số tư liệu sản
xuất chủ yếu khác vào trong tay một số ít người thuộc tầng lớp thống trị đã
kìm hãm sự phát triển của kinh tế tư nhân ở các nước phương Đông.
Đến xã hội tư bản chủ nghĩa, với cơ chế thị trường, kinh tế tư nhân
được phát triển mạnh mẽ cả về quy mô lẫn loại hình, kinh tế tư nhân được
đánh giá cao và được coi là động lực thúc đẩy sản xuất, đóng góp lớn cho sự
phát triển kinh tế, xã hội.
Ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, với sự khống chế của thiết chế

sở hữu công cộng mang nặng tính hình thức về phương diện pháp lý, với cơ
chế kế hoạch hoá tập trung và các hình thức biến tướng của nó, kinh tế thị
trường gần hoàn toàn bị phủ nhận. Quan hệ buôn bán trong xã hội bị kìm
hãm. Nhận thức về kinh tế tư nhân của giới lãnh đạo và hoạch định chính sách
có những tụt hậu nghiêm trọng, những ưu thế về thị trường của kinh tế tư
nhân không được chấp nhận, thậm chí Nhà nước còn có những biện pháp kìm
hãm không cho kinh tế tư nhân tồn tại và phát triển.
Tuy nhiên, về mặt khách quan, với sự tồn tại và phát triển lâu dài của
nền kinh tế thị trường, mỗi thành phần kinh tế, trong đó có kinh tế tư nhân ở
từng quốc gia đều phải có cơ hội phát triển và được thừa nhận về mặt pháp lý.
Kinh tế tư nhân tiếp tục được phát triển và ngày càng bộc lộ những lợi thế vốn
có của nó cho nền kinh tế - xã hội. Thực tế đó đã được minh chứng rất sống
động bởi toàn bộ quá trình phát triển của nhân loại kể từ khi nền sản xuất
hàng hoá giản đơn bắt đầu xuất hiện cho đến tận ngày nay.

8


Như vậy, sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam nói

chung và ở thành phố Hà Nội nói riêng trong quá trình xây dựng nền kinh tế
thị trường là hoàn toàn phù hợp với quy luật tiến hoá chung của thế giới.
1.1.1.2. Vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường nói
chung
Từ kinh nghiệm của thế giới, có thể khẳng định rằng: không có kinh tế
tư nhân thì về thực chất cũng không có kinh tế thị trường; trong khi đó kinh tế
thị trường lại là con đường phát triển mang tính phổ biến đối với cả nhân loại.
Trong mọi nền kinh tế thị trường, sự tăng trưởng và phát triển của khu
vực tư nhân và sự phát triển của cộng đồng gắn liền với nhau trong mối quan
hệ phụ thuộc lẫn nhau. Sự tăng trưởng và phát triển của khu vực tư nhân sẽ
đem lại thu nhập cao hơn, y tế và giáo dục tốt hơn cho người dân trong cộng
đồng. Mặt khác, đối với các doanh nghiệp, thu nhập cao hơn có nghĩa là thị
trường rộng lớn hơn, sức khoẻ và giáo dục tốt hơn thì lực lượng lao động có
năng suất cao hơn và năng suất cao hơn sẽ đem lại nhiều lợi nhuận hơn.
Vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường được thể hiện
trên những khía cạnh của đời sống xã hội như phát triển kinh tế, phát triển xã
hội và quản lý khu vực công.
a. Đối với phát triển kinh tế:
Mục tiêu kinh tế của phát triển là nhằm tạo cho người dân có mức thu
nhập cao hơn thông qua sự tăng trưởng nhanh về tổng sản phẩm quốc nội.
Trong nền kinh tế thị trường, điều này có thể đạt được cùng với nỗ lực của
khu vực công và khu vực tư nhân.
Thứ nhất, một trong những đóng góp quan trọng của khu vực kinh tế
tư nhân đối với phát triển kinh tế là khả năng huy động vốn cho các ngành sản
xuất hàng hoá và dịch vụ. Nguồn vốn là yếu tố đầu vào cần thiết cho quá trình
sản xuất. Trong một nền kinh tế đang phát triển, nguồn vốn rất khan hiếm.

