Tải bản đầy đủ (.pdf) (156 trang)

Chất đồng quê trong thơ lục bát việt nam hiện đại (qua thơ lục bát nguyễn duy và đồng đức bốn) luận văn ths văn học 60 22 32 pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.42 MB, 156 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------

PHẠM MAI PHONG

CHẤT ĐỒNG QUÊ TRONG
THƠ LỤC BÁT VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
(Qua thơ lục bát Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn)

Chuyên ngành : Lý luận văn học

Mã số

: 60.22.32

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NGỮ VĂN

Hà Nội - 2008

1


PHẦN MỞ ĐẦU
1.

LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Về thơ lục bát Việt Nam hiện đại:
Từ lâu, thơ lục bát đã ăn sâu vào tiềm thức, tâm hồn và cả lối sống của
người Việt Nam ta. Có thể nói, với mỗi người dân Việt, ít ai là không biết đến


thơ lục bát như một điều bình dị và thân thuộc nhất. Nếu không là những vần
thơ lục bát hiện đại với nhiều cách tân thì cũng là đôi ba câu Kiều, một vài
câu ca dao. Chí ít cũng là những lời ru trong câu hát của bà, của mẹ.
Thơ lục bát dễ làm nhưng khó hay. Nó đi trên sợi dây ranh giới, giữa một
bên là những câu ca dao mượt mà, những thi phẩm làm rung động lòng người
và một bên là những câu vè mang đậm âm điệu ngôn ngữ sinh hoạt. Đánh giá
về thơ lục bát, nhà thơ Nguyễn Đình Thi gọi lục bát là hơi thở của người Việt.
Còn nhà văn Nguyễn Tuân lại lấy thơ lục bát làm tiêu chuẩn đánh giá tài năng
của một nhà thơ Việt: “Anh là nhà thơ Việt Nam ư? Vậy hãy chiềng ra cho tôi
mấy câu lục bát của anh, tôi sẽ nói cho anh ngay anh là hạng thi sĩ như thế
nào”. Qua đó, đủ để thấy rằng, thơ lục bát có vai trò quan trọng như thế nào
trong đời sống và trong văn học Việt Nam.
Sở dĩ thơ lục bát có vai trò quan trọng như vậy, ấy là bởi thể thơ này mang
đậm điệu tâm hồn Việt. Hiện nay, trong xu hướng hiện đại hoá và sự chuyển
mình nhanh chóng của xã hội, thơ lục bát vẫn có một tiếng nói riêng, là “đứa
con cưng” của nền văn học nước nhà. Một trong những giá trị làm nên điệu
tâm hồn Việt của thể thơ này, đó chính là chất đồng quê đậm đà vẫn không
ngừng chảy trong lòng thể loại.
Trong văn học Việt Nam, đã xuất hiện cả một dòng thơ đồng quê có được
nhiều thành tựu đáng quí, đặc biệt là ở thể thơ lục bát. Tuy nhiên, văn học
luôn vận động, phát triển theo những qui luật riêng của nó bên cạnh sự tác
động của các yếu tố thời đại. Thơ đồng quê cũng không nằm ngoài những qui
luật ấy. Do vậy, tìm hiểu về chất đồng quê trong một thể thơ đặc trưng cho
tâm hồn Việt qua những thời kì, giai đoạn khác nhau luôn là một yêu cầu cấp
thiết.

2


Về Nguyễn Duy

Nguyễn Duy, tên thật là Nguyễn Duy Nhụê, sinh năm 1948. Nguyễn Duy
đến với làng thơ Việt Nam từ những năm đất nước còn trong cuộc kháng
chiến chống Mĩ. Ông đã góp một tiếng nói quan trọng làm nên diện mạo riêng
của một thế hệ thơ trẻ thời kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Hoà mình vào
cuộc chiến đấu của dân tộc, Nguyễn Duy đã cho ra đời nhiều tập thơ có giá trị
và được công chúng nhiệt liệt đón chào.
Chiến tranh kết thúc, trở về với đời thường, bước vào cuộc sống mới, với
mỗi người chiến sĩ, mỗi nhà văn quả không phải là điều đơn giản. Nhiều
người trong số đó đã không tìm được lẽ sống và cảm hứng sáng tác, trở nên
lạc lõng giữa đời thường. Nhưng với Nguyễn Duy lại khác, ông đã có nhiều
sáng tạo, đổi mới chứng tỏ được bút lực dồi dào của mình. Nhiều tập thơ có
giá trị sâu sắc tiếp tục được nhà thơ hoàn thiện. Năm 1997, bằng một cuộc
triển lãm thơ, Nguyễn Duy đã tuyên bố ngừng sự nghiệp sáng tác thơ ca của
mình. Tuy nhiên, theo thời gian, sức sống của thơ Nguyễn Duy dường như
mỗi lúc một mãnh liệt và toả sáng, được bạn đọc đón nhận nhiệt liệt hơn.
Nguyễn Duy làm thơ với nhiều thể loại khác nhau, nhưng chủ yếu và
thành công hơn cả vẫn là thơ lục bát. Nhiều câu thơ, bài thơ lục bát của ông
đã trở nên quen thuộc như tiếng lòng vọng về từ thuở xa xưa. Vậy điều gì đã
làm nên những thành công của thơ Nguyễn Duy? Đó là tài năng, sự nỗ lực
không ngừng của tác giả hay một yếu tố nào khác? Dĩ nhiên, một yếu tố đơn
lẻ sẽ khó có thể nói lên môt điều gì. Tuy nhiên, trong số các yếu tố đó, sẽ rất
thiếu xót nếu chúng ta bỏ qua chất đồng quê như một sức sống tiềm ẩn trong
thơ Nguyễn Duy. Những hương vị đồng nội, những hình ảnh quê mùa, những
phẩm chất mộc mạc đáng mến dường như đã ngấm sâu vào cảm thức của nhà
thơ. Chất đồng quê ấy đã theo chân tác giả trải qua những năm tháng chiến
tranh, để rồi lại theo tác giả trở về lại với đời thường, bật lên những tiếng thơ
sao xuyến lòng người. Đi sâu tìm hiểu về chất đồng quê trong thơ Nguyễn
Duy sẽ cho chúng ta cái nhìn toàn diện hơn về nhà thơ này. Đồng thời, phần

