Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

Nghiên cứu nhu cầu tiếp nhận truyền hình của sinh viên hà nội khảo sát các chương trình truyền hình trên sóng VTV1,VTV2, VTV3 đài truyền hình việt nam luận văn ths báo chí học 5 04 30 pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.31 MB, 115 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

VŨ PHƢƠNG DUNG

Nghiên cứu nhu cầu tiếp nhận truyền hình
của sinh viên Hà Nội : \b khảo sát các
chƣơng trình truyền hình trên sóng
VTV1,VTV2, VTV3 - Đài truyền hình Việt
Nam

LUẬN VĂN THẠC SĨ BÁO CHÍ HỌC

HÀ NỘI, 2005


Vũ Phương Dung

Nhu cầu tiếp nhận truyền hình của sinh viên Hà Nội
-----------------------------------------------------------------------------------------------------

Mở đầu
1. Tính thời sự và cấp thiết của đề tài:
Truyền thông đại chúng là một bộ phận quan trọng của đời
sống văn hoá xã hội nước ta. Cùng với những thành tựu to lớn của đất
nước trong công cuộc đổi mới, hệ thống các phương tiện truyền thông
đại chúng đã có những chuyển biến tích cực và tiến bộ. Sau hơn 10 năm
“đổi mới báo chí vì sự nghiệp đổi mới đất nước” [49, 209] nền báo chí
nước nhà đã phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng, cả về công
nghệ làm báo, trình độ chính trị, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội
ngũ người làm báo. Truyền thông đại chúng phát triển nhanh về số lượng


và quy mô, về nội dung và hình thức, về in ấn, phát hành và truyền dẫn
đã ngày càng phát huy vai trò quan trọng trong đời sống văn hoá tinh
thần của xã hội.
Trong hệ thống các phương tiện truyền thông đại chúng này,
truyền hình đang ngày càng chiếm vị trí to lớn. Truyền hình tuy ra đời
muộn hơn các loại hình khác như báo in, phát thanh nhưng nó đã và đang
từng bước khẳng định vai trò của mình và có những bước tiến vượt bậc
trong những năm qua.
Truyền hình là một loại phương tiện truyền thông đại chúng
chuyển tải thông tin bằng hình ảnh động và âm thanh. Hình ảnh chủ yếu và
đặc trưng trong truyền hình là hình ảnh động về hiện thực trực tiếp, ngoài
ra truyền hình còn sử dụng các loại hình ảnh tĩnh như ảnh tư liệu, mô hình,
sơ đồ, biểu đồ, chữ viết… Âm thanh trong truyền hình bao gồm lời bình
của phát thanh viên, lời nói của con người, âm nhạc, tiếng động và các
âm thanh của hiện trường ghi hình. Truyền hình đang sử dụng tổng hợp
tất cả các loại phương tiện chuyển tải thông tin có trong báo in, phát
thanh và điện ảnh.

-----------------------------------------------------------------------------------------------------

1


Vũ Phương Dung

Nhu cầu tiếp nhận truyền hình của sinh viên Hà Nội
-----------------------------------------------------------------------------------------------------

Truyền hình có sức hấp dẫn đặc biệt nhờ việc giao tiếp với con
người bằng cả thị giác và thính giác. “Sức mạnh của truyền hình tăng lên

nhờ phạm vi ảnh hưởng rộng rãi của nó. Những thành tựu khoa học kỹ
thuật hiện đại đã tạo ra khả năng cho truyền hình xâm nhập tới bất kỳ nơi
nào trên trái đất” [30, 89]. Với hình ảnh động và âm thanh, truyền hình gần
như đạt tới mức tuyệt đối về phạm vi công chúng xã hội. Bất cứ ai, dù là
ngôn ngữ nào cũng có thể xem và hiểu được những gì được thể hiện trên
truyền hình, ngoại trừ những người bị hạn chế về thị giác và thính giác. Do
tính tổng hợp và chức năng đa dạng của mình mà truyền hình được gọi là
“rạp hát tại nhà, quảng trường công cộng, trường học nhân dân, người
hướng dẫn văn hoá đại chúng…” [47, 83].
ở nước ta, sau hơn 30 năm ra đời, truyền hình được coi là một
ngành công nghiệp đã có những bước phát triển vượt bậc. Mặc dù là một
ngành công nghiệp non trẻ, gặp những trở ngại về kinh tế, kỹ thuật, về
không gian địa lý trong sự phân bố dân cư nhưng đến năm 2005, trên 90%
số hộ đã được xem truyền hình hàng ngày với 4 chương trình chính và các
chương trình cáp, “Đài truyền hình Việt Nam được coi là tờ báo hình lớn
nhất đất nước”. [47, 83]
Chương trình truyền hình là sản phẩm lao động của một tập thể
các nhà báo, các cán bộ và nhân viên kỹ thuật, dịch vụ, là quá trình giao
tiếp truyền thông giữa những người làm truyền hình với công chúng xã hội
rộng rãi. [38, 143]. Chương trình truyền hình là sự gặp nhau giữa nhu cầu,
thị hiếu của công chúng với mục đích và ý tưởng sáng tạo của những nhà
truyền thông bằng phương tiện truyền hình. Mỗi chương trình truyền hình
đều nhằm tác động đến một đối tượng phục vụ nhất định. Bởi vậy, người
làm báo nói chung và người làm truyền hình nói riêng cần nắm vững và
hiểu rõ nhu cầu của đối tượng mình phục vụ để có thể đáp ứng tối đa nhu
cầu ấy.
-----------------------------------------------------------------------------------------------------

2



Vũ Phương Dung

Nhu cầu tiếp nhận truyền hình của sinh viên Hà Nội
-----------------------------------------------------------------------------------------------------

Trong những năm đổi mới, sinh viên Việt Nam là nguồn lực quan
trọng của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá không ngừng tăng nhanh
về số lượng, chất lượng, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu xã hội. Tiến sỹ xã hội
học Bùi Phương Đình nhận định: “sinh viên là nhóm xã hội trẻ, đang được
đào tạo về tri thức, có nhiệt tình, có nhiệt huyết, có ham muốn, tham vọng.
Theo quy luật phát triển của xã hội, sinh viên sẽ đảm nhiệm những cương
vị nhất định trong xã hội, do lợi thế được đào tạo về tri thức nên vai trò của
họ càng quan trọng trong đời sống xã hội. Nếu nói tuổi trẻ là tương lai của
đất nước thì sinh viên là nhóm nổi trội nhất trong tuơng lai đó” (phụ lục).
Tính đến năm 2003, sinh viên chiếm 0,96% dân số và chiếm 4% lực lượng
thanh niên, đạt 118 sinh viên trên một vạn dân [18, 19]. Sinh viên là lực
lượng kế tục và phát huy nguồn lực trí tuệ của đất nước. Trí tuệ là nguồn tài
nguyên quý giá của mỗi quốc gia, dân tộc. Tài nguyên đó đang nằm chính
trong mỗi sinh viên. Sinh viên là lớp người đang trong quá trình hoàn thiện,
khẳng định nhân cách và tài năng, còn thiếu từng trải và kinh nghiệm sống,
còn thiếu kiến thức và kỹ năng lập nghiệp. Họ là một bộ phận quan trọng
của xã hội thuộc tầng lớp trí thức của xã hội. Khẳng định vị thế của sinh
viên, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đã phát biểu trong đại hội Hội Sinh
viên Việt Nam lần thứ VII: “Sinh viên được đánh giá là lớp người ưu tú
nhất trong lực lượng thanh niên của xã hội. Sinh viên gắn liền với tuổi trẻ,
với sự trẻ trung của lớp người mới. Có thể nói họ là lực lượng đi đầu trong
việc khám phá và học hỏi cái mới” [3, 7].
Sinh viên chính là một đối tượng quan trọng của truyền hình, là
lớp người dễ dàng chấp nhận và thích nghi với sự phát triển của truyền

hình. Với lợi thế tổng hợp của âm thanh và hình ảnh động, thông tin truyền
hình có sức tác động trực tiếp tới nhận thức của người xem, góp phần hình
thành thế giới quan, làm thay đổi nhận thức và hành vi. Sức mạnh của
phương tiện này có ảnh hưởng tương đối lớn với sự hình thành nhân cách
-----------------------------------------------------------------------------------------------------

