Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Biện pháp tổ chức phối hợp giữa nhà trường với gia đình và xã hội trong công tác giáo dục đạo đức cho học sinh trung học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.21 MB, 109 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
Khoa Sư phạm

Bùi Đức Thảo

Biện pháp tổ chức phối hợp giữa nhà trường với gia đình và xã hội trong
công tác giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông huyện Mỹ Đức,
Hà Tây hiện nay

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Mã số:

60 14 05

HÀ NỘI – 2008


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng đã có những thành quả vô
cùng lớn lao về mọi mặt. Kết quả của sự nghiệp đổi mới đã khẳng định đường
lối đổi mới và định hướng tiến hành CNH-HĐH đất nước, xây dựng một xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh là phù hợp với cách mạng Việt Nam. Đảng
ta luôn coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, coi con người là vốn
quý nhất, đầu tư cho con người không chỉ là đầu tư cho phát triển, mà còn có
tác dụng trực tiếp tới kết quả của CNH-HĐH, lấy việc phát huy nguồn lực con
người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững đất nước. Con
người có hoàn thiện và phát triến, thì xã hội mới phồn thịnh và văn minh. Như
vậy con người cần phải được hoàn thiện cả ba mặt: Trí lực; thể lực; tâm lực.
Trong đó cần nhấn mạnh đến việc phát triển tâm lực vì tâm lực là nội lực của
nhân cách và một trong ba thành tố của tâm lực là giá trị đạo đức, tư tưởng,


chính trị, lối sống.
Những năm gần đây do cơ chế mới về hội nhập với các nước trong khu
vực và thế giới, do bùng nổ thông tin... Việt Nam cũng như các nước luôn chịu
tác động của hoàn cảnh xã hội, nhất là của nền kinh tế thị trường. Trong những
năm đổi mới rõ ràng phân tầng xã hội có những thay đổi rất lớn, các thành phần
kinh tế phát triển phong phú, lực lượng xã hội ngày càng phát triển đa dạng
Những bước tiến nhảy vọt của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ làm biến
đổi nhanh chóng đời sống vật chất và hệ thống các giá trị xã hội, đặc biệt là các
giá trị nhân văn và hệ thống giá trị đạo đức đối với con người Việt Nam.
Tuy nhiên làm thế nào đẩy nhanh CNH-HĐH mà vẫn giữ vững và phát
huy truyền thống văn hoá dân tộc theo tinh thần nghị quyết đại hội lần thứ V
ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII. Điều đó tuỳ thuộc vào chính con
người Việt Nam, tuỳ thuộc vào sự giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ hôm nay cho
chủ nhân tương lai của đất nước.

1


Thế hệ trẻ Việt Nam ngày nay có rất nhiều biểu hiện ưu việt của một thời
đại mới: Thông minh, năng động, ham hiểu biết, dám nghĩ, dám làm. Song
nhiều năm qua trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường đã biểu hiện nhiều
hiện tượng đặc biệt đáng lo ngại đó là: "... trong một bộ phận học sinh, sinh
viên có tình trạng suy thoái về đạo đức, mờ nhạt về lý tưởng, theo lối sống
thực dụng, thiếu hoài bão lập thân, lập nghiệp vì tương lai của bản thân và đất
nước” [2. tr.26]. Vấn đề đạo đức của thế hệ trẻ hiện nay đang trở thành mối
quan tâm chung của toàn xã hội.
Giáo dục là cả một quá trình mang bản chất xã hội sâu sắc, thể hiện
nhiều góc độ, khía cạnh có sự tham gia chung của nhiều lực lượng xã hội.
Giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ là một vấn đề quan trọng trong sự nghiệp
giáo dục, bởi đạo đức của mỗi con người không phải sinh ra đã có mà nó

được hình thành và phát triển thông qua môi trường xã hội nhất định (nhà
trường, gia đình, thực tiễn lịch sử...).
Giáo dục đạo đức là một bộ phận cấu thành trọng yếu của QTGD rèn
luyện nhân cách học sinh. Đạo đức được coi là nền tảng trong phẩm chất nhân
cách con người, là cái gốc của con người.Vì thế bất kỳ nhà trường nào cũng
phải chú trọng cả tài lẫn đức. Việc dạy chữ phải kết hợp với dạy người và dạy
nghề nhằm rèn luyện học sinh trở thành con người phát triển toàn diện.
Trường THPT là cấp học cuối cùng của hệ thống giáo dục phổ thông,
có sứ mạng rất lớn trong việc thực hiện mục tiêu giáo dục là “đào tạo con
người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ
và nghề nghiêp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
hình thành và bồi dưỡng phẩm chất và năng lực của công dân đáp ứng yêu
cầu xây dựng và bảo vệ tổ quốc” [7, tr.8]. Nhà trường có nhiệm vụ đào tạo
những thanh niên lứa tuổi từ 15 đến 18, có tri thức phổ thông toàn diện vững
chắc, có phẩm chất đạo đưc, có hệ thống các năng lực cần thiết để chuẩn bị
bước vào đời.

2


Nhiều năm gần đây ở huyện Mỹ Đức - tỉnh Hà Tây cho thấy sự
phát triển số lượng học sinh THPT không tỷ lệ thuận với chất lượng văn hoá,
chất lượng đạo đức. Mặc dù đã đạt được một số tiến bộ đáng kể, từng bước
khắc phục tình trạng coi trọng “dạy chữ”, xem nhẹ “dạy người”. Tuy nhiên vẫn
còn có nhiều biểu hiện của sự xuống cấp về đạo đức học sinh THPT. Đây cũng
là vấn đề đang được ngành GD - ĐT và xã hội quan tâm tìm cách giải quyết.
Trong quá trình giáo dục đạo đức học sinh việc kết hợp ba môi trường
giáo dục là một nguyên lý có tầm quan trọng, song được đặt trong một quá
trình điều khiển, quản lý, tổ chức theo những lý luận của công tác quản lý
giáo dục.Việc giáo dục đạo đức cho học sinh nếu chỉ diễn ra trong khuôn viên

nhà trường tất yếu sẽ không phát huy được sức mạnh chung, không toàn diện
đầy đủ và do đó chất lượng không cao.
Như vậy, chăm lo giáo dục thế hệ trẻ đáp ứng những yêu cầu giai đoạn
phát triển mới của đất nuớc là nhiệm vụ của toàn xã hội và sự tổ chức phối
hợp của nhà trường với gia đình và xã hội là một nguyên tắc cơ bản đảm bảo
sự thành công của công tác giáo dục nói chung, giáo dục đạo đức nói riêng.
Từ lý do trên, là cán bộ quản lý trong trường trung học phổ thông, tôi
lựa chọn vấn đề nghiên cứu “Biện pháp tổ chức phối hợp giữa nhà trường
với gia đình và xã hội trong công tác giáo dục đạo đức cho học sinh THPT
huyện Mỹ Đức, Hà Tây hiện nay ".
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nền giáo dục Việt Nam với mục đích là giáo dục đào tạo con người
phát triển toàn diện, đặc biệt gắn hai mặt đức, tài khi quan điểm lấy đức làm
gốc như quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được quán triệt trong “Sự
nghiệp đào tạo giáo dục con người công dân chân chính nói chung, thế hệ trẻ
nói riêng”. Song làm thế nào để nhà trường, gia đình và xã hội cùng thực hiện
được mục đích, đó là một vấn đề phức tạp, khó khăn và luôn luôn có ý nghĩa
thời sự cuốn hút sự quan tâm của các nhà khoa học.