3



nào thấy rõ hơn về một đặc điểm quan trọng của thơ lục bát Việt Nam hiện
đại.
Đồng Đức Bốn và chất đồng quê trong thơ ông
Đồng Đức Bốn nổi lên như một hiện tượng lạ trong làng thơ Việt Nam.
Giữa lúc mà mọi người cứ ngỡ thơ lục bát sau Nguyễn Bính, Đoàn Văn Cừ,
Anh Thơ, Nguyễn Duy…khó có thể có thêm thành tựu và chỗ đứng thì giọng
thơ Đồng Đức Bốn cất lên như tiếng của “chim mỏ vàng” hót trong “hoa cỏ
độc”. Là kẻ đến sau, nhưng Đồng Đức Bốn lại mạnh dạn và liều lĩnh đến
mức dám chen chân vào mảng thơ lục bát về đồng quê, chỗ tưởng như các tác
giả trước đó đã gặt hái hết những thành tựu có thể có được. Nhưng cũng chính
cái sự khác người ấy đã góp phần tạo nên một Đồng Đức Bốn đầy cá tính với
phong cách riêng giữa lòng thời đại.
Đồng Đức Bốn sinh năm 1948, cùng trang lứa với nhà thơ Nguyễn Duy,
nhưng ông bước vào làng thơ Việt muộn hơn, chỉ khoảng chục năm cuối của
cuộc đời. Đồng Đức Bốn vội vã ra đi vào ngày 14/02/2006, giữa lúc hồn thơ
vẫn đang dạt dào sức sống. Dẫu biết rằng thơ lục bát dễ làm nhưng khó hay,
Đồng Đức Bốn vẫn tìm đến thể thơ này như một định mệnh. Chính ông cũng
đã nhiều lần ý thức được điều đó trong thơ mình:
Tôi còn nợ những người mong
Bài thơ lục bát viết trong cõi buồn”
(Tôi không thể chết được đâu)
Đi giữa hai dòng chảy, một bên là những miền quê bình dị, chất phác với
một bên là những thành thị đang trong quá trình đô thị hoá và hội nhập quốc
tế mạnh mẽ, Đồng Đức Bốn đã cho ra đời nhiều bài thơ đậm đà hương vị
đồng quê. Chất đồng quê chính là nguồn nhựa sống quí báu nhất nuôi dưỡng
hồn thơ Đồng Đức Bốn. Nếu không có nguồn nhựa sống này, thơ Đồng Đức
Bốn sẽ trở nên mờ nhạt giữa làng thơ Việt Nam đang trong quá trình hội
nhập, thay da đổi thịt. Có thể nói, đến Đồng Đức Bốn, thơ lục bát thêm một

lần nữa khẳng định được vị trí và sức sống lâu bền của mình. Tìm hiểu về

4


chất đồng quê trong thơ lục bát Viêt Nam từ quá khứ tới hiện tại sẽ trở nên rất
khó khăn, thiếu sót nếu như chúng ta bỏ qua thơ lục bát của Đồng Đức Bốn.
Văn hoá làng xã, những giá trị truyền thống của làng quê, cảnh sắc đồng
quê in đậm trong thơ ca Việt là những nhân tố quan trọng tạo nên tính dân
tộc, bản sắc dân tộc của nền văn học nước nhà. Vì vậy, đi vào tìm hiểu đề tài:
Chất đồng quê trong thơ lục bát Việt Nam hiện đại (Qua thơ lục bát Nguyễn
Duy, Đồng Đức Bốn) là một yêu cầu cấp thiết để làm rõ hơn đặc điểm thể loại
của thơ lục bát, thấy rõ hơn giá trị thơ ca Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn
cũng như sự đóng góp của họ cho văn học nước nhà. Đồng thời, công việc
này cũng khẳng định thêm một lần nữa những giá trị đặc trưng của thơ ca dân tộc
Việt Nam.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Để thấy rõ hơn quá trình phát triển và đánh giá giá trị của thơ lục bát nói
chung cũng như thơ lục bát Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn nói riêng, chúng
tôi đi vào lược khảo vấn đề nghiên cứu theo từng tiêu chí cụ thể như sau:
2.1. Các công trình nghiên cứu liên quan tới chất đồng quê trong thơ
Việt Nam hiện đại
Cho đến nay, công việc nghiên cứu về dòng thơ đồng quê ở mức độ khái
quát với những tác giả chính, những thi phẩm tiêu biểu vẫn là một công việc
còn bỏ ngỏ, đòi hỏi sự góp sức của nhiều nhà khoa học, nhiều học giả. Tuy
nhiên, nghiên cứu về chất đồng quê trong thơ của một tác giả cụ thể hoặc một
số tác giả trong thế đối sánh với nhau thì đã có khá nhiều bài viết, nhiều công
trình có giá trị.
Khởi đầu cho công việc này, có thể kể đến Thi nhân Việt Nam của Hoài
Thanh và Hoài Chân. Những bài nghiên cứu, thẩm bình về các tác phẩm của

các tác giả Nguyễn Bính, Đoàn Văn Cừ, Anh Thơ, Bàng Bá Lân đã bước đầu
bắt được cái thần, cái hồn đồng quê trong thơ các tác giả này. Khẳng định
được vị thế của thơ lục bát cũng như chất đồng quê trong thơ mỗi người, chỉ
ra được nét khác biệt, bản sắc riêng của mỗi nhà thơ dù họ cùng đi chung trên
một con đường (47).

5


Tiếp sau Thi nhân Việt Nam, có rất nhiều các công trình nghiên cứu, các
bài viết về chất đồng quê trong thơ các tác giả riêng lẻ. Đặc biệt là về Nguyễn
Bính, người được coi là chủ soái của dòng thơ đồng quê. Trong cuốn Nguyễn
Bính-thơ và đời, nhà văn Tô Hoài có nhận xét: “Khi nào anh cũng là người
của các xứ đồng, của cái diều bay, của dây hoa lý, của mưa thưa, mưa bụi
giữa mọi công ăn việc làm vất vả sương nắng. Bởi đồng quê là cốt lõi cuộc
đời và tâm hồn thơ nguyễn Bính”(5).
Năm 1995, giáo sư Hà Minh Đức cho ra mắt cuốn Nguyễn Bính- thi sĩ của
đồng quê. Phần thứ nhất của cuốn sách được coi là một chuyên luận có giá trị
cao. Giáo sư đánh giá: “Nguyễn Bính là thi sĩ của đồng quê. Con người và
cảnh vật làng quê thấm đượm hồn quê” (13). Cuốn sách đã tìm hiểu khá hệ
thống về chất đồng quê trong thơ của tác giả Nguyễn Bính.
Tác giả Đoàn Đức Phương hoàn thành luận án tiến sĩ về thơ Nguyễn Bính
vào năm 1997. Luận án đã nhìn nhận Nguyễn Bính đầy đặn hơn với một cái
“tôi” đầy bản sắc đồng quê trong phong trào thơ mới (38). Gần đây nhất, nhà
nghiên cứu Chu Văn Sơn cũng cho ra mắt cuốn sách Ba đỉnh cao thơ mới:
Xuân Diệu-Nguyễn Bính-Hàn Mặc Tử. Tác giả đã đặt Nguyễn Bính trong thế
đối sánh với hai nhà thơ mới tiêu biểu là Xuân Diệu và Hàn Mặc Tử, qua đó
khẳng định “lời thơ Nguyễn Bính là lời Việt trong vẻ đẹp chân quê” và
“nhuyễn lề lối quê ”... (43).
Bên cạnh các công trình nghiên cứu về thơ Nguyễn Bính, còn có các bài

viết về chất đồng quê trong thơ của các tác giả khác. Vũ Quần Phương trong
cuốn Thơ với lời bình có bài viết về bài thơ Chiều xuân của nhà thơ Anh Thơ.
Tác giả nhận ra rằng, Anh Thơ “sống ở quê từ tấm bé, những cảnh sắc quê
hương thấm vào chị từ tuổi thơ, nên chị mới diễn đạt cảnh quê bằng nhiều sắc
thái và chân thật đến thế” (40). Vẫn viết về thi phẩm này, học giả Lê Quang
Hưng trong cuốn Tinh hoa thơ mới, thẩm bình và suy ngẫm lại nhận định: “nữ
sĩ đã làm dịu tâm hồn người đọc bằng cách đưa họ về với những bức tranh
quê yên bình”. Còn về bài Quê hương của Tế Hanh, Lê Quang Hưng lại nhìn