9



Đặc biệt đối với các nền kinh tế chuyển đổi như ở Việt Nam thì nguồn vốn lại
càng khan hiếm hơn khi các tổ chức tài chính chưa phát triển hoặc không có
khả năng huy động tiền tiết kiệm từ dân cư, cũng như do hạn chế của ngân
sách trong việc phân bổ vốn cho đầu tư. Do đó, khả năng tự huy động vốn của
khu vực kinh tế tư nhân trở nên rất quan trọng và cần thiết.
Thứ hai, việc phát triển kinh tế tư nhân góp phần tạo ra các cơ hội việc
làm. Một trong những kết quả quan trọng của việc huy động và hình thành
vốn của các doanh nghiệp tư nhân là tạo ra các cơ hội việc làm cho các thành
viên khác trong cộng đồng. Việc làm sẽ mang lại thu nhập cho những người
lao động và nâng cao mức sống của gia đình họ. Nhìn chung, chủ doanh
nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân khác với nhà quản lý ở các doanh
nghiệp nhà nước ở chỗ họ có quyền quyết định lớn hơn trong việc thuê mướn
lao động (số lượng, kỹ năng cần thiết của người lao động). Vì vậy, lực lượng
doanh nhân không những hoàn toàn có thể tăng số lượng lao động làm thuê
theo ý họ, mà còn có thể nâng cao hiệu quả trong việc sử dụng nguồn nhân
lực trong cộng đồng.
Thứ ba, sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân thường đi liền với
việc ứng dụng và quảng bá công nghệ. Một yếu tố quan trọng để tạo được
hiệu quả trong sản xuất là công nghệ phù hợp. Thực tế cho thấy, cách suy
nghĩ và hành động không bao giờ tự hài lòng của các chủ doanh nghiệp
thường xuyên thúc đẩy họ tìm kiếm các công nghệ phù hợp hơn cho quá trình
sản xuất của doanh nghiệp. Sự phù hợp về công nghệ không phải lúc nào
cũng hàm ý là công nghệ tiên tiến nhất mà ở đây là công nghệ phù hợp với
những điều kiện của quá trình sản xuất, xét về mặt cấu thành chi phí và các
nguyên liệu đầu vào sẵn có. Nếu đem so sánh với các doanh nghiệp nhà nước
thì rõ ràng các chủ doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân phải đối mặt
trực tiếp với những chi phí thực tế về sản xuất, lao động, vốn, nguyên vật liệu.
Quá trình tìm kiếm công nghệ phù hợp của một doanh nghiệp tư nhân có ảnh
10



hưởng tích cực nhất đến việc phân bổ một cách có hiệu quả nguồn lực khan
hiếm trong nền kinh tế.
Thứ tư, phát triển kinh tế tư nhân góp phần tạo nguồn thu thuế cho
chính phủ, thông qua hệ thống thuế, các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả
sẽ đóng góp vào tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Các khoản đóng
góp này giúp duy trì bộ máy hoạt động của chính phủ cũng như là nguồn quan
trọng để xây dựng phần lớn các cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội cần thiết. Để
bảo đảm vững chắc nguồn thu này, điều quan trọng là cơ cấu thuế, quy trình
thu thuế, quá trình kiểm toán cần được phát triển phù hợp sao cho việc trốn
thuế và các tác nhân xấu ảnh hưởng tới sự tăng trưởng và hiệu quả được tối
thiểu hoá.
b. Đối với phát triển xã hội:
Xét về tổng thể, mục tiêu của phát triển xã hội là tạo nên sự công bằng
về cơ hội cho tất cả các thành viên trong xã hội bất kể vị thế kinh tế và xã hội
của họ thông qua các dự án xã hội. Những dự án này bao gồm giáo dục và đào
tạo, sức khoẻ, nhà ở, trợ giúp cho sự phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ,...
Về trách nhiệm xã hội, nhiều công ty thuộc khu vực kinh tế tư nhân
xem trách nhiệm xã hội như là trách nhiệm của họ, hành động với tư cách như
những công dân tốt trong xã hội, nhằm bảo đảm rằng những mối quan tâm
của xã hội như môi trường, an toàn của khách hàng, an toàn của người lao
động sẽ được đề cập, quan tâm một cách thích đáng trong kế hoạch kinh
doanh và trong quá trình hoạt động. Tại một số quốc gia, các doanh nghiệp tư
nhân thường tuân thủ tốt hơn theo những quy định về mặt môi trường so với
các doanh nghiệp nhà nước.
Việc thực hiện các dự án xã hội ở nhiều quốc gia cho thấy: các dự án xã
hội thành công thường là các dự án do các tổ chức phi chính phủ thuộc khu
vực tư nhân thực hiện, chứ không phải là các dự án do các cơ quan thuộc
chính phủ trực tiếp thực hiện. Chẳng hạn như ở Philipin, các dự án cho các
11