3


Vì vậy, vấn đề phối hợp ba lực lượng “Nhà trường, gia đình và xã hội
nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho học sinh ” đã trở thành một đề
tài nghiên cứu khoa học của các nhà giáo dục. Những nhà giáo dục đã đi sâu
vào đề tài này phải kể đến: GS -TS Hà Thế Ngữ, GS -TS Đức Minh, GS-TS
Đặng Vũ Hoạt đã đề cập đến vai trò, vị trí, ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với
sự phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội để nâng cao hiệu quả giáo
dục học sinh.
Trong các giáo trình giáo dục học của Phạm Cốc - Đức Minh vào

những năm 70, sau đó là của Hà Thế Ngữ, Đặng Vũ Hoạt - Nxb giáo dục
(1989), vấn đề này cũng được đưa vào một số giáo trình khác như giáo dục
gia đình của PGS - TS Phạm Khắc Chương - Nxb giáo dục (1997).
Trong những năm vừa qua cũng đã có những đề tài nghiên cứu liên
quan đến vấn đề giáo dục đạo đức ở tiểu học, trung học cơ sở, THPT. Trong
hoàn cảnh xã hội hiện nay có nhiều bién đổi, đề tài: “ Tổ chức phối hợp các
lực lượng nhà trường, gia đình và xã hội nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục
đạo đức cho học sinh THPT " vẫn còn ít người nghiên cứu.
Với tư cách là một người quản lý trường THPT, về lý luận cũng như
thực tiễn đã buộc chúng tôi đi sâu nghiên cứu đề tài trên, để trước hết giúp
bản thân hoàn thành trách nhiệm được giao, sau nữa là rút ra được những bài
học kinh nghiệm cho đồng nghiệp có thể vận dụng vào thực tiễn một cách
sáng tạo và phù hợp.
3. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và khảo sát thực trạng công tác giáo dục đạo
đức học sinh trung học phổ thông, từ đó đề xuất một số biện pháp tổ chức phối
hợp
Giữa nhà giữa nhà trường với gia đình và xã hội trong việc giáo dục đạo đức cho
học sinh THPT huyện Mỹ Đức, Hà Tây trong giai đoạn hiện nay.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu

4


4.1. Hệ thống hoá lại một số vấn đề lý luận làm cơ sở cho việc giải quyết đề tài
- Phân tích nội hàm một số khái niệm phạm trù làm công cụ nghiên cứu
việc phối hơp giữa nhà trường, gia đình và xã hội trong việc GDĐĐ cho học
sinh.
- Hệ thống giá trị đạo đức của con người Việt Nam hiện nay cần hình
thành ở học sinh THPT.

- Những đặc điểm của nền kinh tế thị trường, ảnh hưởng tích cực và
tiêu cực của nó tới sự hình thành, phát triển giáo dục nhân cách và phối hơp
lực lượng xã hội trong giáo dục.
- Một số nét tâm lý đặc trưng của học sinh phổ thông hiện nay.
4.2. Tìm hiểu thực trạng của công tác tổ chức phối hợp giữa nhà trường với
gia đình và xã hội nhằm giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông
huyện Mỹ Đức, Hà Tây
4.3. Đề xuất một số biện pháp tổ chức phối hợp giữa nhà trường với gia đình
và xã hội trong công tác giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông
5. Giới hạn nghiên cứu
Đề tài này chỉ tập trung nghiên cứu các biện pháp tổ chức phối hợp giữa
nhà trường với gia đình và xã hội trong công tác GDĐĐ cho học sinh THPT trong
thời kỳ đổi mới hiện nay, trên địa bàn huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Tây: Trường THPT
Mỹ Đức A, THPT Mỹ Đức B, THPT Mỹ Đức C, và THPT Hợp Thanh.
Đối tượng điều tra bao gồm: Giáo viên, học sinh, cha mẹ học sinh, cán
bộ QLGD, cán bộ QLXH.
6. Giả thuyết khoa học
Học sinh THPT nói chung có nhiều biểu hiện tích cực đáng khích lệ về
học tập, lao động và rèn luyện. Tuy nhiên có một số ít học sinh còn có những
biểu hiện hành vi đạo đức lệch lạc, có nguyên nhân khách quan và chủ quan,
trong đó có sự chưa thống nhất những biện pháp phối hợp. Nếu có xác định
được những biện pháp liên kết giữa nhà trường với gia đình và xã hội, tạo ra

5


một môi trường thuận lợi, phát huy được những yếu tố tích cực, phát huy
được tiềm năng xã hội vào việc giáo dục đạo đức cho học sinh thì chắc chăn
sẽ hạn chế được những ảnh hưởng tiêu cực đối với học sinh.
7. Phương pháp nghiên cứu đề tài

7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
- Nghiên cứu văn kiện.
- Nghiên cứu tài liệu kinh điển.
- Nghiên cứu sách báo tạp chí, các công trình sản phẩm nhằm hệ thống
hoá những vấn đề lý luận liên quan đến đề tài
7.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Quan sát khảo sát thực tế.
- Tổng kết kinh nghiệm.
- Điều tra cơ bản bằng phiếu hỏi.
- Lấy ý kiến chuyên gia qua trao đổi toạ đàm.
7.3. Phương pháp thống kê toán học
- Sử dụng thống kê (bảng số liệu, biểu đồ)
- Sử dụng lý thuyết toán học (các phương tiện của lý thuyết tập hợp, lô
gíc) và phương pháp lô gíc học.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị, tài liệu tham khảo và phụ
lục, luận văn được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của việc tổ chức phối hợp giữa nhà trường
với gia đình và xã hội trong công tác giáo dục đạo đức cho học sinh
Chương 2: Thực trạng công tác tổ chức phối hợp giữa nhà trường với gia
đình và xã hội nhằm giáo dục đạo đức cho học sinh THPT Huyện Mỹ Đức, Hà Tây
Chương 3: Một số biện pháp tổ chức phối hợp giữa nhà trường với gia
đình và xã hội trong công tác giáo dục đạo đức cho học sinh THPT huyện Mỹ
Đức, Hà Tây