6


thấy chất đồng quê của một “làng quê làm nghề chài lưới ở miền Trung Trung
Bộ với cuộc sống lao động vất vả mà đầy chất thơ”(24).
Ngoài các bài viết, các công trình nghiên cứu trên đây, còn có nhiều bài
viết, nhiều công trình nghiên cứu khác. Đó đều là những công trình mang ý
nghĩa, giá trị sâu sắc, ít nhiều đề cập tới chất đồng quê trong thơ Việt Nam
hiện đại.
2.2. Các công trình nghiên cứu về tác giả Nguyễn Duy
Nguyễn Duy xuất hiện trên văn đàn và mang đến một tiếng nói riêng đầy
bản sắc, thu hút sự chú ý của nhiều độc giả. Đã có khá nhiều bài viết thẩm
bình, đánh giá về thơ ông. Mỗi công trình nhìn nhận thơ Nguyễn Duy từ một
phương diện khác nhau, một khía cạnh nào đó trong đời thơ của ông. Để thấy
rõ hơn quá trình thẩm bình, đánh giá đó, luận văn chủ yếu đi vào khảo sát các
công trình nghiên cứu liên quan tới chất đồng quê trong thơ lục bát Nguyễn Duy.
Năm 1972, những bài thơ đăng báo lần đầu của Nguyễn Duy đã thu hút
được sự chú ý của Hoài Thanh. Bằng cảm nhận tinh tế, sắc sảo, ông đã nhận
ra vị quê mùa đằm thắm, chân chất trong thơ Nguyễn Duy, “quen thuộc mà
không nhàm”, là “khúc dân ca” vùng “đồng bằng miền Bắc đã cùng anh đi
vào giữa đỉnh Trường Sơn”. Chất thơ đó “nhẹ nhàng hiền hậu”, “rất Việt Nam

mà chúng ta vẫn giữ nguyên trong thử lửa”. Hoài Thanh cũng chỉ ra một số
hạn chế ở thơ Nguyễn Duy, “câu thơ anh còn nhiều khi khắc khổ, cầu kì rắc
rối”, “chưa học được nhiều cái giản dị, cái trong sáng của thơ ca dân gian”
(46). Dĩ nhiên, những thiếu sót này đã được Nguyễn Duy khắc phục ở những
bài thơ tiếp sau. Như vậy, ngay từ những bài thơ đầu tiên trình làng, chất đồng
quê đã hiện diện trong thơ Nguyễn Duy.
Giáo sư Hà Minh Đức trong bài viết Về một số cây bút trẻ gần đây trong
quân đội nhận xét: “Thơ Nguyễn Duy mang nhiều màu sắc dân gian. Cách
suy nghĩ và cảm xúc trên trực tiếp hay gián tiếp nằm trong mạch suy nghĩ
quen thuộc của dân gian”, “anh chú ý nhiều đến thể lục bát, đến sự mềm mại,
nhịp nhàng của các làn điệu dân ca” (15). Cũng về thơ lục bát, Lê Quang

7


Trang nhận ra đây là thế mạnh của Nguyễn Duy: “anh vốn là người sở trường
về sử dụng thơ lục bát- một thể thơ có phần tĩnh và biến hoá không nhiều” (54).
Nhà thơ Tế Hanh, với tâm hồn nhạy cảm luôn gắn bó với quê hương đã
cảm nhận sâu sắc về hồn quê, tình quê trong thơ Nguyễn Duy: “Một điểm
đáng chú ý nữa là thơ Nguyễn Duy nói về ruộng đồng dù đó là Thanh Hoá
quê anh hay Cà Mau quê bạn, có cái gì đó rất tha thiết” (19).
Trên tạp chí văn học số 3 năm 1986, Lê Quang Hưng có bài viết Thơ
Nguyễn Duy và Ánh trăng đã nói: “Những bài thơ lục bát trong Ánh trăng thật
đậm đà chất ca dao, nhiều đoạn thơ lục bát nhuần nhụy ngọt ngào khiến cho
người ta khó phân biệt được đấy là ca dao hay thơ” (25).
Năm 1987, nhân đọc Ánh trăng, Lại Nguyên Ân đã đối chiếu với lục bát
truyền thống, cảm nhận về hơi hướng đồng quê trong thơ Nguyễn Duy. Tác
giả đã chỉ ra sự mới mẻ, phá cách của Nguyễn Duy so với truyến thống trên
cơ sở của sự kế thừa, “ngay cả những bài thơ lục bát, ta cũng thấy có cái gì đó
bên trong như muốn cãi lại vẻ êm nhẹ, mượt mà vốn có của câu hát ru truyền

thống” (2).
Tìm hiểu về thơ Nguyễn Duy, khó có thể bỏ qua mảng thơ lục bát đậm đà
chất đồng quê của ông, vì đây là tác giả “vốn có ưu thế trội hẳn lên trong thể
thơ lục bát, loại thơ ngỡ như dễ làm, ai cũng làm được, nhưng để đạt tới hay
thì khó thay. Thơ lục bát của Nguyễn Duy không rơi vào tình trạng quen tay,
nó có sự biến đổi, chuyển động trong câu chữ”. Lời nhận xét đó trong bài viết
Đi tìm tiềm lực trong thơ Nguyễn Duy của nhà văn Nguyễn Quang Sáng quả
là tinh tế. Ông nhấn mạnh thêm, Nguyễn Duy có “khả năng nắm bắt cái thần,
cái hồn của mỗi làng quê”, “lời thơ đơn sơ, gần với khẩu ngữ. tư duy thơ thì
hiện đại” (42).
Tác giả Đỗ Ngọc Thạch lại đi sâu vào hình ảnh Người vợ trong thơ
Nguyễn Duy và thấy rõ “hồn quê” có sức “lay động tận sâu thẳm tâm
linh…đưa ta trở về với bản ngã, với những gì con người nhất” (49).
Tạp chí văn học số 7. 1998 đăng bài Ca dao vọng về trong thơ Nguyễn
Duy của tác giả Phạm Thu Yến. Bài viết đã đi sâu vào những biểu hiện trong

8


mối quan hệ giữa ca dao và thơ hiện đại, cụ thể là tiếng vọng của ca dao trong
thơ lục bát Nguyễn Duy: “Đọc thơ Nguyễn Duy, ta như được gặp một thế giới
ca dao sinh động, phập phồng làm nền cho tiếng đàn độc huyền đầy sáng tạo
của hồn thơ thi sĩ”. Bài viết cũng khẳng định “thể thơ lục bát- thể thơ đặc
trưng của dân tộc được Nguyễn Duy sử dụng nhuần nhuỵ, giúp tác giả chuyển
tải một cách nhẹ nhàng trong sáng những suy nghĩ và tình cảm sâu sắc của
con người. Có lẽ, những bài thành công nhất của Nguyễn Duy là những bài
làm theo thể lục bát ”(58).
Thơ ca là một bộ phận quan trọng thể hiện tính cách, nhân phẩm của người
sáng tạo ra nó. Tác giả Vũ Văn Sỹ đã trình bày cảm nhận của mình về hình
ảnh Nguyễn Duy trong thơ và trong cuộc sống, một con người chất phác, chân

thật qua bài Nguyễn Duy- Người thương mến đến tận cùng chân thật. Tác giả
bài viết đánh giá và xếp Nguyễn Duy “vào bậc tài tình” trong làng thơ lục bát
Việt Nam (44).
Ngoài những bài viết mang tính chất thẩm bình, đánh giá chung về thơ
Nguyễn Duy, còn khá nhiều bài viết, bài bình văn về những bài thơ đặc sắc,
tiêu biểu là những bài lục bát của ông.
Bài Tre Việt Nam đã thu hút sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu văn học.
Giáo sư Lê Trí Viễn đã chỉ ra phẩm chất con người Việt Nam thông qua hình
ảnh cây tre trong bài thơ, đồng thời thấy được giọng điệu quen thuộc của ca
dao dân gian của bài thơ: “người ta gặp ở đây vừa âm hưởng của ca dao- dân
ca ngọt ngào thân mật, vừa vang vọng của thơ ca bác học lắng sâu vào trí tuệ.
Cách tân linh hoạt nhưng lại nhuần nhuyễn cả xưa lẫn nay, cả truyền thống
lẫn hiện đại” (57). Vẫn ở bài thơ này, tác giả Chu Huy khẳng định “Tre Việt
Nam là một trong những bài thơ hay của Nguyễn Duy. Bài thơ dào dạt cảm
hứng cấu tứ sâu sắc, độc đáo kết tinh từ những hình ảnh cuộc sống dân dã đời
sống mà ai đã đọc một lần thì nhớ mãi ” (23).
Trần Hoà Bình trong Bình văn ấn tượng với “giai điệu thư thái lâng lâng”
của bài thơ cất lên từ nhịp thơ lục bát thân quen trong bài Tiếng hát mùa gặt
của Nguyễn Duy (19). Nguyễn Thị Bông lại mang cảm giác xốn xang khi