3


Vũ Phương Dung

Nhu cầu tiếp nhận truyền hình của sinh viên Hà Nội
-----------------------------------------------------------------------------------------------------

và nâng cao tri thức của giới trẻ, đặc biệt là sinh viên. Đây là điều mà các
nhà làm truyền hình cần quan tâm.
Tuy nhiên, hiện nay, hệ thống truyền hình nước ta nói chung và
Đài Truyền hình Việt Nam nói riêng chưa có những chương trình chuyên
biệt dành cho đối tượng này. Xây dựng các chương trình truyền hình phù
hợp với nhu cầu của sinh viên là công việc rất quan trọng và cần thiết trong
giai đoạn phát triển mạnh mẽ của truyền hình như hiện nay. Sinh viên có
nhu cầu gì đối với thông tin truyền hình, đặc điểm tâm lý xã hội của nhóm
công chúng này ra sao, các chương trình cho sinh viên cần đáp ứng được
những yêu cầu gì? Việc nghiên cứu nhóm công chúng sinh viên trong mối
quan hệ với thông tin truyền hình có thể đưa tới những kết quả gì phục vụ
cho việc nghiên cứu các nhóm công chúng khác của truyền hình không?
Với những vấn đề đặt ra đó, chúng tôi chọn đề tài Nghiên cứu nhu cầu
tiếp nhận truyền hình của sinh viên Hà Nội.
2. ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài:
Việc lựa chọn đề tài xuất phát từ những trăn trở và quan sát thực

tế của bản thân người thực hiện đề tài về thực trạng đáp ứng nhu cầu xem
truyền hình cho đối tượng sinh viên của Đài Truyền hình Việt Nam trong
những năm gần đây.
Việc lựa chọn và nghiên cứu đề tài này của luận văn nhằm mở ra
vấn đề mới mẻ về nhu cầu xem truyền hình của sinh viên cả nước nói
chung và sinh viên Hà Nội nói riêng, đồng thời đặt ra cho các nhà báo
truyền hình nói chung và các nhà báo của Đài truyền hình Việt Nam nói
riêng việc nghiên cứu để đáp ứng các nhu cầu đó.
Đề tài nghiên cứu sâu về nhu cầu xem các chương trình truyền
hình của sinh viên Hà Nội, qua đó, sẽ góp phần quan trọng trong việc giúp

-----------------------------------------------------------------------------------------------------

4


Vũ Phương Dung

Nhu cầu tiếp nhận truyền hình của sinh viên Hà Nội
-----------------------------------------------------------------------------------------------------

các nhà báo truyền hình tìm ra phương thức thoả mãn được nhu cầu xem
truyền hình của sinh viên.
Đề tài sẽ là tài liệu tham khảo, góp phần vào hệ thống tư liệu
khoa học chung về báo chí truyền hình, nhất là khoa học nghiên cứu về
công chúng truyền hình, góp phần nhỏ phục vụ công tác nghiên cứu, giảng
dạy và học tập về báo chí học hiện nay. Đề tài cũng sẽ là tài liệu tham khảo
rộng rãi cho những người quan tâm đến lĩnh vực này.
Việc nghiên cứu này cũng là cơ sở để đề tài phát triển ở mức độ
nghiên cứu sâu và rộng hơn trong tương lai.

3. Tình hình nghiên cứu đề tài:
Chúng tôi có thể khẳng định đề tài này là nghiên cứu đầu tiên về
công chúng truyền hình mà đối tượng là sinh viên với những nhu cầu xem
truyền hình dưới góc độ xã hội học và tâm lý học.
Trước đây, năm 2000, tác giả Đỗ Thu Hằng, Khoa Báo chí,
Phân viện Báo chí và tuyên truyền đã bảo vệ thành công luận văn
thạc sỹ khoa học báo chí với đề tài Tâm lý tiếp nhận sản phẩm báo chí
của công chúng thanh niên sinh viên hiện nay. Đây là một nghiên cứu
tương đối sâu về tâm lý đối tượng của các loại hình báo chí là thanh
niên sinh viên. Tuy nhiên, ở đề tài này, mục đích và đối tượng có khác
với đề tài nghiên cứu của chúng tôi.
Năm 2003, Khoa Báo chí, Phân viện Báo chí và tuyên
truyền đã có nghiên cứu đề tài cấp bộ với tên đề tài Nghiên cứu nhu
cầu tiếp nhận sản phẩm báo chí của sinh viên Hà Nội. Đây là một đề tài
dành để nghiên cứu, bàn luận về nhu cầu của đối tượng sinh viên Hà
Nội ở các loại hình báo chí: báo in, phát thanh, truyền hình (trong đó
chủ yếu là báo in). Vì vậy, đề tài chỉ nghiên cứu một cách tổng thể nhu
cầu của sinh viên với các loại hình báo chí, chưa phải là nghiên cứu sâu

-----------------------------------------------------------------------------------------------------

5


Vũ Phương Dung

Nhu cầu tiếp nhận truyền hình của sinh viên Hà Nội
-----------------------------------------------------------------------------------------------------