6


Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan của vấn đề nghiên cứu

Đạo đức là một hình thái ý thức XH, được hình thành, phát triển cùng
với lịch sử XH loài người và luôn được mọi tầng lớp, mọi giai cấp, mọi thời
đại quan tâm. Với tư cách là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng, những tư
tuởng ĐĐ đã xuất hiện khá sớm trong lĩnh vực triết học Trung Hoa, ấn Độ,
Hy Lạp cổ đại. Đạo đức biểu hiện đặc trưng về nhân cách, văn hoá; là những
yêu cầu, những nguyên tắc, chuẩn mực do cuộc sống đặt ra mà mỗi con người
phải tuân theo. Đạo đức phản ánh các mối quan hệ, ứng xử giữa con người
với con người, giữa con người với xã hội và con người với thế giới tự nhiên.
Đạo đức không chỉ gắn liền với những con người cụ thể, mà nó còn gắn
chặt với mỗi dân tộc, mỗi giai cấp tạo nên nền tảng đạo đức của mỗi xã hội
nhất định trong một giai đoạn lịch sử nhất định.
Từ ngàn xưa, vấn đề giáo dục đạo đức được coi là mặt cơ bản trong hai
mặt: “Đức và Tài”. Mặc dù lịch sử xã hội ngày càng phát triển, nội dung giáo
dục nhà trường ngày càng phong phú, song giáo dục đạo đức bất luận ở quốc gia
nào, dưới chế độ nào cũng đều được quan tâm. Nhà trưòng Việt Nam trải qua
hàng ngàn năm dưới chế độ phong kiến và phong kiến thực dân cho đến nay
giáo dục đạo đức cho học sinh vẫn giữ nguyên vị trí vô cùng quan trọng của nó.
Ở Việt Nam từ khi có Đảng Cộng sản ra đời, Đảng, Bác Hồ thường
xuyên quan tâm đến vấn đề đạo đức, đó là đạo đức cách mạng, đạo đức

7


XHCN, Bác đặc biệt quan tâm đến việc bồi dưỡng thế hệ trẻ, nhằm giúp cho
họ có được những phẩm chất và năng lực để kế tục sự nghiệp cách mạng.
Tuy nhiên, nhìn thẳng vào sự thật chúng ta thấy rằng trong quá trình
hội nhập quốc tế, trong điều kiện chuyển đổi nền kinh tế từ tập trung quan liêu
bao cấp sang kinh tế thị trường, đạo đức, nhân cách của con người có nhiều
biểu hiện thiếu lành mạnh, trong sáng, phần nào làm ảnh hưởng đến đạo đức xã
hội chủ nghĩa mà Đảng ta và Bác Hồ đã dày công vun đắp. Những biểu hiện

tiêu cực thiếu văn hoá, mất đạo đức của một bộ phận trong cộng đồng dân cư,
trong xã hội đã làm ảnh hưởng đến nhà trường đặc biệt là trường THPT.
Đứng trước thực tế này, GDĐĐ cho học sinh là vấn đề rất bức xúc, đã
được Đảng, nhà nước quan tâm và được nhiều nhà giáo dục nghiên cứu.
Chúng ta có thể tìm hiểu qua các tác giả như: Phạm Minh Hạc, Đặng Quốc
Bảo, Hà Nhật Thăng, Phạm Khắc Chương, ...
Tóm lại, trước đòi hỏi của việc xây dựng con người Việt Nam thời kỳ
CNH - HĐH đất nước, Nhà nước đã có 2 chương trình nghiên cứu trong vòng
10 năm, ở chu kỳ 1 (1990 – 1995) là Đánh giá thực trạng CNVN thời kỳ bước
vào thực hiện đổi mới (mã số KX – 07). Trên cơ sở kết quả nghiên cứu của
chương trình ở chu kỳ 1, chu kỳ 2 (1996-2000) với nội dung là Xác định nhân
cách con người Việt Nam thời kỳ CNH - HĐH. Đây là chương trình KH CN cấp Nhà nước do GS. VS Phạm Minh Hạc làm chủ nhiệm. Kết quả nghiên
cứu của chương trình được trình bày trong tác phẩm “Về phát triển toàn diện
con người thời kỳ CNH - HĐH”, NXB Chính trị Quốc gia 2001.
Trong tác phẩm này có chương 7 trình bày mô hình về đạo đức con
người Việt Nam thời kỳ CNH - HĐH (từ trang 153 - 179). Đó là một chương
trình nghiên cứu khoa học quan trọng có ý nghĩa định hướng cho việc xác
định mục tiêu, nội dung GDĐĐ các cấp học, ngành học của người lao động
thời kỳ CNH - HĐH nhằm phát triển nguồn lực người - yếu tố quyết định sự
phát triển KT - XH của nền kinh tế tri thức những thập niên đầu thế kỷ 21.

8


Tiếp tục cụ thể hoá chương trình nghiên cứu trên biến nó thành hiện
thực có hiệu quả phải kể đến việc thiết kế mục tiêu GDĐĐ ở tiểu học, môn
GDCD ở THCS và THPT và chương trình hoạt động GD NGLL ở phổ thông
và đã thể hiện trong nội dung của SGK và SGV ở các cấp học phổ thông do
PGS.TS Hà Nhật Thăng làm trưởng tiểu ban, xây dựng chương trình và chủ
tịch hội đồng bộ môn là của Bộ Giáo dục - Đào tạo phụ trách.

Rõ ràng về mặt lý luận cũng như thực tiễn, vấn đề đạo đức và GDĐĐ
trong
nhà trường đã được nhiều nhà khoa học, nhà giáo dục quan tâm, nghiên cứu
về
con người trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường, mở cửa, đổi mới

nước ta, dựa vào đó các nhà QLGD có thể đưa ra những biện pháp hữu hiệu
hơn.
1.2. Một số khái niệm công cụ
1.2.1. Khái niệm về quản lý
Quản lý là một khái niệm rộng, thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau, vì vậy
khái niệm về quản lý khi được đưa ra luôn gắn với các loại hình quản lý cụ
thể. Sau đây là một số quan niệm :
+ Theo tác giả Trần Đình Nghiêm: “Quản lý là một quá trình dựa vào
các quy luật khách quan vốn có của hệ thống để tác động đến hệ thống nhằm
chuyển hệ thống đó sang một hệ thống mới”. [27]
+ Theo Đặng Vũ Hoạt và Hà Thế Ngữ: “Quản lý là một quá trình định
hướng, quá trình có mục tiêu. Quản lý là hệ thống là một quá trình tác động đến
hệ thống nhằm đạt được những mục tiêu nhất định. Những mục tiêu này đặc
trưng cho trạng thái mới của hệ thống mà người quản lý mong muốn”. [19]
+ Theo Nguyễn Văn Lê : “Quản lý là một hệ thống tác động khoa học,
nghệ thuật vào từng thành tố của hệ thống bằng phương pháp thích hợp nhằm