9


phát hiện ra Điểm gặp nhau thú vị của Tú Xương với Nguyễn Duy qua hai bài
thơ Thương vợ và Vợ ốm: “hai thi nhân của hai thời đại, một thì ngang
ngạnh…một thì trầm lắng…dịu dàng đằm thắm …lại có những điểm gặp
nhau tuyệt vời” (6).
Như vậy, các công trình nghiên cứu, các bài viết về thơ Nguyễn Duy đã
phần nào xác định được giá trị thơ lục bát của Nguyễn Duy và hơi hướng của
chất đồng quê trong thơ ông. Tuy nhiên, hầu như vẫn chưa có một công trình

xứng đáng đi sâu nghiên cứu cụ thể, toàn diện về chất đồng quê trong thơ lục
bát Nguyễn Duy và vị trí của nó trong hành trình thơ lục bát Việt Nam. Đó
vẫn là một khoảng trống còn đang bỏ ngỏ.
2.3. Các công trình nghiên cứu về thơ Đồng Đức Bốn
Là một hiện tượng mới nổi, nhưng Đồng Đức Bốn và thơ ca của ông đã có
được một vị trí khá sâu sắc trong lòng độc giả. Nghiên cứu về chất đồng quê
trong thơ lục bát của ông, chúng tôi tập trung vào khảo sát một số bài viết có
đề cập và liên quan đến chất đồng quê trong thơ lục bát của tác giả này. Phần
lớn các bài viết chúng tôi khảo sát được rút từ phần hai cuốn sách Chim mỏ
vàng và hoa cỏ độc (7) do chính tác giả Đồng Đức Bốn đã tập hợp.
Trước hết, phải kể đến chùm bài viết của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp,
người bạn văn chương của nhà thơ Đồng Đức Bốn. Ở trong bài viết Đồng
Đức Bốn- Vị cứu tinh của thơ lục bát, tác giả nhận định: “Thơ lục bát Đồng
Đức Bốn có một cái gì khác người, hiếm và lạ…Trong bối cảnh thơ có phần
nào lộn xộn, Đồng Đức Bốn hiện lên như một hiện tượng thơ đặc biệt…Đồng
Đức Bốn là người tự dưng đốn ngộ với riêng thể thơ lục bát”. Đó là cái
duyên, là ân huệ trời ban cho nhà thơ Đồng Đức Bốn. Không dừng lại ở đó,
Nguyễn Huy Thiệp còn nhìn nhận Đồng Đức Bốn từ vai trò một nhà thơ của
đồng quê, của con trâu, cái diều.
Nhà thơ, nhà phê bình văn học Đỗ Minh Tuấn có bài viết Đồng Đức BốnKẻ mượn bút của trời nhận thấy “Sự xuất hiện của Đồng Đức Bốn đã đem lại
cho thơ lục bát, thơ truyền thống một niềm tự tin đáng kể”, “thơ Bốn vụt lên
với sự sáng trong giản dị mà không kém phần sâu sắc, mới lạ và ấn tượng như

10


mang cả hồn thiêng của tổ tiên trong mỗi lời đối thoại, mỗi tiếng nhủ thầm”.
Ở bài viết Trời đưa anh đến cõi thơ, tác giả này lại chỉ ra niềm kiêu hãnh, biết
ơn của Đồng Đức Bốn với thơ lục bát: “cái tình cảm của Bốn với thơ lục bát
nhìn bề ngoài giống như tình cảm của người nông dân với con trâu”.

Bài viết Đồng Đức Bốn- Phiêu du vào lục bát của nhà phê bình văn học
Nguyễn Đăng Điệp thêm một lần nữa cho thấy rõ hơn vị trí của thơ lục bát
trong đời thơ Đồng Đức Bốn: “Trong các thứ hương hoả, Đồng Đức Bốn “ăn
lộc” ca dao nhiều hơn cả. Cái chất nhà quê trong thơ anh kết hợp với cái lang
thang, thân cò thân vạc của một kẻ bị bầm dập trong đời sống hiện tại đã làm
thành một lối nói ngang, tưng tửng”.
Tiến sĩ Đoàn Hương cũng thấy được hình ảnh quê mùa trong thơ Đồng
Đức Bốn qua bài Những câu thơ tình tang quê mùa, “Thơ lục bát của Đồng
Đức Bốn đẹp vẻ đẹp rất mộc của thơ ca dân gian, của những câu ca dao mà ta
đọc trong mọi thế hệ, đọc trong cả cuộc đời mà vẫn cứ giật mình. Trong tâm
hồn mỗi con người Việt Nam từ thế hệ này sang thế hệ khác”. Thơ Đồng Đức
Bốn giống như chìa khoá mở ra cánh cửa cho mỗi con người tìm về với cội
nguồn của mình. “Đọc thơ Đồng Đức Bốn để ta tìm thấy quê, trở về với quê
hương trong tâm tưởng của ta”. Tác giả bài viết còn nhìn nhận chất đồng quê
trong thơ Đồng Đức Bốn từ phương diện ngôn ngữ, đó là “một thứ ngôn ngữ
chân quê, một ngôn ngữ chất phác nhất, đồng thời cũng chính xác nhất, tinh tế
nhất của ngôn ngữ tiếng Việt”.
Nhà thơ Phạm Tiến Duật với giọng điệu tự nhiên, pha chút ngang tàng
trong bài Đóng gạch nơi nao đã khẳng định: “một mình Đồng Đức Bốn tự
làm một cuộc trường chinh. Gã xông thẳng vào trận địa lục bát và chỉ một
thời gian ngắn Đồng Đức Bốn trở thành ông vua trẻ của thể loại này”. Nhà
văn Trần Huy Quang trong bài Đồng Đức Bốn- Nhàu nát và trau chuốt đánh
giá về chất đồng quê trong thơ Đồng Đức Bốn từ góc độ câu thơ, “Thơ Đồng
Đức Bốn đấy, mỗi câu giống như lời nói của các bà nông dân lam lũ, yếm trễ
ngực, váy xắn quai cồng, đòn gánh oằn vai”.