về nhu cầu tiếp nhận truyền hình của sinh viên khu vực Hà Nội như

mục đích nghiên cứu mà chúng tôi đã đặt ra.
Tháng 2 năm 2005 vừa qua, Khoa Xã hội học, Phân viện Báo
chí và tuyên truyền đã có cuộc điều tra Nhu cầu về truyền hình của sinh
viên Hà Nội. Tên của cuộc điều tra tương đối giống với tên của đề tài,
đối tượng của cuộc điều tra cũng trùng với đối tượng điều tra của đề tài:
sinh viên Hà Nội, tuy nhiên, mức độ và mục đích nghiên cứu có khác
nhau. Cuộc điều tra này có tính chất “định tính phục vụ cho lớp tập huấn
xây dựng các chương trình truyền hình cho thanh niên do Hội nhà báo
tiến hành” [19, 1]. Báo cáo này đã nói rõ: “Để đổi mới nội dung chương
trình truyền hình cho thanh niên, chúng ta cần những cuộc điều tra rộng
hơn tại nhiều vùng khác nhau với nhiều nhóm thanh niên khác trong xã
hội không phải là sinh viên. Tuy nhiên, nhóm sinh viên được phỏng vấn
cũng mang nhiều đặc trưng của thanh niên Việt Nam, thuộc rất nhiều
vùng khác nhau của cả nước đến Hà Nội học tập, họ luôn đại diện cho
lực lượng thanh niên ưu tú Việt Nam có tri thức, có sức khoẻ, là tương
lai của đất nước” [19, 3]. Như vậy, cuộc điều tra này nhằm mục đích sản
xuất các chương trình truyền hình cho thanh niên nói chung chứ không
phải là chương trình truyền hình chuyên biệt cho sinh viên nói riêng.
Một phần kết quả cuộc điều tra này được tham khảo trong đề tài nghiên
cứu của chúng tôi.
Vì công chúng truyền hình mới được quan tâm trong những năm
phát triển mạnh mẽ của truyền hình gần đây nên trong các nghiên cứu xã
hội học truyền thông hay tâm lý học truyền thông chưa có công trình
nghiên cứu chuyên biệt nào về công chúng truyền hình là sinh viên và nhu
cầu tiếp nhận truyền hình của đối tượng này. Điều này càng được khẳng
định khi ở nước ta, việc nghiên cứu xã hội học truyền thông hay tâm lý học
truyền thông trong lĩnh vực công chúng truyền hình còn ở mức độ chưa sâu
và quan tâm đúng mức.
-----------------------------------------------------------------------------------------------------


6


Vũ Phương Dung

Nhu cầu tiếp nhận truyền hình của sinh viên Hà Nội
-----------------------------------------------------------------------------------------------------

Do đó, đề tài Nghiên cứu nhu cầu tiếp nhận truyền hình của
sinh viên Hà Nội (Khảo sát các chương trình truyền hình trên sóng VTV1,
VTV2, VTV3 - Đài Truyền hình Việt Nam) là một đề tài hết sức mới mẻ.
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài:
Mục đích của chúng tôi là nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ nhu cầu
của sinh viên đối với truyền hình, thực trạng đáp ứng nhu cầu đó và những
tác động, ảnh hưởng của các chương trình truyền hình đến đối tượng công
chúng là sinh viên.
Đề tài này nghiên cứu tính đa dạng và phong phú trong nhu cầu
của đối tượng sinh viên là khán giả truyền hình, từ đó góp phần giúp các
nhà báo truyền hình định hướng xây dựng các chuyên mục, các chương
trình đa dạng với những nội dung phong phú, cụ thể, thiết thực, hình thức
hấp dẫn đáp ứng tâm lý lứa tuổi vì chính nhu cầu của sinh viên là yếu tố
quyết định đến việc lựa chọn đề tài cho mỗi chương trình truyền hình.
Từ cơ sở lý luận và thực tiễn, tác giả luận văn tự đặt ra cho mình
những nhiệm vụ nghiên cứu nhất định. Trước hết là nhiệm vụ nghiên cứu
Cơ sở lý luận báo chí nói chung và cơ sở lý luận về truyền hình nói riêng.
Nhiệm vụ thứ hai là nghiên cứu về công chúng của truyền hình là sinh viên
và sự tiếp nhận của đối tượng sinh viên trong mối liên hệ với truyền hình.
Nhiệm vụ thứ ba là nghiên cứu việc đáp ứng về nhu cầu đó từ phía
truyền hình. Nhiệm vụ thứ tư là nghiên cứu lý thuyết cơ bản của tâm lý
học, xã hội học và điều tra xã hội học vận dụng vào phân tích tâm lý tiếp

nhận và nhu cầu của sinh viên với truyền hình. Từ đó, chúng tôi thử đề
xuất một số ý kiến nhằm xây dựng một số chương trình truyền hình
mang đặc trưng của sinh viên.
Căn cứ vào mục đích và nhiệm vụ của đề tài, chúng tôi đặt ra
những giả thuyết nhằm hướng đi nghiên cứu cụ thể sau:
-----------------------------------------------------------------------------------------------------

7


Vũ Phương Dung

Nhu cầu tiếp nhận truyền hình của sinh viên Hà Nội
-----------------------------------------------------------------------------------------------------

Giả thuyết thứ nhất: như trên đã đề cập, sinh viên là một đối
tượng quan trọng của truyền hình, là lớp người dễ dàng chấp nhận và
thích nghi với sự phát triển của truyền hình. Vậy, sinh viên đã tiếp nhận
những gì mà truyền hình cung cấp, họ có những nhu cầu gì với truyền
hình, những yếu tố nào chi phối nhu cầu tiếp nhận truyền hình của sinh
viên Hà Nội, thái độ và thời gian dành cho truyền hình của sinh viên thể
hiện ra sao…
Giả thuyết thứ hai: sinh viên có nhu cầu xem các chương trình
truyền hình chuyên biệt dành cho chính họ. Vậy, Đài truyền hình Việt Nam
đáp ứng nhu cầu đó như thế nào, có thể có những hướng gì để đáp ứng tốt
hơn những nhu cầu đó.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sỹ, hạn hẹp về điều kiện
nên đề tài của chúng tôi không mở rộng đối tượng nghiên cứu là sinh viên
trong phạm vi cả nước mà chúng tôi chỉ nghiên cứu nhu cầu của nhóm sinh

viên Hà Nội. Nhóm sinh viên Hà Nội trong nghiên cứu của chúng tôi được
hiểu là những sinh viên đang học tập tại các trường cao đẳng, đại học trên
địa bàn Hà Nội (bao gồm cả sinh viên nội thành - ngoại thành Hà Nội và
sinh viên đến từ các tỉnh thành khác trong cả nước).
Hà Nội không chỉ là trung tâm chính trị - văn hoá - kinh tế của cả
nước mà còn là đầu não giáo dục quốc gia, là nguồn cung cấp chất xám cho
cả nước. Hiện nay, số sinh viên các trường đại học, cao đẳng trên địa bàn
Hà Nội là hơn 40 vạn sinh viên, Hà Nội là nơi tập trung đông đảo sinh viên
nhất trong cả nước [14, 3]. Với số lượng sinh viên đông đảo này, chúng tôi
không thể khảo sát được hết trong khuôn khổ đề tài luận văn. Bởi vậy,
phạm vi nghiên cứu của chúng tôi sẽ là cuộc điều tra mang tính chất thăm
dò ý kiến của sinh viên Hà Nội tại 4 trường đại học: Đại học Khoa học xã
-----------------------------------------------------------------------------------------------------