9


đạt được các mục tiêu đề ra của hệ thống và cho từng thành tố của hệ thống”.
[20]
+ Theo đại từ điển tiếng Việt của Nguyễn Như Ý thì : “Quản lý là tổ
chức điều khiển hoạt động của một số đơn vị, một cơ quan”. [40]

Quản lý là một quá trình tác động của chủ thể quản lý đến đối tượng
nhằm điều khiển, hướng dẫn các quá trình xã hội, hành vi hoạt động của con
người để đạt tới mục đích, đúng với ý chí của nhà quản lý và phù hợp với quy
luật khách quan bằng các phương pháp thích hợp.
Xem xét nội hàm của những khái niệm quản lý nêu trên, ta thấy quản
lý là một dạng hoạt động xã hội và tồn tại với tư cách là một hệ thống bao
gồm chủ thể, khách thể và phương tiện quản lý.
Mục đích và phương tiện là cặp phạm trù trong mối quan hệ biện chứng
của mọi hoạt động, vì thế để thực hiện được từng mục tiêu cụ thể nhằm đạt
được
mục đích quản lý cần phải có phương tiện quản lý thích hợp.
Bản chất của QL là họat động lao động để điều khiền lao động, một
hoạt động tất yếu và vô cùng quan trọng của XH loài người. Nó bắt nguồn từ
lao động và tồn tại với tư cách là một loại lao động điều khiển mọi hoạt động
XH về kinh tế, chính trị, văn hoá, GD,… Các loại hình lao động ngày càng
phong phú, phức tạp thì hoạt động QL ngày càng có vai trò quan trọng có
những chức năng đặc biệt và phải luôn được thay đổi phù hợp, thích ứng với
lao động xã hội. Do vậy người ta thường nói: “QL là nghiệp xưa nhất nhưng
cũng là nghề mới nhất”.
Quản lý có phạm vi tác động lên khách thể rất rộng, do đó ngày nay nó
được xem là nhân tố quan trọng nhất trong các nhân tố quyết định sự thành
công của sự phát triển KT- XH (vốn, nguồn lực lao động, khoa học kỹ thuật,
tài nguyên và quản lý).

10


Như vậy: Có nhiều khái niệm quản lý tuy khác nhau song các định
nghĩa đều đề cập tới bản chất của hoạt động quản lý. Bởi lẽ, bất kỳ lao động
nào của xã hội hay cộng đồng ở một quy mô tương đối lớn đều cần một chừng

mực nhất định của hoạt động quản lý. Đó là cách thức tổ chức điều khiển, tác
động của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý nhằm thực hiện có hiệu quả
mục tiêu mà tổ chức đã đặt ra.
Bản chất của hoạt động quản lý là sự tác động có mục đích đến tập
thể người nhằm thực hiện mục tiêu quản lý. Trong giáo dục, đó là tác động
của nhà quản lý giáo dục đến tập thể giáo viên, học sinh và các lực lượng
giáo dục khác nhau trong xã hội nhằm thực hiện có hệ thống các mục tiêu
quản lý giáo dục.
Các chức năng quản lý là biểu hiện bản chất của quản lý, chức năng
quản lý là môt phạm trù chiếm vị trí then chốt trong các phạm trù cơ bản của
khoa học quản lý, là những loại hoạt động bộ phận tạo thành hoạt động quản lý đã
được tách riêng, chuyên môn hoá. “ Các chức năng quản lý là những hình thái
biểu hiện sự tác động đến mục đích tập thể người " [36, tr.16].
Có 4 chức năng cơ bản liên quan mật thiết với nhau và tạo thành
chu
trình quản lý: Lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra.
1.2.2. Khái niệm về tổ chức
Tổ chức được hiểu theo hai nghĩa khác nhau:
- Tổ chức là một hệ thống: “ Tổ chức là một cơ cấu liên kết những cá
nhân trong một hệ thống nhằm thực hiện mục tiêu của hệ thống dựa trên
những nguyên tắc và quy tắc nhất định” [36- Tr.1].
- Tổ chức là một hoạt động quản lý: Trong 4 chức năng quản lý tổ chức
là chức năng quan trọng nhất. V.I Lê nin đã nói: “ Hãy cho tôi một tổ chức tôi
sẽ làm đảo lộn cả thế giới ”, Người còn nói: “ Để quản lý thành công, ngoài
việc biết thuyết phục...cần phải biết tổ chức thực hiện”.

11


Tổ chức là một quá trình sắp xếp, tác động và điều khiển các nhiệm vụ

và nguồn lực để đạt được các mục tiêu đã vạch ra.
Trong luận văn này, tổ chức được được dùng với tư cách là một hoạt
động quản lý.
1.2.3. Khái niệm về đạo đức
Đạo đức là một trong những bộ phận cơ bản nhất tạo ra bộ mặt nhân
cách của mỗi cá nhân, cộng đồng và dân tộc. Hệ thống đạo đức là tấm gương
phản chiếu rõ nét nhất cuộc sống tinh thần, đồng thời nó cũng thể hiện mối
quan hệ của điều kiện xã hội đến với cuộc sống của con người. Các quan hệ
ấy vô cùng phong phú và phức tạp, đòi hỏi con người phải có cách ứng xử giao
tiếp và thường xuyên điều chỉnh thái độ, hành vi của mình sao cho phù hợp với
yêu cầu, chuẩn mực và lợi ích chung của XH. Trong trường hợp này con người
được xem là có đạo đức. Ngược lại, những cá nhân biểu hiện thái độ, hành vi
không phù hợp với chuẩn mực XH, với cộng đồng, vì lợi ích cá nhân gây nên
tổn hại lợi ích của người khác, của XH, bị cộng đồng lên án, chê trách thì
người đó coi
là thiếu đạo đức
Đạo đức liên quan chặt chẽ đến phạm trù chính trị, pháp luật, nhưng
khác với pháp luật, ĐĐ là phạm trù vĩnh cửu, nó được xuất hiện và tồn tại
cùng với xã hội loài người, còn pháp luật là một phạm trù lịch sử, nó chỉ tồn
tại trong xã hội có giai cấp. Vì thế người ta nói : Pháp luật thống trị con người
chỉ một thời gian, còn ĐĐ thống trị con người mãi mãi. Ta nghiên cứu một số
quan niệm:
+ Theo Phạm Minh Hạc: Khái niệm đạo đức liên quan chặt chẽ với
phạm trù chính trị, pháp luật, lối sống. Đạo đức là thành phần căn bản của
nhân cách, phản ánh bộ mặt nhân cách của một cấ nhân đã được xã hội hoá.
Đạo đức được biểu hiện ở cuộc sống tinh thần lành mạnh, trong sáng, ở hành
động góp phần giải quyết hợp lý, có hiệu quả những mâu thuẫn. Khi thừa