11


Trong Tựa bão để sống làm người, tác giả Anh Quân cũng thấy được nhạc

tính giàu chất dân gian trong thơ lục bát nói chung và thơ Đồng Đức Bốn nói
riêng: “thực ra trong thơ ca, lục bát là thể thơ mang tính nhạc đậm nhất, ở thơ
Đồng Đức Bốn càng thấy rõ điều này. Bất kỳ một bài nào của anh đều như
những bài hát dân ca, điệu hò câu ví thuở xưa”.
Tác giả Băng Sơn trong bài Đồng Đức Bốn- Thi sĩ đồng quê đã nhận định
khá sâu sắc về hồn quê mùa trong thơ Đồng Đức Bốn, coi ông là “một nhà thơ
kiệt xuất trong lục bát, có lẽ là hồn Việt chắt lọc ngàn năm để ứ dồn vào tâm
hồn thi sĩ làm ta nghiêng ngả mê say những vần thơ như từ ca dao đi ra, như
từ thơ đi vào ca dao, cứ ngọt lịm và ở lại”. Nhà thơ Nguyễn Thanh Toàn trong
Vài ý nghĩ tản mạn về thơ Đồng Đức Bốn cũng có nhận xét, “thế mạnh thơ
Đồng Đức Bốn là thể thơ đồng quê, ngôn ngữ đồng quê, cảm hứng đồng
quê…Đặc biệt là tình ý tư tưởng đồng quê”.
Ngoài các bài viết trên đây, còn phải kể tới bài viết của một số tác giả như
Nguyễn Ánh Ngân, Nguyễn Thanh Phong, Nguyễn Việt Hà, Văn Chinh…Đó
đều là những bài viết, những ý kiến đánh giá về thơ Đồng Đức Bốn khá sâu
sắc, xác đáng.
Nhìn chung, các bài viết tìm hiểu về thơ Đồng Đức Bốn bước đầu đã có
những tìm tòi mới mẻ, nhưng chủ yếu mới chỉ dừng lại ở mức độ là những
nhận định chung chung, là cái nhìn ban đầu về một hiện tượng thơ mới nổi, ít
có sự đi sâu phân tích những biểu hiện cụ thể trong thơ ông, chưa có được cái
nhìn toàn cục về vị trí của thơ lục bát Đồng Đức Bốn trong dòng chảy của thơ
lục bát đồng quê Việt Nam.
Nghiên cứu về chất đồng quê trong thơ lục bát hiện đại nói chung, chất
đồng quê trong thơ lục bát Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn nói riêng là một việc
làm có ý nghĩa quan trọng để đánh giá xác đáng hơn giá trị của thơ lục bát
cũng như thơ của hai tác giả trên. Điều này đòi hỏi sự góp công, góp sức của
nhiều nhà nghiên cứu. Dẫu biết rằng như muối bỏ bể, công trình nghiên cứu
này của chúng tôi vẫn hy vọng được đóng góp một phần nhỏ vào quá trình
nghiên cứu vấn đề này.


12


3. GIỚI HẠN ĐỀ TÀI
Trong quá trình nghiên cứu đề tài này, để cho công việc được thuận lợi,
chúng tôi xác định phạm vi nghiên cứu cụ thể như sau:
Chú ý tới toàn bộ thơ lục bát Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn trong khả
năng cao nhất có thể. Riêng về thơ của Đồng Đức Bốn, chủ yếu là các bài lục
bát trong phần một tập sách Chim mỏ vàng và hoa cỏ độc.
Bên cạnh các bài thơ lục bát của Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn, chúng
tôi cũng liên hệ so sánh với thơ lục bát ca dao và lục bát của một số tác giả
văn học Việt Nam khác.
4.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Nhằm tìm hiểu sâu sắc vấn đề, chúng tôi sử dụng một số phương pháp sau
đây.
Phương pháp phân tích tác phẩm theo đặc trưng thể loại
Thông qua phương pháp này, luận văn sẽ nêu bật những đặc điểm về nội
dung và nghệ thuật của chất đồng quê trong thơ lục bát Việt Nam hiện đại,
đặc biệt là trong thơ Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn. Đồng thời, tránh được
sự chủ quan, cảm tính khi đưa ra các nhận xét, các kết luận.
Phương pháp đối chiếu so sánh.
Đây là phương pháp quan trọng và được sử dụng nhiều trong luận văn. Để
thấy được chất đồng quê trong thơ lục bát Việt Nam hiện đại trong sự biến đổi
theo dòng chảy thời gian, chúng tôi sử dụng phương pháp này đối chiếu, so
sánh giữa thơ lục bát Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn với các mảng thơ khác
trong đời thơ hai ông và của các nhà thơ khác. Qua đó, những nét tiêu biểu
độc đáo của dòng thơ đồng quê, tiêu biểu là thơ lục bát Nguyễn Duy và Đồng

Đức Bốn sẽ hiện lên một cách nổi bật và có tính thuyết phục cao.
Phương pháp thống kê- phân loại.
Phương pháp này được sử dụng như một phương pháp bổ trợ hữu ích cho
hai phương pháp trên đây. Với sự thống kê, phân loại, luận văn sẽ tìm được
những yếu tố nội dung, nghệ thuật tiêu biểu để đi đến kết luận chính xác nhất,
có cơ sở cho sự thuyết phục.

13


Trong quá trình nghiên cứu đề tài, chúng tôi phối hợp chặt chẽ giữa ba
phương pháp nêu trên để luận văn có tính khoa học và hệ thống, đạt được
những hiệu quả cao nhất.
5.

MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ.

Mục đích nghiên cứu của luận văn
Đi sâu vào đề tài này, mục đích của chúng tôi là hướng vào tìm hiểu những
biểu hiện cụ thể về chất đồng quê trong thơ lục bát Nguyễn Duy và Đồng Đức
Bốn. So sánh đối chiếu chất đồng quê trong thơ hai ông với nhau và với các
tác giả khác, đặc biệt là các tác giả có thế mạnh về thơ lục bát để tìm ra những
đặc điểm chung nhất và bản sắc, đặc trưng riêng của thơ ca mỗi người. Bên
cạnh đó, luận văn cũng mong đạt được một hiệu quả cao hơn, đó là có được
cái nhìn khái quát về sự tồn tại, biến đổi của chất đồng quê trong thơ lục bát
Việt Nam hiện đại.
Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn.
Hướng vào những mục đích đã nêu trên đây, luận văn thực hiện những
nhiệm vụ cụ thể sau đây:
-


Sơ lược tìm hiểu đặc trưng của thể loại thơ lục bát và sự vận động của

nó trong tiến trình thơ ca dân tộc.
-

Tìm hiểu các văn bản thơ của Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn, cụ thể

là thơ lục bát để tìm ra những nét nổi bật trong nôị dung, nghệ thuật gắn liền
với chất đồng quê trong thơ họ.
-

Đối sánh thơ lục bát Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn với thơ ca truyền

thống, thơ ca các tác giả khác, tìm ra những sự kế thừa và đổi mới của hai tác
giả này.
6.

CẤU TRÚC LUẬN VĂN

Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn được triển khai theo ba chương.
Chương một: Chất đồng quê và thơ lục bát về đồng quê trong thơ ca dân tộc.
Chương hai: Cảnh quê và tình quê trong thơ lục bát Nguyễn Duy và Đồng Đức
Bốn.

14


Chương ba: Tính dân gian, hiện đại trong thơ lục bát về đồng quê của Nguyễn
Duy và Đồng Đức Bốn.