8


Vũ Phương Dung

Nhu cầu tiếp nhận truyền hình của sinh viên Hà Nội
-----------------------------------------------------------------------------------------------------

hội và nhân văn, Đại học Y Hà Nội, Học viện Tài chính, Đại học Ngoại
thương và 2 trường cao đẳng: Cao đẳng Sư phạm Hà Nội, Cao đẳng Xây
dựng.
Sở dĩ chúng tôi chọn nhóm sinh viên ở 4 trường đại học và 2
trường cao đẳng này vì trong khả năng khảo sát và phạm vi nghiên cứu.
Ngoài ra, tỷ lệ nam nữ sinh viên ở các trường đại học và cao đẳng này
tương đối đều nhau, kết quả điều tra có thể nói lên sự đồng đều giữa nhu
cầu của sinh viên nam và sinh viên nữ đối với truyền hình, hạn chế sự

thiên lệch. Đồng thời, tại các trường đại học, cao đẳng này, có nhiều hoạt
động ngoại khoá dành riêng cho sinh viên mà theo chúng tôi, xem truyền
hình cũng là một hoạt động ngoại khoá theo nhu cầu của sinh viên.
Dung lượng của cuộc điều tra là 500 phiếu hỏi, được phân bố:
100 phiếu ở mỗi trường đại học và 50 phiếu ở mỗi trường cao đẳng. Thời
gian điều tra: tháng 5 năm 2005.
Ngoài ra, với thời lượng phát sóng lớn như hiện nay của Đài
Truyền hình Việt Nam, đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là một số
chương trình truyền hình phù hợp với nhu cầu của sinh viên xuất hiện từ
năm 2000 đến nay, chúng tôi sẽ chỉ ra một số chương trình đó để Đài
Truyền hình Việt Nam có thể dựa vào đó để nghiên cứu xây dựng những
chương trình truyền hình mới dành riêng cho công chúng là sinh viên.
6. Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn, chúng tôi sử
dụng các nhóm phương pháp nghiên cứu sau:
Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý thuyết: đọc và tra cứu
tài liệu, sách báo, hồ sơ, văn bản… có liên quan đến đề tài.

Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn:

-----------------------------------------------------------------------------------------------------

9


Vũ Phương Dung

Nhu cầu tiếp nhận truyền hình của sinh viên Hà Nội
-----------------------------------------------------------------------------------------------------


Phương pháp xem trực tiếp: các chương trình truyền hình được
phát sóng trên các kênh VTV1, VTV2, VTV3 của Đài Truyền hình Việt
Nam. Phương pháp này nhằm phát hiện các chương trình đang được phát
sóng phù hợp với nhu cầu xem truyền hình của sinh viên. Sau khi xem các
chương trình, tác giả luận văn sẽ ghi chép lại những vấn đề có liên quan
đến đề tài nghiên cứu.
Phương pháp lập bảng an - két điều tra, khảo sát xã hội học:
dựa vào mục đích, nhiệm vụ của đề tài, tác giả luận văn đưa ra hệ thống
câu hỏi mang tính chất thăm dò ý kiến sinh viên về nhu cầu xem truyền
hình trên Đài Truyền hình Việt Nam của họ.
Phương pháp chọn mẫu điều tra: sử dụng kết hợp phương pháp
lấy mẫu ngẫu nhiên với lấy mẫu theo xét đoán của bản thân người làm
nghiên cứu. Các phiếu được phát tới các sinh viên theo các nhóm trường
đại học cao đẳng mang tính chất đại diện với mục đích có được kết quả gần
với mẫu điển hình nhất. Phương pháp chọn mẫu này phù hợp với một cuộc
điều tra mang tính chất thăm dò.
Thông qua kết quả của cuộc điều tra, luận văn sẽ bước đầu đưa ra
các phân tích đánh giá dựa trên các phương pháp khác như: phương pháp
thống kê, xử lý và phân tích số liệu; phương pháp phỏng vấn sâu; phương
pháp thảo luận nhóm, phương pháp phân tích thông tin thứ cấp, phương
pháp quan sát…
Phương pháp thống kê, xử lý và phân tích số liệu: sau khi tiến
hành khảo sát xã hội học, thu thập các mẫu điều tra, chúng tôi sử dụng
phần mềm SPSS version 13.05 (Statistical Pakage for Social Science) phần mềm xử lý số liệu xã hội học dành cho máy tính cá nhân để xử lý
số liệu điều tra. Đây là phần mềm phiên bản tiếng Anh mới nhất hiện
nay, nó thích hợp cho những cuộc điều tra có cỡ mãu lớn, nó phát hiện
và cảnh báo cho người nhập số liệu, cách sử lý số liệu dễ dàng, thể hiện
các trường trên cùng một văn bản.
-----------------------------------------------------------------------------------------------------


10


Vũ Phương Dung

Nhu cầu tiếp nhận truyền hình của sinh viên Hà Nội
-----------------------------------------------------------------------------------------------------

Các số liệu sau khi được xử lý sẽ được phân tích, tổng hợp căn cứ
vào mục đích, nhiệm vụ của đề tài, phát hiện ra mối liên hệ giữa các hiện
tượng, bản chất và tính quy luật phát triển của chúng, kiểm định các giả
thuyết đã đặt ra.
Phương pháp phỏng vấn sâu: là phương pháp được sử dụng để
lý giải những vấn đề phát hiện được sau khi đã phân tích, tổng hợp số liệu
của cuộc điều tra. Chúng tôi tiến hành phỏng vấn sâu với các đối tượng
sau: lãnh đạo Đài Truyền hình Việt Nam, nhà nghiên cứu xã hội học,
sinh viên.
Phương pháp thảo luận nhóm: để có được những ý kiến sâu,
trực tiếp hơn những ý kiến thu thập được từ cuộc điều tra, khảo sát xã hội
học, chúng tôi tổ chức cuộc thảo luận giữa một nhóm 10 sinh viên đến từ 3
trường đại học (Đại học Y Hà Nội, Đại học Thuỷ Lợi, Đại học Khoa học xã
hội và nhân văn).
Phương pháp nghiên cứu thông tin thứ cấp: để có thông tin từ
nhiều nguồn làm cơ sở cho luận văn, chúng tôi tiến hành phân tích các
nguồn tư liệu: các luận văn và công trình nghiên cứu có liên quan đến đề
tài. Các kết quả và số liệu điều tra từ các nguồn: Ban Tư tưởng văn hoá
Trung ương, khoa Xã hội học - Phân viện Báo chí và Tuyên truyền, Đài
Truyền hình Việt Nam.
Các phương pháp trên được kết hợp chặt chẽ với nhau nhằm khắc
phục những khó khăn về điều kiện, phạm vi nghiên cứu và những vấn đề

khác mà luận văn đặt ra.

7. Cấu trúc và nội dung luận văn:
Mở đầu: Gồm bảy phần: tính thời sự và cấp thiết của đề tài, ý
nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài, tình hình nghiên cứu đề tài, mục
đích - nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài, đối tượng và phạm vi nghiên cứu,
-----------------------------------------------------------------------------------------------------

11


Vũ Phương Dung

Nhu cầu tiếp nhận truyền hình của sinh viên Hà Nội
-----------------------------------------------------------------------------------------------------

phương pháp nghiên cứu, cấu trúc và nội dung luận văn. Phần mở đầu
gồm 13 trang.
Chương 1: Truyền hình với đời sống của sinh viên
Chương một gồm ba phần. Phần một chúng tôi trình bày về đặc
điểm tác động của thông tin truyền hình tới công chúng khán giả nói chung.
Phần hai là phần trình bày về chức năng của truyền hình trong mối liên hệ
với khán giả từ khi truyền hình mới xuất hiện trên thế giới và ở Việt Nam,
từ đó nói lên vai trò tác động của truyền hình với khán giả và ngược lại.
Phần ba, chúng tôi đề cập sự cần thiết của truyền hình trong đời sống của
sinh viên nói chung, nêu lên những tác động tích cực của truyền hình đối
với sinh viên, điều kiện và nhu cầu tiếp nhận truyền hình của sinh viên.
Chương một gồm 21 trang.
Chương 2: Khảo sát nhu cầu tiếp nhận truyền hình của sinh
viên Hà Nội