12



nhận đạo đức là một hình thái ý thức xã hội thì đạo đức của mỗi cá nhân mỗi
cộng đồng mỗi tầng lớp giai cấp trong xã hội cũng phản ánh ý thức chính trị
của họ đối với các vấn đề đang tồn tại.[17, tr.153]
+ Theo Phạm Khắc Chương: “Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội
phản ánh những tồn tại xã hội, phản ánh những quan hệ XH hiện thực trên cơ
sở kinh tế. Sự phát triển của ĐĐ xã hội từ thấp đến cao như những nấc thang
giá trị của văn minh con người trên cơ sở phát triển của sức sản xuất vật chất
và thông qua sự đấu tranh gạn lọc, kế thừa mà nội dung ĐĐ ngày càng phong
phú và hồn nhiên hơn”.[13]
Theo từ điển tiếng việt: “Đạo đức là những tiêu chuẩn, những nguyên
tắc qui định hành vi quan hệ của con người đối với nhau và đối với XH, là
những phẩm chất tốt đẹp của con người theo những tiêu chuẩn đạo đức của
một giai cấp nhất định”.[40]
Khi bàn về ĐĐ chúng ta không thể không nói đến các quan điểm ĐĐ
của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người quan niệm đạo đức là Nhân – Nghĩa – Trí Dũng - Liêm. Đó là ĐĐ cách mạng, đạo đức mới XHCN luôn vì lợi ích chung
của Đảng, của dân tộc và của lòng người. Theo Người, đạo đức là thống nhất
giữa tư tưởng và cách sống.
Theo chiều dài lịch sử, đã có rất nhiều quan điểm về đạo đức, nhưng chỉ
có quan điểm của chủ nghĩa Mác – LêNin là khoa học nhất, tiến bộ nhất. Chủ
nghĩa Mác- LêNin cho rằng đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, có nguồn
gốc từ lao động sản xuất và đời sống cộng đồng, nó phản ánh và chịu sự chi
phối của tồn tại xã hội, khi tồn tại xã hội được thay đổi thì ý thức xã hội cũng
thay đổi theo, như vậy đạo đức là một phạm trù mang tính vĩnh hằng nhưng
mang lại những đặc điểm của giai cấp, của dân tộc và thay đổi chuẩn mực trong
từng giai đoạn lịch sử.
Vậy đạo đức là một hiện tượng xã hội phản ánh các mối liên hệ hiện
thực của cuộc sống con người. Thông thường trong cuộc sống mỗi người phải ý

13



thức được ý nghĩa, mục đích hoạt động của mình trong quá khứ, hiện tại và tương
lai. Những hoạt động đó chịu sự chi phối của các mối quan hệ giữa cá nhân với cá
nhân, giữa cá nhân với xã hội trong giới hạn cho phép của cộng đồng, của dân
tộc... nhằm đảm bảo quyền lợi cho tất cả thành viên vươn lên tích cực tự giác tạo
thành động lực phát triển xã hội. Đó chính là những quy tắc chuẩn mực hoàn toàn
tự giác điều khiển hành động của mỗi cá nhân trong các mối quan hệ xã hội.
Tất nhiên đạo đức là một hình thái ý thức luôn luôn mang tính lịch sử,
tính giai cấp, tính dân tộc gắn với tiến trình phát triển của nhân loại và dân
tộc, đạo đức cũng chịu sự quy định của điều kiện kinh tế, vật chất xã hội đồng
thời cũng chịu sự tác động qua lại chế uớc lẫn nhau của các hình thái ý thức
xã hội khác như pháp luật, văn hoá, giáo dục, tập quán...
Đạo đức có ba chức năng cơ bản đó là: Nhận thức, giáo dục và điều
chỉnh hành vi, trong đó chức năng điều chỉnh hành vi là quan trọng nhất.
* Về chức năng nhận thức: Đạo đức là công cụ giúp con người nhận
thức xã hội về mặt đạo đức, các quan điểm, nguyên tắc, chuẩn mực là kết quả
của sự phản ánh tồn tại xã hội, được mọi người đánh giá, thừa nhận và khái
quát thành những khuôn mẫu, thước đo các giá trị xã hội.
* Chức năng giáo dục: Trên cơ sở nhận thức về đạo đức, chức năng
giáo
dục giúp con người hình thành những phẩm chất nhân cách, hình thành hệ thống
định hướng giá trị và chuẩn mực ĐĐ, điều chỉnh ý thức và hành vi con người.
* Điều chỉnh hành vi: Cùng với chức năng GD, chức năng điều chỉnh
hành
vi ĐĐ có tác dụng làm cho hoạt động của con người phù hợp với lợi ích của

hội, của cộng đồng, biến yêu cầu ĐĐ của XH thành nhu cầu của bản thân.
1.2.4. Giáo dục đạo đức


14


Giáo dục đạo đức là quá trình hình thành những quan điểm cơ bản,
những nguyên tắc chuẩn mực của xã hội, nhờ vậy mà con người có khả năng
lựa chọn, đánh giá đúng đắn các hiện tượng đạo đức trong cộng đồng cũng
như tự đánh giá các hành vi của bản thân mình. Công tác GDĐĐ góp phần
vào việc hình thành và phát triển nhân cách con người phù hợp với với đối
tượng giáo dục trong môi trường kinh tế xã hội nhất định.
Ngày nay, khi xã hội phát triển, đời sống tương đối ổn định thì nhưĩng
dấu hiệu suy thoái ĐĐ lại xuất hiện ngày càng nhiều thể hiện dưới nhiều hình
thức khác nhau. Chính vì vậy mà việc GDĐĐ cho học sinh THPT là việc làm
cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Đó là quá trình tác động có mục đích, có kế
hoạch nhằm giúp cho nhân cách của mỗi HS được phát triển vẹn toàn, có
những hành vi ứng xử đúng mực trong các mối quan hệ, hình thành và phát
triển ý thức, tình cảm, niềm tin, thói quen đạo đức cho học sinh .
GDĐĐ trong trường phổ thông là một bộ phận của quá trình giáo dục
tổng thể có quan hệ biện chứng với các quá trình bộ phận khác như giáo dục
trí tuệ, giáo dục thẩm mỹ, giáo dục thể chất, giáo dục lao động và giáo dục
hướng nghiệp giúp cho học sinh hình thành và phát triển nhân cách toàn diện.
Quá trình GDĐĐ cũng như các quá trình giáo dục khác đều có các thành tố có
quan hệ với nhau trong hệ thống cấu trúc nhất định và vận động. Các thành
tố cơ bản của giáo dục và người được giáo dục, mục đích giáo dục, nội dung
giáo dục, phương pháp và phương tiện giáo dục, kết quả giáo dục...
Về nhiệm vụ GDĐĐ là làm sao cho mỗi con người được GD
nhanh chóng tiếp cận được với mục tiêu, do vậy GD phải tăng cường GD ý
thức ĐĐ tình cảm đạo đức, khơi dậy ở HS những rung động, cảm xúc với
hiện thực xung quanh biết yêu thương với những thái độ và hành vi đúng đắn,
biết phản đối, căm ghét những hiện tượng tiêu cực, vô đạo đức, vô lương
tâm, làm