doanh nghiệp nhỏ vay vốn do các cơ quan chính phủ thực hiện thường có tỷ lệ
hoàn trả rất thấp; trong khi đó, tỷ lệ hoàn trả này lại tăng lên đáng kể, khi
chúng được giao cho các tổ chức phi chính phủ của khu vực tư nhân quản lý
thực hiện thông qua các hợp đồng. Lý do là, khi các tổ chức thuộc chính phủ
tổ chức thực hiện thì những người vay vốn thường có ấn tượng rằng họ không
thực sự cần thiết phải hoàn trả lại những khoản vốn này, vì đây là tiền chính
phủ, mà tiền của chính phủ lại là tiền của mọi người. Tuy nhiên, vấn đề lại
hoàn toàn khác khi việc thực hiện dự án do các tổ chức phi chính phủ thuộc
khu vực tư nhân thực hiện, người vay cảm thấy mục đích thực sự của dự án và
phải bảo đảm chắc rằng những khoản vay của họ sẽ được hoàn trả. Hơn nữa,
người đi vay có thể có cảm giác nghĩa vụ do các tổ chức phi chính phủ tạo ra
cho họ, những cảm giác mà những nhân viên thuộc chính phủ có thể đã không
chỉ rõ cho người vay thấy.
c. Đối với quản lý khu vực công:
Mặc dù khu vực tư nhân và khu vực công cộng đều có vai trò riêng
trong nền kinh tế thị trường, tuy nhiên có rất nhiều công cụ nhằm nâng cao
hiệu quả trong hoạt động cung cấp dịch vụ công cộng có nguồn gốc ban đầu
từ khu vực tư nhân.
Tại những quốc gia có sự phối hợp giữa khu vực tư nhân và khu vực
công cộng trong việc xây dựng kế hoạch, chính sách phát triển, các viên chức
chính phủ thừa nhận rằng các đồng nghiệp ở khu vực tư nhân đã tạo ra những
suy nghĩ khách quan, tiến bộ, mới mẻ hơn khi giải quyết các vấn đề. Xét về
xu hướng chung, các viên chức chính phủ thường tương đối thụ động và bảo
thủ hơn so với các đồng nghiệp năng động, sáng tạo và cầu tiến hơn ở khu
vực tư nhân vốn đã quen với môi trường cạnh tranh bên ngoài. Vì thế, những
kế hoạch của các doanh nghiệp tư nhân thường sẽ mang tính thực tế, tập trung
hơn và có thể đạt tới khả năng linh lợi cao hơn.


12


Ở phần lớn các nền kinh tế thị trường thuộc các nước phát triển, doanh

nhân thường được mời vào một vị trí tạm thời ở khu vực công, từ đó họ có thể
có cơ hội chuyển tải phương pháp làm việc, cách suy nghĩ cho các nhân viên
chính phủ. Một trong những khó khăn mà các nhà kế hoạch và hoạch định
chính sách trong nền kinh tế thị trường hay gặp phải là việc dự báo tác động
và kết quả của các chính sách, vì họ phải dựa trên các phản ứng của khu vực
tư nhân đối với các chính sách này. Bằng cách đưa khu vực tư nhân tham gia
một cách chủ động vào quá trình hoạt động và xây dựng chính sách, vấn đề
khó khăn này sẽ được tối thiểu hoá. Nhờ có sự tham gia của các đại diện khu
vực kinh tế tư nhân, chúng ta có thể hình dung được tác động có thể có của
một chính sách nhất định xét đến giác độ phản ứng của khu vực doanh
nghiệp. Khu vực tư nhân có thể cung cấp những chỉ dẫn trong việc lựa chọn
chính sách và cũng nhờ có khu vực này mà chính sách mang tính kịp thời và
cập nhật hơn.
Việc tham gia hiệu quả của khu vực tư nhân trong việc xây dựng chính
sách đòi hỏi khu vực tư nhân phải được tổ chức sao cho những vấn đề cần
phải có chính sách mới hay cần phải có sự thay đổi chính sách có thể được
thảo luận một cách tự do, độc lập ở khu vực tư nhân vì họ có quyền tự do bầu
cử cho những người đại diện của họ vào các cơ quan xây dựng chính sách. Sự
thành công trong việc tham gia của khu vực tư nhân phụ thuộc vào việc các tổ
chức tư nhân này được tổ chức hiệu quả và vững chắc như thế nào. Kinh
nghiệm ở các nước cho thấy, trình độ giáo dục của chủ doanh nghiệp và quy
mô doanh nghiệp là những nhân tố quan trọng bảo đảm tham gia có hiệu quả
với tư cách là một đối tác của chính phủ trong hoạch định kế hoạch, xây dựng
chính sách và giám sát thực hiện. Và một nhân tố quan trọng khác là sự sẵn
sàng của các viên chức chính phủ trong việc chia sẻ trách nhiệm với khu vực