Chương này chúng tôi đi sâu vào năm phần. Phần một nêu lên
những đặc điểm chung của sinh viên Hà Nội như: địa bàn sinh sống tại Hà
Nội, trình độ học vấn đồng đều, có tri thức cao, thuộc nhóm lứa tuổi thanh
niên trong xã hội, mức sống và thu nhập không đồng đều. Phần hai chúng
tôi phân tích khái niệm về nhu cầu, phân tích nhu cầu chung của sinh viên,
trong phần nhu cầu chung này, chúng tôi đi sâu phân tích về nhu cầu tiếp
nhận truyền hình của sinh viên Hà Nội. Phần ba chúng tôi tiến hành phân
tích kết quả nghiên cứu dựa trên kết quả khảo sát xã hội học như: thời gian
và thời lượng xem truyền hình, chương trình truyền hình được sinh viên ưa
thích, nhu cầu của sinh viên về sân chơi truyền hình, nhu cầu của sinh viên
về chương trình truyền hình chuyên biệt, kênh truyền hình dành riêng cho
thanh niên. Phần bốn chúng tôi chỉ ra những yếu tố khách quan chi phối
nhu cầu tiếp nhận truyền hình của sinh viên như: thời gian phát sóng, chất
lượng máy thu hình, môi trường xem truyền hình, và yếu tố từ phía đài
-----------------------------------------------------------------------------------------------------

12


Vũ Phương Dung

Nhu cầu tiếp nhận truyền hình của sinh viên Hà Nội
-----------------------------------------------------------------------------------------------------

truyền hình (chất lượng chương trình). Phần năm chúng tôi đưa ra một số
nhận xét bước đầu về nhu cầu xem truyền hình của sinh viên Hà Nội.
Chương hai gồm 44 trang.
Chương 3: Một số kiến nghị và giải pháp để đáp ứng nhu cầu
tiếp nhận truyền hình của sinh viên Hà Nội
Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của sinh viên, sau khi tổng hợp phân tích phần khảo sát xã hội học, chúng tôi đưa ra các vấn đề của luận

văn, bao gồm: chương trình truyền hình Thanh niên chưa hấp dẫn sinh
viên, nội dung chương trình trò chơi dành riêng cho sinh viên còn hạn chế,
một số chương trình trò chơi đáp ứng được nhu cầu xem truyền hình của
sinh viên nhưng không phải là chương trình chuyên biệt, một số chương
trình không nằm trong khảo sát của chúng tôi (do phát sóng sau thời gian
khảo sát) được sinh viên hưởng ứng. Từ những vấn đề mà luận văn đặt ra,
chúng tôi mạnh dạn có một số kiến nghị cụ thể đối với những chương trình
trò chơi được sinh viên yêu thích, đối với chương trình chuyên biệt dành
cho sinh viên, đối với với kênh “Thanh thiếu niên và giáo dục từ xa VTV7”. Chương này dựa vào phần nghiên cứu lý thuyết, phần kết quả khảo
sát xã hội học, chúng tôi bước đầu đưa ra những đề xuất giải pháp thực tiễn
đối với cơ quan chủ quản, cơ quan chức năng có liên quan đến sinh viên,
đối với Đài Truyền hình Việt Nam với mong muốn cung cấp một kênh ý
kiến cho các nhà báo truyền hình để xây dựng kế hoạch cụ thể sản xuất các
chương trình truyền hình phù hợp với nhu cầu của đối tượng sinh viên nói
chung và sinh viên Hà Nội nói riêng. Chương ba gồm 20 trang.
Kết luận
Sau khi tiến hành nghiên cứu lý luận về truyền hình và tiến hành
khảo sát điều tra xã hội học về nhu cầu tiếp nhận truyền hình của sinh viên
Hà Nội, luận văn đã có những kết quả nhất định. Thông qua 422 phiếu hỏi,
chúng tôi nhận thấy nhu cầu tiếp nhận truyền hình của sinh viên vốn
-----------------------------------------------------------------------------------------------------

13


Vũ Phương Dung

Nhu cầu tiếp nhận truyền hình của sinh viên Hà Nội
-----------------------------------------------------------------------------------------------------


phong phú, đa dạng sẽ ngày càng phong phú, phức tạp hơn trong bối
cảnh đời sống xã hội đang có những chuyển biến về nhiều mặt. Chúng tôi
cho rằng, việc phát hiện những đặc thù nổi trội của sinh viên sẽ giúp nhà
báo truyền hình có thể sản xuất những chương trình phù hợp với đặc thù
nổi trội đó bởi chính nhu cầu của sinh viên với những đặc thù riêng có là
yếu tố quyết định đến việc lựa chọn đề tài cho mỗi chương trình truyền
hình. Chúng tôi hy vọng các kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ được quan
tâm và áp dụng trong lý luận và thực tiễn sản xuất các chương trình truyền
hình dành riêng cho đối tượng. Phần này gồm 6 trang.
Tài liệu tham khảo
Trong quá trình tiến hành nghiên cứu đề tài, chúng tôi đã tham
khảo và sử dụng 53 tài liệu tiếng Việt và 6 tài liệu tiếng Anh.
Phụ lục
- Mẫu phiếu điều tra xã hội học
- Bảng thống kê số liệu điều tra
- Bài phỏng vấn lãnh đạo Đài Truyền hình Việt Nam
- Bài phỏng vấn nhà nghiên cứu xã hội học
- Một số bài phỏng vấn sinh viên
- Biên bản thảo luận nhóm
- Quy hoạch phát triển của Đài Truyền hình Việt Nam...
- Một số tài liệu tham khảo trên trang Web
- Một số bài báo liên quan đến đề tài
- Thư của khán giả

-----------------------------------------------------------------------------------------------------

14


Vũ Phương Dung


Nhu cầu tiếp nhận truyền hình của sinh viên Hà Nội
-----------------------------------------------------------------------------------------------------

Chương 1: truyền hình với đời sống của sinh viên
1.1 Đặc điểm tác động của thông tin truyền hình tới khán giả:
1.1.1 Ký hiệu thông tin của truyền hình:
Mỗi loại hình báo chí đều có ký hiệu thông tin riêng. Ký hiệu
thông tin của báo in là chữ viết, ký hiệu thông tin của phát thanh là âm
thanh… Với truyền hình, ký hiệu thông tin bao gồm các ký hiệu trên cộng
lại, với khả năng chuyển tải thông tin dưới dạng hình ảnh động và âm
thanh. Truyền hình là dạng ký hiệu thông tin địa chỉ và trực tiếp, nó mang
tính trực quan sinh động đơn nhất không thể nhầm lẫn [45, 19].
Hình ảnh chủ yếu và đặc trưng trong truyền hình là hình ảnh động
về hiện thực trực tiếp, hàm chứa trong những hình ảnh mà truyền hình đem
lại cho công chúng là sự sống động của cuộc sống thực, không bị dàn cảnh,
không bị khuấy động. Hình ảnh trong thông tin của truyền hình mang một ý
nghĩa rất to lớn trong toàn bộ ngôn ngữ của loại hình báo chí này, có thể
gọi đó là yếu tố chính vì tự thân nó là đúng và sâu sắc, chỉ có nó mới đủ
khả năng thực hiện sự phản ánh nghệ thuật và phản ánh thực tế. Tuy vậy,
vẫn có ý kiến cho rằng chừng nào sự giao tiếp của vô tuyến truyền hình
chưa trở thành một tiêu chuẩn tất yếu của toàn bộ hệ thống, khi mà chức
năng thông tin của truyền hình chưa trở thành quan trọng nhất thì yếu tố
hình ảnh của thông tin truyền hình chỉ là bước đầu tiên. Yếu tố hình ảnh
trong thông tin truyền hình được coi là thành phần chủ đạo bởi trên thực tế,
hình ảnh động là cái tạo nên tính đặc thù của truyền hình, tạo sức hấp dẫn
và chuyên chở phần thông tin chủ yếu của các chương trình truyền hình.
Ngoài những hình ảnh động, truyền hình còn sử dụng các loại hình ảnh tĩnh
như ảnh tư liệu, mô hình, sơ đồ, biểu đồ, chữ viết. Bằng nghệ thuật dựng
hình (montage), người ta còn có thể dừng các hình ảnh động ở một khuôn