phương hại đến uy tín, danh dự cá nhân và tập thể.

15


Về mục tiêu GDĐĐ cho học sinh ở trường THPT là giúp cho mỗi cá
nhân nhận thức đúng đắn các giá trị ĐĐ, biết hành động theo lẽ phải, công
bằng và nhân đạo, biết sống vì mọi người, vì gia đình, vì sự tiến bộ của xã hội
và phồn vinh của đất nước. Trong đó mục tiêu quan trọng nhất của GDĐĐ là
tạo lập được những thói quen hành vi đạo đức.
Về nội dung GDĐĐ là giáo dục ý thức, GD tình cảm và GD hành vi,
trang bị cho HS những hiểu biết, niềm tin về chuẩn mực và những quy tắc
ứng xử trong cuộc sống, trong học tập và lao động, về nghĩa vụ công dân
trong việc xây dựng và việc bảo vệ tổ quốc.
Tóm lại: Có thể nói rằng có bao nhiêu mối quan hệ ở trong nhà trường
và xã hội mà HS tham gia, hoạt động, giao tiếp, thì có bấy nhiêu tác động
GDĐĐ. Những tác động này có thể thống nhất nhằm tăng cường, hỗ trợ cho
nhau, tạo nên sức mạnh trong quá trình GD, nhưng cũng có thể mâu thuẫn,
làm vô hiệu hoá, suy yếu các kết quả tác động. Vấn đề GDĐĐ cho học sinh
phải tuân theo quy luật phát triển chung về hình thành và phát triển nhân cách.
Hơn ai hết những người làm công tác giáo dục phải nắm và vận dụng quy luật
này cho thật hợp lý.
1.2.5. Khái niệm về các lực lượng giáo dục
- Nhà trường: là một tổ chức xã hội đặc thù với cấu trúc tổ chức chặt
chẽ, có nhiệm vụ chuyên biệt là giáo dục, đào tạo nhân cách trẻ em theo
những định hướng của xã hội.
Quá trình thể hiện chức năng trên là quá trình tổ chức các hoạt động
dạy học, giáo dục...theo hệ thống chương trình nội dung được tổ chức một
cách chặt chẽ, bài bản.
- Gia đình: “Gia đình là tế bào của xã hội, là tập hợp của những người

cùng
chung sống là một đơn vị nhỏ nhất trong xã hội, họ gắn bó với nhau bằng quan
hệ hôn nhân về dòng máu, thường gồm vợ chồng, cha mẹ, con cái” [13, tr.4].

16


Quan hệ con người với gia đình là yếu tố đặc biệt trong sự hình thành
nhân cách. Gia đình do con người sáng tạo ra, song gia đình lại là môi trường
xã hội đầu tiên, có tác dụng tiếp nhận chọn lọc, điều chỉnh hình thành hệ
thống giá trị xã hội, trước hết là hệ thống đạo đức văn hoá của dân tộc và
nhân loại. Gia đình hạnh phúc dựa trên nguyên tắc cơ bản là mọi người đều
phải yêu thương quý mến nhau, giúp đỡ nhau trong công việc gia đình và xã
hội.
- Các lực lượng xã hội bao gồm: Các cơ quan nội chính, các tổ chức
chính trị xã hội, các tổ chức kinh tế, các đoàn thể quần chúng, các cơ quan
chức năng...[37, tr.7].
Trong các lực lượng giáo dục, nhà trường có vai trò chủ đạo trong việc
giáo dục đạo đức học sinh vì:
* Nhà trường có chức năng thực hiện mục tiêu giáo dục đào tạo nhân cách
* Nhà trường có nội dung giáo dục và phương pháp giáo dục được
chọn lọc và tổ chức chặt chẽ.
* Nhà trường có LLGD mang tính chất chuyên nghiệp.
* Môi trường giáo dục trong nhà trường có tính chất sư phạm, có tác
động tích cực trong quá trình GD ĐĐ học sinh.
Tuy nhiên nếu nhà trường có sự liên hệ, phối hợp với gia đình và các
LLXH...sẽ có những tác động đồng thời tạo ra hiệu quả cao đối với quá trình
GDĐĐ học sinh.
1.2.6. Khái niệm về biện pháp
- Theo định nghĩa triết học của V.I. Lê nin thì biện pháp là cách thức,

con đường chuyển tải nội dung. Có nghĩa là căn cứ vào nội dung mà tìm cách
thức, con đường phù hợp nhất có hiệu quả nhất để chuyển nội dung đến
đích cuối cùng
- Biện pháp phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội cũng chính là
cách thức, con đường tạo nên mối quan hệ chặt chẽ, gắn bó của ba lực lượng

17


nhằm chuyển tải mục đích, nội dung giáo dục thế hệ trẻ (học sinh) đạt đến
đích phát triển nhân cách theo mục đích đã xác định.
1.2.7. Khái niệm về phối hợp
Phối hơp giữa nhà trường, gia đình và xã hội nhằm GDĐĐ cho học
sinh
là tác động vào các đối tượng tạo ra mối liên hệ tác động hướng đích có tính
thống nhất, tập trung...để huy động sức mạnh tổng hợp của nhà trường, gia
đình và xã hội nhằm GDĐĐ cho học sinh. Để tạo ra sự phối hợp, trong công
tác quản lý nhà trường cần phải:
+ Tổ chức mối liên hệ giữa nhà trường, gia đình và xã hội nhằm GDĐĐ
cho học sinh, đây là sự thể hiện tác động qua lại một cách biện chứng. Một
mặt nhà trường cần giúp đỡ hỗ trợ cụ thể cho các bậc cha mẹ trong việc giáo
dục, giúp họ nắm được tri thức về chính sách giáo dục đồng thời cho họ thấy
được trách nhiệm và nghĩa vụ của các bậc cha mẹ trong việc nuôi dạy con cái.
Mặt khác với tư cách là một chủ thể giáo dục, gia đình tiêu biểu là các bậc cha
mẹ có trách nhiệm chủ động hợp tác với nhà trường trong việc tổ chức hoạt
động giáo dục cho con em, hiểu rõ nhiệm vụ của mình và mục tiêu, nhiệm vụ
giáo dục của nhà trường quy định.
+ Tổ chức mối quan hệ giữa nhà trường và các LLXH mà nhờ đó tạo
nên một môi trường giáo dục đúng đắn, rộng khắp trong toàn xã hội đồng thời
tạo ra quá trình giáo dục thống nhất và liên tục trong không gian và theo thời