tư nhân trong quá trình ra quyết định và cung cấp những thông tin cần thiết
cho quá trình này. Chính phủ phải thể hiện sự sẵn sàng của mình cho khu vực
13


tư nhân thấy, và từ đó các tổ chức của khu vực tư nhân có thể chuẩn bị tinh
thần và nhiệt tình tham gia với tư cách như những đối tác ngang bằng trong
quá trình hoạch định chính sách.
Từ các kết quả phân tích trên đây, có thể khẳng định rằng khu vực kinh
tế tư nhân có vai trò hết sức cần thiết và quan trọng trong quá trình tiếp tục
phát triển lâu dài của nền kinh tế thị trường trên thế giới hiện nay. Và như
vậy, chúng ta có thêm một cơ sở xác đáng để vững tin vào sự cần thiết của
khu vực kinh tế tư nhân đối với sự phát triển kinh tế - xã hội lâu dài của Việt
Nam nói chung và của thành phố Hà Nội nói riêng trong tiến trình thực hiện
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

14


1.1.2. Phân tích từ góc độ sở hữu theo quan điểm của các nhà kinh
điển mác-xít
Vấn đề được coi là có tính nguyên tắc hiện nay khi bàn đến các khía
cạnh lý luận và chính sách về phát triển khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam
nói chung và ở thành phố Hà Nội nói riêng là không thể thoát ly hệ quan điểm
của chủ nghĩa Mác-Lênin. Song, yêu cầu hàng đầu đặt ra ở đây là phải hiểu
đúng, vận dụng và phát triển sáng tạo những giá trị đích thực khoa học mà các
nhà kinh điển mác-xít đã để lại trong điều kiện thực tế của nước ta và của
thành phố Hà Nội hiện nay.
1.1.2.1. Những luận cứ rút ra từ quan điểm của C.Mác - Ph.Ăngghen
Kinh tế tư nhân ra đời là một tất yếu của sự phát triển lịch sử gắn với sự

phát triển của sản xuất hàng hoá của sở hữu tư nhân - đó là một trong những
luận điểm rất quan trọng của C.Mác và Ph.Ăngghen.
Khi nghiên cứu vấn đề sở hữu gắn liền với sự phát triển của sản xuất,
C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ ra mối quan hệ hữu cơ giữa sự phát triển của
phân công lao động, của lực lượng sản xuất với sự thay đổi các hình thức sở
hữu. Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, những giai đoạn phát triển khác nhau của
sự phân công lao động cũng đồng thời là những hình thức khác nhau của sở
hữu. Nói cách khác, mỗi giai đoạn mới của phân công lao động cũng quy định
những quan hệ giữa các cá nhân với nhau, căn cứ vào quan hệ của họ với tư
liệu lao động, công cụ lao động và sản phẩm lao động. Ở đây sở hữu được
hiểu là những hình thức quan hệ của người với tư liệu lao động, công cụ lao
động và sản phẩm lao động, hay đó là những hình thức chiếm hữu của cải vật
chất hoặc tinh thần trong mỗi giai đoạn phát triển nhất định của xã hội.
Các hình thức sở hữu đã hình thành và biến đổi cùng với tiến trình phát
triển của xã hội loài người. Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, hình thức sở hữu
đầu tiên là sở hữu bộ lạc, phù hợp với giai đoạn chưa phát triển của sản xuất,

15


khi người ta sống bằng săn bắn và đánh cá, bằng chăn nuôi hay nhiều lắm là
trồng trọt. Trong giai đoạn ấy, sự phân công lao động còn rất ít phát triển và
chỉ giới hạn trong phạm vi mở rộng hơn nữa sự phân công lao động hình
thành một cách tự nhiên trong gia đình.
Hình thức sở hữu thứ hai là sở hữu công xã và sở hữu nhà nước tồn
tại trong thời cổ, và ra đời chủ yếu từ sự tập hợp nhiều bộ lạc thành một thị
tộc và chế độ nô lệ vẫn tiếp tục tồn tại ở đó. Cùng với sở hữu công xã thì sở
hữu tư nhân về động sản và sau này về bất động sản cũng đã phát triển nhưng
dưới hình thức sở hữu ngoại lệ và phụ thuộc vào sở hữu công xã.
Hình thức sở hữu thứ ba là sở hữu phong kiến hay sở hữu đẳng cấp.