Chương một
CHẤT ĐỒNG QUÊ VÀ THƠ LỤC BÁT VỀ ĐỒNG QUÊ
TRONG THƠ CA DÂN TỘC
Theo những bước đi của thời gian, nền văn học Việt Nam cũng không
ngừng vận động, biến chuyển. Nhiều thành tựu của văn học nước nhà đã được
nhân loại biết đến và trân trọng. Trong những thành tựu ấy, thơ lục bát chiếm
một vị trí đáng kể, tạo nên tiếng nói tiêu biểu đặc trưng cho văn học người
Việt, tâm hồn người Việt.
1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THƠ LỤC BÁT
Cấu trúc thể loại
Lục bát là thể thơ tổng hợp giữa câu sáu và câu tám. Số câu không hạn
định, ít thì chỉ hai câu, còn nhiều thì có thể kéo dài đến vô kể. Từ khi ra đời,
thể lục bát đã trở thành thể loại được ưa chuộng trong sáng tác của người
Việt. Qua tiến trình thể loại, thể lục bát mỗi lúc càng trở nên hoàn thiện hơn.
Niêm, vần, luật.
Giáo sư Bùi Văn Nguyên và Hà Minh Đức trong cuốn Thơ ca Việt Nam –
Hình thức và thể loại đã dành cho thể lục bát một sự quan tâm, ưu ái đặc biệt.
Niêm luật của thể thơ này đã được tóm tắt thành một hệ thống tương đối rõ ràng.
* Hệ thống phổ biến
- Trường hợp một:
Dòng/ti

1

2

3

4


ếng

15

5

6

7

8


Dòng

-

B

-

T

-

B

Dòng


-

B

-

T

-

B

lục
-

B

bát
B: Vần bằng; T: Vần trắc
Trường hợp này khá phổ biến trong ca dao và cả trong văn học viết. Chẳng
hạn:
Dù ai cho bạc cho vàng
Chẳng bằng trông thấy mặt chàng hôm nay
(Ca dao)
Láng giềng đã đỏ đèn đâu
Chờ em ăn dập bã giầu em sang
(Nguyễn Bính)
Ở hệ thống này, niêm luật giữa câu lục và câu bát đều theo mối quan hệ
tương liên từng cặp: B- B; T- T; B- B.
- Trường hợp hai:

Các tiếng thứ tư, thứ sáu, thứ tám nhất định phải theo vần bằng, riêng tiếng
thứ hai có thể linh động, hoặc bằng hoặc trắc.
Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao
(Ca dao)
Có oản anh tình phụ xôi
Có cam phụ quýt, có tình phụu ta
(Ca dao)
* Hệ thống đặc biệt: Các loại biến thể.
Có biến thể vần trắc: Tiếng thứ sáu câu câu sáu và câu tám đều là vần trắc.
Con cò mắc giò mà chết
Con quạ ở nhà mua nếp làm chay
(Ca dao)

16


Có loại biến thể cách gieo vần: Cách gieo vần thông thường của thơ lục
bát là tiếng thứ sáu dòng lục hiệp vần với tiếng thứ sáu của dòng bát. Tiếng
thứ tám dòng bát lại hiệp vần với tiếng thứ sáu dòng lục tiếp theo. Cứ như thế
cho đến hết bài thơ. Tuy nhiên, có một số trường hợp đặc biệt, tiếng thứ sáu
dòng lục lại hiệp vần với tiếng thứ tư dòng bát:
Có con đỡ gánh đỡ gồng
Con đi lấy chồng vai gánh tay mang
(Ca dao)
Chú ý: Khi gieo vần, tiếng thứ sáu, thứ tám (ở hệ thống phổ biến) và tiếng
thứ tư, thứ tám ở hệ thống đặc biệt, tuy đều là thanh bằng nhưng phải đối
nhau về âm vực trầm bổng.
Trong thơ lục bát có cả vần chân và vần lưng. Cách gieo vần này góp phần
vào việc mở rộng dung lượng cho bài lục bát.

Về nhịp
Cả cặp lục bát mười bốn tiếng được coi là một đơn vị nhịp điệu, trong đơn
vị đó lại có thể ngắt ra từng tiết tấu theo cách diễn đạt nội dung câu thơ.
Trong thơ lục bát, cách ngắt nhịp rất uyển chuyển nhưng thường là nhịp hai.
Ví dụ:
Đi mau! Trốn hết! Trốn mau
Trốn hơi! trốn tiếng! Trốn nhau! Trốn mình
(Xuân Diệu)
Đôi khi lại là nhịp ba:
Ơi thôn Vân/ hỡi thôn Vân
Phương nào kết dải mây Tần cho ta
(Nguyễn Bính)
Nhiều khi lại có sự phối hợp nhiều nhịp cho phù hợp với nội dung nào đó
hoặc tạo ra ngữ điệu đặc biệt.
Cái gì như thể nhớ mong
Nhớ nàng?không! quyết là không nhớ nàng
(Nguyễn Bính)

17


Đối
Thơ lục bát không quy định nhất thiết phải có đối. Tuy vậy, đặc trưng phổ
biến của lục bát lại là tiểu đối. Khi thì đối ý, đối thanh, có khi lại đối cả ý và
thanh. Câu lục bát có đối thường theo nhịp 3/3, 4/4. Trong Truyện Kiều,
Nguyễn Du nhiều lần sử dụng đối khá thành công.
Làn thu thuỷ, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh
(Nguyễn Du)
Trong ca dao, tiểu đối cũng không thiếu phần đặc sắc:

Chồng đánh bạc, vợ đánh bài
Chồng hai ba vợ, vợ hai ba chồng
(Ca dao)
Một số biến thể trong cấu trúc của thể lục bát
Ở mỗi một phương diện, thể lục bát luôn có những biến thể rất linh hoạt,
sinh động để đáp ứng nhu cầu truyền tải nội dung hoặc tự làm mới mình. Về
cấu trúc, thể lục bát cũng có nhiều biến đổi đặc sắc, tạo được hiệu quả nghệ
thuật và có tính thẩm mĩ cao.
Cấu trúc thường thấy của thể lục bát là 6/8. Bên cạnh đó, còn có một số
dạng khác mà nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ ra. Cơ bản có các dạng sau đây:
 Ở phạm vi câu thơ: Có biến thể dòng lục thay đổi, dòng bát giữ nguyên.
Số chữ ở dòng lục có thể tăng hoặc giảm. Ví dụ:
- Buồn ngủ buồn nghê
Buồn ăn cơm nếp cháo kê thịt gà
- Tưởng giếng sâu, nối sợi dây dài
Hay đâu giếng cạn, tiếc hoài sợi dây
(Ca dao)
Có trường hợp, dòng lục giữ nguyên, dòng bát thay đổi:
- Lời nguyền trước cũng như sau
Ta không ham vui bỏ bạn, bạn chớ tham giàu bỏ ta
(Ca dao)
Có khi cả dòng lục và dòng bát đều thay đổi.