gian, có tác động trực tiếp đến việc hình thành nhân cách cho thế hệ trẻ.
+ Phối hợp giữa gia đình và các LLXH sao cho gia đình phát huy được
tác dụng định hướng, tổ chức cho trẻ tham gia vào các hoạt động xã hội vì xã
hội là môi trường giáo dục rất tốt cho trẻ. Bên cạnh đó gia đình còn giúp trẻ
có nhận thức đúng và không bị các tệ nạn xã hội lôi cuốn. Mặt khác LLXH vô
cùng đông đảo tạo ra một môi trường rộng lớn có ảnh hưởng tự phát hoặc
tự

18


giác rất mạnh mẽ đối với cuộc sống hàng ngày của trẻ.
1.3. Nguyên tắc phối hợp các lực lượng giáo dục
Việc phối hợp giữa nhà trường với gia đình và các lực lượng xã hội cần
theo
một số nguyên tắc sau:
- Phối hợp phải tận dụng, phát huy được toàn bộ tiềm năng trong và ngoài
nhà trường cả về trí tuệ, kinh nghiệm, sức người, cơ sở vật chất trang thiết
bị
nhằm thực hiện mục tiêu GDĐĐ trong giai đoạn hiện nay.
- Phối hợp phải tôn trọng tính đặc thù về chức năng nhiệm vụ của các
tổ
chức XH và cá nhân những người tham gia.
- Phải đảm bảo tính thống nhất từ nhận thức, mục tiêu, chương trình kế
hoạch hoạt động và khác nhau ở biện pháp, hình thức, thời gian, không gian
hoạt động GD.
- Phối hợp là nhằm khép kín không gian và thời gian tạo cơ hội thuận
lợi nhất cho học sinh được học tập, rèn luyện, phát huy tính tích cực rèn luyện
của học sinh
1.4. Vai trò việc tổ chức phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội

nhằm giáo dục đạo đức cho học sinh
Chất lượng và hiệu quả của giáo dục nói chung và GDĐĐ nói riêng
phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Các yếu tố có mối quan hệ tác động qua lại
với nhau, thúc đẩy nhau làm tăng thêm hoặc làm giảm chất lượng, hiệu quả
giáo dục. Việc tổ chức phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn lớn lao. Đó là:
1.4.1. Việc tổ chức phối hợp nhà trường, gia đình và xã hội tạo nên tác động
tổ hợp phát huy được những tiềm năng phong phú của toàn xã hội tham gia
vào quá trình giáo dục

19


Hiện nay các thành phần kinh tế đang không ngừng lớn mạnh, lực lượng
lao động hiện nay về trình độ đã và đang được nâng cao. Đội ngũ cán bộ khoa
học kỹ thuật ở các cơ sở sản xuất, hoạt động quản lý đang dần dần được chuẩn
hoá và trình độ ngày càng cao. Để thực hiện mục tiêu GDĐĐ học sinh, việc
phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội có một ý nghĩa đặc biệt, đó là
những điều kiện về vật chất, trang bị tiềm năng trí tuệ của xã hội cần được huy
động vào QTGD của nhà trường.
1.4.2. Việc tổ chức phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội là nguyên
tắc quan trọng tạo ra sự thống nhất thực hiện mục tiêu giáo dục, thực hiện
các chuẩn mực đạo đức của học sinh
Trong quá trình thực hiện mục tiêu, nội dung giáo dục, khi gặp
những
trường hợp học sinh chưa ngoan, sự phối hợp nhà trường, gia đình và xã
hội
cũng được đặt ra song cần thường xuyên và xuất phát từ mục tiêu, nội dung
giáo dục toàn diện.
Để thực hiện mục tiêu GDĐĐ học sinh, việc phối hợp nhà trường, gia

đình và xã hội có ý nghĩa rất lớn, đây là những môi trường trực tiếp ảnh
hưởng đến sự hình thành rèn luyện nhân cách của học sinh phổ thông nói
chung và học sinh THPT nói riêng
1.4.3. Tạo ra môi trường sư phạm lành mạnh, hạn chế được những tác động
tiêu cực trực tiếp tới quá trình hình thành nhân cách học sinh
Trong điều kiện hiện nay, cùng với những yếu tố tích cực, mặt trái mặt
tiêu cực của cơ chế thị trường đang ảnh hưởng đến QTGD của nhà trường.
Việc tìm kiếm giải pháp thống nhất nhà trường, gia đình và xã hội chính là tạo
ra sức mạnh tổng hợp và đồng bộ trong toàn xã hội hạn chế tối đa những ảnh
hưởng tiêu cực, ngăn chặn những thủ đoạn tội lỗi của những kẻ bất lương từ

20


đó xây dựng một môi trường lành mạnh tạo ra những tác động tích cực cho
quá trình GDĐĐ học sinh.
Việc định hướng cho học sinh THPT về các giá trị chuẩn mực đạo đức
hạn chế những ảnh hưởng không lành mạnh là rất cần thiết. Yêu cầu đó không
chỉ là trách nhiệm của nhà trường mà cần đặt ra cho các bậc cha mẹ mọi
người dù ở trong hay ngoài ngành giáo dục.
1.5. Những yếu tố ảnh hưởng tới hiệu quả của việc tổ chức phối hợp
1.5.1. Mục tiêu giáo dục phổ thông và những định hướng giáo dục đạo đức cho
học sinh trung học phổ thông trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá
1.5.1.1. Mục tiêu giáo dục phổ thông
- Theo luật giáo dục và nghị quyết TW 2: “ Mục tiêu của giáo dục phổ
thông là giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm
mỹ và các kỹ năng cơ bản nhằm hình thành nhân cách con người Việt nam xã
hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị cho học
sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và
bảo vệ tổ quốc”.