Điểm xuất phát của sở hữu phong kiến là nông thôn với diện tích rộng lớn và
dân cư thưa thớt. Đối tượng sở hữu chủ yếu ở đây là ruộng đất. Bên cạnh cơ
cấu phong kiến của sở hữu ruộng đất ở nông thôn thì ở thành thị có sở hữu
phường hội, tức là sở hữu phong kiến của thủ công nghiệp. Ở đây sở hữu chủ
yếu thuộc về những người lao động cá nhân riêng lẻ. Đây là những mầm
mống của tư bản nhỏ do một số thợ thủ công riêng lẻ dần dần dành dụm được,
tạo tiền đề về phát triển chế độ thợ bạn và thợ học nghề, khiến cho ở thành thị
nảy sinh một thang đẳng cấp tương tự như ở nông thôn. Như vậy là trong thời
đại phong kiến, hình thức chủ yếu của sở hữu một mặt là ruộng đất với lao
động của nông nô đã cột chặt vào nó, mặt khác là những lượng tư bản nhỏ
thuộc về sở hữu của bộ phận tiểu chủ có khả năng chi phối lao động của thợ
bạn. Cơ cấu của cả hai hình thức đó đều được quyết định bởi những quan hệ
sản xuất bị hạn chế, canh tác ruộng đất thô sơ với quy mô nhỏ và công nghiệp
tiểu thủ công nghiệp. Trong thời kỳ phồn vinh của chế độ phong kiến, sự phân
công lao động cũng không tiến triển được mấy. Trong các dân tộc thời cổ
cũng như trong các dân tộc hiện đại, sở hữu tư nhân chỉ thật sự bắt đầu với sở
hữu động sản; còn đối với bất động sản như ruộng đất, rừng núi, tài nguyên,
khoáng sản do thiên nhiên đem lại thì sở hữu mang tính cộng đồng. Có thể
16


nói, sở hữu đã tiến triển qua nhiều giai đoạn khác nhau, và đến xã hội tư bản
hiện đại do có nền công nghiệp lớn và sự cạnh tranh phổ biến, sở hữu tư nhân
thuần tuý đã trút bỏ mọi vẻ ngoài của tính cộng đồng, và khi đó mọi tác động
của nhà nước đối với sự phát triển của sở hữu cũng thay đổi một cách căn
bản.
Như vậy, đối với C.Mác và Ph.Ăngghen, các hình thức sở hữu đã phát
triển theo các nấc thang lịch sử. Sở hữu bộ lạc, sở hữu công xã và sở hữu
đẳng cấp phong kiến đối với ruộng đất hay động sản phường hội vẫn dựa vào
cộng đồng nhất định, chỉ có tư bản là hình thức sở hữu tư nhân thuần tuý nhất.

Hình thức sở hữu này đến một giới hạn nhất định sẽ không thích hợp với lực
lượng sản xuất đã được xã hội hoá cao trong chủ nghĩa tư bản, tức là nó mâu
thuẫn với và cản trở sự phát triển của lực lượng sản xuất, và vì vậy phải bị
thay thế bằng một hình thức sở hữu khác có tính xã hội hoá cao. Tư tưởng này
đã được C.Mác và Ph.Ăngghen viết trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”
như sau:
“Đặc trưng của chủ nghĩa cộng sản không phải là xoá bỏ chế độ sở hữu
nói chung mà là xoá bỏ chế độ sở hữu tư sản”.
Nhưng chế độ sở hữu tư sản lại biểu hiện cuối cùng và hoàn bị nhất của
phương thức sản xuất và chiếm hữu dựa trên cơ sở những đối kháng giai cấp,
trên cơ sở những người này bóc lột những người kia.
Theo ý nghĩa đó, những người cộng sản có thể tóm tắt lý luận của mình
thành công thức duy nhất đó là: Xoá bỏ chế độ tư hữu.
Luận điểm trên của C.Mác và Ph.Ăngghen trước đây được hiểu là chế
độ sở hữu tư sản là sản phẩm tất yếu của quá trình phát triển, của các chế độ
tư hữu. Sản xuất nhỏ dựa trên chế độ tư hữu là nguồn gốc sinh ra chế độ sở
hữu tư hữu hoặc là tất yếu sẽ phát triển thành sở hữu tư sản. Từ đó không ít
người đã suy diễn một cách máy móc và ngộ nhận rằng muốn ngăn cản chủ
nghĩa tư bản thì chỉ còn cách duy nhất là xoá bỏ hoàn toàn chế độ tư hữu nói
17