18


Em thương anh thầy mẹ ngăm nghe
Cậu, cô, chú, bác đòi đậu bè thả trôi
(Ca dao)
 Ở phạm vi bài thơ:

Có trường hợp, bài thơ lục bát bắt đầu bằng câu tám:
Buồn rầu buồn rĩ, nghĩ lại buồn riêng
Hai tay bưng quả đào tiên
Miệng cười hớn hở dạ phiền tương tư
(Ca dao)
Có khi tác phẩm bắt đầu bằng hai dòng lục:
Chợ Giăng rồi lại chợ Chùa
Chợ rạng thì phải qua đò
Chợ Lường lắm bánh, ăn dò mà đi
(Ca dao)
Dạng này thường không phổ biến. Chủ yếu là phần lời của bài hát giao
duyên, hay gặp trong dân ca xứ Nghệ và dân ca Nam Bộ.
Có tác phẩm lục bát lại kết thúc theo lối bỏ lửng ở vần lục:
Anh về xẻ ván cho dày
Đánh thuyền đợi bến rước thầy mẹ sang
Thuyền lớn quan bắt chở lương
Còn chiếc thuyền nhỏ cùng nường qua sông
Chờ nàng anh đứng chờ trông…
`

(Ca dao)

Cách bỏ lửng này giúp chúng ta suy nghĩ không ít về hồi kết của tác phẩm.
Dạng này có thể tìm thấy cả trong ca dao và trong văn học viết.
Như vậy, thể lục bát là một thể thơ linh hoạt, sinh động chứ không hề khô
khan và cứng nhắc. Trong tiến trình thể loại, cả thơ ca dân gian và thơ ca văn
học viết đều có những sáng tạo, đổi mới cho phù hợp. Đó đều là những đổi
mới góp phần khẳng định thêm giá trị thể loại.
Nguồn gốc sinh thành


19


Trên cơ sở những tài liệu hiện có, nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Hoàn nhận
định: “Thể lục bát, sớm nhất cũng chỉ xuất hiện vào khoảng cuối thế kỉ XV”
(21). Từ đó cho đến Truyện Kiều, thể lục bát đã tương đối hoàn chỉnh.
Vậy thể lục bát có phải là sở hữu riêng biệt của người Việt ta hay không?
Đây là câu hỏi nhạy cảm và không dễ gì trả lời được. Đã có nhiều học giả đi
sâu nghiên cứu để trả lời cho câu hỏi đó. Nhà nho Phạm Đình Toái ở thế kỉ
XIX gọi lục bát là “lối văn tuyệt diệu của ta”(20). Sang đầu thế kỉ XX, cụ Bùi
Kỉ thêm một lần nữa khẳng định đây là “lối văn riêng của ta mà Tàu không
có” (39). Sách Lí luận văn học (G.s Phương Lựu chủ biên) cũng nhấn mạnh:
“Đó là thể thơ quen thuộc của dân tộc mang cốt cách thuần tuý Việt Nam”
(61). Nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân Kính lại nhận định “Ở văn học người
Hán của Trung Quốc không có thể lục bát. Trong lịch sử văn học người Việt,
thể lục bát có vai trò đặc biệt và có sức sống mạnh mẽ” (27).
Các công trình nghiên cứu về thơ lục bát và nguồn gốc sinh thành của nó
xuất phát từ nhiều hướng khác nhau. Tuy nhiên, cuối cùng đều đi đến điểm
chung khẳng định lục bát là thể thơ thuần tuý dân tộc Việt, thuần tuý biểu
hiện lối sống Việt. Vì lẽ đó, nó được coi là mang nặng cảm xúc, suy tư, tâm
hồn con người Việt Nam.
Tiến trình thể loại
Có thể nói, lục bát khởi đầu từ ca dao và xuất hiện trong văn học thành văn
vào khoảng cuối thế kỉ XV. Từ đó đến nay, thể thơ này ngày càng phát triển
và hoàn thiện hơn, đạt được nhiều thành tựu đặc sắc.
1.3.1. Lục bát từ cuối thế kỉ XV đến trước Truyện Kiều.
Là thời kỳ sơ khai của thể loại, cho nên thơ lục bát ở giai đoạn này còn
trong tình trạng chưa hoàn chỉnh, hình hài chưa cụ thể, còn xô bồ, tự do và có
đôi chút lỏng lẻo. Chẳng hạn, có thể gieo vần ở cả tiếng thứ 4 và thứ 6 dòng
bát, vừa là vần bằng, vừa là vần trắc hoặc chưa định vị được vần.

Đất vua ai chẳng là tôi
Non cao hang thẳm cùng trời tôn thân
(Đào Nguyên Hành)

20


Hoặc:
Trước bày đời Hán Linh Đế
Phật sinh xuất thế thiên hạ phong lưu
(Cổ Châu Phật bản hạnh)
Có khi lại rất thoải mái trong thanh điệu:
Thứ này ai là kẻ hay
Dẫu nghìn vàng đổi trao tay chẳng thà
(Đào Nguyên Hành)
Trong quá trình tồn tại và phát triển, thể lục bát dần trở nên hoàn thiện hơn
về cả lượng và chất. Ví dụ như, trong các bài lục bát đã dần bỏ bớt lối gieo
vần ở tiếng thứ 4, hướng tới cách gieo vần ở tiếng thứ 6 câu bát. Về phối điệu,
dần ổn định thanh điệu ở các tiếng thứ 2, thứ 4 và thứ 6.
Chức năng biểu đạt: các tác phẩm khởi đầu của thể lục bát thường hướng
vào nội dung trữ tình tụng ca. Đến thế kỉ XVIII, với các truyện thơ Nôm, thể
lục bát nhận thêm chức năng tự sự như Truyện Phan Trần, Truyện Phạm
Công Cúc Hoa, Hoa tiên…
Tuy có nhiều biến đổi, song ở giai đoạn này, thể lục bát vẫn chưa đạt độ
hài hoà hoặc trôi chảy thực sự. Việc gieo vần ở tiếng thứ 6 câu thơ chưa đạt
hiệu quả cao. Đặc biệt, vẫn còn hiện tượng kí sinh ở tiếng thứ 6 dòng bát.
Cha tôi trưởng giả nhà quê
Giàu sang sớm đã sinh thì ba tôi
(Tống Trân Cúc Hoa)
Nằm lăn em mới ngủ đi

Vừa hết canh một, sang thì canh năm
(Phạm Công Cúc Hoa)
Để đạt tới độ thẩm mĩ cao và tiến gần hơn tới tính chuẩn mực, thể lục bát
cần có sự đổi mới và hoàn thiện hơn nữa. Trên thực tế, thể thơ này đã dần trở
nên hài hoà, hoàn thiện hơn. Đó chính là cơ sở cho sự ra đời của tác phẩm
được coi là tiêu biểu cho chuẩn mực thể loại: Truyện Kiều của Nguyễn Du.
1.3.2. Lục bát trong Truyện Kiều

21


Truyện Kiều của Nguyễn Du đã đánh dấu son cho sự mẫu mực, cổ điển
của thể loại lục bát. Kể từ đây, lục bát chính thức khẳng định được đặc trưng
thể loại của mình, để rồi theo thời gian, mỗi lúc một khởi sắc hơn.
Hai yếu tố gieo vần và phối điệu đã đạt tới sự thống nhất, ổn định. Việc
gieo vần ở tiếng thứ tư đã được hạn chế nhiều. Trong Truyện Kiều, toàn bộ
các câu thơ đều gieo vần ở tiếng thứ 6. Hiện tượng từ kí sinh ở câu bát đã
được loại bỏ triệt để do sự xuất hiện của hình thức đối. Đặc biệt là hình thức
“tiểu đối, về mặt cấu trúc đã tạo điều kiện vật chất giúp loại trừ hiện tượng kí
sinh ở vần lưng âm tiết 6 câu bát” (8).
Cũng do có hình thức tiểu đối nên sự diễn ý của thơ lục bát có thêm khả
năng mới. Dòng thơ 6 (hoặc 8) âm tiết được nhận thức như một tổ hợp hai
đơn vị mới. Mỗi đơn vị gồm ba (hoặc bốn) âm tiết. Do đó, dòng thơ như nén
lại, ý thơ trở nên xúc tích, cô đọng hơn. Nhịp điệu câu thơ cũng không còn
đơn điệu mà nó dồn nén hơn, góp phần bộc lộ các cung bậc tình cảm khác
nhau.
Khi sương sớm/khi trà trưa
Bàn vây điểm nước/đường tơ hoạ đàn
Tiểu đối xuất hiện trong thơ lục bát có thể được coi là một cuộc cách mạng
đổi mới của thể loại này. Nhiều nhà nghiên cứu đã đánh giá cao sự xuất hiện