hình đặc biệt cần thiết nào đó, biến thành một hình ảnh tĩnh nhằm nhấn
mạnh, khắc hoạ một đặc điểm, một ý nghĩa cụ thể.
-----------------------------------------------------------------------------------------------------

15


Vũ Phương Dung

Nhu cầu tiếp nhận truyền hình của sinh viên Hà Nội
-----------------------------------------------------------------------------------------------------

Cùng với hình ảnh động, âm thanh là một trong hai yếu tố cấu
thành nên ngôn ngữ thông tin của truyền hình. Âm thanh trong truyền
hình bao gồm: lời nói của người, âm nhạc, tiếng động, các âm thanh tại
hiện trường ghi hình… Lời nói là bộ phận chính trong âm thanh có ý
nghĩa quan trọng trong việc chuyên chở nội dung thông tin của truyền
hình. Bởi, một mặt, ý nghĩa xác định của các thông điệp phần lớn được
thể hiện bằng lời nói. Lời nói bổ sung ý nghĩa và định hình thông tin
cho hình ảnh động vì không phải lúc nào hình ảnh động trên truyền
hình cũng chuyển tải được rõ ràng nội dung thông tin. Mặt khác, những
tư tưởng thể hiện bằng lời bao giờ cũng đầy đủ hơn các phương tiện
biểu đạt khác cả về chiều rộng và bề sâu, nhất là trong trường hợp
những tư tưởng cần thể hiện có mối phức tạp, tế nhị.
Sự kết hợp hài hoà giữa hình ảnh động và âm thanh tạo cho
truyền hình khả năng chuyển tải các nội dung thông tin vô cùng phong phú.
Hầu như bất cứ sự kiện, hiện tượng, vấn đề gì trong hiện thực đều có thể
biểu đạt, phản ánh qua các chương trình truyền hình. Đặc trưng này tạo cho
truyền hình khả năng đặc biệt trong việc đa dạng hoá chức năng, đáp ứng
nhu cầu thông tin về mọi mặt của đời sống xã hội và con người.

Bởi vậy, truyền hình được coi là nhà hát, là trường học, là sân
chơi, là công cụ giao lưu, là phương tiện giải quyết một loạt dịch vụ trong
xã hội hiện đại [52, 114].
1.1.2 Cơ chế tác động của truyền hình:
a. Quá trình truyền thông tin của truyền hình:
Trong hệ thống các phương tiện truyền thông đại chúng, truyền
hình đang ngày càng chiếm vị trí quan trọng [28, 224]. Truyền hình có sức
hấp dẫn đặc biệt nhờ việc giao tiếp với con người bằng cả thị giác và thính
giác. Đây là đặc điểm vượt trội của truyền hình so với các phương tiện
-----------------------------------------------------------------------------------------------------

16


Vũ Phương Dung

Nhu cầu tiếp nhận truyền hình của sinh viên Hà Nội
-----------------------------------------------------------------------------------------------------

truyền thông đại chúng khác. Tuy nhiên, quá trình truyền thông tin của
truyền hình tới khán giả cũng tuân theo mô hình truyền thông chung của
nhà lý thuyết thông tin và điều khiển học Claude Shannon [7, 16]

Nhiễu

S

M

C


R

E

Phản hồi
Trong đó:
S (source): Nguồn phát là yếu tố mang thông tin ban đầu và
khởi xướng quá trình truyền thông. Nguồn phát chính là chủ thể của
quá trình truyền thông, là yếu tố đầu tiên quyết định hiệu quả của quá
trình truyền thông.
M (messge): Thông điệp là nội dung thông tin được trao đổi từ
nguồn phát đến đối tượng tiếp nhận. Thông điệp là những tri thức, tư
tưởng, ý kiến, kiến nghị được hệ thống ký hiệu chuyên chở. Hệ thống ký
hiệu có ý nghĩa như là phương tiện để vật hoá thông điệp, truyền hình sử
dụng hệ thống ký hiệu thông tin là hình ảnh động và âm thanh để chuyển
tải thông điệp.
C (channel): Kênh truyền thông tin là sự thống nhất của phương
tiện, con đường, cách thức chuyển tải các thông điệp từ nguồn phát đến đối
tượng tiếp nhận. Kênh truyền thông tin của truyền hình được hình thành
dựa trên cơ sở hai giác quan thị giác và thính giác của con người.

-----------------------------------------------------------------------------------------------------

17


Vũ Phương Dung

Nhu cầu tiếp nhận truyền hình của sinh viên Hà Nội

-----------------------------------------------------------------------------------------------------

R (receiver): Đối tượng tiếp nhận là những cá nhân hay bộ phận
công chúng trong xã hội tiếp nhận các thông điệp của kênh truyền thông
tin. Đây là yếu tố cuối cùng trong quá trình truyền thông.
E (effect): Hiệu quả truyền thông được ngầm hiểu sau khi quá
trình truyền thông được thực hiện từ nguồn phát đến đối tượng tiếp nhận.
Phản hồi (feedback): được hiểu là sự tác động ngược trở lại của
thông tin từ phía công chúng khán giả đối với truyền hình. Đây là phần tử
cần thiết để điều khiển và làm cho quá trình truyền thông được liên tục từ
phía đội ngũ người làm truyền hình tới đối tượng khán giả của mình và
ngược lại. Nếu không có phản hồi, thông tin của truyền hình chỉ là thông
tin một chiều và mang tính áp đặt. Hiện nay, truyền hình là một trong
những loại hình thông tin làm tốt khâu phản hồi của quá trình truyền thông.
Nhiễu (noise): luôn tồn tại trong quá trình truyền thông. Các
thông tin của truyền hình khi truyền đi thường bị ảnh hưởng bởi các điều
kiện tự nhiên, xã hội, các phương tiện kỹ thuật… gây sự sai lệch hay kém
chất lượng về nội dung thông tin cũng như tốc độ truyền thông. Nhiễu là
hiện tượng cần được xem xét và được coi là hiện tượng đặc biệt trong quá
trình lựa chọn kênh truyền thông để xây dựng nội dung thông tin. Trong
quá trình truyền thông, truyền hình luôn chú ý xử lý nhiễu để tăng hiệu quả
truyền thông tin đến đối tượng công chúng của mình.
b. Cơ chế tác động của truyền hình tới khán giả:
Truyền hình tác động tới công chúng khán giả và toàn xã hội
bằng thông tin qua cơ chế [52, 30]:
Thông tin