- Giáo dục tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban
đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm
mỹ và các kỹ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học THCS.
- Giáo dục THCS nhằm giúp học sinh củng cố và phát triển những kết
quả của giáo dục tiểu học, có trình độ học vấn phổ thông cơ sở và những hiểu
biết ban đầu về kỹ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học THPT, THCN, học
nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động.
- "Giáo dục THPT nhằm giúp học sinh củng cố và phát triển những kết
quả của giáo dục THCS, hoàn thiện học vấn phổ thông và những hiểu biết
thông thường về kỹ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học đại học, cao đẳng,
THCN học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động" [7, Tr.1].

21


1.5.1.2. Nhiệm vụ giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông trong giai
đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Những phẩm chất của con người Việt nam thế kỷ XXI đó là:
- Con người có bản chất nhân văn, nhân bản, nhân ái trong quan hệ với
con người, với cộng đồng.
- Con người có đầu óc khoa học và duy lý, biết sử dụng các quy luật để
xây dựng cuộc sống.
- Con người có nhân cách công dân, ý thức rõ quyền lợi và nghĩa vụ
công dân, có ý thức bảo vệ tổ quốc, giữ gìn và phát huy truyền thống tinh hoa
của dân tộc mình trong quá trình hoà nhập với nền văn minh nhân loại.
- Con người lao động với tay nghề cao, sáng tạo ra cái giá trị để làm
giàu cho mình và cho xã hội.
- Con người có cá tính và bản sắc riêng, thể hiện rõ bản lĩnh, hoài bão, có
ý chí, tính tự chủ, tự giác, tính năng động, nhanh thích nghi và sáng tạo trong
cuộc sống ganh đua quyết liệt và luôn biến đổi.

Trên nền tảng đạo đức trên, chúng ta cụ thể hoá thành nhiệm vụ GDĐĐ cho
học sinh THPT như sau:
+ Làm cho học sinh thấm nhuần sâu sắc tư tưởng Mác-Lênin, tư tưởng
và đạo đức cách mạng của Hồ Chủ Tịch, tính chân lý khách quan, giá trị nhân
văn, nhân đạo, nhân bản của thế giới quan và tư tưởng đó. Coi đó là kim chỉ
nam cho tư tưởng và hành động của mình.
+ Trên cơ sở đó bằng sự tiếp cận với cuộc đấu tranh cách mạng của
nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng trên con đường xây dựng và bảo vệ tổ
quốc Việt Nam XHCN để củng cố niềm tin, xây dựng lẽ sống, lý tưởng sống
theo định hướng XHCN.
+ Thấm nhuần chủ trương, chính sách của Đảng, biết sống và làm việc
theo pháp luật, sống có kỷ cương, sống có văn hoá trong nhà trường cũng như
trong cộng đồng dân cư và nơi công cộng.

22


+ Nhận thức ngày càng sâu sắc về những nguyên tắc, yêu cầu chuẩn
mực, giá trị đạo đức, biến những giá trị đạo đức xã hội thành ý thức tình cảm,
ý chí, hành vi, thói quen, thành phẩm chất đạo đức cá nhân thể hiện trong
cách sống và làm việc, trong quan hệ ứng xử giữa con người với con người,
con người với tự nhiên, làm điều thiện, tránh điều ác.
1.5.1.3. Những định hướng giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông trong
giai đoạn mới
Bác Hồ đã nói: “Dạy cũng như học phải biết chú trọng cả tài lẫn đức.
Đức là đao đức cách mạng đó là cái gốc rất quan trọng. Nếu không có đạo
đức cách mạng thì có tài cũng vô dụng”.
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X cũng khằng định: “Coi
trọng bồi dưỡng cho HS, sinh viên khát vọng mãnh liệt xây dựng đất nước giàu
mạnh, gắn liền lập nghiệp bản thân với tương lai của cộng đồng, của dân tộc,

trao dồi cho HS, sinh viên, bản lĩnh, phẩm chất và lối sống của thế hệ
trẻ
Việt Nam”.[5]
Đặc biệt luật giáo dục của nước Cộng hoà XHCN Việt Nam, giáo dục
và đào tạo được coi là quốc sách hàng đầu là sự nghiệp của nhà nước và toàn
dân. Những nội dung cơ bản của luật giáo dục cũng thể hiện quan điểm của
nhà nước về GDĐĐ cho học sinh đó là:
- Nền giáo dục Việt Nam là nền giáo dục XHCN, có tính nhân dân, dân
tộc, khoa học, hiện đại lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm
nền tảng.
- Nguyên lý: Học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản
xuất, lí luận gắn liền với thực tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục
gia đình và giáo dục xã hội [7, tr.8].
Về nội dung, phương pháp:

23


- Nội dung: Đảm bảo tính cơ bản toàn diện, thiết thực hiện đại và có hệ
thống, coi trọng giáo dục tư tưởng và có ý thức công dân.
- Phương pháp: Phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động của người
học.[7, tr.9]
- Trách nhiệm của gia đình: Tạo môi trường thuận lợi cho việc phát
triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ của con em.[7, tr.54]
- Trách nhiệm của xã hội: Xây dựng phong trào học tập và môi trường
giáo dục lành mạnh, ngăn chặn những hoạt động có ảnh hưởng xấu đến thanh
niên, thiếu niên và nhi đồng.[7, tr.55]
Luật giáo dục đã xác định mô hình giáo dục thích hợp với hoàn cảnh
và điều kiện của nền giáo dục Việt Nam, để giáo dục việt nam sớm hoà nhập
với giáo dục thế giới. Đặc biệt những quan điểm của nhà nước về GDĐĐ cho

học sinh đã khẳng định tầm quan trọng của đạo đức trong QTGD.
Trong giai đoạn mới hiện nay, GD nhân cách là nhiệm vụ và là mục
tiêu cơ bản của sự nghiệp GD nói chung, của trường THPT nói riêng đáp ứng
yêu cầu ngày càng cao của xã hội. Đó là GD cho học sinh, sinh viên, lòng yêu
nước, yêu CNXH, có bản lĩnh vững vàng, có tư duy sáng tạo và năng lực thực
hành giỏi có ý chí học tập, rèn luyện để lập thân, lập nghiệp, tiếp bước các
thế
hệ đi trước, góp phần đưa đất nước đến hưng thịnh, phú cường.
1.5.2. Trình độ nhận thức của thầy cô giáo, gia đình học sinh và các tổ
chức xã hội về phối hợp giữa nhà trường với gia đình và xã hội nhằm giáo
dục đạo đức cho học sinh
Trong sự phát triển của nguồn nhân lực cho đất nước Việt Nam
đang
đổi mới hiện nay yêu cầu cấp bách là nâng cao chất lượng nhân lực, đào tạo
và bồi dưỡng nhân tài nhằm tạo ra những mẫu nhân cách phù hợp với xã hội
mới. Để xây dựng được những con người có phẩm chất cơ bản đó cần có sự

24


×