của nó. Phan Ngọc cho rằng: “sự xuất hiện của hình thức tiểu đối không phải
là hiện tượng bình thường trong lục bát mà là kết quả của một quá trình phát
triển” và “hình thức đối xứng làm cho nhịp thơ chậm lại, trang trọng, đem lại
cái đẹp cân đối, nhịp nhàng” (34). Nguyễn Phan Cảnh lại coi sự xuất hiện của
đối là “sự kiện đánh dấu một bước tiến hoá mới quan trọng và có tính chất
quyết định của thể lục bát Đưa lục bát tới sự toàn thắng” (8).
Thể lục bát đến Truyện Kiều được coi là một mô hình chuẩn mực. Tác
phẩm này vẫn thể hiện chức năng kể là chính.Tuy nhiên, nội dung trữ tình
cũng đã chiếm một phân lượng không nhỏ. Cùng với Truyện Kiều, thơ lục bát
dần đi sâu hơn vào tâm thức của con người Việt Nam ta.
1.3.3. Lục bát trong phong trào thơ mới (1932-1945)

22


Cũng như các hiện tượng văn học khác, thơ lục bát luôn vận động, biến
đổi theo những qui luật nhất định dưới sự tác động của thời đại. Bước vào thế
kỉ XX, nhiều thể loại mới từ văn học phương Tây thâm nhập và tạo ra sự thay
đổi của bộ mặt văn học nước nhà. Nhiều thể loại văn học mới xuất hiện. Các
loại hình văn xuôi tự sự với thế mạnh riêng dần đóng một vai trò quan trọng.
Trong tình hình đó, thơ lục bát dần chuyển sang tập trung vào khả năng chính
của một thể thơ ca: chức năng trữ tình. Chức năng tự sự của nó ngày càng trở
nên mờ nhạt hơn.
Đầu thế kỉ XX, một số tác giả như Tản Đà, Trần Tuấn Khải… đã “dạo
những bản đàn mở đầu cho một cuộc hoà nhạc tân kì đang sắp sửa” (47). Thơ
lục bát thời gian này vẫn còn đậm dấu ấn của thơ lục bát cổ truyền, trang nhã,
chuẩn mực hoặc dễ lẫn vào truyền thống. Bên cạnh đó, bắt đầu có sự cách tân,
đổi mới để ngày càng đa dạng, linh hoạt hơn.
Lục bát trong Thơ Mới(1932-1945) đã có nhiều cách tân đa dạng.
Trước hết là sự đổi mới về hình thức thể hiện:

Gieo vần: Hầu hết các nhà thơ mới đều hướng tới sự chuẩn mực của lục
bát cổ điển. Hoàn toàn sử dụng vần bằng, cố gắng đạt độ hoà âm cao, đảm
bảo cho các dòng thơ liên kết với nhau tự nhiên, không gò ép:
Trưa hè nắng dội vàng hoe
Nhà tranh khói bám, cổng tre gió lùa
Tàu cau xanh dưới trời lơ
Ngọn rơm vàng ánh gương hồ long lanh
(Hè- Đoàn Văn Cừ)
Thơ Mới linh hoạt hơn trong việc sắp xếp vị trí gieo vần. Không nhất thiết
gieo vần ở tiếng thứ sáu dòng bát, mà gieo vần cả ở tiếng thứ tư dòng bát:
Bây giờ đã trải ba năm
Chiếc nón em chằm đã ngả màu sơn
(Chiếc nón-Nguyễn Bính)
Phối điệu: Thường phối điệu theo khuôn mẫu chuẩn mực nên bài thơ có
âm hưởng trôi chảy, hài hoà. Bên cạnh đó, một số nhà thơ đã biết tự do lựa

23


chọn thanh điệu của những tiếng ở vị trí lẻ trong mô hình phối điệu để phù
hợp hơn với hình ảnh, cảm xúc toàn bài.
Trong thơ mới, có nhiều trường hợp mới lạ, chưa hề gặp trong lục bát cổ
điển và lục bát dân gian. Đó là trường hợp ba dòng lục đi với một dòng bát:
Bẽ bàng, lá vẫn theo bên,
Si tình, lá vẫn theo bên,
Thuyền trôi vẫn quyến sao đêm,
Hào quang vẫn ngủ êm đềm trong mơ.
(Tình si- Vũ Hoàng Chương)
Hoặc những biến đổi về mặt cú pháp diễn ra trên các dòng thơ như hiện
tượng vắt dòng:

Trời cao xanh ngắt- ô kìa
Hai con hạc trắng bay về bồng lai.
(Tiếng sáo thiên thai-Thế Lữ)
Hiện tượng chấm câu giữa dòng:
Lòng ta dù vỡ tan tành
Cũng còn thổn thức. Buộc lành cho nhau.
(Lời tuyệt vọng-Thế Lữ)

Lối xếp câu theo bậc thang:
Đường xa ư cụ?
Quản chi
Đi gần hạnh phúc là đi xa đường
(Uống rượu với Tản Đà-Trần Huyền Trân)
Những đổi mới đó đã đem lại cho thơ lục bát những giá trị mỹ cảm mới.
Câu thơ lục bát trở nên không chỉ đều đều như lời mộc mạc trong ca dao hoặc
lối cân xứng đều đặn lục bát cổ điển, mà diễn ra theo lối nói gần gũi với câu
thơ tự do.Tuy nhiên, trên bình diện tổng quát, nó vẫn tuân theo khá nghiêm

24


chỉnh thi luật của thể loại. Đó là những đổi mới để lục bát có thêm sức sống,
ngày càng hoà nhập hơn vào nền văn học hiện đại của nước nhà.
Về nội dung biểu đạt:
Hầu hết các bài lục bát trong thơ Mới đều mang nội dung trữ tình lãng
mạn. Chủ yếu thể hiện tâm tình, cảm xúc của cái “tôi” cá nhân của tác giả.
Đây cũng là sự hoà nhập của nội dung thơ lục bát với xu hướng hiện đại hoá
của nền văn học dân tộc. Đó là nỗi buồn thương, nỗi mất mát, cảm xúc bâng
khuâng, thương nhớ trong tâm hồn con người. Đặc biệt là tâm hồn của một
con người đang yêu:

Hồn anh như hoa cỏ may
Một chiều cả gió bám đầy áo em.
(Hoa cỏ may- Nguyễn Bính)
Trong quá trình phát triển của thể loại, trên nền tảng của lục bát ca dao
truyền thống và lục bát cổ điển, lục bát thơ Mới đã có một sắc diện mới, được
biến đổi cho phù hợp hơn với xu hướng hiện đại hoá của thời đại.
1.3.4. Lục bát từ sau 1945.
Từ sau 1945, do thừa hưởng những thành tựu nghệ thuật từ các giai đoạn
trước, thơ lục bát tiếp tục khẳng định sức sống bền bỉ, mãnh liệt của mình..
Song song với những đặc trưng nghệ thuật mang giá trị truyền thống của thể
loại, thể lục bát tiếp tục phát triển khá phong phú, đa dạng về cả nội dung và
hình thức.
Về hình thức thể hiện:
Ngoài việc dùng các vần chính, lục bát sử dụng cả vần thông:
Giá em đừng sống hết lòng
Giá đừng yêu, chẳng mơ mòng làm chi
Giá đừng khao khát mỗi khi
Trăng lên soi bóng rừng khuya sum vầy
(Xem Nguyệt Cô hoá cáo- Nguyễn Thị Hồng Ngát)

25


×