ý thức xã
hội


Hành vi xã
hội

-----------------------------------------------------------------------------------------------------

18


Vũ Phương Dung

Nhu cầu tiếp nhận truyền hình của sinh viên Hà Nội
-----------------------------------------------------------------------------------------------------

Thông tin trong các thông điệp của truyền hình tác động vào ý
thức xã hội, làm thay đổi nhận thức của cộng đồng, nhận thức mới sẽ dẫn
đến những hành vi xã hội mới. Hành vi xã hội chính là hiệu quả cuối cùng
mang tính vật chất của quá trình truyền thông tin của truyền hình, nhờ có
những hành vi đó mà xã hội vận động phù hợp với ý đồ của người làm
truyền hình.
Quy mô, tính chất của hành vi xã hội bị quy định bởi quy mô, tính
chất của thông tin do truyền hình mang lại. Thông tin của truyền hình lại bị
chi phối bởi thái độ, quan điểm, mục đích của người làm truyền hình. Cùng
một vấn đề, sự kiện nhưng nhà báo truyền hình khai thác sự kiện, vấn đề
khác với những người làm phát thanh hay phóng viên báo in. Nhà báo
truyền hình đưa ra những nhận xét, đánh giá hoàn toàn khác do phương
pháp, mục đích thông tin của mình.
Việc hình thành thông điệp và cách thức chuyển tải thông điệp
đến công chúng truyền hình là yếu tố quyết định hiệu quả tác động của
truyền hình. Nhưng việc hình thành và cách thức chuyển tải này liên quan
chặt chẽ với sự hiểu biết về công chúng và đặc điểm quá trình nhận thức

của công chúng. Bởi lẽ, sự hiểu biết này cùng với mục đích truyền thông là
cơ sở hình thành phương pháp tạo lập và chuyển tải thông tin của truyền
hình.
Trên cơ sở hiểu biết về công chúng và quá trình nhận thức, tiếp
nhận thông tin truyền hình của họ, người làm truyền hình tiến hành nghiên
cứu công chúng, tìm ra những căn cứ cụ thể để xây dựng thông tin truyền
hình đạt hiệu quả nhất. Việc nghiên cứu công chúng là cơ sở xác định nội
dung thông tin, cách thức hình thành thông điệp, phương pháp chuyển tải
thông điệp để người làm truyền hình xây dựng những chương trình truyền
hình phù hợp với đối tượng phục vụ của mình.

-----------------------------------------------------------------------------------------------------

19


Vũ Phương Dung

Nhu cầu tiếp nhận truyền hình của sinh viên Hà Nội
-----------------------------------------------------------------------------------------------------

1.1.3 Từ tính thụ động đến tính tích cực trong tiếp nhận của
công chúng:
Mối quan hệ giữa công chúng và các phương tiện truyền thông
đại chúng đã có sự thay đổi. Quan niệm về một công chúng thụ động từ lâu
đã bị phản bác. Công chúng sử dụng các phương tiện truyền thông đại
chúng tuỳ theo nhu cầu của mình. Qua đó, theo quan điểm của một vài nhà
khoa học, công chúng hoàn toàn có ảnh hưởng tới dịch vụ truyền thông.
Trách nhiệm của công chúng một mặt thể hiện qua việc theo dõi các quá
trình xã hội hoá nói chung và quá trình truyền thông đại chúng nói riêng,

mặt khác công chúng tìm hiểu vấn đề từ càng nhiều nguồn càng tốt và hồi
âm lại cho cơ quan truyền thông phân tích để cùng nhau tìm cách giải quyết
[5, 64].
Khi mới xuất hiện, truyền hình giữ vai trò người cung cấp
thông tin bằng sóng điện từ độc quyền nên công chúng là người tiếp
nhận thụ động, công chúng không có sự đóng góp tích cực. Với vai trò
nhà độc quyền, những nhà sản xuất truyền hình cho công chúng “món
ăn” nào thì họ được thưởng thức món ăn ấy, họ không có quyền chọn lựa
nào khác ngoài những chương trình truyền hình mà nhà sản xuất cung
cấp.
Đến những thập niên 50, 60 của thế kỷ XX, với sự phát triển của
khoa học kỹ thuật nói chung và sự phát triển của kỹ thuật truyền hình nói
riêng, nhiều nhà sản xuất truyền hình xuất hiện, các chương trình truyền
hình đa dạng ra đời đã xoá đi sự cung cấp độc quyền của truyền hình như
mới xuất hiện.
Đồng thời, khoảng đầu thập kỷ 80, với việc phát hiện vai trò
quan trọng của người tiếp nhận, một mô hình truyền thông mới của các
phương tiện truyền thông đại chúng nói chung và của truyền hình nói
riêng đã được thừa nhận một cách rộng rãi. Trong mô hình này, người
-----------------------------------------------------------------------------------------------------

20


Vũ Phương Dung

Nhu cầu tiếp nhận truyền hình của sinh viên Hà Nội
-----------------------------------------------------------------------------------------------------

tiếp nhận được coi là yếu tố tích cực, chủ động trong quá trình truyền

thông. Tính tích cực được thể hiện ở sự lựa chọn tiếp nhận các thông
tin truyền hình phù hợp với nhu cầu. Mô hình mới trong quá trình
truyền thông của truyền hình là kết quả logic của một loạt nghiên cứu
phát hiện trong lĩnh vực truyền thông và xã hội học. Nó phản ảnh một
cách thực tế về trình độ phát triển cao hơn của xã hội loài người về
trình độ văn hoá, hiểu biết nói chung. Sự nâng cao trình độ nhận thức
tất yếu dẫn đến việc các đối tượng tiếp nhận của truyền hình không
chấp nhận bị dẫn dắt, bị chi phối bởi những nhà cung cấp thông tin
bằng phương tiện truyền hình. Bản thân người tiếp nhận thông tin có
điều kiện, hiểu biết để lựa chọn, suy xét, tiếp nhận thông tin một cách
hợp lý.
Lấy khán giả làm trung tâm thì ngay từ mối quan hệ giữa khán
giả ngày nay với truyền hình đã khác trước căn bản vì có sự phát triển của
khoa học kỹ thuật và trình độ dân trí ngày càng cao. Quyền lựa chọn của
khán giả cao hơn trước. Với mô hình truyền thông mới, truyền hình hiện
nay đặc biệt quan tâm đến đối tượng tiếp nhận. Để đảm bảo hiệu quả hoạt
động truyền thông của mình, những người làm truyền hình buộc phải
nghiên cứu công chúng của mình. Chính việc nghiên cứu này sẽ giúp người
làm truyền hình tìm ra cách thức, phương pháp, nội dung cần thiết để
chuyển tải thông tin một cách có hiệu quả. Những phản ứng của công
chúng sau khi nhận được thông tin sẽ trở thành yếu tố tham gia việc quyết
định những hành vi truyền thông tiếp theo của nhà sản xuất truyền hình.
Điều này đòi hỏi truyền hình phải có sự thay đổi nếu không sẽ không được
lựa chọn. Bởi vậy, từ đầu thế kỷ XXI, cùng với sự phát triển của khoa học
kỹ thuật mở ra thập kỷ kỹ thuật số, thế giới đã xuất hiện xu hướng làm
truyền hình với những thể loại mới, đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao
của công chúng như: participant TV (truyền hình có sự tham gia),
-----------------------------------------------------------------------------------------------------