chung. Điều này không những đã bị thực tiễn xã hội bác bỏ mà ngay cả khi
đối chiếu với tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen cũng đều không đúng. Luận
điểm trên của C.Mác và Ph.Ăngghen cần phải hiểu rằng với sự phát triển của
lực lượng sản xuất thì chế độ sở hữu phải thay đổi cho phù hợp với tính chất
và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Tức là những hình thức chiếm
hữu của cải vật chất và tinh thần sẽ thay đổi theo sự thay đổi của lực lượng
sản xuất. Ở đây sự chiếm hữu cần phải xem xét ở cả khía cạnh đối tượng cần
chiếm hữu, chủ thể đi chiếm hữu và phương thức thực hiện sự chiếm hữu.

Nếu đối tượng cần chiếm hữu có trình độ tổ chức xã hội hoá cao thì của cải
vật chất sẽ và phải được xã hội hoá. Nếu của cải vật chất và tinh thần còn ở
trình độ xã hội hoá thấp thì sự chiếm hữu cũng không thể vượt quá trình độ đó
của đối tượng chiếm hữu. Vì vậy loài người phải có những hình thức chiếm
hữu khác nhau như bộ lạc, công xã, đẳng cấp phong kiến, phường hội, tư bản
- đó chính là trật tự tự nhiên của các hình thức sở hữu phù hợp với trình độ
phát triển của đối tượng cần chiếm hữu ở những thời kỳ lịch sử khác nhau.
C.Mác và Ph.Ăngghen không cho rằng, để tiến hành xây dựng chủ
nghĩa xã hội thì giai cấp vô sản phải xoá bỏ ngay mọi chế độ tư hữu để xây
dựng chế độ công hữu bất kể sự phát triển của lực lượng sản xuất ở trình độ
nào. C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng khi lực lượng sản xuất phát triển và đã
đạt tới trình độ xã hội hoá cao thì để tiến hành sản xuất, các cá nhân phải
chiếm hữu tổng thể lực lượng sản xuất - có nghĩa là phải có hình thức sở hữu
toàn dân (sở hữu toàn xã hội), và khi những cá nhân liên hợp mà chiếm hữu
tổng thể lực lượng sản xuất thì chế độ tư hữu cũng bị thủ tiêu. Như vậy, sự thủ
tiêu chế độ tư hữu không phải làm theo ý muốn chủ quan được mà phải có
những điều kiện khách quan, trong đó điều kiện tiên quyết là sự phát triển cao
độ của lực lượng sản xuất. Khi nghiên cứu nền sản xuất tư bản chủ nghĩa,
C.Mác đã chỉ ra rằng, chế độ sở hữu tư sản là chế độ tư hữu đặc trưng mâu
thuẫn với tính chất xã hội hoá của lực lượng sản xuất trong xã hội tư bản.
18


Muốn giải quyết mâu thuẫn này để phát triển hơn nữa lực lượng sản xuất thì
phải xoá bỏ chế độ sở hữu đó đi. Sự xoá bỏ này phải thông qua cuộc đấu tranh
cách mạng của giai cấp vô sản và phải trải qua một thời kỳ lâu dài mới hoàn
thành được.

19



1.1.2.2. Những luận cứ rút ra từ quan điểm của V.I.Lênin
Ở đây chúng ta phải đặc biệt chú ý đến quan điểm của V.I. Lênin về

tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Theo V.I.
Lênin, sự cần thiết khách quan phải có thời kỳ quá độ là do đặc điểm ra đời,
phát triển của phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa và cách mạng vô sản.
Quan hệ sản xuất phong kiến và quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đều
dựa trên cơ sở chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Do vậy quan hệ sản xuất tư
bản chủ nghĩa có thể ra đời trong lòng xã hội phong kiến. Sự phát triển của
phương thức sản xuất phong kiến đến một trình độ nhất định, sẽ làm sâu sắc
thêm mâu thuẫn của xã hội phong kiến, cách mạng tư sản sẽ nổ ra. Nhiệm vụ
của cách mạng tư sản chủ yếu chỉ giải quyết về mặt chính quyền nhà nước,
làm cho kiến trúc thượng tầng thích ứng với cơ sở hạ tầng của nó. Cách mạng
vô sản có điểm khác biệt căn bản với cách mạng tư sản. Do quan hệ sản xuất
tư bản chủ nghĩa dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, còn quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, nên chủ
nghĩa xã hội không thể ra đời từ trong lòng chủ nghĩa tư bản. Phương thức
sản xuất cộng sản chủ nghĩa chỉ ra đời sau khi cách mạng vô sản thành công,
giai cấp vô sản giành được chính quyền, bắt tay vào công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Hơn nữa, sự phát triển của phương thức sản xuất cộng sản chủ
nghĩa là một thời kỳ lâu dài, không thể ngay một lúc có thể hoàn thiện được.
Để phát triển lực lượng sản xuất, tăng năng suất lao động, xây dựng chế độ
công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, xây dựng một xã hội kiểu mới
cần phải có thời gian - nói cách khác, tất yếu phải có thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Từ đó Lênin cho rằng, nếu như cách mạng tư sản thắng lợi đánh
dấu sự kết thúc của thời kỳ quá độ từ xã hội phong kiến lên chủ nghĩa tư bản,
thì cách mạng vô sản thắng lợi là sự khởi đầu cho thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Và theo V.I.Lênin, đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội là sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần và xã hội nhiều giai cấp.

20


Trong thời kỳ quá độ, nền kinh tế có tính chất quá độ. Nó không còn là nền
kinh tế chủ nghĩa tư bản, nhưng cũng chưa hoàn toàn là nền kinh tế chủ nghĩa
xã hội. V.I.Lênin chỉ ra rằng: “Danh từ quá độ có nghĩa là gì? Vận dụng vào
nền kinh tế, có phải nó có nghĩa là trong chế độ hiện nay, có những thành
phần, những bộ phận, những mảng của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội
không? Bất cứ ai cũng đều thừa nhận là có” [17, tr.362].
Khi phân tích thực trạng nền kinh tế nước Nga vào những năm đầu sau
Cách mạng Tháng Mười năm 1917, V.I.Lênin chỉ ra 5 thành phần kinh tế là:
thành phần kinh tế gia trưởng; thành phần kinh tế sản xuất nhỏ của nông dân,
tiểu thủ công cá thể và tiểu thương; thành phần kinh tế tư bản tư nhân; thành
phần kinh tế tư bản nhà nước; thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa; và tương
ứng với nền kinh tế quá độ gồm nhiều thành phần, trong xã hội có nhiều giai
cấp, trong đó có 3 giai cấp cơ bản là: giai cấp tiểu tư sản, tư sản và giai cấp
công nhân, người lao động tập thể. Nền kinh tế nhiều thành phần và xã hội có
nhiều giai cấp như trên là sự thống nhất trong mâu thuẫn. Những mâu thuẫn
này bắt nguồn từ tính độc lập về kinh tế do các hình thức sở hữu khác nhau về
tư liệu sản xuất quy định. Trong thời kỳ quá độ, mâu thuẫn cơ bản là mâu
thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, là thời kỳ đấu tranh giữa chủ
nghĩa xã hội mới ra đời nhưng còn non yếu với chủ nghĩa tư bản đã bị đánh
bại nhưng chưa bị tiêu diệt hoàn toàn. Chính vì tính chất quá độ đó cho nên
trong nền kinh tế quá độ chưa có thành phần kinh tế thống trị chi phối. Vì
vậy, cuộc đấu tranh “ai thắng ai” giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản là
quá trình gay go, quyết liệt, phức tạp, để tiến tới bảo đảm cho thành phần xã
hội chủ nghĩa giữ vị trí chi phối chủ đạo. Muốn giành được thắng lợi trong
cuộc đấu tranh này, giai cấp vô sản phải xây dựng được chính quyền cách
mạng, thiết lập chuyên chính vô sản để bảo vệ và xây dựng xã hội mới - xã
hội chủ nghĩa.