21



Vũ Phương Dung

Nhu cầu tiếp nhận truyền hình của sinh viên Hà Nội
-----------------------------------------------------------------------------------------------------

interactive TV (truyền hình tương tác)… Truyền hình Việt Nam đang từng
bước đổi mới và bước đầu đã áp dụng những thể loại mới này như các
chương trình: Sao mai điểm hẹn, Ngọn lửa tuổi trẻ, Mãi mãi tuổi 20 và hệ
thống điện thoại 1900...
Vai trò giữa công chúng và nhà sản xuất truyền hình càng được
xác định trong thời đại bùng nổ thông tin như hiện nay. Bởi vậy, các nhà
sản xuất truyền hình luôn phải cạnh tranh với nhau để có công chúng của
riêng mình bằng cách sản xuất các chương trình phù hợp với nhu cầu, thị
hiếu của công chúng. Muốn làm được các chương trình truyền hình như
vậy buộc các nhà làm truyền hình phải nghiên cứu nhu cầu tiếp nhận của
công chúng. Việc nghiên cứu sự tiếp nhận của khán giả không chỉ giúp
truyền hình đáp ứng nhu cầu của công chúng mà còn định hướng và điều
chỉnh công chúng thông qua các chương trình của mình.
1.2 Vai trò, chức năng của truyền hình trong đời sống xã hội:
1.2.1 Vai trò của truyền hình khi mới xuất hiện trên thế giới và
ở Việt Nam:
Với vai trò là một tờ báo, khi mới xuất hiện, truyền hình chưa
hề được để ý tới. Truyền hình chưa bị coi là đối thủ cạnh tranh đáng kể
so với các loại hình báo chí khác, chỉ đến khi những kỹ thuật điện tử thế
hệ mới ra đời, khiến cho việc sản xuất chương trình truyền hình gọn nhẹ
hơn, tiện lợi hơn, đáp ứng được yêu cầu của công chúng thì vị trí của
truyền hình trong hệ thống các phương tiện thông tin đại chúng mới
nhanh chóng được khẳng định. Trung bình mỗi ngày, công chúng trên

thế giới giành 3h07’ để xem truyền hình (nguồn: Eurodata). Điều đó cho
thấy truyền hình là một phương tiện truyền thông đại chúng quan trọng
đối với con người, nó không chỉ là phương tiện cung cấp thông tin mà
còn là phương tiện giải trí rẻ, tiện lợi và hữu ích.
-----------------------------------------------------------------------------------------------------

22


Vũ Phương Dung

Nhu cầu tiếp nhận truyền hình của sinh viên Hà Nội
-----------------------------------------------------------------------------------------------------

ở Việt Nam, truyền hình ra đời khá muộn so với nhiều nước trên
thế giới. Ngày 7 tháng 9 năm 1970 được đánh giá là mốc ra đời của ngành
truyền hình Việt Nam. Tiềm năng của truyền hình rất lớn, tuy ra đời
muộn hơn so với báo in và phát thanh nhưng truyền hình đã thực sự trở
thành phương tiện truyền thông đại chúng thu hút đông đảo công chúng
khán giả, trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu được trong đời sống
xã hội. Ngày nay, chiếc ti vi đã trở nên thân thiết với mỗi người, mỗi gia
đình trong xã hội, là một phương tiện giải trí không thể thay thế.
1.2.2 Chức năng của truyền hình trong mối liên hệ với công
chúng khán giả:
Truyền hình là một trong những loại hình truyền thông đại chúng,
nó thực hiện các chức năng chung của các phương tiện truyền thông đại
chúng sau:
a. Chức năng thông tin:
Là một tờ báo hình lớn nhất cả nước, Đài Truyền hình Việt Nam
luôn nhận thức rõ chức năng thông tin của mình. Chức năng thông tin

không chỉ thể hiện ở các chương trình truyền hình mà nó còn được thể hiện
rõ nét trên kênh tổng hợp VTV1. Mọi vấn đề của các lĩnh vực trong đời
sống xã hội đều được thông tin một cách nhanh chóng, tức thời và đầy đủ
nhất. Chức năng thông tin của truyền hình mang tính đặc trưng riêng biệt.
Bằng những hình ảnh có màu sắc kết hợp với âm thanh tạo nên các cung
bậc, âm điệu đa dạng, truyền hình có khả năng truyền đạt thông tin tới
người xem một cách đầy đủ và chân thực nhất. Đặc trưng của chức năng
thông tin truyền hình liên quan chặt chẽ với các chương trình truyền hình
và có tác động lớn tới việc sáng tạo tác phẩm truyền hình. Chương trình
Thời sự là chương trình mang đậm chức năng thông tin. Những thông tin
mà chương trình Thời sự mang lại cho khán giả những hiểu biết kịp thời và
-----------------------------------------------------------------------------------------------------

23


Vũ Phương Dung

Nhu cầu tiếp nhận truyền hình của sinh viên Hà Nội
-----------------------------------------------------------------------------------------------------

tương đối đầy đủ về mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đáp ứng được nhu
cầu nâng cao hiểu biết của khán giả truyền hình và đạt mục đích truyền đạt
thông tin của người làm truyền hình.

b. Chức năng văn hoá - giáo dục:
Bản thân hoạt động của các phương tiện truyền thông đại chúng
nói chung và của truyền hình nói riêng là những hoạt động văn hoá. Bất
kỳ một chương trình truyền hình nào cũng hướng tới mục đích giáo dục cái
chân - thiện - mỹ cho công chúng. Cho nên, truyền hình thực hiện chức

năng văn hoá - giáo dục là điều tất yếu. Truyền hình thực hiện chức năng
này bằng cách thông qua các chương trình truyền hình, truyền hình xã hội
hoá các hiểu biết, kinh nghiệm sống, biến chúng từ cái riêng đơn nhất
thành cái chung phổ biến; nâng cao trình độ tri thức cho xã hội dưới hình
thức các chuyên mục về lĩnh vực khoa học cụ thể (Đài Truyền hình Việt
Nam phát sóng kênh VTV2 dành riêng cho khoa học). Chức năng văn hoá
- giáo dục của truyền hình còn thể hiện ở việc giáo dục lối sống cho công
chúng, dẫn dắt, lôi kéo công chúng có lối sống tích cực, định hướng
những khuynh hướng lối sống cụ thể. Hiện nay, VTV2 - kênh Khoa học và
giáo dục ngày càng làm tốt chức năng văn hoá - giáo dục, được đông đảo
công chúng đón nhận.
c. Chức năng tư tưởng:
Truyền hình tác động vào ý thức xã hội để hình thành và củng cố
hệ thống tư tưởng chính trị lãnh đạo xã hội với mục đích định hướng xã
hội. Truyền hình là phương tiện đặc biệt hữu hiệu trong việc giải quyết các
nhiệm vụ của công tác tư tưởng trên phạm vi toàn xã hội cũng như trong
khuôn khổ từng cộng đồng và đối với từng thành viên xã hội. Truyền hình
thực hiện chức năng tư tưởng thông qua việc thông tin nhanh chóng, kịp
-----------------------------------------------------------------------------------------------------

24


×