21


Quan điểm của V.I.Lênin về nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ
quá độ được thể hiện rõ nét trong Chính sách kinh tế mới (NEP). Không bao
lâu sau Cách mạng Tháng Mười, việc thực hiện kế hoạch xây dựng chủ nghĩa
xã hội bị gián đoạn bởi cuộc nội chiến 1918-1920. Chính trong giai đoạn này
V.I.Lênin đã áp dụng Chính sách cộng sản thời chiến là trưng thu lương thực
thừa của nông dân sau khi dành cho họ mức ăn tối thiểu, đồng thời xoá bỏ
quan hệ hàng hoá - tiền tệ. Thực sự mà nói, Chính sách cộng sản thời chiến đã
đóng một vai trò quan trọng trong thắng lợi của Nhà nước Xô Viết chống thù
trong giặc ngoài, bảo vệ Nhà nước Xô Viết. Tuy nhiên khi hoà bình lập lại,
Chính sách cộng sản thời chiến không còn thích hợp nữa. Nó trở thành nhân
tố kìm hãm sự phát triển sản xuất, chẳng hạn như chính sách trưng thu lương
thực thừa đã triệt tiêu động lực đối với nông dân. Nhìn chung, việc xoá bỏ
quan hệ hàng hoá - tiền tệ đã làm mất tính năng động của nền kinh tế vốn dĩ
mới bước vào giai đoạn phát triển. Vì vậy khủng hoảng kinh tế - chính trị diễn
ra rất sâu sắc, điều đó đòi hỏi phải có Chính sách kinh tế mới để thay thế. Và
Chính sách kinh tế mới được V.I.Lênin đề xướng đã đáp ứng yêu cầu tiếp tục
xây dựng chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn mới. Nội dung của Chính sách
kinh tế mới (NEP) như sau: thay thế chính sách trưng thu lương thực bằng
chính sách thuế lương thực; tổ chức thị trường, thương nghiệp, thiết lập quan
hệ hàng hoá tiền tệ giữa nhà nước và nhân dân, giữa thành thị và nông thôn,
giữa công nghiệp và nông nghiệp; đặc biệt sử dụng sức mạnh kinh tế nhiều
thành phần, các hình thức kinh tế quá độ như khuyến khích phát triển sản xuất
nhỏ của nông dân, thợ thủ công, khuyến khích kinh tế tư bản tư nhân, sử dụng
chủ nghĩa tư bản nhà nước; củng cố lại các doanh nghiệp nhà nước, chuyển
sang chế độ hạch toán kinh tế... Đồng thời V.I.Lênin chủ trương phát triển
mạnh mẽ quan hệ hợp tác kinh tế với các nước tư bản phương Tây để tranh

thủ kỹ thuật, vốn và khuyến khích kinh tế phát triển.

22


Có thể nói, Chính sách kinh tế mới của V.I.Lênin có ý nghĩa cực kỳ
quan trọng cả về lý luận và thực tiễn. Chỉ trong một thời gian ngắn đã biến
“nước Nga đói” thành một đất nước có nguồn lương thực dồi dào, khắc phục
căn bản tình trạng khủng hoảng kinh tế - chính trị, củng cố lòng tin cho nhân
dân vào sự thắng lợi tất yếu và bản chất tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội theo
những nguyên lý mà V.I.Lênin vạch ra.
Ở đây, điều quan trọng là Chính sách kinh tế mới của V.I.Lênin còn

đánh dấu một bước phát triển mới về lý thuyết kinh tế xã hội chủ nghĩa. Theo
tư tưởng này, nền kinh tế nhiều thành phần, các hình thức kinh tế quá độ, việc
duy trì và phát triển quan hệ hàng hoá - tiền tệ là những vấn đề có tính chất
nguyên tắc trong việc xây dựng mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Như vậy, việc xây dựng mô hình chủ nghĩa xã hội với nền kinh tế tập
trung cao độ dựa trên chế độ công hữu mang tính hình thức về tư liệu sản xuất
là một nhận thức lý luận chưa đầy đủ, đồng thời chưa phù hợp với thực tiễn
của nhiều nước, nhất là các nước chậm phát triển đang trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội. Thực tế cho thấy, xét cả về đối tượng sở hữu, cả về chủ
thể sở hữu và phương thức sở hữu thì sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể
không phải là những hình thức sở hữu mang tính ước lệ và duy nhất. Khi lực
lượng sản xuất còn ở vào trình độ thấp, chủ yếu là thủ công và phân tán lại
phát triển không đồng đều thì tất yếu phải có những sở hữu tương ứng. Hệ
thống quản lý điều hành hoạt động sản xuất ở tầm vĩ mô và vi mô còn kém do
hệ thống các quan hệ kinh tế - xã hội khác chưa phát triển tương xứng. Vì
vậy, “sở hữu toàn dân” không gắn trực tiếp với quyền hạn và nghĩa vụ của
chủ thể sở hữu và chủ thể hoạt động là những cá nhân, khi “sở hữu toàn dân”

không có cơ chế thực hiện quyền hạn và nghĩa vụ thì quyền làm chủ của con
người vẫn chỉ là hình thức và mang nặng tính ước lệ. Điều đó dẫn đến hậu
quả là làm mất đi sự quan tâm của hàng triệu người lao động đối với tư liệu

23


×